Với cấu trúc một màng mỏng có bề dày một nguyên tử, Graphene có
nhiều tính chất gây bất ngờ và thú vị. Graphene mở ra một tiềm năng nghiên
cứu khoa học mới trong thang vi mô. Cấu tạo của Graphene rất đơn giản
nhưng để tạo ra được nó thì không đơn giản chút nào. Với lớp Graphene đơn
lớp không có khe vùng năng lượng nên nó gây trở ngại cho việc ứng dụng nó
vào thực tiễn. Tuy nhiên lớp kép Graphene lại có tính chất rất đặc biệt là độ
rộng vùng cấm có thể thay đổi bằng điện trường ngoài. Trước kia các nhà
khoa học cho rằng độ rộng vùng cấm chất bán dẫn cố định, không thể thay đổi
được. Nhưng với tính chất đặc biệt của lớp kép Graphene mở ra một tầm nhìn
mới và hướng nghiên cứu mới cho vật lý bán dẫn.
58 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 8176 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Chất bán dẫn Graphene, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thể bật và tắt 26 tỷ lần mỗi giây, vượt xa các thiết bị
silicon thông thường. Các nhà nghiên cứu Viện Công nghệ Massachusetts đã
tạo ra được một dạng thiết bị nhân tần số graphene cho
các tín hiệu điện tử, có thể đem lại những ứng dụng
trong viễn thông. Các nhà khoa học đã chỉ ra rằng, sẽ
rất khó thực hiện các vi mạch với kích thước nhỏ hơn
10 nanomét bởi ở giới hạn này đã bắt đầu xuất hiện sự
rò rỉ electron. Do đó, các nhà khoa học hi vọng rằng
đến năm 2020, con người có thể tìm thấy được vật liệu
Hình 26: Hình ảnh
màng Graphene qua
kính hiển vi điện tử
Đề tài: Chất bán dẫn Graphene
GVHD: Trương Minh Đức SVTH: Lê Thị Bích Liên
30
có thể thay thế silicon. Đến nay, vật liệu graphene đã mở ra hi vọng cho ngành
điện tử vượt qua rào cản này.
3.3 Tính chất của Graphene
3.3.1 Graphene là vật liệu mỏng nhất trong tất cả các vật liệu
Graphene có bề dày chỉ bằng một phần triệu của loại giấy in báo thông
thường và bằng 1/200000 sợi tóc. Theo Geim, mắt người không thể nhìn thấy
màng graphene và chỉ có kính hiển vi điện tử tối tân nhất mới nhận ra độ dày
này. Dưới kính hiển vi, mảnh graphite dày gấp 100 lần nguyên tử cacbon có
màu vàng, 30- 40 lớp màu xanh lơ, 10 lớp có màu hồng và graphene thì mang
màu hồng rất nhạt, một màng Graphene trong suốt chỉ dày một nguyên tử.
3.3.2 Graphene có tính dẫn điện và nhiệt tốt
Ở dạng tinh khiết, graphene dẫn điện nhanh hơn bất cứ chất nào khác ở
nhiệt độ bình thường. Graphene có thể truyền tải điện năng tốt hơn đồng gấp 1
triệu lần. Hơn nữa, các electron đi qua graphene hầu như không gặp điện trở
nên ít sinh nhiệt. Bản thân graphene cũng là chất dẫn nhiệt, cho phép nhiệt đi
qua và phát tán rất nhanh.
3.3.3 Độ bền của Graphene
Sức bền nội tại của chất là sức căng lớn nhất mà một chất nguyên khôi
(hoặc không có khiếm khuyết) có thể chịu được ngay trước khi tất cả các
nguyên tử trong một tiết diện cho trước bị kéo ra
khỏi nhau đồng thời. Về cơ bản thì mọi chất liệu
đều chứa những khiếm khuyết, như các vết nứt
hay xước vi mô, chúng yếu hơn chất liệu xung
quanh.
Ấn lõm màng graphene bằng một kính
hiển vi lực nguyên tử với đầu nhọn kim cương có
bán kính khoảng 20 nm. Chọn đầu nhọn kim
Hình 27: Ảnh minh họa vết
lõm của một tấm graphene
đơn nguyên tử chụp qua đầu
mút kim cương của kính hiển
vi lực nguyên tử.
