Luận văn Cải cách tư pháp nhằm đảm bảo quyền con người là vấn đề ưu tiên hàng đầu của Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam

CCTP là một yêu cầu hết sức quan trọng trong quá trình xây dựng và hoàn thiện bộ máy nhà nước hiện nay. Không phải đến bây giờ chúng ta mới có chủ trương CCTP, tư pháp luôn được xem như là một bộ phận trọng tâm cần phải cải cách để hoạt động có hiệu lực, hiệu quả nhằm đảm bảo các quyền tự do của công dân. Nhận thức được vấn đề này, trong quá trình xây dựng và hoàn thiện bộ máy nhà nước, Đảng và Nhà nước luôn giành sự quan tâm đặc biệt đến công tác cải cách tư pháp. Ngay từ khi giành được độc lập, chúng ta đã bắt tay vào xây dựng bộ máy tư pháp với tiêu biến bộ máy đó thành “một cơ quan trọng yếu của chính quyền” (Hồ Chí Minh), và chỉ sau một thời gian ngắn, bộ máy tư pháp đã được thiết lập trên phạm vi cả nước.

pdf120 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3555 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Cải cách tư pháp nhằm đảm bảo quyền con người là vấn đề ưu tiên hàng đầu của Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
toà án Quân sự chủ yếu xét xử những vụ án về các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân, những vụ án liên quan đến bí mật quân sự... Các Tòa án quân sự nên tổ chức theo cấp theo cấp xét xử, đó là mô hình Tòa án quân sự cấp sơ thẩm, Tòa án quân sự cấp phúc thẩm và Tòa án quân sự trung ương. Tòa quân sự có những nét đặc thù riêng trong xét xử, do đó cần ban hành các qui định pháp luật riêng rẽ qui định về tổ chức và hoạt động của Tòa án quân sự, cũng như mối quan hệ giữa Tòa quân sự với hệ thống TAND theo luật định. Cùng với việc cải cách mô hình tổ chức Toà án, thì vấn đề cải cách cơ chế bổ nhiệm thẩm phán phải được ưu tiên đặt lên hàng đầu vì thẩm phán là “linh hồn” của Toà án. Việc chuẩn bị nhân sự cho việc bổ nhiệm thẩm phán cần theo nguyên tắc “thà ít mà tốt” chứ không thể vì yêu cầu số lượng mà phải “…vơ vét, tận dụng những lực lượng đã có để bổ nhiệm cho đủ” như có lần Chánh án TAND tối cao trả lời chất vấn trước Quốc hội. Theo quy định của pháp luật, hiện nay có hai cơ chế bổ nhiệm thẩm phán. Chánh án TAND tối cao bổ nhiệm thẩm phán các TAND địa phương, Toà án quân sự khu vực; Chủ tịch nước bổ nhiệm thẩm phán TAND tối cao, Toà án quân sự trung ương. Cơ chế bổ nhiệm nhiệm hiện nay vẫn mang tính “khép kín”, chưa tạo cơ hội cho người có phẩm chất, năng lực trong hệ thống chính trị trở thành Thẩm phán (nguồn bổ nhiệm chủ yếu vẫn từ khối thư ký Toà án), chưa phát huy được vai trò của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội với tư cách là cơ quan thể hiện chủ quyền nhân dân, chưa gắn công tác giám sát tư pháp của Quốc hội, HĐND với công tác cán bộ của cơ quan tư pháp. Mặt khác, việc giao cho Chánh án TAND tối cao bổ nhiệm Thẩm phán chưa phải là phương án tối ưu để nâng cao chất lượng hoạt động của Toà án, nhất là đảm bảo tính độc lập trong hoạt động của mỗi cấp Toà án. Để đảm bảo tính dân chủ, minh bạch, trong bổ nhiệm thẩm phán phải có sự điều chỉnh theo hướng giao cho UBTVQH bổ nhiệm thẩm phán TAND tối cao, thẩm phán Toà án quân sự trung ương. Bởi vì theo qui định hiện nay Ủy ban Thường vụ Quốc hội là cơ quan quyết định biên chế, chế độ tiền lương của ngành Toà án, quyết định một số thẩm phán làm thành viên của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao, giám sát hoạt động của TAND tối cao giữa hai kỳ họp Quốc hội. Đối với việc bổ nhiệm thẩm phán Toà án thượng thẩm, thẩm phán Toà án phúc thẩm, Toà án sơ thẩm khu vực nên giao cho Thường trực HĐND cấp tỉnh bổ nhiệm. Để tập trung cho hoạt động xét xử, không nên giao cho Chánh án TAND tối cao thẩm quyền bổ nhiệm thẩm phán ở bất kỳ cấp nào1. Cùng với việc sắp xếp tổ chức và phân định thẩm quyền thì trong hoạt động xét xử Tòa án cần tuân thủ và tiếp tục thực hiện tốt và hoàn thiện các nguyên tắc sau đây: - Nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của người tiến hành tố tụng hoặc tham gia tố tụng. Hoạt động xét xử của Tòa án phải đảm bảo tính công minh, do đó trong xét xử những người tiến hành tố tụng và tham gia tố tụng cần có thái độ vô tư, chống lại những biểu hiện thiên lệch. Để bảo đảm sự vô tư của những người tiến hành tố tụng hoặc người tham gia tố tụng ở giai đoạn xét xử đòi hỏi phải xây dựng cơ chế và hoàn thiện pháp luật theo hướng tăng cường sự minh bạch, dân chủ. - Nguyên tắc xét xử có Hội thẩm tham gia. Theo quy định tại Điều 129 Hiến pháp năm 1992 thì việc xét xử của TAND có HTND, của Tòa án quân sự có Hội thẩm quân nhân tham gia theo quy định của pháp luật. Khi xét xử, HTND ngang quyền với Thẩm phán. Nguyên tắc xét xử có Hội thẩm tham gia được coi là một nguyên tắc dân chủ, thể hiện tính nhân dân của Tòa án. Để thực hiện nguyên tắc này đòi hỏi Tòa án phải phối hợp với các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, các tổ chức chính trị - xã hội cử người có đủ tiêu chuẩn theo quy định của pháp luật tham gia xét xử, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi để họ tham gia xét xử và khi xét xử họ được ngang quyền với Thẩm phán. - Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Điều 130 Hiến pháp năm 1992 và Điều 16 Bộ luật TTHS đều quy định: “Khi xét xử, Thẩm 1 Phạm Văn Hùng, Tòa án và vấn đề cải cách tư pháp, tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 135, 11/2008. phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”. Đây là nguyên tắc Hiến định, nhằm bảo đảm việc xét xử của Tòa án không bị chi phối bởi bất cứ sự tác động nào khi ra bản án hoặc những quyết định. Nội dung của nguyên tắc này là Thẩm phán và Hội thẩm hoàn toàn độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong khi tiến hành chức năng xét xử các vụ án nói chung và vụ án hình sự nói riêng, cũng như khi ra bản án hoặc quyết định khác. Các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội hoặc bất cứ ai khác không được can thiệp vào hoạt động xét xử. - Nguyên tắc xét xử tập thể và quyết định theo đa số. Xét xử tập thể và quyết định theo đa số là một nguyên tắc được quy định tại Điều 131 Hiến pháp năm 1992 và Điều 17 Bộ luật TTHS. Nguyên tắc xét xử tập thể được bảo đảm bằng các quy định của Bộ luật TTHS về thành phần Hội đồng xét xử ở cấp sơ thẩm ít nhất là ba người, đối với vụ án có tính chất nghiêm trọng, phức tạp hoặc đối với bị cáo 3.2.2.2. Viện kiểm sát nhân dân VKSND là một trong các cơ quan có vị trí, vai trò, chức năng quan trọng trong cơ chế thanh tra, kiểm tra, giám sát, có mối quan hệ gắn bó mật