Nhưng cũng giống như tuyết sinh ra từ xứ lạnh và nắng rực vàng vùng nhiệt đới, mỗi
nhà thơ có những cách khác nhau đem đến cho người đọc ấn tượng mùa. Ở Nguyễn Du, thời
gian mang nét buồn lặng lẽ cổ kính như dòng sông cố giấu bao đợt sóng dưới lòng sâu, để
cho đời hình ảnh “tráng sĩ bạch đầu bi hướng thiên” với một giọng trầm ngâm suy tưởng. Ở
Shakespeare, trái lại, thời gian mang tinh thần thời đại Phục Hưng và cội nguồn văn hóa
phương Tây – mạnh mẽ sinh sôi để rồi tàn lụi và vẫn sẽ hứa hẹn sinh sôi với xu hướng đối
thoại, tranh luận không che giấu. Thời gian trong thơ chữ Hán Nguyễn Du là thời gian của
những buổi chiều, mùa thu thê lương, tê tái trong cuộc hành trình đi về phía tàn tạ. Nó cũng
phần nào phản ánh sự tàn tạ của một cuộc đời nhiều mộng tưởng mà rốt cuộc tơi tả giữa
sương gió, phong ba; sự tàn tạ của một thời đại theo quy luật đang đứng trước cơn hấp hối,
chuẩn bị cho một cuộc biến đổi khôn lường. Trong tình cảnh ấy, nhà thơ, với một trái tim
giàu yêu thương, chỉ biết buồn đau tiếc nuối ngậm ngùi. Phù hợp với tình cảm đó là giọng
điệu đầy triết lí suy tư, phản ánh một con người từng trải, sớm hiểu nhiều éo le ngang trái
của đời, vọng cổ hướng kim, mang bao câu hỏi không lời đáp. Thời gian trong thơ
Shakespeare là “tên bạo chúa” hai mặt, mang bóng dáng của thần Dớt uy quyền trong thần
thoại Hy Lạp, có khả năng sáng tạo, đồng thời cũng có sức hủy diệt tới không ngờ. Như một
chiến sĩ đấu tranh không mệt mỏi cho quyền sống, quyền tự do của con người thời đại mới,
sẵn mang trong mình nguồn sinh lực dồi dào, nhà thơ đưa ra ba vũ khí có khả năng cùng
phối hợp chiến đấu với “tên bạo chúa” ấy – chính là các vũ khí có được từ sức mạnh tiềm
tàng của con người: tình yêu, thế hệ sau và thơ ca. Để thuyết phục người khác, Shakespeare
đã dùng một giọng đối thoại, tranh luận hết sức sôi nổi, mạnh mẽ, hướng về các đối tượng
giao tiếp. Khi nài nỉ, khi trách móc, khi một mực quả quyết , thi nhân cho người đọc thấy
một nỗ lực phi thường bắt nguồn từ một khí chất cứng rắn.
249 trang |
Chia sẻ: builinh123 | Lượt xem: 1765 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Cảm thức thời gian trong thơ chữ Hán Nguyễn Du và thơ Sonnet Shakespeare, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chính mình
Và chứng tỏ là em đức hạnh, cho dù em nói dối
Tôi sẽ cho biết những nhược điểm của mình
Về phần em tôi có thể nói
Về những sai lầm bị giấu giếm của mình, ở phần tôi bị buộc tội
Khiến em trong việc mất tôi sẽ có được niềm tự hào
Và tôi, bằng việc đó, cũng là người được
Vì làm nổi bật tất cả những yêu thương dành cho em
Sự tổn thương tôi gây cho mình
Mang lại cho em ưu thế, và cho tôi ưu thế gấp đôi
Tôi yêu em như vậy, phụ thuộc vào em đến mức
Vì lẽ phải của em, tôi sẵn sàng nhận tất cả sai lầm
Sonnet 89
Say that thou didst forsake me for some fault,
And I will comment upon that offence:
Speak of my lameness, and I straight will halt,
Against thy reasons making no defence.
Thou canst not, love, disgrace me half so ill,
To set a form upon desired change,
As I'll myself disgrace; knowing thy will,
I will acquaintance strangle, and look strange;
Be absent from thy walks; and in my tongue
Thy sweet beloved name no more shall dwell,
Lest I, too much profane, should do it wrong,
And haply of our old acquaintance tell.
For thee, against my self I'll vow debate,
For I must ne'er love him whom thou dost hate.
Hãy nói rằng em bỏ rơi tôi vì lỗi lầm gì,
Tôi sẽ tự chỉ trích mình vì sai lầm ấy
Nói rằng tôi què quặt, tôi sẽ trở thành người như vậy không do dự
Không cãi lại trước lí do em đưa ra
Em không thể, này người yêu, ruồng bỏ tôi giữa chừng trong cố gắng thay đổi tôi
Khi tôi tự ghét bỏ chính mình, nếu biết rằng em muốn vậy
Tôi sẽ từ bỏ những người quen, và trở thành người xa lạ
Sẽ biến mất khỏi đường em đi, và trên miệng tôi
Sẽ không còn ngự trị cái tên ngọt ngào đáng yêu của em
Trong trường hợp tôi, quá vô dụng, có thể làm sai
Nói một cách tình cờ rằng chúng ta là người quen cũ khiến mọi người thấy
Vì em, là kẻ thù của chính mình tôi cũng thề sẽ làm
Bởi tôi không bao giờ yêu người mà em ghét
Sonnet 90
Then hate me when thou wilt; if ever, now;
Now, while the world is bent my deeds to cross,
Join with the spite of fortune, make me bow,
And do not drop in for an after-loss:
Ah! do not, when my heart hath 'scaped this sorrow,
Come in the rearward of a conquered woe;
Give not a windy night a rainy morrow,
To linger out a purposed overthrow.
If thou wilt leave me, do not leave me last,
When other petty griefs have done their spite,
But in the onset come: so shall I taste
At first the very worst of fortune's might;
And other strains of woe, which now seem woe,
Compared with loss of thee, will not seem so.
Hãy ghét tôi khi nào em muốn, nhưng nếu có khả năng ấy, hãy để ngay bây giờ
Bây giờ, khi tất cả thế giới đều làm hỏng (bẻ cong) tất cả việc làm của tôi
Tham gia cùng sự ác ý của thần may mắn, khiến tôi khuất phục (gục ngã)
Và đừng bỏ rơi tôi sau những mất mát
Ồ, khi trái tim tôi vừa thoát khỏi nỗi đau khổ này
Đến từ phía sau (Đánh tôi) của nỗi đau buồn đã bị chinh phục
Đừng là một buổi sáng mưa bão sau một đêm gió nổi
Đừng kéo dài sự đánh bại được sắp đặt
Nếu em định rời xa tôi, đừng xa rời tôi vào phút chót
Khi những nỗi buồn nhỏ mọn khác đã thực hiện xong cơn trút giận
Hãy làm điều ấy đầu tiên để tôi nếm trải
Trước nhất sự tồi tệ nhất của số mệnh có thể có
Và tất cả những đau khổ khác giáng xuống
Nếu được so sánh với nỗi đau mất em, không thể thấm vào đâu
Sonnet 91
Some glory in their birth, some in their skill,
Some in their wealth, some in their body's force,
Some in their garments though new-fangled ill;
Some in their hawks and hounds, some in their horse;
And every humour hath his adjunct pleasure,
Wherein it finds a joy above the rest:
But these particulars are not my measure,
All these I better in one general best.
Thy love is better than high birth to me,
Richer than wealth, prouder than garments' cost,
Of more delight than hawks and horses be;
And having thee, of all men's pride I boast:
Wretched in this alone, that thou mayst take
All this away, and me most wretched make.
