Với việc đại đa số NCCCM mong muốn được điều dưỡng tại các trung tâm
chăm sóc NCCCM; đa số mong muốn các cơ sở khám chữa bệnh được trang bị đầy đủ
cơ sở, vật chất, kỷ thuật hiện đại, với tình trạng sức khỏe yếu kém mắc nhiều căn bệnh.
Nhưng chất lượng và hiệu quả chưa cao: thiếu thốn về tài chính; đội ngũ y bác sĩ vừa
thiếu, vừa y ếu (hiện tại mới chỉ có 115 y, bác sĩ ;đa số họ có trình độ trung cấp chuyên
nghiệp, không có thạc sĩ, thái độ phục vụ còn lạnh lùng, cẩu thả, thiếu trách nhiệm,
thiếu tôn trọng bệnh nhân ); cơ sở vật chất còn nghèo nàn lạc hậu (với 46.9% ý kiến
cho rằng thiếu thốn và 9.2 % cho rằng rất thiếu thốn [bảng 17; phụ lục 3]) đã làm sáng
tỏ giả thuy ết “đa số người có công cách mạng ở huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định có
nhu cầu cao về chăm sóc sức khỏe nhưng chất lượng và hiệu quả của công tác này
chưa cao do rất nhiều khó khăn mang lại, nhất là thiếu thốn về tài chính, đội ngũ y,
bác sĩ, cơ sở vật chất nghèo nàn, lạc hậu”
83 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3925 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Chăm sóc sức khỏe người có công cách mạng: Thực trạng và giải pháp (điển cứu tại huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tiêu tổng quát này sẽ được cụ thể hóa như sau:
Tạo ra nhận thức đúng đắn và tích cực cho toàn xã hội về NCCCM nhất là nhóm
người có công thuộc nhóm cao tuổi và thương, bệnh binh điều đó xuất phát từ thực tế
một số người quan niệm sai lầm rằng họ đã già, đã bị thương tật, bệnh tật họ không thể
làm gì được nữa. Trên thực tế họ vẫn còn có tiềm năng, vẫn có ích cho gia đình xã
hội, một khi tạo ra nhận thức đúng đắn tích cực của xã hội về họ, mọi người trong xã
hội sẽ thực hiện tốt vai trò, trách nhiệm của mình trong việc hỗ trợ chăm sóc tốt người
có công cách mạng.
Huy động toàn xã hội tham gia chương trình hành động “chăm sóc sức khỏe
người có công cách mạng”.
Tăng cường và nâng cao hệ thống dịch vụ chăm sóc sức khỏe cho NCCCM đặc
biệt là các dịch vụ dành cho những người có hoàn cảnh khó khăn.
Đa dạng hóa các hình thức hoạt động tại cộng đồng nhằm đáp ứng nhu cầu vật
chất và tinh thần cho NCCCM.
Tạo ra môi trường có nhiều điều kiện cơ hội để NCCCM đặc biệt là người thuộc
nhóm cao tuổi, thương binh, bệnh binh tự giúp đỡ lẫn nhau ở gia đình, cộng đồng và
xã hội trong nhiều vấn đề trong đó chú trọng đến vấn đề chăm sóc sức khỏe như họ có
thể chăm sóc nhau khi bị ốm đau, bệnh tật.
Bên cạnh đó, cần có cơ chế chính sách thiết thực, hiệu quả và cụ thể để thực hiện
công tác chăm sóc sức khỏe NCCCM cũng như có đủ nguồn nhân lực đáp ứng cho
công việc này.
3.2.2. Những nhóm giải pháp
3.2.2.1. nhóm giải pháp về chính sách
60
Những chính sách về chăm sóc sức khỏe cho NCCCM sẽ là định hướng để thực
hiện công tác này. Những năm qua, những chính sách Đảng và Nhà nước đề ra thể
hiện tinh thần nhân đạo sâu sắc và là biểu hiện nhân văn của xã hội, khẳng định truyền
thống “uống nước nhớ nguồn” tốt đẹp của dân tộc ta.Tuy nhiên, do một số khó khăn
cả chủ quan lẫn khách quan nên các chính sách chăm sóc sức khỏe cho NCCCM còn
một số hạn chế, chưa đáp ứng được nhu cầu của người có công.
Giải pháp xây dựng và hoàn thiện chính sách
Tiếp tục hoàn thiện, đổi mới hệ thống văn bản pháp quy và những chính sách
dành cho NCCCM nói chung và vấn đề chăm sóc sức khỏe nói riêng.
Tiếp tục tìm hiểu và xây dựng mới một số chính sách ưu đãi mới cho NCCCM,
chú trọng đến những chính sách chăm sóc sức khỏe cho NCCCM, đảm bảo đáp ứng tốt
nhất nhu cầu chăm sóc sức khỏe của NCCCM, hướng đến nhóm đối tượng NCCCM
có hoàn cảnh khó khăn.
Tăng cường số lượng NCCCM ở mỗi xã được điều dưỡng tại các trung tâm điều
dưỡng. Kiện toàn bộ máy tổ chức của chính quyền địa phương ở tất cả các cấp đặc biệt
là phòng LĐ – TB&XH huyện Hoài Ân.
Giải pháp triển khai chính sách
Triển khai đồng bộ, thống nhất và kịp thời tất cả chính sách ưu đãi cho NCCCM.
Tùy vào đặc thù của từng địa phương, cần có những chính sách, văn bản chỉ đạo
cho phù hợp trong quá trình thực hiện chăm sóc sức khỏe NCCCM.
Tổ chức tuyên truyền về những chính sách được ban hành để toàn xã hội và bản
thân NCCCM cùng tham gia thực hiện.
Đảm bảo đúng đối tượng được hưởng chế độ, chính sách NCCCM.
3.2.2.2. Nhóm giải pháp về cơ sở vật chất
Tăng cường đầu tư, hoàn thiện cơ sở vật chất và trang thiết bị cho các cơ sở
khám, chữa bệnh và cơ sở chăm sóc NCCCM.
Ứng dụng những kỹ thuật và công nghệ mới vào việc khám chữa bệnh cho
NCCCM.
Tăng cường nguồn tài chính cho công tác chăm sóc sức khỏe cho NCCCM.
61
Hỗ trợ về mọi mặt đặc biệt là vấn đề tài chính cho các tổ chức, đoàn thể để mở
rộng, đa dạng hóa các hình thức hoạt động tăng cường khả năng thu hút sự tham gia
của NCCCM để từ đó nâng cao sức khỏe cho họ.
Cần tiếp tục hoàn thiện và nâng cao hiệu quả phục vụ của các trung tâm chăm
sóc NCCCM.
Xây dựng trung tâm chăm sóc sức khỏe NCCCM huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định.
3.2.2.3. Nhóm giải pháp về nguồn nhân lực
Con người là nguồn lực đóng vai trò vô cùng quan trọng trong công tác chăm sóc
sức khỏe cho NCCCM. Để nguồn nhân lực này phát huy tối đa vai trò trách nhiệm của
mình trong công tác chăm sóc sức khỏe cho NCCCM cần thực hiện những giải pháp
sau:
Chú trọng đến việc tăng cường đội ngũ cán bộ, nhân viên của hệ thống chăm sóc
sức khỏe cho NCCCM với đầy đủ năng lực và phẩm chất (ân cần, chu đáo, có trách
nhiệm, tôn trọng và chia sẽ mọi khó khăn với người bệnh đặc biệt là liên quan đến lĩnh
vực mà mình công tác).
Nâng cao trình độ tổ chức, quản lý của cán bộ quản lý trong các cơ sở chăm sóc
sức khỏe cho NCCCM như năng lực quản lý, sử dụng tài chính cho cán bộ thực hiện
công tác chăm sóc sức khỏe cho NCCCM.
Huy động sự tham gia và nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cộng đồng, gia
đình và bản thân NCCCM vào công tác chăm sóc sức khỏe cho NCCCM.
Tạo điều kiện để NCCCM tham gia vào các tổ chức đoàn thể, thông qua đó họ có
điều kiện để hỗ trợ giúp đỡ lẫn nhau.