thiết với các cơ quan chức năng khác. Đổi mới tổ chức và hoạt động của VKSND có nhiều nội dung như xác định vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, phạm vi, phương thức hoạt động. Cùng với sự thay đổi về bộ máy Toà án thì tổ chức của VKSND cần phải được thay đổi cho phù hợp với nhiệm vụ và tổ chức của hệ thống cơ quan tư pháp. Trước hết cần đổi mới căn bản tổ chức và hoạt động của VKSND hiện nay bằng việc thành lập Viện công tố để thực hiện tốt hơn chức năng công tố nhà nước và kiểm sát hoạt động tư pháp. Thực chất mô hình Viện công tố không còn là vấn đề mới trong lịch sử tư pháp Việt Nam, mô hình này đã từng xuất hiện ở Việt Nam do người Pháp du nhập vào và nó tiếp tục tồn tại sau Cách mạng Tháng Tám 1945. Sau khi giành độc lập, do hoàn cảnh lịch sử của nước ta lúc đó nên Hiến pháp 1946 chỉ đề cập đến tổ chức tòa án. Tòa án có các công tố viên làm nhiệm vụ buộc tội nhân danh nhà nước trước phiên tòa trong các VAHS, đến năm 1958 Viện công tố Trung ương trực thuộc Chính phủ đã được thành lập trên cơ sở tách các công tố viên ra khỏi Tòa án. Viện công tố là cơ quan giữ chức năng công tố nhưng cũng bao hàm một số yếu tố của hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật như kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử và kiểm sát giam giữ cải tạo. Mô hình tổ chức Viện công tố ở nước ta ở giai đoạn này cho thấy cơ quan công tố không chỉ thực hành quyền công tố mà còn giám sát các hoạt động tư pháp; cơ quan Công tố không chỉ thực hiện chức năng, nhiệm vụ trên lĩnh vực hình sự mà còn cả lĩnh vực dân sự, thi hành án, giam giữ, cải tạo; có vai trò quan trọng trong quá trình điều tra vụ án hình sự mà khi cần thiết còn trực tiếp tiến hành điều tra hoặc một số hoạt động điều tra… Nhưng đến Hiến pháp 1959, trước yêu cầu của tình hình cách mạng mới, mô hình Viện công tố đã phải thay đổi bằng mô hình VKSND. VKSND có chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật nhằm giữ vững pháp chế XHCN, bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Đây là bản Hiến pháp lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến ở nước ta đã ghi nhận sự ra đời của một loại hình cơ quan nhà nước mới trong bộ máy nhà nước đó là hệ thống cơ quan VKSND. Sự lựa chọn mô hình VKSND ở nước ta là sự lựa chọn có cân nhắc, có ý thức, bởi vì vào thời điểm này chỉ có VKSND mới có khả năng thực hiện chức năng bảo đảm pháp chế thống nhất, bảo đảm tuân thủ pháp luật nghiêm chỉnh trong phạm vi cả nước nhờ có các nguyên tắc tổ chức và hoạt động đặc thù của nó. Các bản Hiến pháp 1980, Hiến pháp 1992 có một số bổ sung về tổ chức, hoạt động của VKSND như quy định Viện trưởng VKS các cấp phải báo cáo công tác trước HĐND địa phương về tình hình thực thi pháp luật ở địa phương và trả lời chất vấn, quy định về Ủy ban Kiểm sát có quyền hạn lớn hơn Viện trưởng. Hiến pháp 1992 (sửa đổi) đã thu hẹp phạm vi hoạt động của VKSND chỉ còn “thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp”. VKSND từ chỗ được Hiến pháp nhìn nhận như là nhân tố chính “bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất “ thì bây giờ hoạt động của VKSND chỉ là nhân tố “góp phần” cho quá trình đó mà thôi. VKSND theo Hiến pháp 1992 (sửa đổi) đã tiến gần đến mô hình Viện công tố vì hoạt động đặc trưng nhất của nó là kiểm sát tuân theo pháp luật trong lĩnh vực quản lý nhà nước không còn nữa. Khi Luật tổ chức VKSND năm 2002 ra đời thì chức năng, nhiệm vụ và tổ chức, bộ máy của Viện kiểm sát nhân dân đã có một bước thay đổi. Tiếp đó, khi Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 xác định: “Nghiên cứu chuyển Viện kiểm sát thành Viện công tố, tăng cường trách nhiệm của Viện công tố trong hoạt động điều tra” thì vấn đề chức năng, nhiệm vụ và tổ chức của VKSND được đặt ra một cách cấp bách. Đổi mới mô hình tổ chức và hoạt động của VKSND hiện nay thì ngoài việc xác định tên gọi còn cần phải xác định rõ nhiệm vụ của VKSND trên các lĩnh vực TTHS, kiểm sát hoạt động xét xử, thi hành án; quan hệ giữa VKSND với cơ quan điều tra, với toà án và với cơ quan thi hành án. Theo chúng tôi, để cải cách tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát có hiệu quả cần nghiên cứu và xử lý một số vấn đề sau: - Xác định cụ thể mô hình tổ chức của VKSND phù hợp với hệ thống tổ chức TAND. - Xác định rõ địa vị của VKSND trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, quan hệ giữa công tố và điều tra và tòa án. Cụ thể, cần làm rõ các vấn đề: + Vai trò của VKSND trong việc nắm, xử lý thông tin về tội phạm. + Phân biệt rõ quan hệ hành chính và quan hệ tố tụng. + Làm rõ nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm các chức danh pháp lý trong TTHS. + Làm rõ mối quan hệ giữa VKSND với các cơ quan tố tụng. Đối với cơ quan điều tra, Viện kiểm sát có quyền hạn và trách nhiệm kiểm tra, đôn đốc, yêu cầu cơ quan điều tra và điều tra viên đề cao trách nhiệm thực hiện đúng các quy định trong việc khởi tố, bắt, giam, giữ, điều tra, chứng minh hành vi phạm tội theo đúng các quy định của pháp luật bảo đảm không để lọt tội phạm và không có oan, sai. Đối với Toà án, Viện kiểm sát là cơ quan truy tố, buộc tội bị cáo, người bào chữa... đưa ra. Nếu cho rằng Toà án xét xử sai thì Viện kiểm sát có quyền yêu cầu toà án cấp phúc thẩm, toà án giám đốc thẩm thụ lý, giải quyết. Để thực hiện đúng trách nhiệm, quyền hạn của Viện kiểm sát (Viện công tố) đối với việc đấu tranh chống tội phạm, không để lọt tội phạm và không xử lý oan người vô tội, thì phải nghiên cứu làm rõ và xác định đúng vai trò, mối quan hệ của Viện công tố với cơ quan điều tra. Viện công tố phải có đủ khả năng để quyết định việc điều tra, việc truy tố bị can; có quyền hạn để cơ quan điều tra thực hiện theo yêu cầu của mình; cần giải quyết tốt về mối quan hệ tổ chức, nhân sự giữa viện công tố và cơ quan điều tra. Cần quy định cụ thể quyền và trách nhiệm của VKSND trong hoạt động điều tra. Trong các tài liệu gần đây thì có lúc dùng “công tố chỉ đạo điều tra”, có lúc thì “công tố gắn với điều tra”, có chỗ dùng “tăng cường trách nhiệm của công tố đối với điều tra”… Theo quy định như hiện nay thì Viện kiểm sát có trách nhiệm rất cao trong việc thực hiện nghĩa vụ bồi thường nếu xảy ra oan. Trong lúc đó Cơ quan điều tra ra lệnh nhưng xảy ra oan thì Viện kiểm sát phải bồi thường, còn người ra lệnh vô can. Khi VKSND yêu cầu điều tra nếu không được đáp ứng, đáp ứng không đầy đủ thì việc xác định tính khách quan của vụ án là hết sức khó khăn, chưa kể đến việc các cơ quan bổ trợ tư pháp không đáp ứng yêu