Luận văn Cải cách thủ tục hành chính tư pháp tại tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang

CCTTHCTP có vai trò quan trọng trong việc bổ trợ cho các hoạt động tố tụng và hoạt động quản lý, điều hành của Tòa án các cấp thông suốt, trôi chảy. Để các thủ tục hành chính tư pháp thực sự phát huy vai trò của mình, đồng thời góp phần tích cực vào việc thực hiện tốt công cuộc cải cách tư pháp theo Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị thì mục tiêu đổi mới thủ tục hành chính tư pháp theo hướng tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tiếp cận công lý là hết sức cần thiết trong giai đoạn hiện nay. Để đạt được mục tiêu này, một loạt các nhiệm vụ và giải pháp đặt ra cho ngành Tòa án trong thời gian tới và để thực hiện tốt các nhiệm vụ, giải pháp này, không chỉ đòi hỏi sự lãnh đạo, chỉ đạo sát sao, thường xuyên của Ban cán sự Đảng, Ban lãnh đạo TANDTC, các cấp ủy đảng và lãnh đạo TAND tỉnh trong việc xây dựng kế hoạch và chỉ đạo điều hành việc thực hiện kế hoạch đổi mới TTHCTP từng năm và dài hạn theo các mục tiêu, yêu cầu nhiệm vụ và giải pháp đã đề ra, mà còn cần có sự tham gia tích cực của đội ngũ cán bộ Tòa án các cấp, sự hưởng ứng nhiệt tình của các cá nhân, các cơ quan, tổ chức hữu quan khác. Có như vậy, mục tiêu xây dựng một nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo tinh thần Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị mới thành công và đạt hiệu quả cao. Với đề tài nghiên cứu “Cải cách thủ tục hành chính tư pháp tại Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang”, tác giả dự kiến công trình khoa học sẽ góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả thực hiện cách hành chính tư pháp tại Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang, qua đó bổ trợ tích cực cho các hoạt động tố tụng và hoạt động quản lý, điều hành của lãnh đạo Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang và hoạt động của Tòa án nhân dân các huyện, thị, thành phố thuộc tỉnh Kiên Giang trên cơ sở nhân rộng mô hình cải cách thủ tục hành chính tư pháp của Tòa án nhân dân tỉnh, với mục đích cuối cùng là xây dựng một nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, từng bước hiện đại hóa mọi hoạt động của Tòa án, tiến tới thực hiện cải cách thủ tục hành chính tư pháp theo mô hình một cửa liên thông phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo tinh thần Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 26/5/2005 của Bộ Chính trị.

pdf88 trang | Chia sẻ: yenxoi77 | Lượt xem: 984 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Cải cách thủ tục hành chính tư pháp tại tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
. Tuy nhiên, với biên chế con người thiếu và cơ sở vật chất còn hạn chế, nên hiệu quả của Tổ HCTP tại TAND tỉnh Kiên Giang chưa cao. Hướng tới, TAND tỉnh Kiên Giang cần có thùng thư tiếp thu ý kiến của công dân, tổ chức, đồng thời sơ, tổng kết rút kinh nghiệm và nhân rộng mô hình Tổ HCTP tại Tòa án nhân dân cấp huyện. 59 CHƢƠNG 3 ĐỊNH HƢỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CẢI CÁCH THỦ TỤC HÀNH CHÍNH TƢ PHÁP TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH KIÊN GIANG 3.1 Định hƣớng cải cách thủ tục hành chính tƣ pháp tại Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang Với phạm vi trách nhiệm được giao trong công tác cải cách tư pháp TAND các cấp, trong đó có TAND tỉnh Kiên Giang, hướng tới cần quán triệt và triển khai việc cải cách TTHCTP trên các mặt công tác và hoạt động của mình theo các quan điểm, định hướng của Đảng và Nhà nước về cải cách tư pháp nói chung và cải cách thủ tục hành chính trong các cơ quan nhà nước nói riêng, cụ thể như sau: Thứ nhất, cải cách thủ tục hành chính tư pháp phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng CCTTHCTP tại Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang phải thực hiện đúng đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng về cải cách TTHCTP. Đặc biệt là thực hiện theo tinh thần Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị “Về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 và Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X “Về đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy Nhà nước”. Thứ hai, cải cách thủ tục hành chính tư pháp phải căn cứ vào các quy định của pháp luật tố tụng và phù hợp chức năng, nhiệm vụ của Tòa án CCTTHCTP tại Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang phải phù hợp pháp luật và phục vụ có hiệu quả với hoạt động tố tụng và hoạt động quản lý, điều hành công tác của Tòa án theo nguyên tắc không được trái với các quy định của pháp luật và cần phân định giữa hoạt động tố tụng với hoạt động HCTP. Đồng thời, phân công, phân cấp rành mạch, hợp lý giữa các cá nhân, bộ phận được giao thực hiện hoạt động HCTP tại Tòa án với những người tiến hành tố tụng khi được lãnh đạo Tòa án phân công xét xử các loại vụ án. Thứ ba, cải cách thủ tục hành chính tư pháp phải theo hướng công khai, minh bạch các hoạt động tố tụng tại Tòa án 60 CCTTHCTP tại Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang nhằm mục đích tạo điều kiện thuận lợi nhất cho người dân, tổ chức khi quyền con người, quyền công dân và quyền và lợi ích hợp pháp của họ bị xâm phạm, nay yêu cầu để được Tòa án xét xử, giải quyết nhanh, gọn; bảo đảm hoạt động của Tòa án có hiệu quả, hiệu lực; tổ chức thực hiện tốt Quy tắc ứng xử của cán bộ, Thẩm phán ngành TAND, thể hiện Tòa án là cán cân công lý. Công khai hoạt động của Toà án là tăng cường khả năng bảo đảm tính giám sát của nhân dân đối với hoạt động xét xử, nâng cao trách nhiệm giải trình của Thẩm phán nói riêng và của hệ thống Toà án nói chung và để ngành Toà án “gần dân” Một số ý kiến Thẩm phán đề xuất các thông tin về thủ tục tố tụng, mẫu đơn khởi kiện nên được niêm yết đâu đó bên ngoài khuôn viên của trụ sở Toà án để người dân có thể tiếp cận được bất kỳ lúc nào, thay đổi này mới chỉ có một số Toà án áp dụng. Tại Vĩnh Long, TAND tỉnh đã biên soạn cẩm nang hướng dẫn thủ tục hành chính tư pháp, thủ tục tố tụng tại Toà án và có kèm thêm địa chỉ các Toà án, trụ sở Đoàn luật sư, Sở Tư pháp, Trung tâm trợ giúp pháp lý Cuốn cẩm nang được phát hành cho tất các cả cơ quan nhà nước trên địa bàn tỉnh tới UBND xã. Chánh án TAND tỉnh Vĩnh Long cho biết việc phát hành rộng rãi thông tin này nhằm giúp cho nhân dân địa phương biết được các loại thủ tục để không mất công sức tìm hiểu, như phải di chuyển xa xôi, khó khăn. Cuốn cẩm nang của TAND tỉnh Vĩnh Long cũng được đại diện của Tỉnh uỷ, HĐND tỉnh và VKSND tỉnh đánh giá tốt. Một số UBND xã đã cho đọc cuốn cẩm