3.2.3. Cách thức thực hiện giải pháp
3.2.3.1. Đối với Đảng, Nhà nước và các bộ, ban, ngành có liên
quan
Đối với Đảng và Nhà nước
Đảng và nhà nước đóng vai trò là lãnh đạo cấp cao trong xây dựng, điều chỉnh,
hoàn thiện chính sách cũng như hướng dẫn, chỉ đạo kiểm tra giám sát việc thực hiện
các chính sách của các bộ, ban, ngành. Để công tác chăm sóc sức khỏe cho NCCCM
62
đạt hiệu quả cao và đưa những giải pháp đã đề ra thành hiện thực và đáp ứng nhu cầu
chăm sóc sức khỏe NCCCM, Đảng và Nhà nước cần:
Cần cụ thể hóa các chương trình, chính sách, quy định đối với vấn đề chăm sóc
sức khỏe sao cho khi thực hiện không vấp phải phản ứng không tốt từ đối tượng (một
ví dụ điển hình xây dựng chế độ điều dưỡng cho NCCCM chia ra làm hai phương thức
điều dưỡng, với phương thức điều dưỡng luân phiên 5 năm một lần, đã gặp phải phản
ứng không tốt từ đối tượng, đa số người có công cho rằng khoảng cách giữa hai lần
điều dưỡng là quá lâu và số tiền điều dưỡng quá ít, “giống như một sự bố thí”). Với
chính sách này Đảng và Nhà nước cần dựa vào điều kiện phát triển kinh tế – xã hội
cũng như các nguồn lực có thể huy động được trong từng năm, linh động tạo điều kiện
thực hiện chế độ điều dưỡng cho người có công CM, có thể linh động trong việc chi
trả nguồn tài chính cho công tác điều dưỡng, tăng mức tiền điều dưỡng. Đồng thời tạo
điều kiện cho mọi đối tượng được tham gia điều dưỡng tại cơ sở.
Trước khi quyết định xây dựng chính sách, chế độ, chương trình, dự án cho
NCCCM. Đảng, Nhà Nước cần phối hợp với các cấp, ban ngành có liên quan, thực
hiện cuộc khảo sát, tìm hiểu nhu cầu cộng đồng, của đối tượng trực tiếp, xem xét xem
phản ứng của họ như thế nào có tích cực không? Họ có đồng tình ủng hộ hay không?
Bản thân nó có thật sự hiệu quả? Có mang lại sự công bằng xã hội thực sự không?
Khi xây dựng chính sách, chế độ cho người có công lãnh đạo Đảng và ban lãnh
đạo Nhà nước chịu trách nhiệm xây dựng chính sách cần căn cứ thực tế và xem xét tất
cả các nguồn lực hiện có của đất nước, các cá nhân, tổ chức ở nước ngoài cũng như cá
nhân, tổ chức quốc tế có thể huy động tham gia vào việc thực hiện chính sách. Đảm
bảo rằng chính sách đó sẽ tạo ra hiệu ứng tốt nhất, tránh tình trạng xây dựng chính
sách đến khi ban hành, triển khai thực hiện thì thiếu nguồn lực làm cho chính sách
kém hiệu quả hoặc là không đạt được mục tiêu mà chính sách đã đề ra. Việc xây dựng
chính sách phải xuất phát từ nhu cầu, mong muốn nguyện vọng của NCCCM, thông
qua các cuộc khảo xát đánh giá nhu cầu của họ.
Trong các công văn hướng dẫn việc thực hiện chính sách, chương trình, chế độ,
dự án cho NCCCM gửi xuống cấp dưới phải thể hiện rõ những điều khoản trong chính
sách là quy định, bắt buộc, đồng thời có cơ chế để cho cán bộ cấp dưới có thể linh
động, căn cứ vào nguồn lực hiện có của địa phương cũng như những khả năng huy
63
động được các nguồn lực từ bên ngoài để từ đó có những hỗ trợ thêm cho đối tượng
NCCCM nhằm đáp ứng tốt nhất nhu cầu của họ (chẳng hạn như trong công văn hướng
dẫn thực hiện chế độ điều dưỡng hàng năm tại các huyện có hướng dẫn thêm huyện
nào thừa chỉ tiêu điều dưỡng dành cho những đối tượng đã được quy định trong chế độ
điều dưỡng thì có thể linh động cho đối tượng khác có nhu cầu được đi diều dưỡng tại
cơ sở). Đồng thời cần có những hành động cổ vũ, động viên, khuyến khích các cá
nhân, tổ chức đơn vị đã tham gia tích cực vào công tác chăm sóc NCCCM.
Thường xuyên đôn đốc các ban, ngành đoàn thể thực hiện đánh giá hiệu quả của
các chính sách đã được ban hành cho NCCCM, tốt nhất là ngay sau khi chính sách vừa
được thực hiện xong thông qua quá trình lượng giá kết quả, đảm bảo rằng trong lực
lượng thực hiện công tác lượng giá có sự tham gia của các cá nhân, tổ chức đại diện
cho tiếng nói của NCCCM. Để từ đó có thể điều chỉnh mục tiêu các giải pháp thực
hiện các chương trình, chính sách, dự án phù hợp hơn. Cũng trên cơ sở đó Đảng và
Nhà nước có sự điều chỉnh, sữa chữa kiện toàn chính sách.
Đảng và Nhà nước chỉ đạo các cơ quan ngôn luận thực hiện tuyên truyền sâu
rộng đến mọi tầng lớp nhân dân để nâng cao nhân thức, trách nhiệm đối với NCCCM.
Chỉ đạo các bộ, ban, ngành có liên quan khảo sát, xem xét thực tế ở các địa
phương, nhất là những địa phương có nhu cầu xây dựng trung tâm chăm sóc người có
công để từ đó có những hỗ trợ cần thiết. Đồng thời, thông qua các chương trình, dự án
phát triển kinh tế của đất nước, kêu gọi các nhà đầu tư trong và ngoài nước cùng tham
gia vào công tác chăm sóc NCCCM.
Đối với các bộ, ngành có liên quan
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội
Cần phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan thực hiện những đề tài nghiên cứu,
khảo sát, đánh giá nhu cầu cũng như hiệu quả của các chính sách cho NCCCM, đề
xuất lên Đảng và Nhà nước sửa đổi, bổ sung hoàn thiện cũng như xây dựng chính sách
mới cho NCCCM, cần chú trọng đến chính sách chăm sóc sức khỏe cho họ.
Cần phải thành lập ra một đội thanh tra, thường xuyên dự thảo báo cáo và tổ chức
hội nghị tổng kết các hoạt động chăm sóc sức khỏe NCCCM ở cấp dưới (sở, phòng…).
Tổ chức các cuộc kiểm tra không báo trước (tốt nhất là vào mỗi đợt triển khai thực
hiện chính sách ở các địa phương), kiên quyết xử lý nghiêm minh những trường hợp vi
64
phạm. Yêu cầu các cấp, các ngành thường xuyên báo cáo kết quả hành động, cập nhật
những khó khăn, hạn chế, những thay đổi ngoài dự đoán của từng địa phương cũng
như những nhu cầu mới có thể đáp ứng được của người có công nhằm đảm bảo cấp
dưới có trách nhiệm cao trong thực hiện cũng như tích cực chủ động điều chỉnh, tìm
kiếm các giải pháp phù hợp với thực tế.
Kiện toàn đội ngũ cán bộ làm công tác chính sách bảo đảm đủ phẩm chất, năng
lực công tác, chuyên môn, đủ khả năng tham mưu cho cấp ủy đảng, chính quyền thực
hiện có hiệu quả đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, đồng thời
thúc đẩy giải quyết tồn đọng đơn thư khiếu nại, tố cáo.
Thường xuyên liên hệ với các cơ sở chăm sóc NCCCM, xem xét đầu tư nâng cao
chất lượng phục vụ của các cơ sở: tạo điều kiện để các nhân viên phục vụ của cơ sở
được tham gia các lớp tập huấn bồi dưỡng kiến thức, kỷ năng. . . Hỗ trợ nguồn kinh
phí cũng như cơ sở vật chất, trang thiết bị, cải tiến kỷ thuật tại các cơ sở.
Xem xét các cơ sở chăm sóc sức khỏe NCCCM còn có thể nhận điều dưỡng cho
người có công CM, nhất là tại các cơ sở có quy mô lớn ở các thành phố lớn như thành
phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Đà Nẵng..... Để từ đó liên hệ cho người có công CM ở các
tỉnh thành phố khác có nhu cầu được điều dưỡng tại cơ sở.
Cần phối hợp chặt chẽ với cán bộ các cấp, các ngành có liên quan nhất là ngành y
tế để thực hiện tốt việc chăm sóc sức khỏe cho người có công và các ban ngành khác
nhằm phục vụ đời sống tinh thần cho họ như: hàng năm liên hệ với ngành du lịch ở các
tỉnh thành phố. . . thực hiện tổ chức các chuyến tham quan đưa những cụ còn khỏe
mạnh và có nhu cầu đến với những khu du lịch mới lạ, liên kết với các tổ chức cá nhân
để kêu gọi sự đóng góp hỗ trợ về kinh phí cũng như cơ sở vật chất kỹ thuật, nguồn lực
phục vụ người có công CM.