cầu của Viện kiểm sát về thời gian, về chất lượng giám định, về Luật sư trong những trường hợp pháp luật quy định… Đây là những vấn đề cần làm rõ để xác định cụ thể hơn trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng khi xảy ra oan, sai. 3.2.2.3. Cơ quan điều tra Trong quá trình CCTP việc xác định mô hình tổ chức và hoạt động thích hợp cho cơ quan điều tra là điều hết sức cần thiết, bởi vì cơ quan điều tra là nơi cung cấp đầy đủ các chứng cứ ban đầu để xác định sự thật khách quan của vụ án. Mặt khác, hoạt động điều tra thường gắn liện với việc hạn chế các quyền tự do của con người, do đó, để khắc phục và giảm dần tình trạng oan, sai thì trước hết cơ quan điều tra phải được tổ chức khoa học, hoạt động hiệu lực và hiệu quả. - Về sắp xếp tổ chức cơ quan điều tra. Hiện nay mô hình tổ chức cơ quan điều tra của chúng ta còn chưa rạch ròi; công an không phải là hoạt động tư pháp, mà công an là cơ quan quản lý nhà nước về trật tự trị an; cơ quan điều tra mới là cơ quan tư pháp. Sở dĩ có việc lẫn lộn hành chính - tư pháp như vậy vì trước đây việc điều tra giao cho Bộ Nội vụ làm, sau là Bộ Công an. Để cơ quan điều tra hoạt động có hiệu quả thì phải tách bạch thẩm quyền tư pháp và hành chính; đảm bảo sự độc lập trong tổ chức và hoạt động của cơ quan điều tra. Muốn vậy trước hết cần phải tách cơ quan điều tra ra khỏi Bộ Công an thành cơ quan điều tra quốc gia. Các chức danh trong cơ quan điều tra phải xác định là chức danh tư pháp, không nên xem là chức danh hành chính như hiện nay. Lãnh đạo các cơ quan này sẽ do Chủ tịch Nước bổ nhiệm, thông qua một trình tự chặt chẽ, nhằm hạn chế việc để lọt những người non kém nghiệp vụ hoặc đạo đức. Cần tiếp tục nghiên cứu cụ thể và chuẩn bị điều kiện để tổ chức lại các cơ quan điều tra theo hướng thu gọn đầu mối, kết hợp chặt chẽ giữa công tác trinh sát và hoạt động điều tra TTHS. Cơ quan điều tra được tổ chức phù hợp với tổ chức của Toà án, Viện kiểm sát, không bắt buộc việc tổ chức cơ quan điều tra gắn liền với đơn vị hành chính. - Xác định rõ thẩm quyền của cơ quan điều tra. Cần xác định rõ nhiệm vụ của cơ quan điều tra trong mối quan hệ với các cơ quan khác được giao một số hoạt động điều tra theo hướng cơ quan điều tra có thẩm quyền điều tra tất cả các VAHS, một số cơ quan khác (kiểm lâm, biên phòng, hải quan, cảnh sát biển, cảnh sát giao thông, cảnh sát phòng cháy, chữa cháy...) chỉ tiến hành các hoạt động điều tra sơ bộ như: lập biên bản về sự việc tội phạm xảy ra; bảo vệ hiện trường, thu giữ tang vật, giữ người phạm tội... và chuyển tài liệu, tang vật, người bị bắt giữ cho cơ quan điều tra để điều tra vụ án. Cần xây dựng cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan điều tra và cơ quan được giao tiến hành một số hoạt động điều tra sơ bộ; giữa các cơ quan điều tra với nhau. 1.1.2.3. Tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan tư pháp Tăng cường hơn nữa sự phối hợp giữa cơ quan điều tra với VKSND và TAND. Đối với Viện kiểm sát, khi vụ án đã xác định được người phạm tội nếu quyết định khởi tố bị can thì cơ quan điều tra ra quyết định khởi tố bị can và gửi ngay quyết định này cho Viện kiểm sát cùng cấp, đối với những vụ án quan trọng và phức tạp, hoặc trong những trường hợp cần thiết, trước khi quyết định khởi tố bị can, cơ quan điều tra và Viện kiểm sát cần trao đổi về căn cứ, về tội danh của người bị khởi tố. Trong trường hợp Viện kiểm sát thấy việc khởi tố bị can của cơ quan điều tra là không có căn cứ hoặc không đúng pháp luật thì trong thời hạn 3 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định khởi tố, Viện kiểm sát phải trao đổi với cơ quan điều tra để cơ quan điều tra ra quyết định khởi tố hoặc hủy quyết định khởi tố. Nếu không nhất trí được với nhau thì phải báo cáo lên cấp trên của hai ngành chỉ đạo giải quyết. Theo quy định của pháp luật TTHS, khi bắt người trong trường hợp khẩn cấp, bắt bị can để tạm giam, tạm giữ, gia hạn tạm giam giữ hoặc áp dụng biện pháp đặt tiền hoặc tài sản để đảm bảo (đối với người nước ngoài) thì phải có phê chuẩn của Viện kiểm sát. Do đó, khi quyết định khởi tố bị can, cơ quan điều tra và Viện kiểm sát cần thống nhất và quyết định lựa chọn áp dụng biện pháp ngăn chặn phù hợp. Những trao đổi giữa cơ quan điều tra và Viện kiểm sát sẽ cung cấp thông tin cho Viện kiểm sát phê chuẩn lệnh bắt bị can để tạm giam, lệnh tạm giam, lệnh gia hạn tạm giam, hoặc phê chuẩn lệnh khám xét chính xác. Đối với những vụ án quan trọng và phức tạp, để đảm bảo cho việc kết thúc điều tra là có căn cứ thì trước khi kết thúc điều tra, cơ quan điều tra cần tổ chức họp báo cáo kết quả điều tra với sự tham gia của đại diện Viện kiểm sát để xem xét hồ sơ, chứng cứ. Su khi nhận được bản kết luận điều tra cùng hồ sơ vụ án mà cơ quan điều tra chuyển sang thì Viện kiểm sát có trách nhiệm xem xét nghiên cứu, nếu phát hiện vấn đề chưa rõ thì Viện kiểm sát chủ động yêu cầu cơ quan điều tra báo cáo thêm. Trong trường hợp báo cáo của cơ quan điều tra vẫn chưa làm rõ được vấn đề yêu cầu thì Viện kiểm sát ra quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung. Việc trả hồ sơ cho cơ quan điều tra để tiến hành điều tra bổ sung chỉ trong trường hợp: Hồ sơ vụ án thiếu những chứng cứ quan trọng mà Viện kiểm sát không thể tự mình bổ sung được; hoặc khi phát hiện bị can phạm thêm tội danh khác hay vụ án có thêm những người đồng phạm; hoặc phát hiện có sự vi phạm pháp luật nghiêm trọng về thủ tục tố tụng. Đối với TAND. Để đấu tranh phòng, chống tội phạm có hiệu quả thì sự kết hợp giữa cơ quan điều tra với Viện kiểm sát và Tòa án là hết sức cần thiết. Mặc dù thực hiện những nhiệm vụ khác nhau trong các giai đoạn tố tụng, nhưng hoạt động của các cơ quan này nằm trong một quá trình giải quyết VAHS. Khi vụ án hình sự xảy ra, tùy theo tính chất của tội phạm phức tạp hay nghiêm trọng mà cơ quan điều tra chủ động phối hợp với Viện kiểm sát và Tòa án để họp bàn thống nhất và định tội danh, thẩm quyền xét xử của Tòa án, làm cơ sở cho việc quyết định điều tra, truy tố. Đối với những vụ án nghiêm trọng xảy ra, cơ quan điều tra, ngoài việc phải phối hợp với VKSND, còn phải thông báo ngay TAND cùng cấp biết. Ba ngành phải tổ chức ngay cuộc họp để bàn về hình thức xét xử và tập trung chỉ đạo kịp thời công tác điều tra, truy tố, xét xử. Riêng đối với những vụ án hình sự được xác định là vụ án trọng điểm thì ba ngành phải phối hợp chặt chẽ ngay từ đầu cho đến khi vụ án được xét xử xong. Sự bàn bạc thống nhất giữa cơ quan điều tra với TAND ngay từ khi VAHS xảy ra là cần