Đề tài: Chất bán dẫn Graphene
GVHD: Trương Minh Đức SVTH: Lê Thị Bích Liên
31
cương vì các đầu nhọn silicon bình thường sẽ gãy trước khi graphene vỡ.
Phản ứng lực dịch chuyển của các màng graphene đơn lớp cho phép xác
định tính chất đàn hồi của màng graphene. Lực mà tại đó màng bị vỡ và phân
bố thống kê của lực phá vỡ của nhiều màng cho phép tính được sức bền nội tại
của graphene. Màng này không có khiếm khuyết vì chúng quá nhỏ. Kết quả
cho thấy sức bền nội tại của graphene có thể xem là một “giới hạn trên” cho
sức bền của vật liệu – giống như kim cương là chất cứng nhất.
Kết quả cho thấy Graphene bền hơn thép 200 lần. Một sợi dây thép dài
28km sẽ tự đứt nếu nó được treo theo phương thẳng đứng, trong khi một sợi
dây graphene chỉ đứt trong điều kiện tương tự ở độ dài trên 1.000km. Trong
giới khoa học, hiện có người đang tính chuyện làm một chiếc “thang máy”
bằng chất liệu graphene nối liền trái đất với vệ tinh.
3.3.4 Graphene cứng hơn cả kim cương
Graphene có cấu trúc bền vững ngay cả ở nhiệt độ bình thường. Độ
cứng của graphene ‘lệch khỏi biểu đồ’ so với các họ chất liệu khác. Đây là
nhờ các liên kết cacbon- cacbon trong graphene cũng như sự vắng mặt của bất
cứ khiếm khuyết nào trong phần căng cao độ nhất của màng graphene.
Hiện nay, lần đầu tiên, các nhà nghiên cứu đã đo được độ cứng thực
chất của graphene, và họ khẳng định rằng đây là loại vật liệu cứng nhất từng
được kiểm tra. Jeffrey Kysar và James Hone, Giáo sư cơ khí thuộc Đại học
Columbia, đã kiểm nghiệm độ cứng của graphene ở cấp nguyên tử bằng cách
đo lực tác dụng để bẻ gãy loại vật liệu này. Họ đục các lỗ hổng có độ rộng 1
micromet tạo thành tấm silic, đặt một mẫu graphene hoàn thiện trên mỗi lỗ
hổng đó và sau đó làm lõm graphene bằng một đầu dò bằng kim cương. Biện
pháp đo như vậy trước đây chưa từng được thực hiện vì chúng phải được thực
hiện trên các mẫu graphene chuẩn, không có lỗi hay bị thiếu nguyên tử.
Đề tài: Chất bán dẫn Graphene
GVHD: Trương Minh Đức SVTH: Lê Thị Bích Liên
32
Hone so sánh thử nghiệm của ông khi kéo căng một miếng giấy nilon
bọc thức ăn lên trên miệng của tách uống cà phê và đo lực tác động để làm
thủng miếng nilon này bằng một chiếc bút chì. Ông cho biết, nếu ông có thể
có một miếng graphene đủ rộng để đặt lên miệng tách uống cà phê, graphene
sẽ đủ cứng để chịu được sức nặng của một chiếc ô tô tương ứng với ngòi bút
chì. Tuy nhiên, biện pháp đo này vẫn chưa thể hiện được các thuộc tính đáng
chú ý khác của graphene.
3.3.5 Graphene hoàn toàn không để cho không khí lọt qua
Lớp màng graphene ngăn cản được cả những phân tử khí nhỏ nhất,
không cho chúng lọt qua. Phiến màng đơn ở cấp độ phân tử này có thể kết hợp
với những cấu trúc giả vi mô tạo thành lớp vảy cỡ nguyên tử dùng làm lớp
màng che phủ thiết bị điện tử. Chỉ với một lượng rất nhỏ, graphene cũng có
một khả năng bịt kín chặt các lỗ thấm lọc. Các nhà khoa học đã phát triển
thành công khoang cầu mỏng nhất thế giới có lớp màng không cho bất kỳ
phân tử nhỏ nhất nào của không khí lọt qua, kể cả hê-li.