Có những người tự hào vì dòng dõi của họ, hoặc vì khả năng
Có những người (tự hào) vì sự giàu có, và những người khác vì vẻ đẹp hình thể
Có những người vì những bộ áo quần thậm chí mới lạ một cách kinh dị
Có những người vì diều hâu, chó săn (tay chân, thuộc hạ) hay lừa ngựa
Mỗi sở thích đều đem lại niềm vui riêng
Họ tìm niềm vui trên sự nghỉ ngơi
Nhưng những điều này không phải thước đo của tôi
Tôi có một niềm tự hào hơn tất cả những thú vui bình thường đó
Tình yêu của em, với tôi còn tốt hơn cả dòng dõi cao quý
giàu sang hơn việc nhiều của cải, đáng tự hào hơn những bộ quần áo đắt tiền
Và làm hài lòng hơn diều hâu cùng ngựa
Và có được em, hơn tất cả sự kiêu hãnh của con người tôi khoe khoang
Chỉ có một điều khốn khổ, là em có thể lấy đi
Tất cả mọi thứ, biến tôi thành người bất hạnh nhất trên đời
Sonnet 93
So shall I live, supposing thou art true,
Like a deceived husband; so love's face
May still seem love to me, though altered new;
Thy looks with me, thy heart in other place:
For there can live no hatred in thine eye,
Therefore in that I cannot know thy change.
In many's looks, the false heart's history
Is writ in moods, and frowns, and wrinkles strange.
But heaven in thy creation did decree
That in thy face sweet love should ever dwell;
Whate'er thy thoughts, or thy heart's workings be,
Thy looks should nothing thence, but sweetness tell.
How like Eve's apple doth thy beauty grow,
If thy sweet virtue answer not thy show!
Bởi tôi vẫn tiếp tục cho rằng em đứng đắn
Giống như người chồng bị lừa dối bởi gương mặt vợ yêu
Vẫn cho thấy dường như em yêu tôi, dù thực chất em đã tháy đổi
Em nhìn tôi, nhưng trái tim em ở nơi khác
Vì không hề có sự hận thù trong đôi mắt em
Cho nên tôi không thể biết sự thay đổi của em
Trong nét mặt của nhiều người, quá trình một trái tim tội lỗi
Được thể hiện bằng sự buồn rầu hay tư lự hay nhăn nhó khác thường
Nhưng trời phú cho một mặc định
Là gương mặt em chỉ thể hiện một tình yêu ngọt ngào
Bất kể em nghĩ gì, trái tim em đập thế nào
Nhưng vẻ mặt em không nói lên điều gì ngoài vẻ đáng yêu (dịu dàng)
Vẻ đẹp của em thật hấp dẫn giống quả táo của Eva
Trong khi thực chất bên trong (đức hạnh, sự trong trắng) quả không giống như vẻ bề
ngoài (những gì nhìn thấy được).
Sonnet 94
They that have power to hurt, and will do none,
That do not do the thing they most do show,
Who, moving others, are themselves as stone,
Unmoved, cold, and to temptation slow;
They rightly do inherit heaven's graces,
And husband nature's riches from expense;
They are the lords and owners of their faces,
Others, but stewards of their excellence.
The summer's flower is to the summer sweet,
Though to itself, it only live and die,
But if that flower with base infection meet,
The basest weed outbraves his dignity:
For sweetest things turn sourest by their deeds;
Lilies that fester, smell far worse than weeds.
Họ, những người có khả năng gây tổn thương nhưng sẽ không làm như vậy
Không làm điều (người ta nghĩ rằng, cho thấy rằng) họ làm
Những người mà, khuấy động người khác, nhưng bản thân lại giống như tảng đá
Không thể lay chuyển, lạnh lùng, và khó bị cám dỗ
Họ thừa hưởng một cách chính đáng vẻ duyên dáng thiên phú
Và tiết kiệm để những báu vật của tự nhiên khỏi bị lãng phí
Họ là chúa tể và là người sở hữu gương mặt mình
Những người khác chỉ là người quản gia cho sự xuất sắc của họ
Những bông hoa mùa hè thơm ngát cho mùa
Dù chúng chỉ sống và chết cho bản thân
Nhưng nếu bông hoa đó bị nhiễm bệnh từ gốc
Thì loài cỏ dại tầm thường nhất lại có giá trị hơn
Vì những vật ngọt ngào nhất cũng trở nên chua cay nhất bởi những việc làm của
chúng
Hoa huệ tây khi bị thối rữa, mùi của nó còn khủng khiếp hơn loài cỏ dại
Sonnet 95
How sweet and lovely dost thou make the shame
Which, like a canker in the fragrant rose,
Doth spot the beauty of thy budding name!
O! in what sweets dost thou thy sins enclose.
That tongue that tells the story of thy days,
Making lascivious comments on thy sport,
Cannot dispraise, but in a kind of praise;
Naming thy name blesses an ill report.
O! what a mansion have those vices got
Which for their habitation chose out thee,
Where beauty's veil doth cover every blot
And all things turns to fair that eyes can see!
Take heed, dear heart, of this large privilege;
The hardest knife ill-used doth lose his edge.
Thật hấp dẫn và đáng yêu biết bao em tạo ra vết nhơ (sự xấu hổ)
Cái mà, giống như bệnh thối rữa trong hoa hồng thơm ngát
Dấu ấn đẹp của tiếng tăm em bắt đầu nảy nở
Ồ, với những gì đẹp đẽ em dựng tường rào cho tội lỗi của mình
Những người kể chuyện về em
Chỉ trích sự dâm đãng mà em chưng diện
Không thể không ca ngợi, bằng ngôn ngữ của lời ngợi ca
Gọi tên em cầu may một tiếng xấu
Ôi, thật là một lâu đài chứa bên trong sự trụy lạc
Nơi lựa chọn em trong sự cư trú của họ
Nơi vẻ đẹp bề ngoài chứa đựng bên trong rất nhiều vết nhơ
Và tất cả mọi thứ mắt người đời nhìn thấy đều trở nên đẹp
Hãy chú ý, em yêu dấu, đến đặc ân lớn này:
Ngay cả con dao tốt nhất cũng có thể mất lưỡi sắc nếu nó bị lạm dụng
Sonnet 96
Some say thy fault is youth, some wantonness;
Some say thy grace is youth and gentle sport;
Both grace and faults are lov'd of more and less:
Thou mak'st faults graces that to thee resort.
As on the finger of a throned queen
The basest jewel will be well esteem'd,
So are those errors that in thee are seen
To truths translated, and for true things deem'd.
How many lambs might the stern wolf betray,
If like a lamb he could his looks translate!
How many gazers mightst thou lead away,
If thou wouldst use the strength of all thy state!
But do not so; I love thee in such sort,
As, thou being mine, mine is thy good report.
Có người nói tội lỗi của em là ở tuổi trẻ, có người nói là ở sự phóng đãng
Có người nói vẻ duyên dáng của em là do tuổi thanh xuân (vẻ trẻ trung), có người
nói đó là ở sự hóm hỉnh vui đùa
Cả vẻ đẹp và sự tệ hại của em đều được yêu, dù là những người có địa vị thấp
hay cao
Em làm cho tội lỗi và sự chói sáng theo cách của mình
Giống như trên ngón tay của nữ hoàng tối cao
Vật trang sức tầm thường nhất cũng trở nên được quý trọng
Cũng vậy tất cả khiếm khuyết được nhìn thấy ở em
Đều được cảm thông và xem là thật
Biết bao con cừu ngây thơ đã bị sói hung dữ lừa dối
Bằng cách làm nó trông giống cừu
Biết bao nhiêu người ngưỡng mộ bị em điều khiển
Khi em sử dụng thế mạnh của địa vị
Nhưng đừng làm thế, tôi yêu em như vậy
Tôi coi tiếng tăm em như của chính mình
Sonnet 97
How like a winter hath my absence been
From thee, the pleasure of the fleeting year!