thiết vì nó tạo thuận lợi cho các bên chủ động trong việc điều tra và xét xử, tránh được những sai lầm có thể xảy ra trong thu nhập chứng cứ chứng minh theo những vấn đề cần phải chứng minh trong vụ án hình sự1. Sự phối hợp giữa các cơ quan tố tụng là cần thiết, nó đảm bảo cho quá trình tố tụng diễn ra nhanh chóng, chính xác, việc điều tra, truy tố, xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Chính vì vậy, sự phối hợp này cần phải được thiết lập trên dựa cơ sở bình đẳng, đảm bảo tính độc lập về thẩm quyền, hoạt động của từng loại cơ quan tố tụng, tránh trường hợp các cơ quan tố tụng phối hợp với nhau để đưa ra các bản án “bỏ túi”, hoặc bao che cho nhau khi có sự vi phạm tố tụng xảy ra. 1.1.2.4. Hoàn thiện các chế định bổ trợ tư pháp Đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan bổ trợ tư pháp theo hướng phục vụ tốt hơn yêu cầu của hoạt động tư pháp nói chung, của hoạt động xét xử nói riêng. Trong đó, đặc biệt chú ý đến tổ chức và hoạt động của luật sư; cần xác định rõ vị trí của luật sư trong hoạt động tố tụng, đặc biệt trong tranh tụng tại phiên tòa. Việc đổi mới tổ chức và hoạt động bổ trợ tư pháp cần được tiến hành theo tính nâng cao tính chuyên sâu, đồng thời xã hội hoá rộng rãi đối với những hoạt động có thể xã hội hoá được. - Hoàn thiện chế định luật sư: Hoàn thiện cơ chế tranh tụng dân chủ, xây dựng chế pháp lý và bảo đảm trên thực tế các quyền của luật sư trong việc bào chữa cho bị can, bị cáo, bảo vệ quyền và lợi ích cho các đương sự. Xây dựng, phát triển đội ngũ luật sư ngày càng đông đảo, có phẩm chất chính trị, đạo đức nghề nghiệp, năng lực chuyên môn cao. Tiếp tục nghiên cứu mở rộng, đa dạng 1 Đỗ Quang Ngọc, Mối quan hệ giữa cơ quan điều tra với các cơ quan tham gia tố tụng hình sự, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội tr. 99. hoá các hình thức hành nghề của luật sư để thu hút, tạo điều kiện cho những người có kiến thức, tâm huyết theo nghề luật sư đáp ứng nhu cầu tư vấn pháp luật, bào chữa, trợ giúp pháp lý của nhân dân. Từng bước phân định rõ và hợp lý giữa công tác quản lý nhà nước về luật sư và chế độ tự quản của tổ chức luật sư. Nhà nước tạo điều kiện pháp lý để phát huy chế độ tự quản của tổ chức luật sư; đề cao trách nhiệm của các tổ chức luật sư đối với các thành viên của mình; tăng cường tính tự quản và trách nhiệm của tổ chức luật sư. Giải quyết tốt mối quan hệ giữa quản lý nhà nước và chế độ tự quản của tổ chức luật sư nhằm tạo điều kiện phát triển đội ngũ luật sư Việt Nam đủ về số lượng, mạnh về chất lượng và phát huy vai trò của họ trong quá trình dân chủ hoá hoạt động tố tụng, bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức và công dân. - Tiếp tục hoàn thiện chế định giám định tư pháp Giám định tư pháp là hoạt động khoa học, có tính chuyên môn cao. Kết luận giám định là ý kiến của nhà chuyên môn đánh giá về sự kiện, về bản chất vụ việc dưới góc độ khoa học chứ không mang tính pháp lý. Việc đánh giá về mặt pháp lý kết luận giám định là công việc các cơ quan và cán bộ tư pháp có thẩm quyền. Việc hoàn thiện các chế định giám định tư pháp cần tập trung vào một số vấn đề sau: Đối với một số lĩnh vực giám định có nhu cầu lớn, chưa có điều kiện xã hội hoá được thì Nhà nước cần đầu tư để đáp ứng thường xuyên và kịp thời cho hoạt động tố tụng (pháp y, pháp y tâm thần, kỹ thuật hình sự...). Đối với các lĩnh vực có nhu cầu giám định không lớn, không thường xuyên thì cần xã hội hoá bằng cơ chế thu hút các cơ quan, tổ chức chuyên môn, các chuyên gia giỏi trong khu vực nhà nước cũng như ngoài khu vực nhà nước tham gia vào hoạt động giám định tư pháp. Quy định chặt chẽ, rõ ràng về trình tự, thủ tục, cơ quan tiến hành, thời hạn trưng cầu và thực hiện giám định. Trên cơ sở những quy định chung đó, tiến hành ban hành quy chuẩn thực hiện giám định cụ thể phù hợp với những đặc thù riêng của lĩnh vực đó để làm cơ sở đánh giá và sử dụng những kết luận giám định được chính xác. Xác định rõ cơ chế giải quyết xung đột kết luận giám định trong trường hợp kết luận giám định là nguồn chứng cứ chủ yếu làm căn cứ cho việc định tội, lượng hình trong tố tụng hình sự hoặc làm căn cứ để chấp nhận hoặc không chấp nhận yêu cầu của đương sự, xác định lỗi, trách nhiệm của các đương sự trong tố tụng dân sự. Nghiên cứu các chế tài xử lý, bồi thường trong trường hợp tổ chức, cá nhân giám định sai sót. Nghiên cứu quy định quyền giám định tư pháp của một số người tham gia tố tụng, đặc biệt là quyền tự mình yêu cầu giám định của các bên đương sự trong tố tụng dân sự nhằm bảo đảm dân chủ, công bằng trong hoạt động tố tụng. Nghiên cứu xây dựng cơ chế yêu cầu người giám định có mặt tại phiên toà để họ trình bày về kết luận giám định - nguồn chứng cứ mang tính khoa học để làm sáng tỏ những vấn đề cần phải xác định tại phiên toà. 3.2.3. Xây dựng mô hình tư pháp tranh tụng thông qua việc nâng cao vai trò của Luật sư Xây dựng mô hình tranh tụng theo hướng công khai, dân chủ là một bước đi quan trọng trong quá trình CCTP hiện nay. Để xây dựng mô hình này thì việc phát huy vai trò của đội ngũ Luật sư là hết sức cần thiết. Nhằm đảm bảo việc tranh luận, bào chữa của Luật sư thì trước hết cần phải xây dựng những quy định cụ thể về chế tài ràng buộc trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đối với việc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Cần có những biện pháp tổng thể trên cả phương diện nhận thức, quy định pháp luật... để tạo điều kiện thuận lợi cho Luật sư được sớm tiếp xúc với khách hàng mà họ nhận bào chữa. Cần nâng cao nhận thức cho đông đảo người dân trong xã hội hiểu về quyền được nhờ Luật sư bào chữa, hình thành thói quen trong nhận thức “không thể điều tra, truy tố và xét xử một người nếu người đó không có sự trợ giúp về mặt pháp lý”. Để thực hiện tốt vai trò của mình thì ngay từ khi nhận bào chữa Luật sư phải nghiên cứu kỹ các tình tiết của vụ án một cách khách quan và toàn diện, không bỏ sót bất cứ chi tiết nào liên quan đến vụ án. Đặc biệt chú ý đến các tình tiết mà phía cơ quan tiến hành tố tụng đưa ra nhằm buộc tội người bị tạm giữ, bị can, bị cáo để từ đó đưa ra những biện luận bác bỏ lại sự buộc tội thiếu căn cứ hoặc không hợp pháp. Luật sư cần kết hợp giữa việc tham gia đầy đủ các hoạt động tố tụng với việc nghiên cứu kỹ từng tài liệu có trong hồ sơ vụ án; cần phải chủ động, tích cực tìm ra những chứng cứ để chứng minh sự vô tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Luật sư cần chủ động tìm hiểu thêm về nhân thân, tâm tư của họ liên quan đến vụ án, về diễn biến của sự việc phạm tội, động cơ, mục đích, nguyên nhân và điều kiện phạm tội cũng như các tình tiết khác liên quan nhằm gỡ tội cũng như để giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho khách hàng. Luật sư phải lắng nghe những thông tin mà người bị tạm giữ, bị can, bị cáo đưa ra hoặc hỏi họ về những tình tiết có lợi cho việc chứng minh vô tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Khi tranh tụng tại phiên tòa Luật sư phải đưa ra những biện luận có tính chính xác cao, có căn cứ pháp lý thuyết phục. Cần tránh sự bào chữa theo kiểu suy diễn và bất nhất trong lập luận. Đây là cuộc đấu lý giữa bên buộc tội và gỡ tội, có sự đối kháng rõ rệt và phần thắng sẽ thuộc về bên nào có những chứng cứ thuyết phục, lý lẽ sắc bén hơn để HĐXX và người tham dự phiên toà chấp nhận. Để bảo đảm quyền bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, xác định sự thật khách quan của vụ án đòi hỏi quá trình tố tụng phải bảo đảm tiến hành công khai, dân chủ và hợp pháp. Để nâng cao vai trò của Luật sư trước hết cần tạo ra các cơ chế bảo đảm để Luật sư tham gia đầy đủ vào toàn bộ quá trình tố tụng. Cần có những quy định về việc cơ quan tiến hành tố tụng phải giải thích ngay cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo biết về quyền được mời Luật sư bào chữa. Luật sư cần được tham gia vào việc lấy lời khai của người bị tạm giữ, hỏi cung bị can, giải thích và lưu ý người bị tạm giữ, bị can về quyền trả lời hoặc không trả lời về một vấn đề mà điều tra viên hỏi và sự từ chối trả lời đó của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trước các câu hỏi của điều tra viên mang tính chất truy bức, mớm cung, bức cung...; được xem và có ý kiến về nội dung biên bản lấy lời khai, hỏi cung; xác định tình trạng sức khỏe và tâm thần của người bị tạm giữ khi lấy lời khai, của bị can khi hỏi cung... Nhà nước cần có chính sách tăng thù lao bào chữa trong các vụ án chỉ định luật sư. Hiện nay quy định Luật sư bào chữa theo chỉ định được hưởng mức 120.000 đồng trên một ngày làm việc (khoản 1 Điều 11 Nghị định số 28/NĐ ngày 26/2/2007 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Luật sư). Cần có những quy định mới nhằm tăng mức thù lao cho phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội và thỏa đáng với công sức mà luật sư bỏ ra để bào chữa trong một vụ án. 3.2.4. Đẩy mạnh sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác tư pháp Đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với các cơ quan, cán bộ và hoạt động tư pháp là yêu cầu hết sức quan trọng trong quá trình CCTP hiện nay. Hội nghị Trung ương 4 khoá X chỉ rõ nhiệm vụ này: “kiện toàn tổ chức các ban cán sự đảng, đảng đoàn để các tổ chức đảng này thực hiện tốt hơn chức năng, nhiệm vụ theo quy định của Điều lệ Đảng. Nơi không lập ban cán sự đảng, đảng đoàn thì tăng thẩm quyền, trách nhiệm của đảng uỷ cơ quan… phân định rõ giữa chức năng, nhiệm vụ của ban cán sự đảng, đảng đoàn với chức năng, nhiệm vụ của lãnh đạo cơ quan, đơn vị”. Để đẩy mạnh sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác tư pháp cần chú trọng thực hiện tốt một số giải pháp sau: - Các cấp uỷ đảng cần tiếp tục xây dựng kế hoạch hành động cụ thể để thực hiện chủ trương của cấp trên về CCTP, kịp thời kiện toàn hệ thống cơ quan tư pháp khi có sự biến động về tổ chức bộ máy, về nhân sự. (thay đổi chức năng của Viện kiểm sát, thành lập toà án khu vực…). - Tăng cường công tác xây dựng Đảng, giáo dục, quản lý, kiểm tra hoạt động cuả các tổ chức đảng, đảng viên và chăm lo công tác quy hoạch đội ngũ cán bộ; thực hiện tốt công tác đào tạo, đào tạo lại cán bộ; tuyển chọn, bố trí, sử dụng đúng cán bộ trong các cơ quan tư pháp; tăng cường công tác kiểm tra đối với đội ngũ cán bộ tư pháp. Hiện nay, TAND được tăng thẩm quyền dẫn đến có sự thay đổi chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của cơ quan điều tra, VKSND đặc biệt là ở cấp huyện. Điều đó, đòi hỏi việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của những cơ quan này về chuyên môn, nghiệp vụ phải nhanh chóng hơn, khẩn trương hơn nhưng phải thiết thực, gắn với những nội dung, yêu cầu mới phù hợp với từng chức danh. Ngoài chỉ đạo bằng nghị quyết, chỉ thị, các cấp uỷ đảng mà trước hết là tỉnh uỷ cần tiếp tục đổi mới sự lãnh đạo bằng công tác kiểm tra, sự gương mẫu của cán bộ, đảng viên. Trong đó, tăng cường công tác kiểm tra luôn được xem là công cụ hữu hiệu để Đảng lãnh đạo cơ quan tư pháp. Trong điều kiện xây dựng NNPQ XHCN, công tác kiểm tra của Đảng cần được đổi mới theo định hướng dân chủ và công khai; tránh việc xử lý nội bộ với những cán bộ, đảng viên trong ngành tư pháp bị kỷ luật; đồng thời, có cơ chế bảo vệ cán bộ, đảng viên trước sự vu khống, tố cáo sai sự thật. Đồng thời, các hình thức kiểm tra phải được vận cụng một cách linh hoạt, mềm dẻo và đặc biệt, tránh sự chồng chéo với công tác tranh tra, kiểm tra của Nhà nước - Xây dựng hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của cấp ủy đảng trong việc chỉ đạo giải quyết những vụ việc quan trọng, phức tạp trong hoạt động tư pháp. Đảng lãnh đạo các cơ quan tư pháp thông qua ban cán sự, cấp ủy và các đảng viên. Do đó, ban cán sự, đảng ủy và các đảng viên trong các cơ quan tư pháp cần nêu cao tính đảng, ý thức tổ chức kỷ luật, nói và làm theo nghị quyết của Đảng. Xây dựng cơ chế phối hợp giữa các tổ chức đảng với cơ quan tư pháp và các ban, ngành có liên quan theo hướng cấp uỷ định kỳ nghe báo cáo và cho ý kiến định hướng về công tác tư pháp. Xác định rõ trách nhiệm tập thể và cá nhân cấp uỷ trong lãnh đạo, chỉ đạo công tác tư pháp. Đổi mới sự chỉ đạo của cấp uỷ đảng với các cơ quan tư pháp; cấp uỷ phải lãnh đạo các cơ quan tư pháp góp ý hoàn thiện hệ thống thủ tục tố tụng tư pháp theo hướng rõ ràng, minh bạch, chặt chẽ, vừa đề cao nhân tố con người trong mối quan hệ với các cơ quan tư pháp, vừa đề cao trách nhiệm của các cơ quan và cá nhân có thẩm quyền trong hoạt động tư pháp. - Cần đảm bảo tính độc lập của các cơ quan tư pháp; cấp ủy lãnh đạo nhưng không can thiệp trực tiếp vào hoạt động tư pháp. Độc lập và tuân theo pháp luật là nguyên tắc xuyên suốt quá trình tổ chức và hoạt động tư pháp. Cần chống khuynh hướng phủ nhận tính độc lập trong hoạt động tư pháp, lợi dụng nguyên tắc Đảng lãnh đạo để gây tác động hoặc gây ảnh hưởng xấu đến hoạt động tư pháp. Thực tiễn cho thấy, thực hiện nguyên tắc độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp không có nghĩa là các cơ quan tư pháp thoát ly sự lãnh đạo của Đảng, áp dụng