Cần thành lập ở các địa phương đội ngũ chuyên viên thực hiện nhiệm vụ tìm
kiếm nguồn hỗ trợ từ tổ chức, cá nhân những nhà hảo tâm trong và ngoài nước hỗ trợ
về tài chính, cơ sở vật chất, kỷ thuật. . . Có thể thông qua các hoạt động tổ chức các
ngày lễ lớn: Ngày 2 tháng 9, ngày 30 tháng 4, ngày 27 tháng 7, kỷ niệm ngày giải
phóng của địa phương. . .
65
Cần tiếp tục phối hợp các ngành, địa phương có biện pháp cụ thể và khả thi để hỗ
trợ các gia đình chính sách còn khó khăn từng bước vượt qua nghèo khó như giải
quyết chỗ ở, vốn phát triển sản xuất. . .
Bộ Y tế
Cần tổ chức tuyên truyền, giới thiệu những thành tựu nghiên cứu phòng, chữa
bệnh nhất là những căn bệnh mà người cao tuổi dễ mắc phải cho NCCCM.
Cần tổ chức các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ nâng cao năng lực và nhận thức cho đội
ngũ nhân viên y tế.
Cần chỉ đạo các đơn vị y tế cơ sở thường xuyên có các hoạt động hướng dẫn
người dân nói chung và NCCCM nói riêng cách thức nâng cao sức khỏe bản thân.
Tiến hành điều tra dịch tễ, tình hình bệnh tật, nhu cầu chăm sóc của NCCCM,
đặc biệt là những người thuộc nhóm yếu thế: người cao tuổi, phụ nữ, thương, bệnh
binh. Xây dựng các mô hình dịch vụ chữa bệnh, chăm sóc sức khoẻ NCCCM phù hợp
với điều kiện kinh tế Việt Nam.
Đối với các bộ, ban, ngành khác
Bộ Tài chính cần có những quy định cung cấp tài chính và phân bổ đúng quy
định cho các hoạt động chăm sóc sức khỏe cho NCCCM; cần phối hợp với các ban
ngành khác phát huy tối đa hiệu quả của nguồn vốn sử dụng để đáp ứng tốt hơn nhu
cầu chăm sóc sức khỏe của NCCCM.
Bộ văn hóa thông tin cần tổ chức tuyên truyền các văn bản của Đảng và Nhà
nước; giới thiệu những gương mặt luôn phấn đấu vì công tác chăm sóc NCCCM và
những NCCCM có nhiều kinh nghiệm trong vấn đề chăm sóc sức khỏe cho bản thân;
tổ chức triển lãm các thành tựu về NCCCM; xây dựng các phim phóng sự tài liệu, tiểu
phẩm tuyên truyền về các hoạt động công tác chăm sóc sức khỏe cho người có công;
tổ chức các hoạt động văn hoá cho NCCCM như thi thơ ca, nhạc trong phạm vi cho
phép... Đài truyền hình cần phối hợp với các cơ quan, tổ chức đoàn thể tổ chức tuyên
truyền sâu rộng đến các tầng lớp nhân dân nội dung của Pháp lệnh ưu đãi người có
công với cách mạng; tăng thời lượng phát sóng chương trình Cây cao bóng cả trên
VTV3, các chương trình chăm sóc sức khỏe; chương trình thể dục buổi sáng, tập thể
dục yoga, tập thể dục dưỡng sinh. . . Đồng thời, tăng cường phát sóng một số chương
66
trình văn học nghệ thuật như các chương trình ca nhạc, phim truyền hình về chủ đề về
người có công cách mạng vào những ngày lễ 30/4; 1/5; 27/7, 22/12. . .
Hội Cựu chiến binh và Hội người cao tuổi cần tổ chức nhiều hơn nữa các buổi
giao lưu, gặp gỡ NCCCM nhằm động viên, cổ vụ tinh thần giúp họ lạc quan hơn trong
cuộc sống cũng như truyền đạt cho nhau kinh nghiệm chăm sóc sức khỏe.
3.2.3.2. Đối với chính quyền địa phương
Uỷ ban nhân dân tỉnh Bình Định
cần phối hợp với cơ quan cấp trên cũng như cơ quan cấp dưới thực hiện chương
trình hoạt động chăm sóc sức khỏe NCCCM; cần nghiên cứu kĩ các văn bản chính
sách của nhà nước để khi thực hiện tại đại phương có hiệu quả tốt nhất; chỉ đạo các
ban, ngành ở địa phương nghiêm túc thực hiện các quy định về chăm sóc sức khỏe
NCCCM; có chính sách ưu tiên về chăm sóc sức sức đối với những địa đặc biệt khó
khăn trong tỉnh. . .
Sở Lao động – thương binh và xã hội tỉnh Bình Định
Cần hướng dẫn một cách cụ thể rõ ràng các chính sách dành cho NCCCM cho
phòng LĐ – TB&XH các huyện trong tỉnh.
Cần thường xuyên theo dõi, kiểm tra giám sát các phòng LĐ – TB&XH trong
việc thực hiện chính sách nói chung và công tác chăm sóc sức khỏe cho NCCCM nói
riêng. Kịp thời báo cáo lên bộ LĐ – TB&XH về những bất cập, khó khăn của huyện
trong thực hiện cũng như những nhu cầu mới của NCCCM, phối hợp Bộ LĐ –
TB&XH tìm ra các biện khắc phục.
Cần phối hợp đài truyền hình và phát thanh Bình Định, báo Bình Định, Nhà văn
hóa lao động Bình Định, các trung tâm tư vấn tâm lý của tỉnh Bình Định. . .tổ chức các
buổi giao lưu, tuyên truyền về vai trò trách nhiệm của toàn dân trong việc thực hiện
công tác chăm sóc sức khỏe cho NCCCM. Thông qua các ngày lễ lớn kêu gọi sự cổ vũ
động viên, huy động nguồn vốn từ các cá nhân tổ chức, doanh nghiệp trong và ngoài
tỉnh cho hoạt động chăm sóc sức khỏe cho NCCCM.
Đối với Trung tâm chăm sóc NCCCM tỉnh Bình Định
Thông qua kết quả khảo sát có thể thấy rằng đa số NCCCM đều có mong muốn
được thường xuyên điều dưỡng tại các trung tâm, chủ yếu là trung tâm chăm sóc
NCCCM tỉnh Bình Định. Trong những năm qua, Trung tâm cũng đã thực hiện tương
67
đối tốt công tác chăm sóc NCCCM, góp phần nâng cao chất lượng sức khỏe cũng như
đời sống của NCCCM, góp phần đáng kể vào việc phát huy tinh thần “uống nước nhớ
nguồn”. Để tiếp tục thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ, Trung tâm chăm sóc NCCCM
tỉnh cần:
Tăng cường bảo quản những trang thiết bị, cơ sở vật chất, kỹ thuật có sẵn, quản
lý, nắm rõ hiện trạng của chúng để có sự can thiệp kịp thời khi chúng bị hư hỏng, tránh
trường hợp để hư hỏng nặng không thể sữa chữa được.
Kêu gọi nguồn tài trợ từ các tổ chức cá nhân trong và ngoài nước hỗ trợ về tài
chính để mua trang thiết bị, cơ sở vật chất cũng như kêu gọi họ đầu tư về trang thiết bị
cho cơ sở nhằm quảng bá sản phẩm, thương hiệu của họ trên thị trường thông qua các
hoạt động từ thiện.
Sử dụng nguồn kinh phí được hỗ trợ một cách hợp lý có chất lượng, hiệu quả cao
tránh sử dụng lãng phí.
Khi mở rộng cơ sở hay tăng cường hiện đại hóa trang thiết bị, cơ sở vật chất kỹ
thuật cần phải có sự tính toán kỹ lưỡng, hoạch định một cách cụ thể rõ ràng chi tiết
dựa trên điều kiện thực tiễn của cơ sở tránh trường hợp xa rời thực tế dẫn đến thất bại.
Bên cạnh việc tăng cường cơ sở vật chất, trình độ chuyên môn kỹ thuật cần phải
nâng cao chất lượng phục vụ của đội ngũ cán bộ nhân viên của trung tâm bao gồm các
hoạt động cụ thể sau: Thường xuyên tập huấn bồi dưỡng nhân viên về kiến thức kỹ
năng phục vụ như tham gia các lớp học về kỹ năng giao tiếp, kỹ năng giải quyết vấn
đề; tập huấn cho nhân viên về cách sử dụng, bảo quản các trang thiết bị, cơ sở vật chất,
có thể cho họ trực tiếp tham gia vào các lớp chuyển giao khoa học, công nghệ; thường
xuyên cử nhân viên đến các cơ sở khác trong và ngoài nước để tham quan các mô hình
làm việc của họ từ đó học hỏi kinh nghiệm: Học cái hay cái tốt từ họ, tránh cái sai lầm
của họ. . .; nhân viên tại các cơ sở cần đón tiếp khách, kể cả đối tượng được chăm sóc
ở đó với thái độ niềm nở ân cần chu đáo, tôn trọng. . . Làm việc với tinh thần trách
nhiệm cao.
Đa dạng hóa các hoạt động điều dưỡng của người có công tại cơ sở: Tổ chức các
chuyến du lịch tham quan tại những thắng cảnh mới lạ không nhất thiết phải là nỗi
tiếng, tổ chức các cuộc gặp gở giao lưu trò chuyện giữa họ, hay là tổ chức các cuộc thi
văn hóa, văn nghệ thể dục thể thao để họ có thể tham gia.
68
Ủy ban nhân dân huyện Hoài Ân
Cần cụ thể hóa tối đa các văn bản chính sách về chăm sóc sức khỏe của cấp trên
cũng như cần tăng cường chỉ đạo, quản lý, đôn đốc kiểm tra, giám sát việc thực hiện
chính sách cho NCCCM của phòng LĐ – TB&XH, các phòng ban, các cấp cơ sở
trong thực hiện công tác chăm sóc sức khỏe cho NCCCM.
Linh động trong việc tìm kiếm nguồn đầu tư, các chương trình, dự án như các
chương trình, dự án xóa đói giảm nghèo, nhằm tăng nguồn lực phát triển kinh tế – xã
hội và nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân thông qua đó nâng cao công tác
chăm sóc sức khỏe cho NCCCM.
Tăng cường các dịch vụ phương tiện công cộng như xe bus, xe khách, Huyện cần
có kế hoạch xây dựng phát triển hoàn thiện loại hình vận chuyển này, đặc biệt cần mở
rộng các tuyến đường xe buýt về Huyện và thực hiện miễn phí cho người cao tuổi,
người bị thương tật và mọi người tham gia cần nhường ghế cho họ nhằm đảm bảo an
toàn và sự thoải mái cho họ khi tham gia các phương tiện này. Điều này làm tăng khả
năng gặp gỡ gia lưu bạn bè tham gia các tổ chức, các hoạt động xã hội đối với những
người đơn thân, không có con cháu người thân ở bên cạnh.
Chúng ta phải thừa nhận rằng cùng với quá trình đô thị hóa nông thôn, với nền
kinh tế thị trường đòi hỏi con người ta phải tăng cường làm việc do đó trong tương lai
chắc chắn có nhiều gia đình truyền thống sẽ tách ra thành các gia đình hạt nhân, con
cháu sẽ ít có thời gian để quan tâm chăm sóc chu đáo đối với ông bà, cha mẹ mà đa số
họ chỉ có thể đáp ứng được nhu cầu vật chất. Và như thế người cao tuổi nói chung và
NCCCM nói riêng sẽ rất cần đến sự hỗ trợ từ xã hội, họ sẽ có nhu cầu tiếp cận và sử
dụng các dịch vụ xã hội cao hơn. Bằng chứng là thông qua cuộc khảo sát có tới 98%
được phỏng vấn sâu trả lời rằng họ rất cần đến một trung tâm chăm sóc NCCCM và họ
hy vọng rằng huyện Hoài Ân có thể xây dựng thành công trung tâm này. Do đó,
UBND Huyện Cần nhanh chóng tiến hành các công việc để xây dựng trung tâm chăm
sóc sức khỏe riêng cho NCCCM trên địa bàn Huyện bằng cách:
Tìm địa điểm xây dựng Trung tâm
Chuyển đổi mục đích sử dụng diện tích đất của Trung tâm thể dục dưỡng sinh
hiện có tại Huyện và giải tỏa thêm một phần diện tích đất của khu vực xung quanh để
sử dụng xây dựng Trung tâm.
69
Huy động nguồn kinh phí
Thông qua tổ chức các hoạt động “đền ơn đáp nghĩa” vào những ngày lễ lớn kêu
gọi hỗ trợ tài chính từ nhiều nguồn khác nhau, đặc biệt là nguồn vốn lớn từ những
chính sách Đảng và Nhà nước quy định ưu tiên hỗ trợ về vốn cơ sở vật chất, trang thiết
bị cho các cơ sở phục vụ cho người cao tuổi và NCCCM như theo nghị định quy định
chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật người cao tuổi ngày 14/1/2011
(chương II có hướng dẫn về những vấn đề liên quan đến các cơ sở chăm óc người cao
tuổi trong đó có phần xây dựng trung tâm hay tại điều 22 của pháp lệnh ưu đãi
NCCCM năm 2005 quy định các cơ sở sản xuất, kinh doanh dành cho thương binh,
bệnh binh được Nhà nước hỗ trợ cơ sở vật chất ban đầu, bao gồm nhà xưởng, trường,
lớp, trang bị, thiết bị, được miễn hoặc giảm thuế, vay vốn ưu đãi theo quy định của
pháp luật).
Từ Bộ lao động thương binh và xã hội; đài phát thanh Hoài Ân. đài truyền hình
Bình Định, báo Bình Định với tư cách là đơn vị bảo trợ, quyên góp từ các cơ quan,
doanh nghiệp và các nhà hảo tâm; phòng LĐ – TB&XH với tư cách là đơn vị trực tiếp
quản lý và kêu gọi hỗ trợ từ các cá nhân tổ chức, đơn vị và nhà nước; từ quỹ đền ơn
đáp nghĩa của huyện; hội cựu chiến binh và mặt trận tổ quốc việt Nam với tư cách là
đơn vị huy động trực tiếp sự hỗ trợ, giúp đỡ từ các đơn vị bộ đội trong cả nước; hội
người cao tuổi; từ việc đóng góp của nhân dân cả nước đặc biệt là nhân dân huyện
Hoài Ân về tài chính hoặc là công sức; từ các cá nhân thành đạt trong và ngoài nước,
từ các doanh nghiệp, công ty nhà máy. . . của Huyện nhà các huyện lân cận và trong cả
nước.
Giao cho các cán bộ phụ trách xây dựng Trung tâm thiết kế chương hoạt động cụ
thể
Tổ chức các hoạt động nuôi dưỡng, chăm sóc NCCCCM về vật chất tinh thần và
giúp họ tăng cường quan hệ xã hội.
Tổ chức nhận điều dưỡng hàng năm cho các đối tượng có nhu cầu điều dưỡng tại
Trung tâm nhưng không trực tiếp ở trong trung tâm.
Tổ chức điều trị bệnh cho những NCCCM bị bệnh nặng.
Tổ chức các hoạt động lao động sản xuất phù hợp với từng đối tượng NCCCM
khi tham gia vào trung tâm như trồng hoa màu, chăn nuôi. . . nhằm tạo thêm kinh phí
70
cho Trung tâm đồng thời cũng là nâng cao sức khỏe thể chất và tinh thần cho
NCCCM.
Huy động về cơ sở vật chất kỹ thuật
Trên cơ sở một số trang thiết bị có sẵn của trung tâm thể dục dưỡng sinh dành
cho người cao tuổi và NCCCM của xã Ân Tường Tây: bàn ghế làm việc, tủ hồ sơ, máy
tính, máy in, máy quạt, máy điện thoại bàn, tủ sách. Trang thiết bị hỗ trợ bao gồm xe
lăn, máy tập thể đục dưỡng sinh, sân thể thao.
Cần xây dựng thêm phòng và tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật trên cơ sở
nguồn kinh phí huy động được đồng thời thông qua việc thu hút các chương trình dự
án đầu tư phát triển ở Huyện nhà cũng như giúp các đơn vị tổ chức, doanh nghiệp quản
bá sản phẩm đến người tiêu dùng thông qua hình thức gửi tặng sản phẩm đặc biệt là
máy móc trang thiết bị để trang bị và sử dụng trong trung tâm.
Huy động nguồn nhân lực cho trung tâm
Tiến hành tạo điều kiện khuyến khích nhân viên làm việc tại Huyện tham gia vào
các lớp học mới nhằm nâng cao kiến thức kỹ năng nhất là trong lĩnh vực tổ chức, quản
lý nhân sự, khóa đào tạo về công tác xã hội, các lớp học tìm hiểu về đối tượng
NCCCM, đào tạo cán bộ chuyên môn về kinh tế – tài chính, y tế, đời sống, . Để khi trở
về họ có đủ khả năng để điều hành, phát triển trung tâm đi lên đáp ứng nhu cầu chăm
sóc sức khỏe NCCCM, trong đó có chú trọng đến việc đào tạo nhà quản trị công tác xã
hội (sẽ là giám đốc của trung tâm).