What freezings have I felt, what dark days seen!
What old December's bareness everywhere!
And yet this time removed was summer's time;
The teeming autumn, big with rich increase,
Bearing the wanton burden of the prime,
Like widow'd wombs after their lords' decease:
Yet this abundant issue seemed to me
But hope of orphans, and unfathered fruit;
For summer and his pleasures wait on thee,
And, thou away, the very birds are mute:
Or, if they sing, 'tis with so dull a cheer,
That leaves look pale, dreading the winter's near.
Thật giống như mùa đông khi tôi xa cách em
Từ khi em cho tôi những ngày vui ngắn ngủi
Tôi cảm thấy lạnh giá làm sao, những ngày đầy bóng tối
Tháng 12 già cỗi trơ trụi ở khắp mọi nơi
Thời gian thực tế là mùa hè
Mùa thu chín rộ thu hoạch
Mang gánh nặng phóng đãng của tuổi thanh xuân
Giống như tử cung của bà quả phụ sau cái chết của người chồng
Nhưng tình thế này với tôi có vẻ
Giống như hi vọng của đứa trẻ mồ côi, đứa con ngoài giá thú
Bởi mùa hè và niềm vui trông đợi ở em
Và, em xa, những con chim cũng câm nín
Hoặc nếu chúng hót, đó chỉ là tiếng kêu buồn tẻ
Những chiếc lá nhợt nhạt (không còn màu xanh) gợi ra cảm giác sợ hãi trước sự ngột
ngạt của mùa đông
Sonnet 98
From you have I been absent in the spring,
When proud-pied April, dress'd in all his trim,
Hath put a spirit of youth in every thing,
That heavy Saturn laughed and leapt with him.
Yet nor the lays of birds, nor the sweet smell
Of different flowers in odour and in hue,
Could make me any summer's story tell,
Or from their proud lap pluck them where they grew:
Nor did I wonder at the lily's white,
Nor praise the deep vermilion in the rose;
They were but sweet, but figures of delight,
Drawn after you, you pattern of all those.
Yet seemed it winter still, and you away,
As with your shadow I with these did play.
Từ khi em xa cách tôi vào mùa xuân
Khi tháng Tư chói lọi rực rỡ khoác lên mình tất cả y phục
Mang nhiệt tình tuổi trẻ phủ lên khắp mọi nơi
Khiến thần Nông cũng cười và nhảy múa với anh ta
Nhưng không có tiếng chim hót, cũng không có mùi tỏa ngát
Của những loài hoa khác nhau trong hương thơm và màu sắc
Có thể khiến tôi nhận ra gương mặt mùa hè
Hay kéo vạt áo khi chúng nở (ngắt hoa)
Tôi cũng không quan tâm đến màu trắng hoa huệ tây
Không ngợi ca màu đỏ thẫm hoa hồng
Chúng ngọt ngào, dễ chịu nhưng chỉ thu hút vì là hình ảnh của em, em là hình mẫu
của tất cả
Mùa trong cảm nhận tôi vẫn là mùa đông và em ra đi (cách xa)
Tôi chơi với chúng như thể với
cái bóng của em
Sonnet 99
The forward violet thus did I chide:
Sweet thief, whence didst thou steal thy sweet that smells,
If not from my love's breath? The purple pride
Which on thy soft cheek for complexion dwells
In my love's veins thou hast too grossly dy'd.
The lily I condemned for thy hand,
And buds of marjoram had stol'n thy hair;
The roses fearfully on thorns did stand,
One blushing shame, another white despair;
A third, nor red nor white, had stol'n of both,
And to his robbery had annex'd thy breath;
But, for his theft, in pride of all his growth
A vengeful canker eat him up to death.
More flowers I noted, yet I none could see,
But sweet, or colour it had stol'n from thee.
Tôi trách mắng hoa violet như thế này:
Kẻ trộm đáng yêu, từ đâu ngươi ăn trộm mùi hương thơm ngát
Nếu không phải từ hơi thở người ta yêu? Màu tía rực rỡ
Trên những cánh nhung mịn của ngươi
Do lấy từ huyết quản người ta yêu
Tôi kết tội màu trắng bông huệ tây vì sử dụng (làn da) bàn tay em
Và những nụ kinh giới ô đã ăn trộm mái tóc em
Những bông hoa hồng trong bụi gai đầy sợ hãi
Một số đỏ mặt, xấu hổ, số khác trắng bệch thất vọng
Số thứ ba, không đỏ cũng không trắng, đã ăn trộm cả (từ làn da em)
Và thêm vào vụ trộm hơi thở em
Nhưng, những tên trộm ấy
Loài giun trừng phạt làm chúng chết
Tôi đã quan sát nhiều loài hoa nữa, nhưng không ở đâu tôi thấy
Chúng không ăn trộm hoặc hương thơm hoặc màu sắc từ em
Sonnet 100
Where art thou Muse that thou forget'st so long,
To speak of that which gives thee all thy might?
Spend'st thou thy fury on some worthless song,
Darkening thy power to lend base subjects light?
Return forgetful Muse, and straight redeem,
In gentle numbers time so idly spent;
Sing to the ear that doth thy lays esteem
And gives thy pen both skill and argument.
Rise, resty Muse, my love's sweet face survey,
If Time have any wrinkle graven there;
If any, be a satire to decay,
And make time's spoils despised every where.
Give my love fame faster than Time wastes life,
So thou prevent'st his scythe and crooked knife.
Người ở đâu, nữ thần thơ, mà quá lâu rồi quên
nói những lời truyền cảm hứng cho nhà thơ
đem đến cho người tất cả sức mạnh
sử dụng năng lực của người vào những bài thơ không giá trị
làm tối đi nguồn sức mạnh của người bằng việc cho mượn làm thắp sáng những chủ
đề tầm thường?
Trở lại nàng thơ dễ quên và bù đắp
Những thời gian quý giá đã trôi qua vô ích
Hát bên tai những bài nâng giá trị thơ
Và mang đến cho nhà thơ cả khả năng lẫn đề tài
Tỉnh lại, nàng thơ lười biếng, xem lại gương mặt dịu dàng của người tôi yêu
Xem thời gian có in một chút nếp nhăn nào ở đây
Nếu có một chút nào, như một nhà thơ trào phúng, hãy tiêu diệt
Và làm cho sự tàn phá của thời gian bị coi thường ở khắp mọi nơi
Đem đến cho tình yêu của tôi tiếng tăm hơn thời gian làm lãng phí cuộc sống
Để người có thể ngăn cản lưỡi hái và con dao quắm của hắn
Sonnet 101
O truant Muse what shall be thy amends
For thy neglect of truth in beauty dyed?
Both truth and beauty on my love depends;
So dost thou too, and therein dignified.
Make answer Muse: wilt thou not haply say,
'Truth needs no colour, with his colour fixed;
Beauty no pencil, beauty's truth to lay;
But best is best, if never intermixed'?
Because he needs no praise, wilt thou be dumb?
Excuse not silence so, for't lies in thee
To make him much outlive a gilded tomb
And to be praised of ages yet to be.
Then do thy office, Muse; I teach thee how
To make him seem, long hence, as he shows now.
Ôi, nàng thơ lười biếng, điều gì sẽ là sự bồi thường
Cho sự hờ hững của nàng trước sự kết hợp của cái thật và cái đẹp?