pháp luật một cách máy móc, cứng nhắc, hình thức. Do đó, cần nghiên cứu các hình thức và phương thức lãnh đạo của Đảng phù hợp, vừa bảo đảm nguyên tắc Đảng lãnh đạo tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, vừa giữ vững nguyên tắc độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Cần thể chế hóa bằng pháp luật phương thức lãnh đạo của Đảng đối với tổ chức và hoạt động tư pháp nhằm bảo đảm Đảng lãnh đạo tư pháp nhưng tôn trọng nguyên tắc tư pháp độc lập - nguyên tắc và là đặc trưng cơ bản của NNPQ. 3.2.5. Xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp trong sạch, vững mạnh “Cán bộ là gốc của mọi công việc”, do đó, trong lãnh đạo CCTP, cấp ủy Đảng của các cơ quan tư pháp, các cơ quan tham mưu phải xây dựng được chiến lược cán bộ cho cả hệ thống chính trị nói chung và của các cơ quan tư pháp nói riêng. Xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp có đức, có tài là nội dung rất quan trọng và cấp bách. Từ thực trạng đội ngũ cán bộ tư pháp hiện nay cho thấy nếu không có sự quan tâm đầu tư, đẩy mạnh việc đào tạo đội ngũ này thì sẽ ảnh hưởng rất lớn đến việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng NNPQ. Vì vậy, vấn đề đặt ra là phải sớm có quy hoạch phù hợp, có kế hoạch tuyển chọn, đào tạo, nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp theo hướng nâng cao và cụ thể hoá tiêu chuẩn đối với từng loại cán bộ về chính trị, phẩm chất đạo đức, chuyên môn nghiệp vụ và kinh nghiệm, kiến thức xã hội. Về công tác đào tạo, bồi dưỡng: Cần tiếp tục đổi mới nội dung, phương pháp đào tạo cử nhân luật, đào tạo cán bộ nguồn của các chức danh tư pháp; bồi dưỡng cán bộ tư pháp theo hướng cập nhật các kiến thức mới về chính trị, pháp luật, kinh tế, xã hội; gắn việc đào tạo chuyên môn với hoạt động thực tiễn. Hình thành đội ngũ cán bộ tư pháp có phẩm chất đạo đức, dũng cảm đấu tranh vì công lý, bảo vệ pháp chế XHCN. Các cơ quan tư pháp cần tăng cường sự phối hợp chặt chẽ với Học viện Tư pháp để chủ động xây dựng kế hoạch, nội dung đào tạo và bố trí, sử dụng có hiệu quả những cán bộ đã được đào tạo. Xây dựng chương trình đào tạo chung về những kiến thức cơ bản, sau đó đào tạo chuyên sâu về từng nghiệp vụ cụ thể; tăng cường bồi dưỡng ngắn ngày trong quá trình công tác. Về tuyển chọn, bổ nhiệm các chức danh tư pháp. Cần xây dựng cơ chế thu hút, tuyển chọn những người có tâm huyết, đủ đức, tài vào làm việc tại các cơ quan tư pháp; mở rộng nguồn để bổ trợ vào các chức danh tư pháp không chỉ là các cán bộ trong các cơ quan tư pháp, mà còn là các luật gia, luật sư... Tránh tình trạng thiếu cán bộ tư pháp (đặc biệt là đội ngũ thẩm phán) dẫn đến tình trạng tồn đọng án như hiện nay. Đảm bảo đủ biên chế, kinh phí, phương tiện và cơ sở vật chất, điều kiện làm việc cho đội ngũ cán bộ tư pháp. Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng quá tải án ở TAND các cấp hiện nay đó là việc thiếu biên chế về cán bộ tư pháp. Để khắc phục tình trạng này, ngành tư pháp cần phải kịp thời kiến nghị với Quốc hội thông qua việc bổ sung thêm biên chế cho ngành, đặc biệt là biên chế Thẩm phán. Bên cạnh đó, cần đẩy mạnh hơn nữa công tác qui hoạch, tuyển dụng và đào tạo cán bộ tư pháp nhằm đảm bảo đủ số lượng cán bộ tư pháp để khắc phục tình trạng tồn đọng án hình sự như hiện nay. Đối với đội ngũ cán bộ tư pháp địa phương, cần tăng cường hơn nữa sự phối hợp với TAND tỉnh, Sở Tư pháp, Sở Nội vụ, MTTQ, HĐND trong việc xây dựng, kiện tòa đội ngũ cán bộ tư pháp phù hợp với thực tế địa phương. Đổi mới việc tuyển chọn, bổ nhiệm các chức danh tư pháp. Nghiên cứu chế độ thi tuyển đối với một số chức danh. Có thể tổ chức các kỳ thi quốc gia để tuyển chọn nguồn chức danh tư pháp. Tăng thời hạn bổ nhiệm hoặc thực hiện chế độ bổ nhiệm không có kỳ hạn đối với cán bộ có chức danh tư pháp. Về công tác thanh tra, kiểm tra. Cần tăng cường kiểm tra, thanh tra việc thực thi nhiệm vụ, đạo đức của cán bộ tư pháp. Bên cạnh việc tự kiểm tra, thanh tra của các cơ quan tư pháp, của các tổ chức xã hội, nghề nghiệp của cán bộ bổ trợ tư pháp, thì phải xây dựng, hoàn thiện cơ chế thanh tra, kiểm tra, giám sát của Quốc hội, HĐND, của các tổ chức xã hội, của nhân dân đối với cán bộ tư pháp. Cần chú trọng đến việc xây dựng đạo đức nghề nghiệp, đạo đức công chức cho đội ngũ cán bộ tư pháp. Trước hết cần chống chủ nghĩa cá nhân, xây dựng tinh thần tập thể; coi trọng giáo dục đạo đức, xử lý nghiêm minh mọi sự vi phạm luật pháp của đội ngũ cán bộ. Xây dựng chế độ đãi ngộ phù hợp với đội ngũ cán bộ tư pháp: Xây dựng chế độ, chính sách tiền lương, khen thưởng phù hợp với lao động, cống hiến của cán bộ tư pháp. Khen thưởng, tôn vinh các cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp giỏi, có nhiều cống hiến, dũng cảm đấu tranh chống tội phạm, chống tham nhũng, tiêu cực, bảo vệ công lý, bảo vệ nhân dân. Đồng thời, kiên quyết đấu tranh kịp thời với các biểu hiện tham ô, tham nhũng, tiêu cực khác trong đội ngũ cán bộ tư pháp. Bảo đảm đời sống vật chất và tinh thần cho đội ngũ cán bộ tư pháp. Hiện nay, nội dung thang, bậc, hệ số lương của cán bộ tư pháp được thiết kế giống như cán bộ, công chức trong các cơ quan hành chính Nhà nước là chưa phù hợp. Thực tế đời sống của cán bộ tư pháp hiện nay còn nhiều khó khăn do chế độ lương chưa đảm bảo mức sống trung bình trong mặt bằng chung của xã hội. Vì vậy, cần sửa đổi chế độ đãi ngộ cho đội ngũ này theo hướng quy định Thẩm phán, Kiểm sát viên, Điều tra viên có thang bảng lương riêng, phù hợp với lao động mang tính đặc thù của ngành. Cần phải có những ưu đãi có tính đến tính chất nghề nghiệp, có phụ cấp thâm niên theo quy định của Nhà nước bởi trách nhiệm pháp lý của cán bộ tư pháp rất nặng nề, nếu để xảy ra oan, sai phải bồi thường. Hiện nay, chế độ lương, phụ cấp cho đội ngũ cán bộ tư pháp có hạn nên họ rất dễ bị dao động về lập trường tư tưởng nếu không có bản lĩnh chính trị vững vàng. Để góp phần đảm bảo chất lượng đội ngũ cán bộ tư pháp, Nhà nước cần đổi mới chế độ lương, phụ cấp thâm niên nghề và các chế độ, chính sách ưu đãi nhằm tạo tâm lý ổn định công tác, đồng thời thu hút những người có trình độ, năng lực, tâm huyết vào làm việc tại ngành tư pháp. Đây cũng là giải pháp phù hợp với chủ trương cải cách tư pháp đối với TAND đã được định hướng tại Nghị quyết 49-NQ/TW, đó là “phải có chế độ, chính sách tiền lương, khen thưởng phù hợp với lao động của cán bộ tư pháp” và và Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành Trung ương khóa X cũng đã chỉ rõ: “Tăng lương hoặc tăng mức ưu đãi nghề nghiệp và cải thiện điều kiện làm việc cho các ngành… Kiểm sát, Tòa án và một số ngành dễ phát sinh tham nhũng”. 