nang này trên loa truyền thanh nhằm giúp cho đồng bào không biết chữ có thể nắm bắt được nội dung. Cách làm này cũng chỉ duy nhất được thực hiện tại Vĩnh Long, các địa phương được khảo sát thực địa khác không có những cách làm tương tự Đồng thời tới đây sẽ đưa lên trang web của Uy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long, Đài truyền hình Vĩnh Long các trình tự thủ tục này phổ biến cho người dân khi có nhu cầu tìm hiểu. Kết hợp với Đài truyền hình Vĩnh Long đưa nội dung các vụ án trọng điểm, mang tính chất giáo dục, đưa ra xét xử lưu động lên chương trình “Những điều trông thấy” để tuyên truyền, phổ biến. CCTTHCTP tại Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang trên cơ sở tổ chức thực hiện công khai minh bạch hóa tất cả các thủ tục tố tụng trong hoạt động của Tòa án nhằm giảm phiền hà cho người dân, ngăn chặn tệ nạn nhũng nhiễu, vi phạm pháp luật trong hoạt động HCTP của Tòa án; tăng cường các 61 hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ hoạt động của Tòa án nói chung và hoạt động HCTP của Tòa án nói riêng. Thứ tư, cải cách thủ tục hành chính tư pháp phải tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm các nước CCTTHCTP tại Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang phải trên cơ sở nghiên cứu, học tập, tiếp thu có chọn lọc các kinh nghiệm tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp của các nước có nền tư pháp phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế xã hội và truyền thống văn hóa của Việt Nam, nhằm tạo điều kiện thuận lợi nhất không chỉ cho công dân Việt Nam mà còn cho cả công dân các nước có quan hệ song phương với Việt Nam. Thứ năm, cải cách thủ tục hành chính tư pháp phải rút kinh nghiệm, từng bước hoàn thiện CCTTHCTP tại Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang phải có sơ, tổng kết rút kinh nghiệm để hoàn thiện từng bước mô hình “ một cửa ” tại Tòa án, phải theo lộ trình, đi từ thí điểm đến chính thức và mở rộng xuống Tòa án cấp huyện thuộc địa phương quản lý. Phát huy những hoạt động có hiệu quả, rút kinh nghiệm, sửa đổi những hoạt động chưa hiệu quả, tiến tới người dân, tổ chức không còn khiếu nại, tố cáo liên quan đến thủ tục hành chính tư pháp và hoạt động tố tụng tại Tòa án. 3.2 Các giải pháp hoàn thiện cải cách thủ tục hành chính tƣ pháp tại Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang 3.2.1 Đẩy mạnh công tác lãnh đạo, chỉ đạo việc cải cách thủ tục hành chính tư pháp đặt dưới sự chỉ đạo của Ban cán sự Đảng, Ban lãnh đạo Tòa án nhân dân tối cao và Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang Nhận thức rõ việc CCTTHCTP là một yêu cầu bắt buộc, khách quan, Ban cán sự Đảng, Ban lãnh đạo TAND tỉnh Kiên Giang luôn xác định công tác lãnh đạo, chỉ đạo việc CCTTHCTP tại Tòa án là một nhiệm vụ quan trọng và thường xuyên. Theo đó, công tác lãnh đạo, chỉ đạo việc CCTTHCTP được đặt dưới sự chỉ đạo thống nhất của Ban cán sự Đảng, Ban lãnh đạo TANDTC và Ban cán sự Đảng, Ban lãnh đạo TAND tỉnh Kiên Giang, trong đó Ban lãnh đạo TAND tỉnh cần phân công 01 đồng chí trực tiếp chỉ đạo, điều hành công tác CCTTHCTP. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là: Lãnh đạo sử dụng phương pháp quản lý Tòa án nào để có thể nâng cao hiệu quả hoạt động CCTTHCTP cũng như các hoạt động khác của Tòa án? 62 Qua khảo sát, hiện nay các lãnh đạo Toà án địa phương (TAND cấp tỉnh và TAND cấp huyện) phần lớn áp dụng phương pháp quản lý theo “quy chế” thay vì “phương pháp thủ trưởng”. Quản lý tổ chức trên cơ sở quy chế được coi là một hình thức quản lý tốt. Quy chế sẽ thúc đẩy tổ chức hoạt động theo đúng mục tiêu, chức năng, nguyên tắc làm việc và trách nhiệm cá nhân. Các quy chế cần phải được xây dựng phù hợp với mục tiêu phát triển của của tổ chức, niêm yết công khai và phổ biến tới từng người làm việc trong tổ chức. Đối với hoạt động của Toà án, nội dung của các quy chế phải khuyến khích tính độc lập và chuyên môn của Toà án. Khi phỏng vấn sâu, tất cả các Chánh án, Thẩm phán và Thư ký Tòa án đều khẳng định Toà án có quy chế làm việc nội bộ cùng với những quy định pháp luật đối với cán bộ, công chức Tòa án và các quy định của Đảng viên. Ngoài ra, một số quy chế nội bộ phổ biến khác trong các cơ quan Toà án hiện nay là quy chế về tiếp công dân; quy chế quản lý và sử dụng công sản; nội quy phiên tòa. Cá biệt một số quy chế được hình thành từ kết luận của các cuộc họp và được áp dụng trực tiếp như: quy chế báo cáo án; quy chế phân công án. Qua khảo sát thực địa, Nhóm Nghiên cứu khảo sát về “Thực trạng quản lý hành chính Toà án nhân dân địa phương ở Việt Nam” nhận thấy có sự hiện hữu của các quy chế nội bộ bằng văn bản tại một Toà án. Còn ở các Tòa án còn lại thì mọi người chỉ biết có quy chế hoặc đã từng đọc và e ngại khi đề cập tới quy chế nội bộ. Do đó, những quy chế nội bộ tại một số Tòa án cần phải khắc phục những vấn đề có thể tác động tới “Nguyên tắc độc lập xét xử” như quy định Thẩm phán phải báo cáo án. Thậm chí có Tòa án còn xử lý kỷ luật Thẩm phán vì đã xét xử mà không báo cáo án vì coi là Thẩm phán đã vi phạm nội quy. Ở một tỉnh ở phía Nam, Chánh án Tòa án tỉnh cùng với các Thẩm phán đã xây dựng rất nhiều quy chế để thiết lập một quy trình làm việc mới. Khi được luân chuyển từ một cơ quan nhà nước ở trong tỉnh về Tòa án, Chánh án nhận thấy cơ quan Tòa án làm việc không hiệu quả, tình trạng nhiều bản án bị huỷ, bị sửa do vi phạm thủ tục tố tụng phổ biến, đặc biệt là tình trạng các Thẩm phán giải quyết vụ án kéo dài, quá thời hạn luật định. Chánh án đã xây dựng nhiều quy chế, như: quy chế tiếp nhận đơn khởi kiện - hồ sơ vụ án hình sự, quy chế tiếp công dân và thái độ phục vụ, quy chế làm việc của Tòa chuyên trách, quy chế làm việc của Văn phòng Tòa án Nhờ những quy chế đó, Chánh án đã thay đổi được lề lối làm việc trước đây. Theo Chánh án này, 63 các cơ quan nhà nước khác áp dụng quy chế làm việc, áp dụng quy trình ISO đều hoạt động có hiệu quả thì cơ quan Tòa án cũng có thể thay đổi được. Đặc biệt, toàn bộ các quy chế đã xây dựng được làm thành văn bản, đóng quyển và phổ biến cho tất cả các cán bộ của Tòa án. Các quy chế của Tòa án này đều được gửi tới Ban chỉ đạo cải cách tư pháp của tỉnh để các thành viên khác có thể phối hợp công tác hoặc giám sát hoạt động của TAND tỉnh. 3.2.2 Xây dựng, hoàn thiện cơ sở pháp lý thực hiện cải cách thủ tục hành chính tư pháp tại Tòa án nhân dân Để công tác CCTTHCTP tại các Tòa án ngày càng hiệu quả, TANDTC cần thiết phải nghiên cứu ban hành văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn về các TTHCTP tại Tòa án. Trong đó, quy định rõ những hoạt động cụ thể, công việc cụ thể phải làm của từng hoạt động nhằm tạo ra một quy trình xử lý thống nhất tại các Tòa án. Trên cơ sở đó, các Tòa án thiết kế bộ máy và bố trí, sắp xếp cán bộ phù hợp, đồng thời xây dựng các phần mềm ứng dụng để nâng cao hiệu quả của từng khâu, từng hoạt động. Cụ thể là việc tiếp nhận các loại đơn, tài liệu, thụ lý vụ án, tổ chức giải quyết một số khâu trong việc thu thập chứng cứ, tài liệu, thông báo lịch xét xử, triệu tập đương sự bằng hình thức trực tuyến (online); công nhận giá trị phiên bản điện tử các bản án, quyết định của Tòa án để cung cấp cho đương sự; xây dựng các phòng xét xử điện tử để thực hiện việc tự động ghi âm, ghi hình, chụp chiếu các tài liệu, chứng cứ trực tiếp tại phiên tòa; nghiên cứu việc tổ chức các phiên tòa xét xử trực tuyến. Xây dựng quy định về công khai hóa các hoạt động của Tòa án và niêm yết công khai các quy định, thủ tục tố tụng, giấy tờ, chứng cứ liên quan đối với thẩm quyền từng Tòa chuyên trách; mức thu phí, lệ phí và thời gian thụ lý, xét xử, giải quyết các loại vụ án (được treo ở vị trí người dân, tổ chức dễ nhận biết nhất), kể cả những trường hợp khách quan phải kéo dài thời gian xét xử, giải quyết trong quá trình xác minh, thu thập chứng cứ của Thẩm phán. Đặc biệt là các bản án, quyết định của Tòa án cần công khai hóa, minh bạch trên cổng thông tin điện tử của Tòa án nơi tổ chức xét xử, để cơ quan, tổ chức, người dân dễ tiếp cận, giám sát, nắm bắt được các quy định của pháp luật liên quan đến các quan hệ pháp luật tranh chấp, liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của người dân, tổ chức, đồng thời nâng cao tinh thần trách nhiệm của đội ngũ Thẩm phán. Tập trung nghiên cứu, đề xuất việc xây dựng, sửa đổi các quy định, quy chế hiện hành trong hoạt động tố tụng và hoạt động HCTP tại Tòa án để đơn giản hóa các thủ tục và tạo điều kiện, cơ sở pháp lý cho việc từng bước tin 64 học hóa các hoạt động tố tụng và hoạt động HCTP tại Tòa án. Hiện nay, việc ghi sổ kết quả giải quyết các loại án do thư ký phụ trách vụ án tự ghi sau khi xóa sổ thụ lý. Tuy nhiên việc ghi của các thư ký không đầy đủ hoặc không ghi, không đảm bảo về mặt sổ sách. Mặt khác, Tổ hành chính đang thực hiện việc cấp trích lục bản án, cấp sao y. Do đó, hướng tới Tổ hành chính tư pháp ngoài việc lưu tập án còn được phép lưu file mềm bản án để tổ thực hiện việc ghi chép sổ kết quả cũng như thực hiện việc cấp trích lục bản án theo quy định của tố tụng. (hình thức lưu file mềm được thực hiện trên mục dùng chung, sau khi giải quyết xong một vụ án, thẩm phán hoặc thư ký đưa bản án, quyết định vào mục dùng chung vào thư mục lưu bản án của Tổ hành chính tư pháp). Ngoài ra, Tổ hành chính tư pháp đang thực hiện việc phụ trách sổ thụ lý kết quả, sổ lấy số tạm đình chỉ và tiếp tục giải quyết vụ án và thực hiện báo cáo thống kê số liệu giải quyết án của các Tòa chuyên trách. Để phục vụ tốt cho việc thống kê số liệu án, đặc biệt là án tạm đình chỉ, án quá hạn hoặc tiến độ giải quyết án cũng như phục vụ công tác báo cáo thống kê của Phòng, tòa chuyên trách, Tổ hành chính tư pháp đã mở các sổ sau đây tại Tổ hành chính tư pháp bắt đầu từ ngày 01/10/2017 (qua khảo sát các tòa chuyên trách thì việc mở sổ không đồng đều, có tòa không mở nên không theo dõi được số liệu): - Sổ đăng ký luật sư - Sổ theo dõi án kháng cáo kháng nghị hoặc hồ sơ do cơ quan, tổ chức khác mượn. - Sổ lấy số áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời - Sổ lấy số quyết định đưa vụ án ra xét xử. Nhằm triển khai thực hiện tốt đề án vị trí việc làm phục vụ cho công tác CCTTHCTP, TANDTC cần hoàn thiện các quy định về tuyển dụng công chức Tòa án và việc thi tuyển các chức danh Thẩm phán cao cấp, trung cấp và sơ cấp, đồng thời từng bước thí điểm việc tổ chức thi vào các vị trí lãnh đạo, quản lý trong Tòa án các cấp, để thực sự tuyển chọn được người tài, có năng lực, phẩm chất vào nền công vụ. Đồng thời, TANDTC cần sớm thông qua Quy định xử lý vi phạm đối với cán bộ, công chức, viên chức và người lao động trong các Tòa án nhân dân để ngăn chặn những hành vi tiêu cực, làm trong sạch bộ máy TAND các cấp, góp phần đảm bảo hoạt động CCTTHCTP tại Tòa án được thông suốt. 65 3.2.3 Hoàn thiện cơ cấu tổ chức và bộ máy thực hiện cải cách thủ tục hành chính tư pháp tại Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang - Cần tăng cường phối hợp với các bộ, ngành liên quan trong việc triển khai các nhiệm vụ cải cách TTHCTP và học hỏi kinh nghiệm CCTTHCTP của các cơ quan, tổ chức - Xây dựng quy chế phối hợp giữa Tổ HCTP với các Tòa chuyên trách, Thẩm phán được phân công giải quyết án, với Kiểm sát viên được phân công giải quyết án tiến hành các hoạt động tố tụng, tham gia phiên tòa xét xử và phiên họp theo quy định của BLTTHS, BLTTDS và BLTTHC. Qua đó đảm bảo việc phân công số lượng án phù hợp với trình độ từng Thẩm phán, thường xuyên theo dõi, đôn đốc việc xét xử án, tránh trường hợp để án quá hạn do lỗi chủ quan của Thẩm phán. - Thường xuyên kiểm tra, giám sát hoạt động của Tổ HCTP, bao gồm: (i) kiểm tra Tổ HCTP về việc thực hiện quy định về trình tự, thủ tục, thời gian nhận, giải quyết hồ sơ khởi kiện, hồ sơ kháng cáo; (ii) kiểm tra trách nhiệm cán bộ, công chức thuộc Tổ HCTP trong việc chấp hành chính sách, pháp luật và các quy định liên quan đến giải quyết TTHCTP tại Tòa án; và (iii) kiểm tra việc thực hiện các quy định về nghĩa vụ, những việc không được làm, quy tắc ứng xử, văn hoá công sở của cán bộ, công chức Tòa án. Qua đó kịp thời phát hiện và chấn chỉnh những sai sót trong thực hiện TTHCTP tại T a án và nêu gương điển hình đối với các cá nhân thực hiện tốt nhiệm vụ được giao. - Cần tổ chức tiếp công dân thường xuyên và lịch tiếp định kỳ của lãnh đạo cơ quan hoặc bố trí hộp thư, để nghe phản ảnh trực tiếp của người dân về thái độ tiếp công dân, tổ chức và ứng xử của Thẩm phán, thư ký trong thực thi công vụ. - Bố trí đủ những đồng chí có trình độ cử nhân Luật trở lên, có kinh nghiệm nhiều năm làm việc tại các Tòa chuyên trách, sử dụng thành thạo máy vi tính và có trình độ ngoại ngữ để có thể ứng xử nhanh các tình huống khó, đương sự bất hợp tác hoặc khi tiếp xúc, trao đổi với người nước ngoài đến liên hệ công việc. - Cần tập trung nghiên cứu đổi mới tổ chức, bổ sung biên chế, cán bộ có kinh nghiệm cho các đơn vị có trách nhiệm liên quan trực tiếp tới việc thụ lý, giải quyết các yêu cầu của cơ quan, tổ chức và công dân tại Tòa án nhân dân. 66 - Thường xuyên nghiên cứu và học hòi kinh nghiệm mới từ các đề tài khoa học về đổi mới TTHCTP trong hoạt động Tòa án để tiến hành ứng dụng các kết quả các nghiên cứu vào thực tiễn cải