Cả sự thật và cái đẹp đều phụ thuộc vào (trông mong vào) người tôi yêu
Và cả vào nàng nữa, và được ca ngợi (đánh giá cao)
Trả lời đi Muse: nàng sẽ không ngẫu hứng nói:
Cái thật không cần màu mè, với những màu sắc phù hợp của chúng
Cái thật không cần tô vẽ (ngòi bút tô điểm chúng), cái thật (giá trị thực) của cái đẹp
tự phơi bày
Nhưng cái hoàn hảo có còn hoàn hảo, nếu không được trộn lẫn sự thức và cái đẹp?
Bởi vì không cần lời ca ngợi, nên nàng sẽ câm lặng?
Đừng bào chữa cho sự im lặng, vì khả năng của nàng
(là) khiến cho anh sống lâu hơn cả những ngôi mộ mạ vàng
Và được ca ngợi bởi những thế hệ còn chưa ra đời
Nên hãy làm việc của mình, Muse, ta sẽ chỉ cho nàng cách làm thế nào
Để khiến anh ấy cho đến mãi sau này còn sáng chói hơn anh ấy ngày nay
Sonnet 102
My love is strengthened, though more weak in seeming;
I love not less, though less the show appear;
That love is merchandized, whose rich esteeming,
The owner's tongue doth publish every where.
Our love was new, and then but in the spring,
When I was wont to greet it with my lays;
As Philomel in summer's front doth sing,
And stops his pipe in growth of riper days:
Not that the summer is less pleasant now
Than when her mournful hymns did hush the night,
But that wild music burthens every bough,
And sweets grown common lose their dear delight.
Therefore like her, I sometime hold my tongue:
Because I would not dull you with my song.
Tình yêu của tôi mạnh thêm lên, dù có vẻ nó yếu đi
Tôi không yêu ít đi một chút nào, dù vẻ ngoài là như vậy
Tình yêu trở thành hàng hóa, thứ được kính trọng
Khi lời của người sở hữu nó được công bố khắp mọi nơi
Tình cảm của đôi ta đã từng mới mẻ, nhưng chỉ trong mùa xuân (thuở ban đầu)
Khi tôi đã quen chào đón nó bằng những bài thơ
Giống như chim sơn ca trước mùa hè đã hót
Và dừng tiếng hót vào độ chín của ngày
Không phải bây giờ mùa hè bớt thú vị hơn
Khi bài thánh ca ảm đạm của nó vang lên trong đêm yên tĩnh
Mà khi những âm thanh hoang dại choán đầy mỗi cành cây
Và cái ngọt ngào trở nên phổ biến (trở thành bình thường)
Chúng mất đi sự thú vị thiết tha
Bởi thế giống như nó, tôi đôi khi giữ im tiếng
Vì tôi không muốn làm buồn nản em bởi bài hát của tôi
Sonnet 104
To me, fair friend, you never can be old,
For as you were when first your eye I ey'd,
Such seems your beauty still. Three winters cold,
Have from the forests shook three summers' pride,
Three beauteous springs to yellow autumn turn'd,
In process of the seasons have I seen,
Three April perfumes in three hot Junes burn'd,
Since first I saw you fresh, which yet are green.
Ah! yet doth beauty like a dial-hand,
Steal from his figure, and no pace perceiv'd;
So your sweet hue, which methinks still doth stand,
Hath motion, and mine eye may be deceiv'd:
For fear of which, hear this thou age unbred:
Ere you were born was beauty's summer dead.
Với tôi, người bạn đẹp đẽ, anh không bao giờ già
Bởi từ lần đầu tôi nhìn thấy đôi mắt anh
(nó) vẫn giữ nguyên vẻ đẹp như vậy. Ba mùa đông lạnh giá
Từ cánh rừng làm run rẩy ba mùa hè đang độ chín
Ba mùa xuân xinh đẹp tới mùa thu vàng
Trong quá trình thay đổi của mùa tôi trông thấy
Ba tháng tư ngát hương bị đốt cháy trong ba tháng sáu nóng bỏng
Từ khi tôi nhìn thấy sự trong sáng của anh, vẫn nguyên màu xanh
Chao ôi, nhưng vẻ đẹp ấy, giống bàn tay chiếc đồng hồ
Bị lấy trộm từ hình ảnh của nó, và không thể nhận thấy bước chân
Cũng như vậy, hương sắc ngọt ngào của anh, trong ý nghĩ của tôi vẫn đứng im
Đã dịch chuyển, và đôi mắt tôi bị nhầm tưởng
Vì lo sợ điều ấy, nghe này, nếu anh không duy trì nòi giống
Trước khi anh sinh ra, đỉnh cao của vẻ đẹp đã chết
Sonnet 105
Let not my love be called idolatry,
Nor my beloved as an idol show,
Since all alike my songs and praises be
To one, of one, still such, and ever so.
Kind is my love to-day, to-morrow kind,
Still constant in a wondrous excellence;
Therefore my verse to constancy confined,
One thing expressing, leaves out difference.
Fair, kind, and true, is all my argument,
Fair, kind, and true, varying to other words;
And in this change is my invention spent,
Three themes in one, which wondrous scope affords.
Fair, kind, and true, have often lived alone,
Which three till now, never kept seat in one.
Chớ để tình yêu của tôi bị gọi là sự sùng bái thần tượng
Cũng đừng để người ta nói tôi xem người yêu như là thần tượng
Vì tất cả những bài thơ của tôi đều giống nhau và ca ngợi
Một người, của một người, vẫn luôn như vậy, và sẽ như vậy
Người yêu của tôi tốt đẹp hôm nay, và tốt đẹp ngày mai
Vẫn kiên định sự xuất sắc tuyệt vời
Cho nên thơ tôi hạn chế trong sự vĩnh cửu
Những điều tương tự nhau, không thay đổi
Cái đẹp, lòng tốt và cái thật là tất cả chủ đề của tôi
Cái đẹp, lòng tốt và cái thật diễn đạt bằng những từ khác nhau
Và sự thay đổi này là cách sử dụng óc sáng tạo của tôi
Ba chủ đề trong một, hiến dâng tầm kiến thức tuyệt vời
Vẻ đẹp, lòng tốt và cái thật thường tồn tại tách biệt nhau
Chưa bao giờ cùng tồn tại trong một con người, cho đến hôm nay.
Sonnet 106
When in the chronicle of wasted time
I see descriptions of the fairest wights,
And beauty making beautiful old rhyme,
In praise of ladies dead and lovely knights,
Then, in the blazon of sweet beauty's best,
Of hand, of foot, of lip, of eye, of brow,
I see their antique pen would have express'd
Even such a beauty as you master now.
So all their praises are but prophecies
Of this our time, all you prefiguring;
And for they looked but with divining eyes,
They had not skill enough your worth to sing:
For we, which now behold these present days,
Have eyes to wonder, but lack tongues to praise.
Trong cuốn sử biên niên của thời gian trôi
Tôi thấy sự mô tả những người đẹp nhất
Và cái đẹp tạo nên những vần thơ mĩ lệ xưa cũ
Ca ngợi những quý bà đã khuất và những hiệp sĩ đáng yêu
Trong những lời ca ngợi bằng những từ hay nhất dành cho cái đẹp
Của tay, chân, môi, mắt, trán
Tôi thấy bài thơ xưa của họ đã miêu tả
Chính vẻ đẹp mà anh có bây giờ
Nên tất cả những lời ca ngợi của họ chỉ là lời tiên tri
Về thời gian này của chúng ta, tất cả đều hình dung trước về anh
Và trừ phi họ có khả năng tiên tri
Nếu không họ không thể có năng lực nói về giá trị của anh,
vì chúng tôi, những người sống trong thời đại này
Có đôi mắt để choáng ngợp, nhưng không có đủ lời để ca ngợi vẻ đẹp của anh
Sonnet 108
What's in the brain, that ink may character,
Which hath not figured to thee my true spirit?
What's new to speak, what now to register,
That may express my love, or thy dear merit?
Nothing, sweet boy; but yet, like prayers divine,
I must each day say o'er the very same;
Counting no old thing old, thou mine, I thine,
Even as when first I hallowed thy fair name.
So that eternal love in love's fresh case,
Weighs not the dust and injury of age,
Nor gives to necessary wrinkles place,
But makes antiquity for aye his page;
Finding the first conceit of love there bred,
Where time and outward form would show it dead.
Những điều trong trí óc mà bút mực có thể vẽ ra
Không thể mô tả tấm lòng thực sự của tôi đối với anh
Điều gì mới để nói, điều gì để biểu lộ
Có thể thể hiện tình yêu của tôi, hay sự xuất sắc đáng yêu của anh?
Không gì cả, chàng trai đáng yêu, nhưng không giống như người cầu nguyện thần
linh
Mỗi ngày tôi phải nói lại những điều giống nhau
Không tính toán chúng cũ mòn thế nào, anh là của tôi, tôi là của anh
Kể từ lần đầu tiên tôi kính trọng tên tuổi anh
Nên tình cảm vĩnh cửu và trong sáng
Không quan tâm đến lớp bụi thời gian và sự phai tàn
Cũng không cần thiết quan tâm đến tuổi tác, những nếp nhăn
Ngoài việc tạo ra sự vĩnh viễn những trang giấy
Tìm kiếm cội nguồn đầu tiên của tình yêu ở đây
Khi thời gian và vẻ ngoài của anh có thể cho thấy cái chết
Sonnet 109
O! never say that I was false of heart,
Though absence seem'd my flame to qualify,
As easy might I from my self depart
As from my soul which in thy breast doth lie:
That is my home of love: if I have ranged,
Like him that travels, I return again;
Just to the time, not with the time exchanged,
So that myself bring water for my stain.
Never believe though in my nature reigned,
All frailties that besiege all kinds of blood,
That it could so preposterously be stained,
To leave for nothing all thy sum of good;
For nothing this wide universe I call,
Save thou, my rose, in it thou art my all.
Ồ, đừng bao giờ nói rằng trái tim tôi không thành thật
Dù sự xa cách người yêu cho thấy tôi bình thản
Cũng dễ dàng như xa lìa chính mình
Khi trong tâm hồn tôi bầu ngực (trái tim) em vẫn ở
Đó là ngôi nhà của tình yêu, như tôi xếp loại
Giống như người đi xa, tôi quay trở lại
Đúng giờ, không thay đổi
Cho nên chính tôi mang nước rửa vết nhơ của mình
Sonnet 111
O! for my sake do you with Fortune chide,
The guilty goddess of my harmful deeds,
That did not better for my life provide
Than public means which public manners breeds.
Thence comes it that my name receives a brand,
And almost thence my nature is subdued
To what it works in, like the dyer's hand:
Pity me, then, and wish I were renewed;
Whilst, like a willing patient, I will drink
Potions of eisell 'gainst my strong infection;
No bitterness that I will bitter think,
Nor double penance, to correct correction.
Pity me then, dear friend, and I assure ye,
Even that your pity is enough to cure me.
Ôi, vì lợi ích của tôi anh nguyền rủa thần may mắn
Vị thần đáng trách vì những hành động có hại của tôi
Đã không cho cuộc sống của tôi điều tốt hơn
Hơn là xuất hiện trước công chúng để ảnh hưởng đến cách tôi cư xử
Từ đó tên tôi nhận tiếng xấu
Và hầu như từ đó bản tính tự nhiên của tôi biến đổi
Theo nơi mình làm việc, giống như bàn tay người thợ nhuộm
Thương lấy tôi, và tôi ước tôi được tái sinh
Trong khi giống như người bệnh ngoan ngoãn tôi sẽ uống
Thuộc độc chống lại sự đầu độc mạnh hơn
Không có sự cay đắng nào tôi sẽ nghĩ
Cũng không phải sự hối hận gấp đôi để chỉnh lại sự đúng đắn
Thương lấy tôi, bạn yêu mến, tôi đảm bảo với anh rằng
Chỉ sự thương xót của anh cũng đủ chữa trị cho tôi
Sonnet 112
Your love and pity doth the impression fill,
Which vulgar scandal stamped upon my brow;
For what care I who calls me well or ill,
So you o'er-green my bad, my good allow?
You are my all-the-world, and I must strive
To know my shames and praises from your tongue;
None else to me, nor I to none alive,
That my steeled sense or changes right or wrong.
In so profound abysm I throw all care
Of others' voices, that my adder's sense
To critic and to flatterer stopped are.
Mark how with my neglect I do dispense:
You are so strongly in my purpose bred,
That all the world besides methinks y'are dead.
Tình yêu và lòng thương của em đủ đền bù
Cho những hành động đáng xấu hổ đóng dấu lên vầng trán tôi
Vì tôi quan tâm gì đến những người nói tôi tốt hay xấu
Miễn là em phớt lờ những điều xấu và chỉ quan tâm đến điều tốt
Em là cả thế giới của tôi, và tôi phải cố gắng
Biết được những điều đáng hổ thẹn và những lời ca ngợi dành cho tôi từ miệng em
Không ai bận tâm đến tôi, tôi cũng không bận tâm đến ai
Cảm giác của tôi/ sự thay đổi đúng hay sai
Trong thẳm sâu tôi ném đi tất cả mối bận tâm
Về những lời của người khác, mà cảm giác buốt nhói phê phán hay tâng bốc
Sonnet 113
Since I left you, mine eye is in my mind;
And that which governs me to go about
Doth part his function and is partly blind,
Seems seeing, but effectually is out;
For it no form delivers to the heart
Of bird, of flower, or shape which it doth latch:
Of his quick objects hath the mind no part,
Nor his own vision holds what it doth catch;
For if it see the rud'st or gentlest sight,
The most sweet favour or deformed'st creature,
The mountain or the sea, the day or night,
The crow, or dove, it shapes them to your feature.
Incapable of more, replete with you,
My most true mind thus maketh mine eye untrue.
Từ khi tôi rời xa em, những gì trong mắt tôi nằm trong đầuP42F43
Đôi mắt cho phép tôi nhìn ra xung quanh
Chỉ tập trung một nửa, và một nửa bị mù
Có vẻ nhìn, nhưng không hiệu quả
Vì nó không đi đến trọng tâm
Như chim, hoa hay bất kì hình dạng nào
Trí óc không thể nhanh chóng nắm bắt sự vật
Cũng không thể giữ những gì mình nhìn thấy
Bởi bất cứ thứ gì nó nhìn thấy, ở dạng nguyên thủy hay dịu dàng nhất hay đã bị biến
dạng
Là núi hay biển, là ngày hay đêm
Là quạ hay bồ câu nó đều tạo hình ảnh chúng giống với đặc điểm của em
Không thể làm gì khác, chứa đầy hình ảnh em,
Cái đầu chân thật của tôi khiến tôi nhìn mọi thứ trở nên không thật
Sonnet 114
Or whether doth my mind, being crowned with you,
Drink up the monarch's plague, this flattery?
Or whether shall I say, mine eye saith true,
And that your love taught it this alchemy,
To make of monsters and things indigest
Such cherubins as your sweet self resemble,
Creating every bad a perfect best,
43 Tôi quá bận tâm vì suy nghĩ, nên không nhìn mọi thứ bằng đôi mắt thông thường.
As fast as objects to his beams assemble?