3.2.6. Tăng cường cơ sở vật chất cho lĩnh vực hoạt động tư pháp Điều kiện làm việc cũng có những tác động không nhỏ tới chất lượng công việc. Đầu tư xây dựng, mua sắm trong thiết bị làm việc cho đội ngũ cán bộ tư pháp là yêu cầu quan trọng. Để hoạt động của các cơ quan tư pháp luôn giữ được sự công tâm, vô tư, khách quan, sự uy nghi, bề thế của cơ quan nhà nước khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình ở địa phương thì các cơ quan này phải phải được cung cấp đủ kinh phí, cơ sở vật chất và phương tiện làm việc. Hiện tại, do nguồn kinh phí cho các cơ quan tư pháp còn hạn chế, nên phần nào hoạt động của họ vẫn còn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của chính quyền địa phương. Đây cũng là một nguyên nhân làm giảm tính độc lập, chủ động trong hoạt động của các cơ quan tư pháp. Cần tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, phương tiện làm việc cho các cơ quan tư pháp nhằm xây dựng hệ thống cơ quan này đủ mạnh, là một trong những giải pháp cần sớm được triển khai thực hiện, một mặt đáp ứng cho việc thực hiện tăng thẩm quyền mới theo quy định của Bộ luật TTHS năm 2003, mặt khác cũng để chuẩn bị các điều kiện cần thiết cho việc thay đổi mô hình tổ chức theo chủ trương của Đảng. Cùng với việc trang bị điều kiện làm việc thì việc cung cấp trang phục cho cán bộ tư pháp cũng là vấn đề đang được đặt ra hiện nay. Đối với Thẩm phán, Kiểm sát viên, điều tra viên hiện đã có trang phục của ngành. Song vấn đề trang phục của HTND, luật sư đã được đặt ra từ lâu, đã đến lúc phải có biện pháp giải quyết hợp lý để đảm bảo tính trang nghiêm của phiên toà, nên có quy định trang phục thống nhất đối với HĐXX. KẾT LUẬN Tư pháp là nhánh quyền lực quan trong trong hệ thống tổ chức quyền lực nhà nước. Tư pháp là lĩnh vực hoạt động nhằm đảm bảo nền an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, đảm bảo quyền tự do của con người, do đó vấn đề CCTP luôn là ưu tiên hàng đầu trong quá trình hoàn thiện bộ máy nhà nước theo hướng dân chủ, minh bạch và hiệu lực. CCTP là một yêu cầu hết sức quan trọng trong quá trình xây dựng và hoàn thiện bộ máy nhà nước hiện nay. Không phải đến bây giờ chúng ta mới có chủ trương CCTP, tư pháp luôn được xem như là một bộ phận trọng tâm cần phải cải cách để hoạt động có hiệu lực, hiệu quả nhằm đảm bảo các quyền tự do của công dân. Nhận thức được vấn đề này, trong quá trình xây dựng và hoàn thiện bộ máy nhà nước, Đảng và Nhà nước luôn giành sự quan tâm đặc biệt đến công tác cải cách tư pháp. Ngay từ khi giành được độc lập, chúng ta đã bắt tay vào xây dựng bộ máy tư pháp với tiêu biến bộ máy đó thành “một cơ quan trọng yếu của chính quyền” (Hồ Chí Minh), và chỉ sau một thời gian ngắn, bộ máy tư pháp đã được thiết lập trên phạm vi cả nước. Tư pháp đã giữ một vị trí quan trọng đối với thắng lợi của cách mạng Việt Nam, là công cụ đảm bảo trật tự, công bằng xã hội, bảo vệ quyền con người. Ngày nay trước những yêu cầu của công cuộc đổi mới, xây dựng một nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, đẩy mạnh các quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá, dân chủ hoá mọi mặt đời sống xã hội đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi bộ máy nhà nước phải có những thay đổi quan trọng để thích nghi với tình hình. Tăng cường hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước theo hướng Nhà nước pháp quyền là một yêu cầu hết sức quan trọng. Trong đó, việc đảm bảo các quyền con người trong hoạt động của các cơ quan tư pháp đang là yêu cầu bức thiết hiện nay. Trong những năm vừa qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, hệ thống các cơ quan tư pháp đã có những bước chuyển biến tích cực, góp phần không nhỏ vào việc giữ gìn an ninh - trật tự, đảm bảo các quyền con người, phát huy dân chủ trong đời sống của người dân và thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế. Quyền con người là giá trị nhân văn, gắn liền với bản chất của chế độ, việc nghiên cứu cơ chế, hệ thống luật pháp để đảm bảo tốt nhất các quyền tự do của con người, đặc biệt trong việc đảm bảo các quyền tự do thân thể là yêu cầu hết sức quan trọng. Hoạt động của hệ thống cơ quan tư pháp có ảnh hưởng trực tiếp đến các quyền tự do của con người, với yêu cầu đảm bảo tốt hơn các quyền con người thì việc cải cách tổ chức và hoạt động của cơ quan tư pháp theo hướng NNPQ là yêu cầu tất yếu ở Việt Nam hiện nay. Trong nghiên cứu của mình, nhóm nghiên cứu đã làm rõ những vấn đề lý luận về cơ quan tư pháp (vị trí, vai trò, chức năng, nguyên tắc hoạt động) trong việc đảm bảo các quyền con người; đánh giá thực trạng hoạt động của cơ quan tư pháp và đề xuất các giải pháp CCTP nhằm đảm bảo tốt hơn các quyền con người. CCTP là vấn đề lớn, với nhiều nội dung quan trọng, đụng chạm tới nhiều vấn đề như thiết kế bộ máy nhà nước, nguyên tắc hoạt động tư pháp, sự lãnh đạo của đảng cầm quyền, hệ thống pháp luật tố tụng… Trong khuôn khổ nghiên cứu của mình, đề tài mới chỉ đề cập đến việc CCTP nhằm đảm bảo các quyền tự do trong hoạt động TTHS trong đó trọng tâm là việc xét xử của Tòa án mà chưa thể đề cập đến các vấn đề khác, đây cũng là vấn đề cần tiếp tục được nghiên cứu ở một cấp độ rộng hơn. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nguyễn Ngọc Anh (2007), Đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan điều tra trong công an nhân dân theo tiến trình cải cách tư pháp, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, tr. 96-100. 2. Ngô Huy Cương (2006), Góp phần bàn về cải cách pháp luật ở Việt Nam hiện nay, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, trang 6. 3. Nguyễn Đăng Dung, Vũ Công Giao, Lã Khánh Tùng - đồng chủ biên (2009), Giáo trình lý luận và pháp luật về quyền con người, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, trang 45 4. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 3, khóa VIII. NXB. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. NXB. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 6. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết của Bộ Chính trị "Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020", (Nghị quyết số 49-NQ/TW), xem tại: www.cpv.org.vn/tulieu/vankien/adj/%123. 