3.3.6 Graphene dễ chế tạo và dễ thay đổi hình dạng
Graphene có cấu trúc mềm dẻo như màng chất dẻo và có thể bẻ cong,
gập hay cuộn lại. Nó có nhiều đặc tính của ống nano, nhưng graphene dễ chế
tạo và dễ thay đổi hơn ống nano; vì thế có thể được sử dụng nhiều hơn trong
việc chế tạo các vật dụng cần các chất liệu tinh vi, dẻo, dễ uốn nắn. Các nhà
Vật Lý đã bắt đầu sử dụng graphene trong phòng thí nghiệm để chế tạo chất
dẫn và để thử nghiệm các hiện tượng lượng tử ở nhiệt độ bình thường.
3.3.7 Hiệu ứng Hall lượng tử trong Graphene
Hiệu ứng lượng tử Hall thường chỉ được thấy ở nhiệt độ rất thấp trong
các bán dẫn, nhưng nó lại xuất hiện trong graphene ở nhiệt độ phòng. Theo
nguyên tắc vật lý, vật liệu mới này không thể tồn tại ổn định và rất dễ bị hủy
Đề tài: Chất bán dẫn Graphene
GVHD: Trương Minh Đức SVTH: Lê Thị Bích Liên
33
hoại bởi nhiệt độ, sở dĩ loại màng này có thể tồn tại ổn định là do chúng
không ở trạng thái tĩnh mà rung động nhẹ theo dạng sóng.
Hiệu ứng Hall lượng tử trong lớp kép
Graphene (gồm hai màng Graphene chồng lên nhau)
có những khác biệt riêng. Sự khác biệt này là do
electron- lỗ trống suy biến và biến mất khối lượng
khi gần điểm trung hòa điện tích. Hình 28 là sơ đồ
hiệu ứng Hall lượng tử ứng với điện dẫn xuất Hall
2
4xy
e
h
(hình bậc thang màu đỏ), trong điều kiện
B= 14T, T= 4K của lớp kép Graphene.
Hiệu ứng Hall lượng tử phụ thuộc vào độ đồng nhất, mức độ pha tạp
của chất. Hiệu ứng Hall lượng tử đối với lớp kép Graphene bị pha tạp và
nguyên chất khác nhau khi ở cùng một nhiệt độ,
cùng một từ trường ngoài. Với
2
4xy
e
h
, khi B=
12T, T= 4K ta thu được đồ thị như hình 29. Đường
bậc thanh màu xanh là hiệu ứng Hall lượng tử đối
với màng Graphene không đồng nhất mà bị pha tạp,
tại 0xy đồ thị là đường gạch ngang ứng với nhiều
giá trị của Vg (điện trường ngoài). Đường bậc thang
màu đỏ biểu diễn hiệu ứng Hall lượng tử với màng
Graphene đồng nhất không bị pha tạp, khi 0xy thì
trên đồ thị chỉ có một giá trị của Vg =0. Vậy để thay đổi hiệu ứng Hall lượng
tử trong lớp kép Graphene thì ta có thể pha tạp hóa học vào lớp kép nguyên
chất và dịch chuyển điểm trung hòa đến Vg cao để khe vùng năng lượng
không đối xứng có thể mở bằng điện trường ngoài.
Hình 28: Sơ đồ hiệu ứng
Hall lượng tử
Hình 29: Hiệu ứng Hall
lượng tử đối với trường
hợp pha tạp và không pha
tạp
Đề tài: Chất bán dẫn Graphene
GVHD: Trương Minh Đức SVTH: Lê Thị Bích Liên
34
Hiệu ứng Hall lượng tử còn phụ thuộc vào
nhiệt độ ta tiến hành khảo sát. Với những nhiệt độ
khác nhau thì ta sẽ có hình dạng đồ thị giống nhau
nhưng ứng với cùng một giá trị của điện dẫn xuất
Hall thì cần một các giá trị của điện trường ngoài
khác nhau. Nhưng tất cả sẽ đi qua điểm trung hòa
điện (điểm ứng với 0xy ).