O! 'tis the first, 'tis flattery in my seeing,
And my great mind most kingly drinks it up:
Mine eye well knows what with his gust is 'greeing,
And to his palate doth prepare the cup:
If it be poisoned, 'tis the lesser sin
That mine eye loves it and doth first begin.
Liệu có phải trí óc tôi, bị bao trùm bởi hình ảnh em
Uống lấy lời xu nịnh, vốn là bệnh của nhà vua?
Hay tôi nên nói rằng đôi mắt tôi nói thật
Và tình yêu của em đã cho nó một sức mạnh kì diệu
Khiến cho quái vật và những thứ hỗn độn
Trở nên thiên thần như sự đáng yêu của em
Làm mọi thứ tồi tệ trở nên hoàn hảo nhất
Nhanh chóng như những đối tượng hiện ra trước mắt
Ôi đó là thứ đầu tiên, lời tâng bốc trong mắt tôi
Và tâm trí tôi đã uống nó như ông vua nhận những lời xu nịnh
Đôi mắt tôi biết rõ tôi thích nhìn gì
Và đó là chiếc chén chuẩn bị cho khẩu vị của nó
Nếu đó là chén thuốc độc, cũng không có gì tội lỗi
Đôi mắt tôi sẽ nếm nó trước tiên
Sonnet 115
Those lines that I before have writ do lie,
Even those that said I could not love you dearer:
Yet then my judgment knew no reason why
My most full flame should afterwards burn clearer.
But reckoning Time, whose million'd accidents
Creep in 'twixt vows, and change decrees of kings,
Tan sacred beauty, blunt the sharp'st intents,
Divert strong minds to the course of altering things;
Alas! why, fearing of Time's tyranny,
Might I not then say, 'Now I love you best,'
When I was certain o'er incertainty,
Crowning the present, doubting of the rest?
Love is a babe, then might I not say so,
To give full growth to that which still doth grow?
Những dòng trước đây tôi viết là dối
Nhất là khi tôi nói không thể yêu em tha thiết hơn
Nhưng lương tâm tôi không biết rằng
Ngọn lửa sáng tạo ở đỉnh cao của tôi sau đó cháy hoàn toàn
Nhưng thời gian dần trôi, thứ có hàng triệu khả năng xảy ra
Len lỏi giữa lời thề, và thay đổi cả bản án của nhà vua
Làm sạm đi vẻ đẹp thiêng liêng, làm nhụt đi những ý định sắc bén nhất
Làm trệch hướng những trí tuệ mạnh mẽ thành quá trình thay đổi
Chao ôi, vì sao, sợ hãi sự bạo ngược của thời gian
Tôi đã không nói: “giờ (là lúc) tôi yêu em nhất”
Khi tôi chắc chắn vượt qua sự mông lung của thời gian
Tin tưởng vào sự hoàn thiện hiện tại, nghi ngờ tương lai
Tình yêu như một đứa trẻ, nên tôi không thể nói
một cái gì đã trưởng thành với thứ vẫn đang phát triển
Sonnet 116
Let me not to the marriage of true minds
Admit impediments. Love is not love
Which alters when it alteration finds,
Or bends with the remover to remove:
O, no! it is an ever-fixed mark,
That looks on tempests and is never shaken;
It is the star to every wandering bark,
Whose worth's unknown, although his height be taken.
Love's not Time's fool, though rosy lips and cheeks
Within his bending sickle's compass come;
Love alters not with his brief hours and weeks,
But bears it out even to the edge of doom.
If this be error and upon me proved,
I never writ, nor no man ever loved.
Tôi không tin rằng sự đính ước (tình yêu) của hai người (yêu nhau) chân chính
Có thể bị trở ngại (vì lí do gì). Tình yêu không còn là tình yêu
Nếu nó thay đổi theo hoàn cảnh
Hay bị biến dạng bởi người nào đó muốn dịch chuyển (nó)
Ồ không, nó là cái mốc vĩnh cửu
Khi đối diện với giông tố và không bao giờ run rẩy
Nó là ngôi sao cho những con thuyền lạc lối
Giá trị của nó không thể đo đếm, dù có thể thấy được sự mãnh liệt
Tình yêu không nô lệ thời gian, dù môi đỏ má hồng
(sẽ thay đổi) trên con đường lưỡi hái thời gian đi qua
Tình yêu không thay đổi giống như giờ và ngày trôi qua
Mà sẽ tồn tại cho đến khi chạm lưỡi sắc của sự bạc phận
Nếu tôi được thấy những điều này sai
Tôi sẽ không bao giờ còn viết (bất cứ bài thơ nào) và không một người nào từng yêu
Sonnet 117
Accuse me thus: that I have scanted all,
Wherein I should your great deserts repay,
Forgot upon your dearest love to call,
Whereto all bonds do tie me day by day;
That I have frequent been with unknown minds,
And given to time your own dear-purchased right;
That I have hoisted sail to all the winds
Which should transport me farthest from your sight.
Book both my wilfulness and errors down,
And on just proof surmise accumulate;
Bring me within the level of your frown,
But shoot not at me in your waken'd hate;
Since my appeal says I did strive to prove
The constancy and virtue of your love.
Kết tội tôi thế này: rằng tôi đã thờ ơ
Trong khi lẽ ra tôi nên đáp lại những gì em xứng đáng được hưởng
Quên đi tình yêu thắm thiết (chân thành) của em
Khi mối quan hệ ràng buộc thêm ngày lại ngày
Tôi đã thường xuyên cùng với những người xa lạ
Và sử dụng thời gian lẽ ra dành cho em
Giống như lái con thuyền trước gió
Có thể đưa tôi xa khuất tầm nhìn em
Ghi lại tất cả sự cố ý và lỗi lầm của tôi
Và xem là chứng cớ cho những sai lầm chồng chất
Đặt tôi trước sự lạnh lùng của em
Nhưng đừng mang đến cho tôi sự ghét bỏ (tôi) đánh thức nơi em
Vì tự bảo vệ mình, tôi cố gắng chứng tỏ
Sự bền lòng và đức hạnh nơi tình yêu cảu em
Sonnet 123
No, Time, thou shalt not boast that I do change:
Thy pyramids built up with newer might
To me are nothing novel, nothing strange;
They are but dressings of a former sight.
Our dates are brief, and therefore we admire
What thou dost foist upon us that is old;
And rather make them born to our desire
Than think that we before have heard them told.
Thy registers and thee I both defy,
Not wondering at the present nor the past,
For thy records and what we see doth lie,
Made more or less by thy continual haste.
This I do vow and this shall ever be;
I will be true despite thy scythe and thee.
Không đâu, thời gian, ngươi không thể nói khoác rằng ta thay đổi
Kim tự tháp của ngươi được xây mới,
Với ta chẳng có vấn đề gì, không có gì lạ
Chúng chỉ là bộ quần áo mới của hình dáng cũ
Thời gian của chúng ta ngắn, vì vậy ta ngưỡng mộ
Những gì ngươi gán cho là già
Cả sổ ghi chép của ngươi, cả ngươi ta đều thách thức
Không băn khoăn về hiện tại hay quá khứ
Vì cả sổ sách của ngươi hay cái gì ta thấy đều là nói dối
Bị thêm hoặc bớt bởi sự vội vàng hấp tấp của ngươi
Đây là lời ta hứa và nó sẽ mãi là thế:
Ta có sự thật trong những bài thơ, bất chấp ngươi và lưỡi hái của ngươi
Sonnet 128
How oft when thou, my music, music play'st,
Upon that blessed wood whose motion sounds
With thy sweet fingers when thou gently sway'st
The wiry concord that mine ear confounds,
Do I envy those jacks that nimble leap,
To kiss the tender inward of thy hand,
Whilst my poor lips which should that harvest reap,
At the wood's boldness by thee blushing stand!