cách thủ tục hành chính tư pháp tại Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang. 3.2.4 Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức Tòa án nhân dân, đặc biệt là đội ngũ Thẩm phán Tòa án Thứ nhất, thường xuyên giáo dục tư tưởng chính trị, nêu cao tinh thần trách nhiệm với công việc và ý thức tận tụy phục vụ nhân dân đối với từng cán bộ, công, người lao động trong đơn vị, trong đó cần quan tâm đặc biệt việc quán triệt và thực hiện nghiêm túc Quyết định của Chánh án TANDTC về Quy tắc ứng xử của cán bộ, công chức TAND; cụ thể là: - Luôn vui vẻ, cởi mở, hòa nhã, nhiệt tình, trung thực, thận trọng, công tâm, khách quan, đảm bảo tính công khai, dân chủ trong quá trình tiếp xúc với người dân, khi thi hành công vụ và kể cả khi tiếp dân trên điện thoại; lắng nghe, tôn trọng ý kiến của nhân dân. - Thực hiện nhiệm vụ tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo đúng thẩm quyền, đúng trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại, tố cáo được quy định trong Luật Khiếu nại, Tố cáo và các văn bản pháp luật khác có liên quan. Đối với các trường hợp khiếu nại hoặc yêu cầu xem xét giám đốc thẩm, tái thẩm gay gắt, bức xúc cần báo cáo ngay cho Lãnh đạo đơn vị giải quyết kịp thời; - Tận tình giải thích, hướng dẫn và tạo điều kiện thuận lợi nhất cho người dân để họ thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật. Thứ hai, chú trọng đào tạo nâng cao năng lực chuyên môn, bồi dưỡng nghiệp vụ cho đội ngũ Thẩm phán, Thư ký Tòa án nói chung và Thẩm phán, Thư ký làm việc tại Tổ HCTP nói riêng. Theo đó, các Thẩm phán, Thư ký này phải được thường xuyên học tập, bồi dưỡng để nâng cao trình độ nghiệp vụ, kỹ năng xét xử, kỹ năng xử lý các tình huống trong thực hiện thủ tục tố tụng, thường xuyên cập nhật văn bản pháp luật mới và nắm kiến thức khác về chuyên môn để tự tin khi đưa ra các quyết định của mình và sẵn sàng chịu trách nhiệm đối với các quyết định đó, đảm bảo quyền độc lập của Thẩm phán khi tham gia giải quyết án. Việc đào tạo, bồi dưỡng kiến thức cho Thẩm phán, Thư ký không chỉ đơn thuần là đào tạo thông qua khóa đào tạo nghiệp vụ thư ký khi mới được tuyển dụng hay đào tạo nghiệp vụ xét xử trước khi bắt đầu được bổ nhiệm (chương trình đào tạo tại Học viện Tư pháp, Học viện Tòa án), mà còn là 67 công tác bồi dưỡng kiến thức liên tục hàng năm, trong đó hình thức tập huấn bồi dưỡng kiến thức chủ yếu thông qua việc rút kinh nghiệm công tác xét xử tại các cuộc họp giữa Chánh án, Thẩm phán TAND tỉnh với các Chánh án TAND, Thẩm phán TAND cấp huyện hoặc một số Thẩm phán được cử đi tập huấn. Sau đó, các Chánh án TAND huyện về phổ biến lại cho các Thẩm phán, Thư ký trong đơn vị của mình. Khi TANDTC tổ chức một số buổi tập huấn chuyên đề tại từng cụm, khu vực thì các Thẩm phán có cơ hội tham dự. Tuy nhiên, do hạn chế về kinh phí, ngân sách nên không thể tổ chức tập huấn liên tục. Việc tổ chức tập huấn chuyên đề cũng cần phải có sự hỗ trợ về người giảng dạy là những Thẩm phán cao cấp tại TANDTC hoặc báo cáo viên cao cấp về chính trị, pháp luật. Qua phỏng vấn trực tiếp của Nhóm Nghiên cứu khảo sát về “Thực trạng quản lý hành chính Toà án nhân dân địa phương ở Việt Nam” thuộc Dự án 00054895, các Thẩm phán đều mong muốn việc tập huấn nên được tiến hành ngay khi có văn bản pháp luật mới được ban hành. Đối với các Thẩm phán được phân công công tác tiếp dân, công tác tiếp nhận và xử lý đơn, thư các loại tại Tổ HCTP thì việc tập huấn văn bản pháp luật mới có ý nghĩa vô cùng quan trọng, bởi lẽ việc trang bị kiến thức pháp luật là cần thiết để họ có thể giải quyết tốt các yêu cầu của công dân khi đến liên hệ công việc tại Tòa án. Do đó, TANDTC cần tập huấn, đào tạo thường xuyên cho các Thẩm phán với những chương trình, nội dung đào tạo được công bố rộng rãi. Các Thẩm phán xem xét các chương trình, nội dung được công bố và có thể lựa chọn những vấn đề mình quan tâm để đề nghị TAND tỉnh hỗ trợ cho việc đi học. Hoạt động nghề nghiệp của Thẩm phán cũng đòi hỏi người Thẩm phán phải có kinh nghiệm sống, kiến thức xã hội, mối quan hệ xã hội. Không giống như các nghề khác có tính trí tuệ và đòi hỏi trách nhiệm cá nhân như bác sĩ, luật sư, giáo viên, cộng đồng, Thẩm phán ở Việt Nam chưa hình thành tổ chức hiệp hội nghề nghiệp để có thể đại diện cho hoạt động nghề nghiệp Thẩm phán và để bảo vệ uy tín của nghề Thẩm phán. Hiện nay, ngoài tổ chức Đảng Cộng sản, Đoàn Thanh niên Cộng sản, Công đoàn, Hội Phụ nữ, nhiều Tòa án còn có chi hội Luật gia, nhưng các hoạt động của chi hội Luật gia này không mang tính thường xuyên và không có chương trình hoạt động cụ thể liên quan đến việc phát triển chuyên môn hay đạo đức của Thẩm phán. Vì vậy, các Thẩm phán đều mong muốn có một tổ chức xã hội nghề nghiệp của mình. 68 3.2.5 Đảm bảo cấp đủ ngân sách và thu nhập lương riêng đặc thù cho cán bộ, công chức Tòa án - Thứ nhất, đảm bảo cấp đủ ngân sách cho hoạt động của Tòa án: Trong những năm gần đây, ngân sách được dự tính cấp cho hoạt động của hệ thống Toà án và hệ thống Viện kiểm sát hiện nay đã tưng bước được tăng lên, phù hợp với số lượng vụ án và số lượng Thẩm phán tăng lên qua từng năm, từng thời kỳ. Phương thức phân bổ ngân sách hiện nay của TANDTC căn cứ vào đặc thù của từng địa phương để cấp kinh phí, đáp ứng yêu cầu công tác (địa phương cần chủ động đề xuất), có nghĩa là kinh phí của các địa phương không đồng đều nhau. Nguồn ngân sách của Tòa án được xây dựng trên cơ sở chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng biên chế và kinh phí quản lý hành chính. Phương thức phân bổ này còn được gọi là “khoán chi” hay “khoán chi ngân sách”. Điều này cho thấy, nguồn ngân sách của Tòa án phụ thuộc chặt chẽ vào số lượng cán bộ công chức, người lao động của Tòa án. Cơ chế “khoán chi” đối với các hoạt động hành chính của Tòa án là một vấn đề cần được nghiên cứu thấu đáo. Cơ chế “khoán chi phí” có thể giúp cho việc quản lý chặt chẽ việc chi tiêu nhưng lại giới hạn nguồn kinh phí trong trường hợp nhu cầu thực tiễn ngày một gia tăng. Trên thực tế, cơ chế này chỉ có thể phù hợp với hoạt động hành chính khi mà các hoạt động đó có thể dự liệu trước vì chúng có tính chất đơn giản và lặp đi lặp lại. Ngược lại, các hoạt động xét xử phụ thuộc rất nhiều vào mức độ phức tạp, tính chất của từng loại vụ án nên khó có thể áp dụng “khoán”. Thậm chí nếu áp dụng có thể sẽ gây nên hậu quả như: Toà án sẽ thiếu ngân sách để hoạt động; Toà án sẽ cắt giảm “chất lượng” hoạt động của Toà án để giảm chi phí; hoặc cắt giảm khối lượng công việc của Luật sư chỉ định do Tòa án mời. Đó là chưa kể, việc phân bổ ngân sách theo phương thức khoán chi hiện