Bên cạnh đó cần có những chính sách ưu đãi nhằm thu hút đội ngũ sinh viên
đang học tại các trường đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp cũng như những
cán bộ có trình độ chuyên môn cao về phụ vụ cho trung tâm.
Thành lập hội đồng trung tâm gồm tất cả các nhà hảo tâm, tình nguyện viên, hội
viên của phòng LĐ – TB&XH huyện Hoài Ân, nguyên là hội viên của đài phat thanh
Hoài Ân, đài truyền hình Bình Định, báo Bình Định, nguyên là hội viên hội cựu chiến
binh, Mặt trận tổ quốc Việt Nam và hội viên của các tổ chức xã hội khác.
Phòng y tế và các cơ sở khám, chữa bệnh của huyện Hoài Ân
Ban lãnh đạo Phòng và các cơ sở cần thường xuyên theo dõi cung cách làm việc
của đội ngũ nhân viên, đặc biệt là thái độ phục vụ của họ đối với bệnh nhân đề từ đó
có sự nhắc nhở, khiển trách, điều chỉnh đúng lúc, nhằm nâng cao thái độ của họ đối
71
với bệnh nhân: ân cần, chu đáo, tinh thần trách nhiệm cao tôn trọng hơn. Tranh thủ
những lúc rảnh rỗi có thể thăm hỏi trò chuyện với bệnh nhân, thăm dò ý kiến của họ về
chất lượng khám, chữa bệnh tại cơ sở, giải quyết tốt các thư từ góp ý, đơn khiếu nại tố
cáo của người dân.
Để có thể thực nhiện tốt vai trò của mình trong việc chăm sóc sức khỏe cho
NCCCM. Bệnh viện huyện, các trạm y tế cần phối hợp với Phòng tài chính và Phòng
LĐ – TB&XH Huyện thường xuyên thực hiện các phong trào khám chữa bệnh miễn
phí cho NCCCM, cần cử ra một vài người trực tiếp đến gia đình những người bị bệnh
nặng. Kết hợp với việc tuyên truyền, hướng dẫn NCCCM và thân nhân của họ về các
phương pháp phòng, chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe tốt hơn.
Thường xuyên đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ nhân viên làm việc tại các bệnh viện,
các trạm y tế, phòng khám tư, cần tạo điều kiện khuyến khích họ tham gia các lớp học
nâng cao trình độ. Tiến hành đưa nhân viên tại các cơ sở y tế tham gia các lớp học về
tâm lý, xã hội để có thể thực hiện nhiệm vụ tư vấn tâm lý, giải đáp, chia sẽ những thắc
mắc và khó khăn của NCCCM nói riêng, nhân dân của Huyện nói chung.
Tăng cường việc ứng dụng công nghệ mới vào công tác khám, chữa bệnh bằng
cách, cần tăng cường sự linh động liên hệ, hợp tác song phương, đa phương với các tổ
chức, cá nhân, các doanh nghiệp để tranh thủ sự đầu tư hỗ trợ về cơ sở, vật chất kỹ
thuật, trang thiết bị cũng như ủng hộ nguồn kinh phí, mời các chuyên gia thành thạo
trong việc sử dụng những trang thiết bị, công nghệ mới cũng như tạo điều kiện khuyến
khích nhân viên tham gia các cuộc hội thảo về ứng dụng khoa học công nghệ đặc trong
lĩnh vực y tế.
Những người trong ban lãnh đạo cần phải nâng cao trình độ tổ chức, quản lý của
mình như tham gia các lớp học về quản lý nhân sự, quản lý nguồn tài chính.
Phòng lao động – thương binh và xã hội huyện Hoài Ân
Trước tiên, để có thể hoàn thành tốt công việc của mình, Phòng cần kiện toàn bộ
máy tổ chức thông qua việc thường xuyên tổ chức các lớp tập huấn, cử nhân viên của
phòng đặc biệt là nhân viên phụ trách lĩnh vực người có công tham gia các lớp tập
huấn tại các cơ quan đơn vị khác, đặc biệt là tại sở LĐ – TB&XH tỉnh Bình Định
nhằm nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ.
72
Mỗi khi sở LĐ – TB&XH tỉnh có công văn về hướng dẫn thực hiện chính sách,
chế độ cho người có công cần thực hiện phải nghiên cứu một cách kỹ lưỡng, có trách
nhiệm nếu có gì chưa rõ có thể liên hệ hoặc trực tiếp gặp gỡ nhân viên chịu trách
nhiệm chính trong lĩnh vực đó của Sở để được giải đáp, hướng dẫn cụ thể hơn.
Mỗi khi ban hành cho các xã thực hiện chính sách, chế độ phòng cần phải cử
nhân viên theo dõi kiểm tra giám xác việc thực hiện xem họ thực hiện có đúng tinh
thần không? Họ có bỏ xót ai không? Họ làm việc đã đáp ứng được nhu cầu nguyện
vọng của đối tượng chưa? Và thường xuyên tổ chức các cuộc họp báo cáo về kết quả
đã đạt được, những gì chưa đạt được để từ đó có sự điều chỉnh cho phù hợp.
Cần giải quyết tốt và triệt để các đơn khuyến nghị, tố cáo của NCCCM, tham
khảo lắng nghe ý kiến của họ không được bỏ qua bất cứ ý kiến đóng góp nào cứ 1
tháng tổng hợp các đơn thư một lần sau đó thực hiện tổng kết gặp gỡ NCCCM và giải
quyết một cách công bằng, công tâm.
Phối hợp với sở LĐ – TB&XH, trung tâm chăm sóc NCCCM tỉnh Bình Định
phòng tài chính, bệnh viện Huyện, trạm y tế xã tổ chức tốt các đợt điều dưỡng cho
người có công, đảm bảo những người điều dưỡng tại gia đình phải có đội ngũ nhân
viên đến thăm hỏi và có cán bộ y tế đến để thăm, khám bệnh cho họ.
Cần thành lập ra đội ngũ chuyên viên của Huyện thực hiện nhiệm vụ tìm kiếm
nguồn hỗ trợ từ nhân tổ chức, cá nhân những nhà hảo tâm trong và ngoài nước hổ trợ
về tài chính, cơ sở vật chất, kỹ thuật.... Có thể thông qua các hoạt động tổ chức các
ngày lễ lớn: Ngày 2 tháng 9, ngày 30 tháng 4, ngày 27 tháng 7, kỹ niệm ngày giải
phóng của địa phương. . .
Phối hợp với đài phát thanh Hoài Ân và đài truyền hình Bình Định tổ chức các
đợt vận động, tuyên truyền nhằm nâng cao nhận thức của xã hội về vai trò, tầm quan
trọng, những đóng góp của người có công cũng như giúp họ nhận thức một cách đầy
đủ về vai trò trách nhiệm của mình trong công tác chăm sóc NCCCM, kêu gọi sự
đóng góp hỗ trợ của các cá nhân, tổ chức, đoàn thể trong và ngoài Huyện nhằm gây
dựng và tăng cường “quỹ đền ơn đáp nghĩa”.Quản lý sử dụng quỹ đó một cách hiệu
quả nâng cao đời sống cho người có công về mọi mặt. Tổ chức các cuộc thi văn hóa,
văn nghệ: thi làm thơ, thi hát. . . thể dục thể thao: thi chạy bền, cưởi xe đạp, đánh cờ. .
73
. phù hợp với mọi đối tượng NCCCM đặc biệt chú ý đến thương, bệnh binh và người
cao tuổi.
Phối hợp với các lực lượng, đặc biệt khuyến khích thành lập câu lạc bộ tình
nguyện viên, công tác xã hội giúp đỡ NCCCM trong chăm sóc sức khỏe cũng như các
công việc khác trong cuộc sống của họ.
Nâng cao trình độ tổ chức quản lý cho đội ngũ quản lý chẳng hạn như hỗ trợ họ
tham gia lớp bồi dưỡng quản trị công tác xã hội, quản trị nhân sự. . .
Tăng cường đội ngũ nhân viên của Phòng cả về số lượng và chất lượng thông qua
hình thức tuyển dụng công khai, đặc biệt là nhân viên làm việc trong lĩnh vực chính
sách cho người có công.