To be so tickled, they would change their state
And situation with those dancing chips,
O'er whom thy fingers walk with gentle gait,
Making dead wood more bless'd than living lips.
Since saucy jacks so happy are in this,
Give them thy fingers, me thy lips to kiss.
Bao lâu một lần thì em, niềm vui của tôi, chơi đàn
Trên phím gỗ hạnh phúc mà sự chuyển động của nó
Cùng với những ngón tay ngọc ngà của em khi em đu đưa thanh nhã
Những hòa âm tuyệt diệu khuất phục đôi tai tôi
Tôi thật ghen tị với những phím đàn nhảy nhót nhanh nhẹn
Được hôn phần da mềm mại trong lòng tay em
Trong khi đôi môi bạc phận của tôi nên được hưởng điều đó
Nhìn vào sự trơ trẽn của cây đàn bên em mà đỏ mặt
Được thỏa mãn như vậy, chúng (môi tôi) sẵn sàng thay đổi địa vị
Và vị trí bởi thứ đang nhảy nhót
Trên những ngón tay em đang dạo những nốt thiên thần
Thành một cây gỗ chết hạnh phúc hơn làn môi sống
Vì những phím đàn bảnh chọe quá hạnh phúc trong trường hợp này
Hãy đưa chúng ngón tay em và cho tôi làn môi em để hôn
Sonnet 131
Thou art as tyrannous, so as thou art,
As those whose beauties proudly make them cruel;
For well thou know'st to my dear doting heart
Thou art the fairest and most precious jewel.
Yet, in good faith, some say that thee behold,
Thy face hath not the power to make love groan;
To say they err I dare not be so bold,
Although I swear it to myself alone.
And to be sure that is not false I swear,
A thousand groans, but thinking on thy face,
One on another's neck, do witness bear
Thy black is fairest in my judgment's place.
In nothing art thou black save in thy deeds,
And thence this slander, as I think, proceeds.
Em như thể một bạo chúa, cũng giống như
Những người phụ nữ mà vẻ đẹp lộng lẫy làm họ trở nên tàn nhẫn
Vì em hiểu rõ trong trái tim yêu thương tha thiết của tôi
Em là người đẹp nhất và là báu vật quý giá nhất
Nhưng, một cách thành thật, một số người nói rằng họ thấy
Gương mặt em không có sức mạnh để khiến người khác rên rỉ vì yêu
Tôi không đủ dũng cảm để nói rằng họ sai lầm
Dù tôi tự nói với mình như vậy
Và tôi chắc chắn không chỉ tôi nói sai
Mà hàng ngàn người như vậy, khi nhìn gương mặt em
Sonnet 138
When my love swears that she is made of truth,
I do believe her though I know she lies,
That she might think me some untutored youth,
Unlearned in the world's false subtleties.
Thus vainly thinking that she thinks me young,
Although she knows my days are past the best,
Simply I credit her false-speaking tongue:
On both sides thus is simple truth suppressed:
But wherefore says she not she is unjust?
And wherefore say not I that I am old?
O! love's best habit is in seeming trust,
And age in love, loves not to have years told:
Therefore I lie with her, and she with me,
And in our faults by lies we flattered be.
Khi người yêu tôi thề rằng cô ấy chỉ nói sự thật
Tôi tin tưởng cô ấy mặc dù biết cô nói dối
Đến mức cô ấy có thể nghĩ rằng tôi là một người trẻ tuổi ngây thơ
Mù mờ về sự phức tạp mơ hồ (huyền hoặc sai lầm) của thế giới
Với ý nghĩ tự phụ (tôi xem như) cô ấy nghĩ tôi trẻ
Mặc dù cô biết rằng những ngày đẹp nhất của tôi đã trôi qua
Tôi tin một cách đơn giản vào những lời nói dối của nàng
Cả hai chúng tôi đều giấu sự thật với người kia
Nhưng vì sao cô không nhận cô không đúng ?
Và vì sao tôi không thừa nhận tôi đã già ?
ồ, thói quen tốt nhất của tình yêu là có vẻ thành thật
và tuổi tác trong tình yêu, người yêu không muốn nói
Vì thế tôi nói dối cô ấy, và cô ấy cũng làm thế với tôi
Và bằng lời nói dối chúng tôi được nịnh nọt
Sonnet 139
O! call not me to justify the wrong
That thy unkindness lays upon my heart;
Wound me not with thine eye, but with thy tongue:
Use power with power, and slay me not by art,
Tell me thou lov'st elsewhere; but in my sight,
Dear heart, forbear to glance thine eye aside:
What need'st thou wound with cunning, when thy might
Is more than my o'erpressed defence can bide?
Let me excuse thee: ah! my love well knows
Her pretty looks have been mine enemies;
And therefore from my face she turns my foes,
That they elsewhere might dart their injuries:
Yet do not so; but since I am near slain,
Kill me outright with looks, and rid my pain.
Ồ, đừng yêu cầu tôi thanh minh cho sai lầm
Mà sự lạnh lùng của em đánh vào trái tim tôi
Dừng làm tổn thương tôi bằng đôi mắt mà hãy nói ra lời
Dùng sức mạnh bằng khả năng, đừng giết tôi bằng nghệ thuật
Nói cho tôi biết rằng em đã yêu người khác, nhưng trong tầm mắt tôi
Người yêu dấu, kìm chế cái nhìn của em về hướng khác
Sao em cần phải làm tổn thương tôi bằng sự khéo léo, trong khi sức mạnh của em
Lớn hơn khả năng tôi có thể đương đầu ?
Hãy để tôi bào chữa cho em : à, người yêu của tôi biết rằng
Cái nhìn đẹp của cô ấy có thể gây hại cho tôi
Và vì thế từ gương mặt tôi cô ấy nhìn sang kẻ thù của tôi
Để chúng có thể phóng lao về phía khác
Nhưng đừng làm thế, bởi từ khi tôi tiến gần đến cái chết
Giết tôi chết tươi bằng cái nhìn, và giải thoát cho tôi khỏi đau khổ
Sonnet 141
In faith I do not love thee with mine eyes,
For they in thee a thousand errors note;
But 'tis my heart that loves what they despise,
Who, in despite of view, is pleased to dote.
Nor are mine ears with thy tongue's tune delighted;
Nor tender feeling, to base touches prone,
Nor taste, nor smell, desire to be invited
To any sensual feast with thee alone:
But my five wits nor my five senses can
Dissuade one foolish heart from serving thee,
Who leaves unswayed the likeness of a man,
Thy proud heart's slave and vassal wretch to be:
Only my plague thus far I count my gain,
That she that makes me sin awards me pain.
Thật lòng tôi không yêu em bằng đôi mắt
Vì chúng nhìn thấy ở em hàng nghìn khiếm khuyết
Mà đó là trái tim tôi, trái tim yêu những gì đôi mắt xem thường
Thứ mà, bất chấp vẻ bề ngoài của em
Không phải đôi tai hài lòng với giọng nói của em
Cũng không phải cảm giác dựa trên sự tiếp xúc
Không phải hương vị, mùi, ham muốn được mời gọi
Tới bất cứ ham muốn xác thịt nào
Nhưng cả thần trí và năm giác quan của tôi cũng không thể
Can ngăn trái tim rồ dại phục vụ em
Sonnet 143
Lo, as a careful housewife runs to catch
One of her feather'd creatures broke away,
Sets down her babe, and makes all swift dispatch
In pursuit of the thing she would have stay;
Whilst her neglected child holds her in chase,
Cries to catch her whose busy care is bent
To follow that which flies before her face,
Not prizing her poor infant's discontent;
So runn'st thou after that which flies from thee,
Whilst I thy babe chase thee afar behind;
But if thou catch thy hope, turn back to me,
And play the mother's part, kiss me, be kind;
So will I pray that thou mayst have thy 'Will,'
If thou turn back and my loud crying still.