nay chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế. Các Tòa án phải cố gắng hoạt động trong khoản ngân sách được phân bổ. Một số Tòa án nhận được sự hỗ trợ của chính quyền địa phương cho một số hoạt động cụ thể như: mua sắm trang thiết bị, chi phí xét xử lưu động, tổ chức sự kiện của Toà án, nhưng nhiên phần lớn các khoản hỗ trợ cho Tòa án không mang tính thường xuyên, cố định. Bởi lẽ ngân sách dành cho hoạt động của Tòa án địa phương không nằm trong danh mục dự toán chi của ngân sách địa phương. Vì vậy, trong các kỳ họp Hội đồng nhân dân, HĐND không phê duyệt một khoản mục nào dành cho Toà án nếu tỉnh không có khoản vượt thu ngân sách địa phương. Việc một số Ủy ban nhân dân hỗ trợ 69 kinh phí cho hoạt động của Toà án phải dựa trên khoản tiết kiệm kinh phí dành cho một số hoạt động. Qua khảo sát của Nhóm Nghiên cứu khảo sát về “Thực trạng quản lý hành chính Toà án nhân dân địa phương ở Việt Nam” thuộc Dự án 00054895 cho thấy, các Tòa án nhận được hỗ trợ chủ yếu ở các thành phố lớn như Hải Phòng, Đà Nẵng và Thành phố Hồ Chí Minh. Đây là những thành phố có khoản vượt thu ngân sách của địa phương. UBND của mỗi thành phố đã cho phép trích “một tỷ lệ nhỏ” để hỗ trợ cho các Tòa án của địa phương. Các khoản hỗ trợ này chỉ được cấp trên cơ sở đề nghị của Tòa án mà không phải là hỗ trợ thường xuyên. Tuy nhiên, việc hỗ trợ ngân sách của UBND cho Tòa án cũng phải phù hợp với các quy định về sử dụng ngân sách nhà nước. Hàng năm, các khoản chi ngân sách nhà nước của địa phương đều được kiểm toán, khoản chi nào không phù hợp sẽ phải thu hồi. Do đó, Toà án phải được cung cấp đủ tài chính thông qua cơ chế cấp ngân sách hoạt động minh bạch, rõ ràng và không bị phụ thuộc, ảnh hưởng vào cơ quan phê duyệt ngân sách để bảo đảm được tính độc lập của mình. Chiến lược Cải cách tư pháp đến năm 2020 đã xác định: “Nhà nước bảo đảm điều kiện vật chất cho hoạt động tư pháp phù hợp với đặc thù của từng cơ quan tư pháp và khả năng của đất nước. Đổi mới và hoàn thiện cơ chế phân bổ ngân sách cho các cơ quan và hoạt động tư pháp theo hướng ngân sách tư pháp do Quốc hội phân bổ và giao các cơ quan tư pháp địa phương quản lý và sử dụng, có sự giám sát, kiểm tra của các cơ quan tư pháp trung ương; có cơ chế cho phép địa phương hỗ trợ kinh phí hoạt động cho cơ quan tư pháp từ khoản vượt thu ngân sách của địa phương”. Phương thức này hạn chế những tác động từ các nguồn cung cấp ngân sách khác ngoài hệ thống Tòa án như chính quyền địa phương, đồng thời giúp cho TAND các cấp được chủ động hơn về ngân sách hoạt động của mình, theo đó tính độc lập của Tòa án sẽ tốt hơn, hay nói cách khác là sẽ bảo đảm được vị trí nhất định của quyền lực tư pháp, hạn chế được những tiêu cực trong công tác tự quản về ngân sách của Toà án. Các kết quả khảo sát cho thấy phần lớn các Chánh án và Thẩm phán đều “hoàn toàn đồng ý” hoặc “đồng ý” với ý kiến “Quốc hội phân bổ trực tiếp ngân sách cho Tòa án các cấp”. Số lượng Chánh án và Thẩm phán lựa chọn “cả TANDTC và chính quyền địa phương cùng cấp ngân sách cho TAND cấp tỉnh và TAND cấp huyện” chiếm số đông thứ hai. Tất cả các Chánh án được phỏng vấn sâu đều “không muốn Toà án mình lệ thuộc nhiều vào ngân sách địa phương”, cho rằng “địa phương nên cấp ngân sách mang tính hỗ trợ hoạt động của Toà án” vì “Toà án phục vụ nhân dân và chính 70 quyền địa phương”. - Thứ hai, nhà nước phải có bảng lương riêng đặc thù cho các chức danh trong cơ quan Tòa án, đảm bảo thu nhập của cán bộ, công chức Tòa án: Khi bảo đảm nguồn tài chính cho hoạt động xét xử cũng cần phải chú trọng tới chế độ lương của Thẩm phán, Thư ký và các cán bộ Tòa án khác. Thẩm phán, Thư ký Tòa án phải được hưởng sự ưu đãi thỏa đáng và điều kiện làm việc thích hợp. Thẩm phán phải được hưởng các chế độ làm việc nghỉ ngơi cần thiết để có thể thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình. Thu nhập của Thẩm phán, Thư ký cần được cải thiện để bảo đảm hoạt động xét xử của Tòa án, thu hút được những người có năng lực trở thành Thẩm phán và hạn chế tham nhũng, đáp ứng đòi hỏi duy trì pháp quyền và bảo vệ quyền con người. Qua khảo sát, phần lớn Thẩm phán được phỏng vấn sâu cho rằng mức lương hiện nay “chưa phù hợp”, “còn thấp” và “đề nghị các cấp có thẩm quyền quan tâm tới đời sống và thu nhập của Thẩm phán”. Theo quy định của pháp luật, lương và hệ số lương của ngạch Thẩm phán tương đương với lương của cán bộ, công chức khác, nhưng hệ số lương của Thẩm phán do Uỷ ban thường vụ Quốc hội phê chuẩn còn hệ số lương của cán bộ, công chức, viên chức thì do Chính phủ ban hành. Theo quy định hiện hành, ngoài tiền lương cơ bản Thẩm phán còn được hưởng thêm các loại phụ cấp như: Phụ cấp thâm niên nghề tùy thuộc vào thời gian thời gian làm việc tại Tòa án; Phụ cấp trách nhiệm bằng 30% mức lương hiện hưởng cộng với phụ cấp chức vụ lãnh đạo và phụ cấp thâm niên vượt khung (nếu có); Phụ cấp công vụ bằng 25% mức lương hiện hưởng cộng phụ cấp chức vụ lãnh đạo và phụ cấp thâm niên vượt khung (nếu có); Các Thẩm phán giữ chức vụ Chánh án, Phó Chánh án được cộng thêm phụ cấp chức vụ; Thẩm phán còn được hưởng chế độ bồi dưỡng phiên tòa đối với chủ tọa là 90.000đồng/ngày và đối với Thẩm phán tham gia phiên xử nhưng không chủ toạ là 50.000đồng/ngày. Theo kết quả của Nhóm Nghiên cứu khảo sát về “Thực trạng quản lý hành chính Toà án nhân dân địa phương ở Việt Nam” thuộc Dự án 00054895, tổng thu nhập của Thẩm phán hiện nay mặc dù không cao nhưng so với mức lương của Thẩm phán năm 2006 đã tăng lên và cao hơn so với bình quân thu nhập của cả nước. Mức lương thấp, không phù hợp sẽ tạo nên áp lực về thu nhập cho Thẩm phán, Thư ký Tòa án và làm gia tăng vấn nạn tham nhũng. Ở một số quốc gia, pháp luật ngăn chặn việc giảm lương của Thẩm phán vì coi đó là 71 điều kiện có thể tạo nên khả năng tham nhũng đối với Thẩm phán và tác động tới tính độc lập của Thẩm phán. Vì vậy, cải cách cơ bản tiền lương và thu nhập của công chức Tòa án nói chung và đội ngũ Thăm phán, Thư ký Tòa án là vấn đề có tính đột phá, là động lực của công chức trong thực thi công vụ một cách tận tụy, trung thành với ý thức trách nhiệm phục vụ cao, thực sự là “công bộc” của dân. 3.2.6 Nghiên cứu, xây dựng đề án tăng cường và nâng cao hiệu quả ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của Tòa án và tiến tới xây dựng Tòa án điện tử vào năm 2020. Chúng ta đang sống trong một thời đại mới, thời đại phát triển rực rỡ của CNTT. Theo đó tất cả các dữ liệu thông tin, số liệu âm thanh, hình ảnh đều có thể đưa về dạng kỹ thuật số để bất kỳ máy tính nào cũng có thể lưu trữ, xử lý và chuyển tiếp cho nhiều người. Những