3.3.8 Chuyển động của điện tử trong Graphene
Graphene tổng hợp được có tính chất rất đặc biệt. Chuyển động của các
electron rất nhanh, electron dường như không có khối lượng và chuyển động
gần bằng vận tốc ánh sáng. Electron trong Graphene có vận tốc lớn gấp 100
lần electron trong silicon. Chuyển động của electron không tuân theo phương
trình Schodinger mà tuân theo phương trình Dirac cho các hạt không có khối
lượng như neutrino. Hạt này mang đầy đủ các tính chất của hạt Dirac. Hạt
Dirac được mệnh danh là các hạt ma vì những biểu hiện kỳ dị của nó. Một
trong nhưng cái ma quái là hạt Dirac có thể trong trường hợp nào đó sẽ dịch
chuyển ngược chiều tác dụng của điện trường, ngược chiều tác dụng của lực.
Đối với graphene, các nguyên tử dao động tại nhiệt độ phòng tạo ra một
điện trở suất vào khoảng 1.0 microOhm-cm. Điện trở suất của graphene nhỏ
hơn điện trở suất của đồng đến 35% và là điện trở suất thấp nhất được biết đến
tại nhiệt độ phòng. Điều này được giải thích như sau: trong các mẫu graphene
được chế tạo không được sạch đã làm tăng điện trở suất của graphene. Do đó
điện trở suất trung bình của graphene không nhỏ bằng điện trở suất của đồng
tại nhiệt độ phòng. Tuy nhiên graphene lại có rất ít electron so với đồng, do đó
trong graphene dòng điện được vận chuyển bởi một số ít electron có vận tốc
nhanh hơn nhiều lần so với các electron của đồng.
Hình 30: Hiệu ứng Hall
lượng tử phụ thuộc vào
nhiệt độ
Đề tài: Chất bán dẫn Graphene
GVHD: Trương Minh Đức SVTH: Lê Thị Bích Liên
35
Đối với các vật liệu bán dẫn, tiêu chuẩn về tính linh động được sử dụng
để xác định các electron chuyển động nhanh ở mức nào. Giới hạn tính linh
động của electron trong graphene được xác định nhờ dao động nhiệt của
nguyên tử và giá trị này vào khoảng 200.000 cm2/Vs tại nhiệt độ phòng.
Trong khi ở silicon là 1.400 cm2/Vs, ở indium antimonide là 77.000 cm2/Vs.
Electron của graphene có độ linh động cao nhất so với các chất bán dẫn thông
thường.
Các nhà khoa học đã chứng minh rằng mặc dù giới hạn tính linh động
của graphene ở nhiệt độ phòng cao ở mức 200.000 cm2/Vs, các mẫu vật hiện
nay có tính linh động nhỏ hơn – vào khoảng 10.000 cm2/Vs và cần phải nỗ lực
cải tiến rất nhiều. Do graphene có cấu tạo chỉ với một lớp nguyên tử, các mẫu
vật hiện nay phải được đặt trong chất nền là silicon đioxit. Điện tích bị giữ
trong chất nền silicon đioxit có thể ảnh hưởng đến các electron trong graphene
làm giảm tính linh động. Dao động của các nguyên tử silicon đioxit bản thân
chúng cũng đã có thể có ảnh hưởng đến graphene thậm chí còn lớn hơn ảnh
hưởng từ dao động nguyên tử của chính nó. Nhưng vì các phonon trong bản
thân graphene lại không hề có tác dụng trong việc phân tán electron, do đó
hiệu quả này trở nên rất quan trọng trong graphene.
3.4 Phân loại Graphene
3.4.1 Graphene đơn
Graphene là một mạng
tinh thể hai chiều dạng tổ ong có
kích thước nguyên tử tạo thành
từ các nguyên tử cacbon 6 cạnh.