Trông kìa, giống như bà mẹ chu đáo chạy đuổi bắt
Một trong những đứa trẻ thiên thần chạy thoát
Đặt đứa trẻ của cô ấy xuống, và mải mê nhanh chóng
Đuổi theo thứ mà cô ấy muốn có
Trong khi đứa trẻ bị thờ ơ đuổi theo giữ cô ấy
Khóc vì cố gắng bắt kịp cô ấy, người bận rộn quan tâm đến sở thích
Đuổi theo những thứ bay qua trước mặt cô ấy
Không quan tâm đến đứa bé bất hạnh
Giống như vậy, em chạy sau thứ rời bỏ em
Trong khi tôi giống như đứa trẻ của em chạy theo xa phía sau
Nhưng nếu em bắt kịp hi vọng, quay lại với tôi
Và làm phần việc của người mẹ, hôn tôi một cách nhẹ nhàng
Tôi sẽ cầu nguyện rằng em có thể đạt được mong muốn
Miễn là em quay lại và làm ngừng tiếng khóc tôi
Sonnet 144
Two loves I have of comfort and despair,
Which like two spirits do suggest me still:
The better angel is a man right fair,
The worser spirit a woman coloured ill.
To win me soon to hell, my female evil,
Tempteth my better angel from my side,
And would corrupt my saint to be a devil,
Wooing his purity with her foul pride.
And whether that my angel be turned fiend,
Suspect I may, yet not directly tell;
But being both from me, both to each friend,
I guess one angel in another's hell:
Yet this shall I ne'er know, but live in doubt,
Till my bad angel fire my good one out.
Tôi yêu hai người, một người mang đến cho tôi sự dễ chịu, một người làm tôi thất
vọng
Giống như hai thiên thần vẫn gợi hứng cho tôi
Thiên thần tốt hơn là một người đàn ông có mái tóc vàng xinh đẹp
Người tệ hơn là một phụ nữ màu da xấu
Dể đưa tôi nhanh chóng về địa ngục, người phụ nữ độc ác (xấu xí)
Gắng sức quyến rũ thiên thần đẹp hơn bên cạnh tôi
Và khiến cho vị thánh của tôi thành ma quỷ
Ve vãn sự thuần khiết của anh bằng sự kiêu hãnh xấu xa của cô
Và liệu thiên thần của tôi có biến thành quỷ sứ
Tôi chỉ có thể nghi ngờ mà không nói được chính xác
Nhưng từ khi họ rời khỏi tôi, làm bạn với nhau
Tôi đoán một thiên thần đang ở địa ngục của người còn lại
Điều này tôi không bao giờ biết được, chỉ sống trong nghi ngờ
Cho đến khi thiên thần xấu xí đuổi người tốt ra
Sonnet 145
Those lips that Love's own hand did make,
Breathed forth the sound that said 'I hate',
To me that languished for her sake:
But when she saw my woeful state,
Straight in her heart did mercy come,
Chiding that tongue that ever sweet
Was used in giving gentle doom;
And taught it thus anew to greet;
'I hate' she altered with an end,
That followed it as gentle day,
Doth follow night, who like a fiend
From heaven to hell is flown away.
'I hate', from hate away she threw,
And saved my life, saying 'not you'.
Những lời trên đôi môi mà nữ thần tình yêu tạo ra
Thở ra âm thanh mang lời : tôi ghét
Với tôi, người héo mòn vì yêu cô ấy
Nhưng khi cô ấy nhìn thấy trạng thái khốn khổ của tôi
Lòng tốt (sự thương cảm) đã xuất hiện trong trái tim cô ấy
Xem lại những người đã từng ngọt ngào
Từng sử dụng cái miệng để đưa ra những lời dịu dàng
Và bảo nó một lần nữa chào hỏi
Tôi ghét cô ấy cuối cùng thay đổi
Giống như sự tiếp theo của ngày
Thay thế đêm, giống như quỷ sứ
Từ thiên đường bị đuổi về địa ngục
“Tôi ghét” – từ ghét bỏ cô ấy ném ra
Một lời cứu sống tôi: không phải anh
Sonnet 147
My love is as a fever longing still,
For that which longer nurseth the disease;
Feeding on that which doth preserve the ill,
The uncertain sickly appetite to please.
My reason, the physician to my love,
Angry that his prescriptions are not kept,
Hath left me, and I desperate now approve
Desire is death, which physic did except.
Past cure I am, now Reason is past care,
And frantic-mad with evermore unrest;
My thoughts and my discourse as madmen's are,
At random from the truth vainly expressed;
For I have sworn thee fair, and thought thee bright,
Who art as black as hell, as dark as night.
Tình yêu của tôi giống như cơn sốt, vẫn tiếp tục khao khát
Những thứ gây nên bệnh tật
Nuôi dưỡng để kéo dài cơn bệnh
Làm hài lòng ham muốn bệnh tật của mình
Lí trí tôi, vị bác sĩ của tình yêu
Giận dữ vì đơn thuốc của ông ta không được sử dụng
Rời xa tôi, và tôi tuyệt vọng chấp nhận
Ham muốn là chết, cái mà thuốc đã loại trừ
Tôi đã được cứu chữa một nửa, nhưng giờ lí trí tôi không đề phòng
Và điên cuồng bởi sự bồn chồn không thôi
Suy nghĩ và lời nói của tôi giống như một người điên
Nói ra những lời bất chợt từ những biểu hiện vô nghĩa
Vì tôi đã thừa nhận rằng em đẹp, nghĩ rằng em lộng lẫy
Trong khi em đen như địa ngục, tối như đêm
Sonnet 150
O! from what power hast thou this powerful might,
With insufficiency my heart to sway?
To make me give the lie to my true sight,
And swear that brightness doth not grace the day?
Whence hast thou this becoming of things ill,
That in the very refuse of thy deeds
There is such strength and warrantise of skill,
That, in my mind, thy worst all best exceeds?
Who taught thee how to make me love thee more,
The more I hear and see just cause of hate?
O! though I love what others do abhor,
With others thou shouldst not abhor my state:
If thy unworthiness raised love in me,
More worthy I to be beloved of thee.
Chao ôi, từ đâu em có được nguồn sức mạnh (không thể tưởng tượng, khó tin)
Để thống trị trái tim tôi bất kể sự bất toàn nơi em?
Để khiến tôi lừa dối chính cái nhìn của mình (những gì mình nhìn thấy)
Và nói rằng (cam đoan) sự rực rỡ không tỏa sáng trong ngày?
Do đâu em làm cho những điều xấu trong những hành động cua rem
Có sức mạnh và sự bảo đảm của năng lực
Khiến trong tâm trí tôi, những hành động tồi tệ nhất của em còn tốt hơn những hành
động tốt nhất của người khác
Ai đã chỉ cho em cách khiến tôi yêu em càng nhiều hơn
Khi tôi càng nghe và nhìn thấy những lí do để ghét em ?
Ôi, dù tôi yêu những gì người khác ghét
Em không nên hùa theo họ khinh bỉ tôi
Nếu như sự không đáng giá của em làm nảy sinh tình yêu trong tôi
Tôi càng đáng được em yêu nhiều hơn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- cam_thuc_thoi_gian_trong_tho_chu_han_nguyen_du_va_tho_sonnet_shakespeare_8217.pdf