Nhân viên phòng cần phải phổ biến, hướng dẫn rõ về chế độ, chính sách dành
cho NCCCM cho nhân viên các xã, yêu cầu cán bộ xã mỗi khi có công văn mới hướng
dẫn về việc thực hiện chế độ cần tổ chức cuộc họp để phổ biến cho toàn bộ đối tượng
hiểu rỏ và thực hiện theo, một khi hiểu rỏ nếu họ không phải là đối tượng được hưởng
chế độ đó họ sẽ không cảm thấy bứt xúc hay .
Đối với các tổ chức, đoàn thể trong huyện Hoài Ân
Cần vận động hội viên trong các tổ chức, đoàn thể dùng quỹ của hội để hỗ trợ
giúp đỡ những người có hoàn cảnh khó khăn, bệnh tật, neo đơn. Tuy sự giúp đỡ có
giới hạn nhưng đề cao vai trò của người có công để họ không thấy bị lãng quên. .
Cần tạo thêm nhiều sân chơi lành mạnh, khuyến khích hơn nữa NCCCM tham
gia vào sinh hoạt đoàn thể, hội, câu lạc bộ chính thức, phi chính thức thu hút những
người thuộc nhóm cao tuổi, các cụ bà và các cụ là dân thường (như câu lạc bộ nhân ái,
câu lạc bộ dưỡng sinh, câu lạc bộ những người sống vui khỏe có ích kết hợp với các
hoạt động thể thao cầu lông bóng bàn, yoga nâng cao sức khỏe thể chất, câu lạc bộ thơ
ca, văn nghệ đó là nơi các cụ có thể vui chơi giải trí, gặp gở kết bạn. Nhằm đáp ứng
nhu cầu giao lưu bạn bè cho NCCCM nâng cao sức khỏe tinh thần và mở rộng quan hệ
xã hội). Tuy nhiên, để đảm bảo tính hiệu quả cần phải có những hoạt động thiết thực,
chú trọng công tác tổ chức xây dựng chương trình hoạt động phong phú, hoàn thiện cơ
sở vật chất, mở rộng không gian sinh hoạt.
Cần kêu gọi các cơ quan chức năng các cấp từ tỉnh ủy, UBND Huyện, phòng LĐ
– TB&XH Huyện. . . cũng như các tổ chức cá nhân, hỗ trợ kinh phí để thực hiện các
74
hoạt động đồng hương, đồng ngũ thường xuyên do hội cựu chiến binh đảm nhận, bởi
những hoạt động này thật sự có ý nghĩa đối với NCCCM, đó là dịp để họ gặp gỡ
những người cùng quê, những người bạn ngày xưa đã trực tiếp kề vai sát cánh chiến
đấu bên nhau, (xuất phát từ thực tế hiện nay các hoạt động này phần nhiều mang tính
tự phát, thiếu người làm cầu nối liên lạc, hơn nữa kinh phí tổ chức cũng là vấn đề nan
giải để duy trì các hội này).
Vận động hội viên cũng như các cơ quan, tổ chức cá nhân ở từng xã, huyện hỗ
trợ nguồn kinh phí, bổ sung vào quỹ hội. Qũy hội sẽ là nguồn trợ giúp họ nhiều hơn.
Trong hội cũng nên tổ chức các hình thức tự giúp nhau và giúp đỡ người khác như
cách làm của hội chữ thập đỏ. Điển hình hội chử thập đỏ thành phố Quy Nhơn, trong
những năm qua đã sử dụng nguồn quỷ của mình không những là giúp đỡ những hội
viên mà còn giúp đỡ những mảnh đời bất hạn, ở đó có một tấm gương sáng ngời một
người luôn cống hiến cả cuộc đời cho quê hương, đất nước và cho người khác đó là vị
lão thành cách mạng Trang Xuân Chi, tham gia hoạt động trong hội chử thập đỏ của
tỉnh Bình Định ông đã có nhiều cống hiến lớn lao “kêu gọi, huy động sự hỗ trợ từ các
cá nhân, tổ chức hỗ trợ giúp đỡ những người không may trong cuộc sống: trẻ em bị
tim bẩm sinh, người khuyết tật ngoài ra ông còn là vị lương y cứu chữa cho rất nhiều
người, vào năm 2010 ông đã liên hệ với nhà xuất bản Quân đội nhân dân cho ra đời
cuốn sách để đời “gieo niềm khác vọng sống” (nói về những mảnh đời bất hạnh đã
ông cứu giúp và vượt lên trên số phận) ”. Nếu mô hình này nhân rộng sẽ thu hút nhiều
NCCCM tham gia vì nó giúp cho NCCCM tìm được ý nghĩa của cuộc sống, khi tiếp
tục được làm những việc có ý nghĩa, giúp ích cho bản thân, người khác và cho đời.
Cần có một trung tâm tư vấn cho người có công, có thể nằm trong hội cựu chiến
binh của Huyện. Trung tâm này sẽ là nơi giải tỏa những vấn đề rắc rối mà họ hay gặp
phải như: các vấn đề về sức khỏe, sự rối loạn tâm lý, tình cảm, những xung đột căng
thẳng.
Đối với đội ngũ nhân viên y tế
Hơn ai hết, đội ngũ cán bộ nhân viên y tế cơ sở cần ý thức đầy đủ về vai trò,
trách nhiệm trong công tác chăm sóc sức khỏe cho nhóm đối tượng đặc thù là
NCCCM.
75
Không ngừng phấn đấu nâng cao trình độ chuyên môn và bồi dưỡng phẩm chất
trong công tác để phục vụ tốt nhất bệnh nhân, nhất là những người đã hi sinh mất mát
rất nhiều cho Tổ quốc.
Đối với các cán bộ nhân viên y tế chuyên trách cần chuẩn bị các bài giảng về sức
khỏe, vai trò của chăm sóc sức khỏe, những căn bệnh thường gặp ở người cao tuổi và
cách chữa trị, với nhiều hình thực đa dạng phong phú (kết hợp tranh ảnh, sân khấu
hóa, thảo luận nhóm) để đạt hiệu quả cao trong tuyên truyền đến NCCCM. Đồng thời,
cần khuyến khích NCCCM xác định vấn đề sức khỏe của mình thông qua việc hướng
dẫn họ xây dựng cây vấn đề bao gồm vấn đề chính là sức khỏe yếu kém, nguyên nhân,
hậu quả và đề xuất các giải pháp. Để từ đó họ tự nhận thức ra vấn đề, những nguyên
nhân và tích cực tìm kiếm giải pháp cải thiện tình trạng sức khỏe của bản thân.
Sơ đồ 2: Mô hình cây vấn đề mà nhân viên dùng để hướng dẫn đối tượng xây
dựng hiểu biết về vấn đề sức khỏe
Đối với cán bộ xã
Mỗi khi có chỉ thị từ phòng LĐTB – XH về việc thực hiện trợ cấp, công tác điều
dưỡng người có công, cán bộ xã cần nghiên cứu công văn có điều gì chưa rõ cần liên
hệ với nhân viên của phòng để được hướng dẫn rỏ hơn và đảm bảo thực hiện đúng đối
tượng được hưởng tránh trường hợp đưa vào sai đối tượng, sót đối tượng. Sau đó tổ
HẬU QUẢ
NGUYÊN NHÂN
SỨC KHỎE YẾU KÉM VẤN ĐỀ CHÍNH
76
chức các cuộc họp mời những người có công đến và phổ biến giải thích cho họ hiểu rõ
tinh thần của công văn đó.
Thường xuyên tổ chức các cuộc họp mời những người có công của xã về tham
dự, báo cáo về những kết quả đã dạt được, trung thực thẳng thắn nhìn nhận về những
sai lầm, khuyết đểm của mình và đảm bảo sẽ rút kinh nghiệm và không để lập lại sai
lầm đó, phối hợp với nhân viên của phòng LĐ – TB&XH Huyện để phổ biến chính
sách, chế độ giải đáp những thắc mắt của người có công.
Cán bộ xã cần phối hợp chặt chẽ với các lực lượng, các tổ chức đoàn thể, các cá
nhân, các ngành để chung tay góp sức thực hiện có hiệu quả công tác “đền ơn đáp
nghĩa” cụ thể cán bộ xã cần thông báo và huy động các lực lượng như: Hội cựu chiến
binh, hội phụ nữ, cán bộ địa phương, hội người cao tuổi, đoàn thanh niên, giáo viên
học sinh tham gia chia nhau tiến hành công tác thăm hỏi, tặng quà động viên người có
công CM vào những ngày lễ 2/9; 30/4; 27/7; ngày tết cổ truyền… thường xuyên nắm
bắt thông tin về cuộc sống của người có công, kịp thời đến thăm hỏi động viên những
người có sức khỏe yếu kém, bệnh tật. Hỗ trợ những gia đình NCCCM gặp khó khăn.