Mỗi nguyên tử cacbon liên kết
với các nguyên tử xung quanh
bằng liên kết cộng hóa trị rất chặt
Hình 32: Hình ảnh
hiển vi quang học của
lớp Graphene đơn
Hình 31: Cấu trúc
tinh thể của Graphene
Đề tài: Chất bán dẫn Graphene
GVHD: Trương Minh Đức SVTH: Lê Thị Bích Liên
36
chẽ, tạo ra màng mỏng có cấu trúc 2D gồm các
nguyên tử cacbon xếp theo các ô hình lục giác rất
bền vững. Lá Graphene này chỉ dày 1 nguyên tử.
Nó mang đặc tính của chất bán dẫn và kim loại. Sơ
đồ cấu trúc vùng năng lượng của nó có độ rộng
vùng cấm bằng 0. Đỉnh vùng hóa trị và đáy vùng
dẫn trùng nhau như hình 33.
Graphene đơn lớp là một dạng tinh thể hai chiều của cácbon, có độ lưu
động của electron phi thường và có các đặc điểm lạ kỳ duy nhất khiến cho nó
là vật liệu hứa hẹn đối với lĩnh vực điện tử và quang lượng tử cỡ nano. Nhưng
chúng có nhược điểm, đó là không có khe vùng, làm hạn chế việc sử dụng
graphene trong lĩnh vực điện tử. Vì không có khe vùng nên màng đơn lớp
Graphene không được xem là chất bán dẫn. Nếu có khe vùng, các nhà khoa
học có thể chế tạo ra các transistor hiệu ứng trường bằng graphene rất hiệu
quả.
3.4.2 Graphene kép
3.4.2.1 Cấu tạo
Gồm 2 lá graphene đơn xếp chồng lên nhau có chiều dày bằng kích
thước 2 lớp nguyên tử.
Khi xếp 2 lớp Graphene chồng lên nhau sẽ xảy ra hai trường hợp:
- Đối xứng: Các nguyên
tử cacbon ở hai màng đối
xứng nhau qua mặt phẳng
phân cách giữa hai lớp. Cấu
trúc vùng năng lượng như
hình 34.
- Không đối xứng: Các
Hình 33: Cấu trúc vùng
năng lượng của Graphene
đơn
Hình 34: Cấu trúc
vùng năng lượng của
lớp kép Graphene có
cấu trúc đối xứng
(hình màu xanh)
Hình 35: cấu trúc vùng
năng lượng của lớp kép
Graphene không đối
xứng (hình màu xanh)
Đề tài: Chất bán dẫn Graphene
GVHD: Trương Minh Đức SVTH: Lê Thị Bích Liên
37
nguyên tử cacbon ở hai màng không đối xứng nhau qua mặt phẳng phân cách
giữa hai lớp. Cấu trúc vùng năng lượng như hình 35.
Lớp kép này là chất bán dẫn vùng cấm thẳng, khác với đơn lớp, lớp kép
có khe vùng năng lượng.
3.4.2.2 Tính chất đặc biệt- độ rộng vùng cấm thay đổi.
Graphene đơn lớp có độ lưu động của
electron phi thường và có các đặc điểm lạ kỳ
khiến cho nó là vật liệu hứa hẹn đối với lĩnh vực
điện tử và quang lượng tử cỡ nano. Nhưng nó có
nhược điểm đó là không có khe vùng (tức độ
rộng vùng cấm), làm hạn chế việc sử dụng
graphene trong lĩnh vực điện tử. Nhưng lớp kép
Graphene khắc phục được nhược điểm này. Độ
rộng khe năng lượng giữa vùng hóa trị và vùng
dẫn (độ rộng vùng cấm) có thể thay đổi một cách
đơn giản bằng cách đặt một điện trường ngoài ở nhiệt độ phòng. Kết quả này
do nhóm nghiên cứu của Antonio Castro (Đại học Boston, Hoa Kỳ) cùng với
các đồng nghiệp ở Mỹ, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha và Anh quốc vừa đưa ra
trên Physical Review Letters. Đây là loại vật liệu bán dẫn đầu tiên có độ rộng
vùng cấm có thể thay đổi. Khe vùng này được kiểm soát một cách chính xác
từ 0 tới 250 mili-electron vôn.