7. Bộ Tư pháp (2006), Chương trình KHXH cấp Nhà nước giai đoạn 2001-2005, đề tài KX. 04.06: Cải cách các cơ quan tư pháp, hoàn thiện hệ thống các thủ tục tư pháp, nâng cao hiệu quả và hiệu lực xét xử của Tòa án trong Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân, Báo cáo kết quả tổng hợp nghiên cứu, Hà Nội. 8. V.I.Lênin, Toàn tập, tập 36, Nxb. Tiến bộ, Matxcơva,1977, Tiếng Việt. 9. Hồ Chí Minh, Bài phát biểu tại hội nghị tư pháp toàn quốc ngày 22/3/1957, in trong Hồ Chí Minh bàn về Nhà nước và pháp luật, Nxb. Pháp lý, 1992, Hà Nội 10. Phạm Văn Hùng, Tòa án và vấn đề cải cách tư pháp, tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 135, tháng 11/2008 11. Hoàng Mạnh Hùng, Tiếp tục đổi mới hoạt động của hệ thống tòa án nhân dân ở nước ta hiện nay, tạp chí Nghiên cứu lập pháp điện tử 12. Phạm Quang Lộc (2008), Phân tích số lượng và chất lượng giải quyết, xét xử các loại vụ án của ngành TAND, bai%20viet?p_page_id=1753152&p_cateid=1751909&item_id=1752897&arti cle_details= 13. Đoàn Đức Lương (2000), “Làm thế nào để nâng cao chất lượng Hội thẩm nhân dân”, Tạp chí Người bảo vệ công lý số 8/2000. 14. Phạm Văn Lợi (2004), Chế định Thẩm phán- Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb. Tư pháp, Hà Nội. 15. Locke (1690), Chuyên luận thứ hai về chính quyền dân sự (The Second Treatise of Civil Government), bản dịch của Trần Tiễn Cao Đăng, Nxb. Tri thức, Hà Nội, 2003, tr.80 16. Liên hiệp quốc (1992), Những quyết định được lựa chọn bởi Uỷ ban nhân quyền dưới dạng nghị định thư mang tính lựa chọn: Hội nghị quốc tế về quyền công dân và quyền chính New York Geneva : Vol.5 IV, 194p.; 17. Liên hiệp quốc (2004), Nghị định thư Istanbul: Ghi nhận về những điều tra và những bằng chứng dùng nhục hình và những sự hành hạ khác trong việc đối xử và trừng phạt con người Geneva New York: X, 75p:fing; 28cm (Professional traning series; No.8 / rev.1); 18. Liên hiệp quốc (2005) Quyền con người và tù nhân: Những ghi nhận về thực thi quyền con người của các giám thị nhà tù New York Geneva : United Nations, 2005-IX, 221p; 19. C.L. Mongtesquier (1748), Tinh thần pháp luật (The Spirit of the Laws), bản dịch của Hoàng Thanh Đạm, Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội, 2005, tr.87. 20. Đỗ Quang Ngọc, Mối quan hệ giữa cơ quan điều tra với các cơ quan tham gia tố tụng hình sự, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội tr. 99. 21. Đinh Văn Quế (2007), Bình luận khoa học Bộ luật TTHS (xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm), Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 24-25. 22. Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam, Hiến pháp 1946, 1959, 1980, 1992, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội 23. Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam (2001), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 (sửa đổi 2001), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 24. Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam, Bộ luật Tố tụng hình sự, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 25. Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội 26. Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam, Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm TAND, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 27. Quốc hội- Ủy ban Thường vụ Quốc hội (2004), Nghị quyết số 730/2004/NQ- UBTVQH11, về việc phê chuẩn bảng lương chuyên môn nghiệp vụ ngành tòa án, www.quochoi.gov.vn. 28. Jean Jacques Rousseau (1762), Bàn về khế ước xã hội, Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội, 2005, tr. 39. 29. Lê Minh Tâm. 2008. Bàn về văn hóa pháp luật ở nước ta trong giai đoạn hiện nay, đăng trên Thông tin Nhà nước và pháp luật, của Viện Nhà nước và pháp luật - Học viện Chính trị - hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, tr. 2-10. 30. Nhữ Văn Tâm (2006), Xây dựng đội ngũ thẩm phán theo hướng nâng cao năng lực chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp- Liên hệ thực tế vào thực tiễn ngành tòa án tỉnh Thái Nguyên, luận văn Thạc sỹ luật học, thực hiện tại khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội. 31. Trần Ngọc Tuệ, Tư pháp hình sự và yêu cầu tăng cường kiểm sát hoạt động tư pháp hình sự, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 150 , tháng 7-2009. 32. Tòa án nhân dân tối cao, Báo cáo “Tổng kết công tác năm 2005 và phương hướng nhiệm vụ công tác năm 2006 của ngành TAND, tài liệu lưu hành nội bộ, Hà Nội, 2006. 33. Tòa án nhân dân tối cao, Báo cáo “Tổng kết công tác năm 2006 và phương hướng nhiệm vụ công tác năm 2007 của ngành TAND, tài liệu lưu hành nội bộ, Hà Nội, 2007. 34. Tòa án nhân dân tối cao, Báo cáo “Tổng kết công tác năm 2007 và phương hướng nhiệm vụ công tác năm 2008 của ngành TAND, tài liệu lưu hành nội bộ, Hà Nội, 2008. 35. Tòa án nhân dân tối cao, Báo cáo “Tổng kết công tác năm 2008 và phương hướng nhiệm vụ công tác năm 2009 của ngành TAND, tài liệu lưu hành nội bộ, Hà Nội, 2009. 36. Đào Trí Úc, chủ biên (2002), Hệ thống tư pháp và cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay, Nxb. Khoa học xã hội, tr. 34. 37. Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý, Hồ Chí Minh - Nhà nước và Pháp luật. NXB Pháp lý, Hà Nội 1985. 38. Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý (1992), Tập Sắc lệnh do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký về Nhà nước và Pháp luật, Nxb. Pháp lý, Hà Nội, 1992. 39. Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý (1997), Bình luận Khoa học Bộ luật tố tụng hình sự, Viện NCKH Pháp lý, Hà Nội. 40. Viện Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp (2006), Từ điển luật học, Nxb. Tư pháp; Nxb. Từ điển bách khoa, Hà Nội, tr. 869 41. Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp, Chương trình KX.04.06: Cải cách các cơ quan tư pháp, hoàn thiện hệ thống các thủ tục tư pháp, nâng cao hiệu quả và hiệu lực xét xử của tòa án trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, Báo cáo tổng hợp kết quả nghiên cứu, tr.138- 139, Hà Nội. 42. Nguyễn Tất Viễn (1995), “Bàn về chế định Hội thẩm”, Tạp chí Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, số 2/1995. 43. Nguyễn Tất Viễn (2000), “Đổi mới chế định Hội thẩm, nâng cao hiệu quả hoạt động của Tòa án”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số 1/2000. 44. Trần Thế Vượng, Tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân, 45. Nguyễn Như Ý (2000), Từ điển tiếng Việt, Trung tâm Từ điển học & NXB. Đà Nẵng, Đà Nẵng.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLUẬN VĂN- Cải cách tư pháp nhằm đảm bảo quyền con người là vấn đề ưu tiên hàng đầu của Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam.pdf
Luận văn liên quan