Góp phần thực hiện đa dạng hóa các hình thức hoạt động của các tổ chức đoàn
thể: hội cựu chiến binh, hội phụ nữ, hội người cao tuổi như thường xuyên tổ chức các
gặp gở trò chuyện về những năm tháng tham gia cách mạng giới thiệu những tấm
gương người tốt việc tốt, những cá nhân đã vợt qua nghịch cảnh chiến thắng số phận,
cuộc gặp gỡ trò chuyện trao đổi kinh nghiệm sống với thế hệ trẻ lễ kỷ niệm ngày
truyền thống CM, các cuộc thi văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao, tri thức, để thu hút
sự tham gia của NCCCM, chú ý đến điều kiện đi lại của thương, bệnh binh, những
người cao tuổi, bị bệnh nặng để từ đó có các phương tiện hỗ trợphù hợp giúp họ mở
rộng các mối quan hệ xã hội, các hoạt động xã hội.
Giao nhiệm vụ cho nhân viên dưới quyền thực hiện cuộc khảo sát ý kiến
NCCCM để tìm hiểu xem họ có phản ứng như thế nào hoạt động chăm sóc sức khỏe
cho họ, để từ đó thay đổi điều chỉnh cho phù hợp, luôn cố gắng giải quyết tốt đơn
khuyến nghị cũng như tiếp thu những ý kiến đóng góp NCCCM không được bỏ qua
bất cứ ý kiến nào.
Cần đôn đốc công tác đảm bảo an sinh cho người có công đặc biệt là thực hiện
tốt công tác xóa đói giảm nghèo nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống của gia đình
77
NCCCM, để không còn tình trạng con, cháu đi làm ăn xa để lại quê nhà những cụ già,
thương binh, bệnh binh với những đứa trẻ còn quá non nớt.
Đối với người thân trong gia đình NCCCM
Các con, cháu cần quan tâm và cố gắng đáp ứng nhu cầu của người có công trong
phạm vi cho phép như giúp đỡ về vật chất, thường xuyên trò chuyện, thăm hỏi
NCCCM, đối với các con cháu ở xa có thể thông qua các phương tiện thong tin liên lạc
(gọi điện hỏi thăm động viên cha mẹ, đưa cả gia đình về thăm nhà cha mẹ vào những
dịp hè, lễ, tết…). Để đảm bảo cho NCCCM được an hưởng tuổi già yên vui, hạnh
phúc, vấn đề quan trọng là làm sao giải quyết tốt các mối quan hệ giữa các thế hệ trong
gia đình, luôn tạo ra bầu không khí đầm ấm vui tươi, hạnh phúc. Cách tốt nhất là giáo
dục cho thế hệ trẻ hiểu và thông cảm với những đặc điểm về tâm, sinh lý của người
cao tuổi, cha mẹ làm tấm gương hiếu thảo với ông bà.
Gia đình cần quan tâm chăm sóc, tạo điều kiện tốt nhất để người có công được đi
điều dưỡng và chăm sóc sức khỏe tại cơ sở.
Người thân của NCCCM cần tìm hiểu về các chính sách chế độ mà họ xứng đáng
được hưởng khi họ không có điều kiện tìm hiểu nghiên cứu, cũng như nghiên cứu các
tài liệu, sách báo về người cao tuổi (về cách chăm sóc, những thay đổi về tâm sinh lý
để từ đó có cách đối xử, chăm sóc cho phù hợp, tránh tạo ra những cú sốc, gây buồn
phiền cho họ) để thực hiện công việc này tốt hơn. Nếu có điều kiện, một thành viên
trong gia đình nên đi học những kiến thức về y tế tại các trung tâm, chúng không chỉ
phục vụ cho yêu cầu chăm sóc các thành viên trong gia đình họ mà còn cho chính bản
thân họ.
Các mối quan hệ bạn bè có ý nghĩa tinh thần quan trọng đối với NCCCM, mỗi
khi ốm đau họ rất cần được bạn bè đến thăm hỏi, an ủi động viên. Hoạt động trò
chuyện ngoài ý nghĩa tinh thần còn là nguồn cung cấp và trao đổi thông tin, giúp họ
mỡ rộng tầm hiểu biết. vì vậy gia đình cần chú ý tạo mọi điều kiện để họ được gặp gở
giao lưu bạn bè.
Như chúng ta đã biết, cách hỗ trợ tốt nhất để giúp NCCCM hòa nhập vào cuộc
sống gia đình, cộng đồng xã hội không phải là lúc nào ta cũng ở bên cạnh họ bởi điều
đó có thể tạo phản ứng ngược rất tiêu cực. Đa số NCCCM nhất là người cao tuổi, họ
có lòng tự tôn rất lớn, hơn nữa do đặc điểm tâm lý người cao tuổi họ không muốn
78
người khác xem mình là người già yếu, không có khả năng làm việc gì. . . cho nên
cách tốt nhất ta tạo ra môi trường thuận lợi cho họ chẳng hạn như thay vì ta đi theo
nâng đở họ thì ta chú ý sắp xếp đồ đạt gọn gàn ngăn nắp phù hợp với đặc điểm của
từng người NCCCM.
Gia đình, các tổ chức, các hội, đoàn thể cá nhân cần tạo mọi điều kiện thuận lợi
cho NCCCM lao động nhẹ nhàng phù hợp với lứa tuổi như: trồng cây, trồng hoa màu,
nuôi gà, thả cá, làm thủ công mỹ nghệ, buôn bán nhỏ. Nhằm giúp cho họ thoát khỏi
những mặc cảm tâm lý không đáng có (ăn bám con cháu, gánh nặng xã hội, là người
vô dụng… của người cao tuổi, thương tật, bệnh tật) có thêm thu nhập để chi tiêu các
sinh hoạt hàng ngày.
Đối với họ hàng và hàng xóm láng giềng
Các mối quan hệ họ hàng có vai trò nổi bật trong việc trợ giúp chăm sóc sức
khỏe cho người có công CM. Ở nông thôn, có lợi thế đa số họ hàng sống gần nhau
những khi ốm đau người có công vẫn có người anh, chị, em ruột chăm sóc.
Cần củng cố và phát triển các hoạt động dòng họ như phong trào xây dựng nhà
thờ dòng họ, lập quỹ khuyến học, các cuộc gặp gở họp bàn dòng tộc, thân tộc… mà
NCCCM có thể tham gia trực tiếp bằng cách đóng góp công sức, tiền bạc. Những hoạt
động này giúp gắn chặt NCCCM nhất là người cao tuổi, thương binh, bệnh binh với
các mối quan hệ thân tộc của mình, góp phần cải thiện đời sống tinh thần cho
NCCCM.
Đối với NCCCM
Tất cả những giải pháp đã đề ra ở trên sẽ thể thực hiện và không đạt kết quả nếu
NCCCM không hợp tác và tham gia.
Thông qua những tác động từ gia đình, chính quyền địa phương các tổ chức đoàn
thể NCCCM cần phải ý thức rõ về vai trò ý nghĩa thực sự của sức khỏe, để từ đó chủ
động tìm kiếm các hành vi, hình thành những thói quen có lợi cho sức khỏe chẳng hạn
như tìm kiếm thông tin thông qua bạn bè, sách báo, internet các kiến thức về chăm sóc
sức khỏe, các phòng và chữa trị các căn bệnh mà người cao tuổi hay mắt phải. Luôn
cẩn thận trong mọi hoạt động từ đi lại đến các hoạt động khác, tránh hoạt động mạnh,
làm giảm thiểu các nguy cơ gãy xương.
Tích cực hợp tác với con, cháu và các nhân viên trong vấn đề khám chữa bệnh.
79
Tìm đọc những lọai sách báo viết về đặc điểm tâm sinh lý của người cao tuổi.
Chấp nhận những giá trị của sự thay đổi cũng như sự khác biệt của bản thân, hiểu
và thông cảm cho con, cháu trong các vấn đề của cuộc sống. Luôn sống một cách lạc
quan tích cực.
Tích cực tham gia các tổ chức, đoàn thể, các hoạt động xã hội như hội phụ nữ,
hội người cao tuổi, hội cựu chiến binh, hội những người sống vui khỏe có ích, câu lạc
bộ nhân ái.