Dưới tác dụng của điện trường ngoài tạo ra
một sự chênh lệch các điện tử mang điện tích âm
ở một lớp và các lỗ trống mang điện tích dương ở
lớp còn lại. Các điện tử và lỗ trống này cặp đôi
với nhau, tạo ra một chuẩn hạt, mà các hành vi
của chúng khác hẳn so với từng hạt riêng lẻ. Một
Hình 36: Hình ảnh hiển vi
quang học của lớp Graphene
kép
Hình 37: Cấu trúc tinh thể
của lớp kép Graphene
Đề tài: Chất bán dẫn Graphene
GVHD: Trương Minh Đức SVTH: Lê Thị Bích Liên
38
đặc tính riêng của các điện tử và lỗ trống trong graphene là chúng có thể di
chuyển trong vật liệu giống như là chúng không có khối lượng nghỉ, hay nói
cách khác chúng tạo cho vật liệu có độ dẫn rất tốt. Tuy nhiên, các chuẩn hạt
thì lại có năng lượng nghỉ, khối lượng này dẫn đến việc tạo ra khe năng lượng
mà chúng phải vượt qua trước khi dòng điện có thể truyền qua.
Lớp graphene này được đính trên một phiến silicon đã được ôxi hóa và
một hiệu điện thế ngoài được đặt vào giữa Si và một điện cực bên trên lớp
graphene. Một từ trường ngoài cũng đã được đặt lên lớp đôi này, tạo cho các
chuẩn hạt di chuyển trên quỹ đạo hình tròn, tạo ra hiệu ứng cộng hưởng
cyclotron. Chu kỳ cộng hưởng phụ thuộc vào khối lượng của chuẩn hạt. Khối
lượng cyclotron (mc) này tăng khi hiệu điện thế ngoài tăng từ 0 đến 100 V, lúc
này khe năng lượng cũng thay đổi từ 0 đến 150 meV.
Xét một ô mạng hình lục giác đều gồm 6 nguyên tử
Cacbon ở 6 đỉnh, theo mô hình điện tử liên kết mạnh trong
mạng kép này thì electron chỉ được dịch chuyển sang vị trí
bên cạnh gần nhất. Gọi a là khoảng cách giữa hai hạt như
hình 38, t là năng lượng tương tác giữa hai hạt gần nhau
nhất, t là năng lượng tương tác giữa hai cacbon giống
nhau ở hai lớp (hình 37). Với
0
2, 46a A . Khi chưa đặt
điện trường ngoài vào lớp kép Graphene ta thu được
phổ năng lượng là đường đứt nét không bị lệch, cấu
trúc điện tử gần điểm Dirac, độ rộng ke vùng bằng 0.
Khi ta đặt điện trường ngoài Vg thì xuất hiện khe vùng
có độ rộng là:
2 2 2
2 2 2
g
g
g
e V t
t e V
. Khi ta thay đổi Vg thì
giá trị khe vùng này cũng thay đổi theo. Năng lượng
Hình 39: Sự xuất hiện
khe vùng khi có điện
trường ngoài
Hình 38: ô mạng
Graphene
Đề tài: Chất bán dẫn Graphene
GVHD: Trương Minh Đức SVTH: Lê Thị Bích Liên
39
khe vùng không chỉ phụ thuộc vào Vg mà còn
phụ thuộc vào n (mật độ hạt dẫn). Kết quả thu
được như hình 40. Ứng với khe vùng bằng 0 thì
cả ba đường đều cắt nhau tại điểm có mật độ
quanh 23.1012 cm-2. Đường liền nét và đường
chấm tròn tương ứng với giá trị của 0, 2t eV
và 0, 4t eV . Kết hợp cả hai trường hợp, thay
đổi cả điện trường ngoài và mật độ hạt dẫn ta
thu được đồ thị phụ thuộc của độ rộng khe vùng
như hình 41. Độ rộng khe vùng là hàm của n
(mật độ hạt dẫn) và Vg. Đường liền nét và
đường đứt nét tương ứng với lớp kép đã được
lọc và không lọc tạp chất. Đường xanh thẳng
ứng với trường hợp khe vùng rất bé so với
khoảng cách hai
lớp kép g t .
Người ta dự đoán
rằng g t khi
điện áp rất lớn.