công cụ và sự kết nối của thời đại kỹ thuật số cho phép chúng ta dễ dàng thu thập, chia sẻ thông tin và hành động trên cơ sở những thông tin này theo phương thức hoàn toàn mới, kéo theo hàng loạt sự thay đổi về các quan niệm, các tập tục, các thói quen truyền thống, và thậm chí cả cách nhìn các giá trị trong cuộc sống. Do đó, ứng dụng và phát triển CNTT ở nước ta nhằm góp phần giải phóng sức mạnh vật chất, trí tuệ và tinh thần của toàn dân tộc, thúc đẩy công cuộc đổi mới, phát triển nhanh và hiện đại hóa các ngành kinh tế, tăng cường năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp, hỗ trợ hiệu quả cho quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân, đảm bảo an ninh quốc phòng và tạo khả năng đi tắt đón đầu để thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nắm bắt xu thế đó, TAND trong những gần đây đã tăng cường kết nối mạng internet cho hệ thống máy tính của từng đơn vị Tòa án hoặc cho ít nhất một máy tính của đơn vị. Việc kết nối internet đem lại rất nhiều thuận tiện cho các Tòa án, như nhận và gửi email, tra cứu thông tin, tìm kiếm văn bản pháp luật trên mạng. Ngoài ra, rất nhiều đơn vị TAND cấp tỉnh hiện nay đang thực hiện kết nối mạng nội bộ (LAN) cho các Tòa chuyên trách và các bộ phận giúp việc. Một số Tòa án đã kết nối với hệ thống Cổng thông tin điện tử của TANDTC. Tại TAND Thành phố Hồ Chí Minh đã có phần mềm quản lý án chạy trên nền mạng nội bộ (LAN). TAND tỉnh Vĩnh Long cũng đã đưa váo sử dụng phần mềm quản lý vụ án, công việc xét xử và phần mềm quản lý bản án. TAND thành phố Đà Nẵng đang có kế hoạch phát triển phần mềm quản lý vụ án, công việc xét xử. Tại TAND tỉnh Kiên Giang đã thực hiện việc kết nối mạng internet và 72 mạng nội bộ cho toàn bộ hệ thống máy tính của đơn vị, nhờ vậy đã giúp cho các Thẩm phán, Thư ký Tòa và các cán bộ khác cập nhật thông tin, tìm kiếm tài liệu và văn bản pháp luật được thuận lợi và nhanh chóng. Vì vậy, CCTTHCTP cần thiết phải tập trung, ưu tiên tập huấn việc sử dụng các phần mềm và sử dụng, vận hành các phương tiện điện tử trong hoạt động tác nghiệp, đặc biệt quan tâm đào tạo nâng cao trình độ về tin học cho cán bộ, công chức làm việc tại Tổ HCTP nhằm chuẩn bị tốt nhất nguồn nhân lực để thực hiện chủ trương tin học hóa và vận hành có hiệu quả mô hình Tòa án điện tử trong tương lai theo yêu cầu CCTTHCTP của hệ thống Tòa án. 3.2.7 Tập trung, ưu tiên đầu tư trang thiết bị, cơ sở hạ tầng, cải thiện môi trường làm việc tại Tổ hành chính tư pháp“một cửa” Qua khảo sát trực tiếp của Nhóm Nghiên cứu về “Thực trạng quản lý hành chính Toà án nhân dân địa phương ở Việt Nam” thuộc Dự án 00054895, thì các Thẩm phán tại một số thành phố lớn như Hải Phòng, Đà Nẵng và Thành phố Hồ Chí Minh có điều kiện tốt hơn về máy tính, đồ dùng văn phòng, máy điều hoà, internet, nước sạch, sách báo so với các Thẩm phán ở các địa phương khác, nhưng phần lớn trụ sở của các Toà án ở các thành phố lớn lại nhỏ hơn so với trụ sở tại các tỉnh, huyện ở nông thôn hay miền núi. Tình trạng các Thẩm phán hoặc thư ký Tòa phải ngồi chung phòng làm việc từ 3-4 người là phổ biến ở thành phố trong khi tại các Tòa án ở khu vực nông thôn, miền núi thì các Thẩm phán thường có phòng riêng hoặc ngồi chung với Thư ký của mình. Tuy nhiên, các Toà án ở nông thôn, miền núi lại kém hơn về trang thiết bị. Tại TAND tỉnh Kiên Giang, Tổ HCTP hiện có 06 biên chế gồm 01 Thẩm phán và 05 Thư ký, trong đó có 03 Thư ký kiêm nhiệm vừa làm việc tại Tòa chuyên trách, vừa làm việc tại Tổ HCTP. So với khối lượng công việc hiện nay của Tổ HCTP thì số biên chế trên không đủ đáp ứng yêu cầu công việc, đó là chưa kể đơn vị chỉ bố trí một Thẩm phán duy nhất làm việc tại Tổ HCTP kiêm giữ chức vụ Tổ trưởng, dẫn đến áp lục công việc rất lớn, trong khi họ không được hưởng bất kỳ chế độ ưu đãi nào khác, thậm chí còn bị “cắt giảm” thu nhập vì Thẩm phán, Thư ký làm việc tại bộ phận “một cửa” không tham gia giải quyết án nên không có thu nhập từ “ngồi phiên tòa”. Mặt khác, hiện nay TAND tỉnh Kiên Giang vẫn chưa triển khai áp dụng được phần mềm quản lý án và công việc xét xử nên các công đoạn quản lý phần lớn vẫn là trên sổ sách, việc nhập số liệu án hiện nay chỉ mang tính chất lưu trữ và phục vụ cho yêu cầu báo cáo của đơn vị mà chưa kết nối thông tin cho tất cả cán bộ, 73 công chức trong đơn vị cũng như chưa đáp ứng yêu cầu thông tin của các cá nhân, cơ quan, tổ chức khác. Ngoài ra, điều kiện về phòng làm việc, trang thiết bị của Thẩm phán, Thư ký Tổ HCTP còn rất hạn chế so với các tòa, phòng khác. Tổ HCTP là bộ phận thường xuyên phải tiếp công dân và các tổ chức, cá nhân khác đến liên hệ làm việc nhưng bộ phận này chỉ có duy nhất 01phòng làm việc với 03 máy tính bàn, điều này ít nhiều sẽ ảnh hưởng đến chất lượng công việc và hiệu quả hoạt động của Tổ HCTP. Từ những khó khăn trên, việc tập trung, ưu tiên đầu tư trang thiết bị, cơ sở hạ tầng, cải thiện môi trường làm việc tại Tổ HCTP là việc làm rất cần thiết, cần được Ban lãnh đạo TAND tỉnh quan tâm. Theo đó, các nhu cầu này cần được đáp ứng theo nhu cầu thực tiễn và nguồn tài chính của đơn vị. Hiên nay, do những tiện ích của máy tính nên nhu cầu của các Thẩm phán, Thư ký về máy tính vẫn là cao nhất, tiếp đến là nhu cầu về phương tiện đi lại, đồ dùng văn phòng và cuối cùng, cần tạo môi trường làm việc thoải mái hơn cho cán bộ, công chức làm việc tại Tổ HCTP. 3.2.8 Tăng cường hợp tác quốc tế nhằm tranh thủ các nguồn lực và kinh nghiệm của các nước và các tổ chức quốc tế trong cải cách hành chính tư pháp Trong những năm qua, với mục đích tăng cường nhân lực trong lĩnh vực pháp luật để hỗ trợ quản lý nhà nước minh bạch và có trách nhiệm hơn; hỗ trợ xây dựng năng lực của các cơ sở đào tạo nghề luật và các thiết chế pháp luật có liên quan để đảm bảo quyền lợi hợp pháp của công dân Việt Nam được tôn trọng, đẩy mạnh và bảo vệ một cách hiệu quả hơn, hữu hiệu hơn và công bằng hơn, TANDTC đã tăng cường hợp tác quốc tế nhằm tranh thủ các nguồn lực và kinh nghiệm của các nước và các tổ chức quốc tế trong cải cách hành chính tư pháp, trong đó phải kể đến: Dự án JUDGE là dự án hợp tác giữa Tòa án nhân dân tối cao Việt Nam, Bộ tư pháp Việt Nam và Cơ quan phát triển quốc tế Canada (CIDA).Tại Hội nghị, các đại biểu đã báo cáo và đánh giá tiến độ thực hiện dự án năm 2009 dựa trên 3 hợp phần: dự án JUDGE đã phối hợp với Học viện tư pháp và Trường cán bộ Tòa án để nâng cao kỹ năng giảng dạy cho giảng viên và hỗ trợ xây dựng tư liệu giảng dạy cho giảng viên phù hợp với các chuẩn mực và thông lệ quốc tế trong đào tạo, bồi dưỡng tư pháp, Hội nghị Chánh án TATC các nước ASEAN do Tòa án Việt Nam