Tích cực tham gia các hoạt động văn hóa, văn nghệ: sáng tác thơ ca, viết sách
liên hệ với các nhà in xuất bản sách để cho ra đời tác những tác phẩm để đời,
Tích cực tham gia thể dục thể thao, đặc biệt cần thực hiện các bài thể dục dưỡng
sinh một cách thường xuyên, tham gia các hoạt động lao động sản xuất phù hợp với
khả năng của mình để tạo niềm vui sống.
80
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
1. Kết luận
Trong những năm qua với việc thực hiện chính sách cho NCCCM, vấn đề chăm
sóc sức khỏe cho họ cũng được chú trọng đã đạt được hiệu quả nhất định. Thông qua
những kết quả khảo sát thu được có thể thấy rằng những giả thuyết nghiên cứu của đề
tài là hợp lí.
Tại Huyện Hoài Ân hiện nay 100% NCCCM đều nhận được tiền trợ cấp hàng
tháng tùy theo tỷ lệ thương tật và tỷ lệ mất sức lao động; số NCCCM được cấp và
khám chữa bệnh bằng bảo hiểm y tế chiếm 100%; 100% NCCCM được điều dưỡng
theo quy định của thông tư liên tịch hướng dẫn chăm sóc sức khỏe cho NCCCM làm
rỏ giả thuyết “Hầu hết người có công cách mạng ở huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định đã
và đang được chăm sóc sức khỏe theo chính sách của Đảng và Nhà nước”.
Với việc đại đa số NCCCM mong muốn được điều dưỡng tại các trung tâm
chăm sóc NCCCM; đa số mong muốn các cơ sở khám chữa bệnh được trang bị đầy đủ
cơ sở, vật chất, kỷ thuật hiện đại, với tình trạng sức khỏe yếu kém mắc nhiều căn bệnh.
Nhưng chất lượng và hiệu quả chưa cao: thiếu thốn về tài chính; đội ngũ y bác sĩ vừa
thiếu, vừa yếu (hiện tại mới chỉ có 115 y, bác sĩ ;đa số họ có trình độ trung cấp chuyên
nghiệp, không có thạc sĩ, thái độ phục vụ còn lạnh lùng, cẩu thả, thiếu trách nhiệm,
thiếu tôn trọng bệnh nhân ); cơ sở vật chất còn nghèo nàn lạc hậu (với 46.9% ý kiến
cho rằng thiếu thốn và 9.2% cho rằng rất thiếu thốn [bảng 17; phụ lục 3]) đã làm sáng
tỏ giả thuyết “đa số người có công cách mạng ở huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định có
nhu cầu cao về chăm sóc sức khỏe nhưng chất lượng và hiệu quả của công tác này
chưa cao do rất nhiều khó khăn mang lại, nhất là thiếu thốn về tài chính, đội ngũ y,
bác sĩ, cơ sở vật chất nghèo nàn, lạc hậu”…
Thông qua việc bày tỏ những mong muốn nguyện vọng của NCCCM được nhận
sự quan tâm chăm sóc của con cháu người thân, mong muốn chính quyền địa phương
tăng cường hỗ trợ đơi với thân nhân của NCCCM; Tăng cường các hoạt động phục vụ
đời sống tinh thần của người có công, Thường xuyên tổ chức các chuyến du lịch tham
quan các địa danh trong cả nước, Tăng cường hỗ trợ cho người có công cả về vật chất
và tinh thần, Tăng cường sự quan tâm của chính quyền địa phương và cộng đồng đối
với người có công; Nâng cao trang thiết bị,cơ sở vật chất, kỹ thuật tại các cơ sở khám
81
chữ bệnh, Xây dựng thêm trung tâm chăm sóc người có công CM, nâng cao chất lượng
phục vụ tại các cơ sở chăm sóc người có công CM. Nâng cao trình độ của đội ngũ y,
bác sĩ tại các cơ sở khám chữa bệnh, cùng với việc xây dựng giả thuyết thông qua việc
tác động nâng cao vai trò, trách nhiệm hoạt động từ các lực lượng (gia đình, ngành y
tế, chính quyền cac cấp) đã khẳng định giả thuyết về vai trò to lớn của gia đình, chính
quyền các cấp, các cơ sở y tế, đội ngũ y, bác sĩ và cả cộng đồng trong công tác chăm
sóc sức khỏe người có công cách mạng.
2. Khuyến nghị
Để công tác chăm sóc sức khỏe cho NCCCM huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định tốt
hơn, đề tài đưa ra một số khuyến nghị sau:
Đảng và Nhà nước cần tiếp tục xây dựng chính sách, tăng nguồn kinh phí và huy
động toàn xã hội tham gia vào công tác chăm sóc sức khỏe cho NCCCM.
Các cấp, ban, ngành có liên quan cần có ý thức và tham gia một cách chủ động,
tích cực vào công tác chăm sóc sức khỏe cho NCCCM.
Chính quyền địa phương cần linh động trong mọi hoạt động chăm sóc sức khoẻ
cho NCCCM, trong thực thi chính sách, tìm kiếm nguồn lực.
Toàn xã hội cần nhận thức một cách đầy đủ về vai trò trách nhjieemj của mình
đối với công tác chăm sóc sức khỏe cho NCCCM để từ đó tham gia đầy đủ tích cực
vào các hoạt động của công tác này.
Gia đình NCCCM cần luôn quan tâm, chăm sóc giúp đỡ, tạo mọi điều kiện tốt
nhất để NCCCM có thể đáp ứng mọi nhu cầu trong chăm sóc sức khỏe thể chất, thần
cũng như quan hệ xã hội.
NCCCM cần phải tích cự tham gia vào quá trình chăm sóc sức khỏe của bản thân
và của những NCCCM nói chung.
82
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Báo cuộc Sống Việt “Bảo hiểm là gì?”, (Ngày 15/6/2009).
2. Báo dân trí “10 bí quyết chăm sóc sức khỏe tinh thần”, (Thứ 6 ngày
12/1/2008).
3. Bộ giáo dục và đào tạo, (2008), Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
4. Chính phủ, Nghị định quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều luật
người cao tuổi, (số 06/2011/NĐ – CP ), HN ngày 14 tháng 1 năm 2011.
5. Chính phủ, Thông tư liên tịch hướng dẫn chế độ chăm sóc sức khỏe đối với
người có công cách mạng, (số 17/2006/TTLT/BLĐTBXH – BTC – BYT).
6. Đàm Viết Cương, Trầ Thị Mai Oanh, Dương Hy Lương, Khương Anh Tuấn,
Nguyễn Thị Thắng và cộng sự (2006), “Đánh giá tình hình chăm sóc người cao tuổi ở
Việt Nam” từ wesbsite http:// www.hspi.org.vn/vd/vn/home/Infodetai.jsp?
7. Phan Thị Kim Dung (2007), mạng lưới xã hội của người cao tuổi ở thành phố
Quy Nhơn hiện nay (Luận văn thạc sĩ), Trường đại Chọc Khoa học xã hội và Nhân
văn TP.HCM,TP.HCM.
8. Bùi Nhựt Phong (2003), Chính sách xã hội (Tài liệu lưu hành nội bộ), Trường
đại học Đà Lạt, Đà Lạt.
9. Phòng LĐ – TB&XH huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định (2011), báo cáo chi trả
trợ cấp cho NCCCM tháng 1/2011.
11. Phòng LĐ – TB&XH huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định (2010), báo cáo thực
hiện điều dưỡng cho NCCCM năm 2010
12. Phòng LĐ – TB&XH huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định (2010), báo cáo kết
quả hoạt động của phòng LĐ – TB&XH năm 2010.
13. Phòng LĐ – TB&XH huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định (2011), báo cáo tình
hình phát triển kinh tế – xã hội huyện Hoài Ân.
14. Phòng y tế (2010), báo cáo tình hình của ngành y tế huyện Hoài Ân.
15. Phòng tài chính (2010), báo cáo các khoảng chi tiêu cho sự ngiệp phát triển
của Hoài Ân.
83
16. Sỡ LĐ – TB&XH tỉnh Bình Định (2011), công văn số 225/LĐTBXH – NCC
ngày 14/2/1011/ về việc hướng dẫn tổ chức, thực hiện chỉ tiêu điều dưỡng NCCCM
năm 2011.
17. Sở LĐ – TB&XH tỉnh Bình Định (2007), Pháp lệnh ưu đãi NCCCM ủy ban
thường vụ quốc hội khóa XI số 26/2005/PL – UBTVQH11 ngày 29/6/2005, Nxb công
ty in Bình Định, Bình Định.
18 .Trường đại học Y tế công cộng (2003), Nhập môn y tế công cộng, Nxb HN,
HN.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- binh_dinh_803.pdf