Với lớp kép
Graphene pha tạp
Kali, ta đặt điện
trường ngoài vào, khi thay đổi mật độ hạt dẫn thì độ rộng khe vùng cũng thay
đổi theo. Khi tăng nồng độ hạt pha tạp lên thì độ rộng khe vùng giảm dần đến
vị trí khe vùng bằng không, ta tiếp tục tăng nồng độ pha tạp lên thì độ rộng
Hình 40: Sự phụ thuộc của độ
rộng khe vùng vào mật độ hạt
Hình 41: Độ rộng khe vùng phụ
thuộc vào điện trường ngoài và
mật độ hạt dẫn
Hình 42: Tiến trình đóng mở khe vùng năng lượng của lớp kép
Graphene khi pha tạp Kali
Đề tài: Chất bán dẫn Graphene
GVHD: Trương Minh Đức SVTH: Lê Thị Bích Liên
40
khe vùng lại tăng lên. Sự đóng mở khe vùng là một tính chất rất đặc biệt của
chất bán dẫn này.
Việc tạo ra và xác định khe vùng ở graphene lớp kép rất khó khăn.
Muốn thực hiện được thành công thì phải làm được hai việc sau: trước tiên là
xây dựng một thiết bị lớp kép hai cổng, cho phép điều chỉnh một cách độc lập
khe vùng điện tử và kích thích sự tích điện. Thiết bị này là một transistor hiệu
ứng trường cổng đôi điều khiển dòng electron từ một nguồn tới một ống dẫn
bằng các điện trường được hình thành bởi các điện cực cổng. Thứ hai là đo
khe vùng bằng việc truyền quang học, truyền một chùm tia xincrotron mạnh,
được hội tụ trên các lớp graphene, xuyên qua thiết bị. Khi điều chỉnh các điện
trường bằng cách làm thay đổi một cách chính xác điện áp của các điện cực
cổng, thì có thể đo được các mức biến thiên ở ánh sáng bị hấp thụ bởi các lớp
graphene cổng. Sự hấp thụ cao nhất ở mỗi một quang phổ sẽ đưa ra một
phương thức đo trực tiếp khe vùng ở mỗi một điện áp cổng.
Các kết quả đo thu được cho thấy bằng cách điều khiển độc lập điện áp
ở hai cổng có thể điều khiển hai thông số quan trọng, kích thước của khe vùng
và mức độ kích thích graphene lớp kép. Về cơ bản đã tạo ra một chất bán dẫn
ảo. Ở các chất bán dẫn thông thường, độ rộng vùng cấm là có hạn, và được cố
định bởi cấu trúc tinh thể của vật liệu. Tuy nhiên, ở graphene lớp kép, khe
vùng có thể thay đổi được và có thể được điều khiển bằng một điện trường.
Mặc dù một graphene lớp kép nguyên gốc có khe vùng bằng không và dẫn
điện như kim loại, nhưng graphene lớp kép cổng có thể có khe vùng lớn tới
250 mili-electron vôn.
Vật liệu bán dẫn này có thể được sử dụng để tạo ra các transistor, laser
và các linh kiện khác với tính chất có thể điều chỉnh cực kỳ dễ dàng, hơn rất
nhiều so với các vật liệu bán dẫn như Si. Một chất bán dẫn với độ rộng vùng
cấm điều chỉnh được bằng một hiệu điện thế từ bên ngoài có thể dẫn tới việc
Đề tài: Chất bán dẫn Graphene
GVHD: Trương Minh Đức SVTH: Lê Thị Bích Liên
41
tạo ra một loạt các linh kiện điện tử kiểu mới, hay đáng kể nhất là các laser có
bước sóng có thể điều chỉnh với một độ chính xác tuyệt vời.
Chất bán dẫn graphene này có thể được sử dụng để tạo ra một loại
transistor mới, hay các loại laser và các cảm biến phân tử mà ở đó cần sử dụng
sự thay đổi độ rộng vùng cấm để điều chỉnh tính chất. Thuộc tính này khi
được kết hợp với graphene có kích thước nhỏ, độ bền cơ học cao, độ dẫn điện,
dẫn nhiệt rất tốt đã khiến cho nó trở nên hết sức hấp dẫn để thay thế các chất
bán dẫn kinh điển như Si.