đăng cai tổ chức ngày 31/3/ và ngày 1/4/2016 đã thành công tốt đẹp. Đây là Hội nghị thường niên, được Tòa án các nước thành viên ASEAN luân phiên đăng 74 cai tổ chức, là diễn đàn để Tòa án các nước thảo luận trực tiếp, chia sẻ kinh nghiệm, thống nhất các mục tiêu ưu tiên mà các nước quan tâm; đóng góp chung vào việc thúc đẩy quan hệ hợp tác, hữu nghị giữa các nước thành viên ASEA. Với cương vị nước chủ nhà đăng cai tổ chức Hội nghị, TANDTC Việt Nam đề xuất 6 Chủ đề gồm: Thể chế hóa Hội nghị Chánh án ASEAN; Hội nhập và hài hòa hóa tư pháp các nước ASEAN; Xây dựng Cổng Thông tin điện tử ASEAN; Đào tạo tư pháp; Quản lý vụ án và công nghệ Tòa án; - Tranh chấp Hôn nhân, gia đình xuyên biên giới. Với 6 Chủ đề trên đã được bàn thảo dân chủ, thẳng thắn tại Hội nghị và được Chánh án các nước ASEAN đồng thuận, nhất trí cao và đã cùng nhau ký Tuyên bố chung Thành phố Hồ Chí Minh; đồng thời, thống nhất đổi tên gọi Hội nghị thành Hội đồng Chánh án ASEAN, thành lập Nhóm nghiên cứu để triển khai các công việc của Hội đồng, trình Tổng thư ký ASEAN công nhận Hội đồng và thực hiện các nhiệm vụ theo 6 chủ đề đã được thông qua. Thực hiện Biên bản ký kết ngày 20/12/2013 giữa TAND tỉnh Kiên Giang, Việt Nam với Tòa án sơ thẩm tỉnh Kam Pốt và Tòa án sơ thẩm tỉnh Preah Sihanouk, Vương quốc Campuchia, trong những năm qua TAND tỉnh Kiên Giang đã tổ chức thành công các Hội nghị hợp tác quốc tế trong khuôn khổ hợp tác, trao đổi công tác xét xử và phòng chống tội phạm qua biên giới, xét xử án hôn nhân và gia đình giữa công dân hai nước sống sát biên giới với Tòa án sơ thẩm tỉnh Kam Pốt và Tòa án sơ thẩm tỉnh Preah Sihanouk. Dự kiến trong những năm tiếp theo, chương trình hợp tác quốc tế sẽ được triển khai trên tất cả các mặt hoạt động của Tòa án, trong đó có hợp tác, trao đổi kinh nghiệm thực hiện CCTTHCTP trong hoạt động của TAND. 75 KẾT LUẬN CCTTHCTP có vai trò quan trọng trong việc bổ trợ cho các hoạt động tố tụng và hoạt động quản lý, điều hành của Tòa án các cấp thông suốt, trôi chảy. Để các thủ tục hành chính tư pháp thực sự phát huy vai trò của mình, đồng thời góp phần tích cực vào việc thực hiện tốt công cuộc cải cách tư pháp theo Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị thì mục tiêu đổi mới thủ tục hành chính tư pháp theo hướng tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tiếp cận công lý là hết sức cần thiết trong giai đoạn hiện nay. Để đạt được mục tiêu này, một loạt các nhiệm vụ và giải pháp đặt ra cho ngành Tòa án trong thời gian tới và để thực hiện tốt các nhiệm vụ, giải pháp này, không chỉ đòi hỏi sự lãnh đạo, chỉ đạo sát sao, thường xuyên của Ban cán sự Đảng, Ban lãnh đạo TANDTC, các cấp ủy đảng và lãnh đạo TAND tỉnh trong việc xây dựng kế hoạch và chỉ đạo điều hành việc thực hiện kế hoạch đổi mới TTHCTP từng năm và dài hạn theo các mục tiêu, yêu cầu nhiệm vụ và giải pháp đã đề ra, mà còn cần có sự tham gia tích cực của đội ngũ cán bộ Tòa án các cấp, sự hưởng ứng nhiệt tình của các cá nhân, các cơ quan, tổ chức hữu quan khác. Có như vậy, mục tiêu xây dựng một nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo tinh thần Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị mới thành công và đạt hiệu quả cao. Với đề tài nghiên cứu “Cải cách thủ tục hành chính tư pháp tại Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang”, tác giả dự kiến công trình khoa học sẽ góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả thực hiện cách hành chính tư pháp tại Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang, qua đó bổ trợ tích cực cho các hoạt động tố tụng và hoạt động quản lý, điều hành của lãnh đạo Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang và hoạt động của Tòa án nhân dân các huyện, thị, thành phố thuộc tỉnh Kiên Giang trên cơ sở nhân rộng mô hình cải cách thủ tục hành chính tư pháp của Tòa án nhân dân tỉnh, với mục đích cuối cùng là xây dựng một nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, từng bước hiện đại hóa mọi hoạt động của Tòa án, tiến tới thực hiện cải cách thủ tục hành chính tư pháp theo mô hình một cửa liên thông phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo tinh thần Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 26/5/2005 của Bộ Chính trị. 76 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO A. VĂN KIỆN ĐẢNG: 1. Bộ Chính trị, Nghị quyết số 08 - NQ/TW ngày 02/01/2002 về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp thời gian tới, Hà Nội, 2002 2. Bộ Chính trị, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 26/5/2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội, 2005. 3. Bộ Chính trị, Kết luận số 79-KL/TW ngày 28/7/2010 về Đề án đổi mới tỏ chức hoạt động của Tòa án, viện Kiểm sát và cơ quan Điều tra theo Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 26/5/2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội,2010. 4. Bộ Chính trị, Kết luận số 92-KL/TW ngày 12/3/2014 về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 26/5/2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội,2014. B. VĂN BẢN PHÁP LUẬT: 5. Hiến pháp năm 1992, sửa đổi, bổ sung năm 2013. 6. Hiến pháp năm 2013. 7. Luật Khiếu nại năm 2011 8. Luật Tổ chức Chính phủ năm 2001. 9. Luật Tổ chức Chính phủ năm 2015. 10. Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014. 11. Nghị quyết số 38/NQ-CP của Chính phủ ngày 04/5/1994 về cải cách một bước thủ tục hành chính trong việc giải quyết công việc của công dân và tổ chức. C. VĂN BẢN KHÁC: 12. Báo cáo tổng quan về hoạt động thí điểm cải cách hành chính tư pháp tại tòa án của vụ Hơp tác quốc tế- Tòa án nhân dân tối cao. 13. Báo cáo cải cách hành chính tư pháp thí điểm xây dựng “Tổ hành chính tư pháp” tại ngành Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế, Huế, 2012. 14. Báo cáo kết quả đạt được trong công tác cải cách hành chính tại Tòa án nhân dân huyện Bình Minh, tỉnh Vĩnh Long, Vĩnh Long, 2012. 15. Báo cáo ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác cải cách hành chính tư pháp tại các Tòa án thí điểm, Hưng Yên, 2012. 16. Báo cáo khảo sát “Thực trạng quản lý hành chính Toà án nhân dân địa phương ở Việt Nam” trong khuôn khổ của Dự án 00058492 về “Tăng cường tiếp cận công lý và bảo vệ quyền tại Việt Nam” của Chính phủ Việt Nam - Chương trình Phát triển Liên hợp quốc, tldd 20, tr.23-24; tlđd 14, tr.53-57. 17. Báo cáo số 01/2017/BC/TĐKT-TAT ngày 17/4/2017 về sơ kết phong trào thi đua 6 tháng đầu năm 2017 Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Kiên Giang 18. Chỉ thị số 03/2016/CT-TA ngày 04/4/2016 của Tòa án nhân dân tối cao về việc tăng cường thực hiện cải cách thủ tục hành chính tư pháp tại Toà án nhân dân, tlđd 13 19. Dự án Phát triển tư pháp và tăng cường sự tham gia từ cơ sở do Chính phủ Canada tài trợ cho TANDTC và Bộ Tư pháp Việt Nam thông qua Cơ quan phát triển quốc tế Canada (CIDA) 20. Hà Tiến Dũng ( 2014 ), Xây dựng mô hình Tòa án khu vực trong tiến trình cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sỹ luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội. 21. Nguyễn Thị Hồng Hải ( 2013 ), Quản lý thực thi công vụ theo định hướng kết quả, NXB. Lao động, Hà Nội. 22. Nguyễn Ngọc Hiến (chủ biên) ( 2001 ), Các giải pháp thúc đẩy cải cách hành chính Việt Nam, NXB. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 23. Trần Quang Huy ( 2016 ), Đổi mới thủ tục hành chính tư pháp tại TAND các cấp: Góp phần công khai minh bạch các hoạt động của Tòa án, truy cập ngày 06/10/2016. 24. Hoàng Thế Liên (chủ nhiệm đề tài), Cơ sở lý luận và thực tiễn đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp (góp phần sửa đổi Hiến pháp 1992), đề tài cấp bộ. 25. Trần Huy Liệu ( 2003 ), Đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp theo hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền, Luận án tiến sĩ luật học, Đại học Luật Hà Nội. 26. Thang Văn Phúc (chủ biên) ( 2001 ), Cải cách hành chính nhà nước - Thực trạng, nguyên nhân và giải pháp, NXB. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 27. Thang Văn Phúc ( 2004 ), Nguyễn Minh Phương, Nguyễn Thu Huyền, Hệ thống công vụ và xu hướng cải cách của một số nước trên thế giới, NXB. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 28. Quy chế làm việc của tổ hành chính tư pháp thuộc Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang (ban hành kèm theo Quyết định số 06/QĐ-TAT ngày 03/8/2016 của Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang). 29. Quy chế đánh giá và phân loại cán bộ, công chức, viên chức, người lao động trong các Tòa án nhân dân (ban hành kèm Quyết định số 851/QĐ- TCCB của Tòa án nhân dân tối cao). 30. Quyết định số 345/2016/QĐ-TA ngày 07/4/2016 của Tòa án nhân dân tối cao về tổ chức bộ máy, nhiệm vụ, quyền hạn của các đơn vị trong bộ máy giúp việc của Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh. 31. Quyết định số 1253/2008/QĐ-TANDTC ngày 18/9/2008 của Chánh án TANDTC về Quy tắc ứng xử của cán bộ, công chức ngành Tòa án nhân dân. 32. Quyết định số 06/QĐ-TAT ngày 03/8/2016 của Chánh án TAND tỉnh kiên Giang về việc thành lập Tổ Hành chính tư pháp. 33. Tham luận cải cách hành chính tư pháp trong hoạt động của Tòa án nhân dân thành phố Huế và sự cần thiết áp dụng trong hoạt động của ngành Tòa án cả nước, Huế, 2012. 34. Tham luận “Hoạt động cải cách hành chính tư pháp tại các Tòa án thí điểm” của Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Long, Hà Nội, 2012. 35. Tham luận về công tác cải cách thủ tục hành chính tư pháp của ngành Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội, những bài học kinh nghiệm và kiến nghị, Hà Nội, 2012. 36. Tham luận về một số kết quả bước đầu trong cải cách hành chính tư pháp tại Tòa án nhân dân thành phố Hưng Yên tỉnh Hưng Yên, Hưng Yên, 2012. 37. Trần Đình Thắng ( 2011 ), Đảng cộng sản Việt Nam với việc cải cách nền hành chính Nhà nước, NXB. Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội. 38. Tuyên bố Bắc Kinh về các Nguyên tắc độc lập tư pháp, Tạp chí Toà án nhân dân, số 8/2006, tr.46-48. 39. Đoàn Trọng Truyến ( 2006 ), Cải cách hành chính và công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, NXB. Tư pháp, Hà Nội. 40. Vụ Hợp tác quốc tế- TANDTC, Báo cáo tổng quan về hoạt động thí điểm cải cách HCTP tại Tòa án. D. CÁC TRANG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ THAM KHẢO: 41. Trương Hòa Bình, Một số nội dung về đổi mới thủ tục Hành chính tư pháp trong hoạt động của Tòa án nhân dân, xem: id=&p_cateid=1751909&article_details=1&item_id=23072374, truy cập ngày 06/10/2016 42. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính tư pháp nhằm giúp người dân dễ dàng tiếp cận công lý, xem diem/day-manh-cai-cach-thu-tuc-hanh-chinh-tu-phap-nham-giup-nguoi- dan-de-dang-tiep-can-cong-ly-106892.html, truy cập ngày 15/02/2017. 43. Đổi mới thủ tục hành chính tư pháp trong hoạt động của Tòa án nhân dân, hanh-chinh-tu-phap-trong-hoat-dong-cua-Toa-an-Nhan- dan/166164.vgp%C4%90%E1%BB%95i%20m%E1%BB%9Bi%20th%E 1%BB%A7%20t%E1%BB%A5c%20h%C3%A0nh%20ch%C3%ADnh% 20t%C6%B0%20ph%C3%A1p%20trong%20ho%E1%BA%A1t%20%C4 %91%E1%BB%99ng%20c%E1%BB%A7a%20T%C3%B2a%20%C3% A1n%20Nh%C3%A2n%20d%C3%A2n, truy cập ngày 06/10/2016. 44. Nguyễn Thị Thu Hằng, Bước đột phá trong quá trình thực hiện cải cách thủ tục hành chính tư pháp tại Tòa án nhân dân tỉnh Hà Nam, thuc-hien-cai-cach-thu-tuc-hanh-chinh-tu-phap-tai-toa-an-nhan-dan-tinh- ha-nam-57180.html, truy cập ngày 06/10/2016. 45. Thu Hằng, Đẩy mạnh đổi mới, cải cách thủ tục hành chính tư pháp tại Tòa án, hanh-chinh-tu-phap-tai-toa-an-377786.html. 46. Chu Linh, Định hướng công tác tư pháp nhiệm kỳ 2016-2020, nhiem-ky-2016-2020-300053/, truy cập ngày 06/10/2016. 47. Một số nét về công tác cải cách thủ tục hành chính tư pháp tại các Tòa án nhân dân, xem: s_id=1751942&folder_id=&item_id=147066818&p_details=1, truy cập ngày 07/10/2016 ,tlđd 23 48. Nhân rộng mô hình “một cửa” tại Tòa án để tăng khả năng tiếp cận công lý cho người dân, xem: _mot_cua_tai_Toa_an_de_tang_kha_nang_tiep_can_cong_ly_cho_nguoi_ dan, truy cập ngày 02/4/2017. 49. Thái Xuân Sang, Cải cách thủ tục hành chính trong tiến trình phát triển và hội nhập, xem: truy cập ngày 28/3/2017. 50. Trương Thu Trang, Cải cách tư pháp ở một số nước châu Á: Kinh nghiệm cho Việt Nam, xem: vai-kinh-nghiem-cho-viet-nam.html, truy cập ngày 02/4/2017. 51. Thái Trung, Họp ban chỉ đạo dự án “Phát triển tư pháp và sự tham gia từ cơ sở” JUDGE Canad, xem: 753011&pers_id=3391632&folder_id=&item_id=2892010&p_details=1 truy cập ngày 03/4/2017. 52. Xem: cai-cach-tu-phap-noi-bat-cua-toa-an-nhan-dan-a140069.html, truy cập ngày 27/02/2017. 53. Thái Vân, Cải cách tư pháp một số nước trên thế giới - Một số gợi mở cho quá trình cải cách tư pháp ở Việt Nam, xem: nuoc-tren-the-gioi-mot-so-goi-mo-cho-qua-trinh-cai-cach-tu-phap-o-viet- nam-293052/, truy cập ngày 01/4/2017. 54. Nguyễn Tất Viễn, Đổi mới mô hình tổ chức bộ máy và hoạt động của hệ thống tư pháp ở Việt Nam hiện nay, hinh-to-chuc-bo-may-va-hoat-dong-cua-he-thong-tu-phap-o-viet-nam- hien-nay-tac-gia:-pgs-.-ts-.-nguyen-tat-vien-a285.html, truy cập ngày 06/10/2016.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_van_cai_cach_thu_tuc_hanh_chinh_tu_phap_tai_toa_an_nhan.pdf
Luận văn liên quan