3.4.3 Graphene mọc ghép đa lớp (MEG)
Graphene mọc ghép đa lớp (MEG) gồm các lớp
graphene xếp chồng lên nhau (lớn hơn 2 lớp) theo
kiểu sao cho mỗi lớp độc lập về mặt điện tử học.
Quan sát hình 43 ta có thể thấy ba “hình nón”
từ ba lớp graphene trong mẫu MEG.
Người ta nuôi các lớp graphene từ một chất nền
silicon carbide theo kiểu sao cho mỗi lớp quay đi 30
độ so với lớp bên dưới. MEG này khác với graphite ở
chỗ mỗi lớp quay đi 60 độ so với lớp bên dưới.
Thực hiện tán xạ tia X và quang phổ quang
phát xạ phân giải góc (ARPES) trên một mẫu MEG
với 11 lớp graphene để đo cấu trúc điện tử của nó. Thì
năng lượng electron trong một phần nhất định của cấu
trúc dải tỉ lệ với động lượng của nó, vậy các electron giống như các hạt không
có khối lượng. Cấu trúc dải tuyến tính hoàn hảo này, gọi là hình nón Dirac,
chưa từng được đo rõ ràng như vậy trước đây trên các mẫu graphene khác. Sử
dụng ARPES thì không có sự biến dạng của hình nón Đirac, nên có kết luận
Hình 44: Graphene xếp
tầng trên bề mặt một
chất nền silicone carbide
được chụp với kính hiển
vi lực nguyên tử
Hình 43: Cấu trúc dải
của một mẫu graphene
mọc ghép đa lớp
Đề tài: Chất bán dẫn Graphene
GVHD: Trương Minh Đức SVTH: Lê Thị Bích Liên
42
không có sự ghép cặp electron với các lớp khác trong mẫu và do đó mỗi lớp là
cách li về mặt điện tử.
3.5 Ưu điểm và nhược điểm của chất bán dẫn Graphene
3.5.1 Ưu điểm của chất bán dẫn Graphene
- Graphene có khả năng làm tăng tốc độ xử lý của chip máy tính hiện tại
lên mức 500 đến 1000 Ghz.
- Nó có nhiều tính chất ưu việt hơn các chất khác.
- Graphene có nhiều ưu điểm hơn silicon nhờ tính dẫn điện tốt hơn
khoảng 10 lần, và điều quan trọng là những transistor tạo ra từ Graphene sẽ có
thể hoạt động tại nhiệt độ thường, đó là yêu cầu cơ bản nhất của ngành điện
tử. Transitor sử dụng silicon có tốc độ xử lý giới hạn tối đa ở gigahertz, cố
gắng có thể vượt tốc độ đó nhưng không thể nhanh hơn nữa - hiện nay, đến
mức độ gigahertz thì silicon không thể tăng thêm được, nhưng với graphene,
tốc độ có thể lên đến mức terahertz, gấp ngàn lần gigahertz.
- Graphene là chủ đề nghiên cứu nóng bỏng của ngành điện tử và bán dẫn
vì nó có tính dẫn điện cao, và hơn hết theo như phỏng đoán thì với kích thước
càng nhỏ, hiệu quả hoạt động của nó càng cao.
- Cấu trúc và sự gắn kết của graphene giúp cho nó bền vững và trong
suốt như kim cương nhưng cũng có thể tạo ra điện – điều mà kim cương
không thể làm được. Chất liệu này thật lý tưởng cho các thiết bị điện.
- Graphene có nhiều tính chất hấp dẫn các nhà vật lý hơn ống nano cách
đây 1 thập niên, nhưng nó dễ làm và dễ thao tác hơn, đem lại nhiều hy vọng
có thể chuyển từ nghiên cứu trong phòng thí nghiệm đến ứng dụng thực tế.
Các nhà vật lý đã làm transistor bên ngoài graphene và dùng khảo sát hiện
tượng lượng tử trống ở nhiệt độ phòng.
3.5.2 Nhược điểm của chất bán dẫn Graphene
- Sản xuất những màng graphene rất khó khăn và đắt đỏ.
Đề tài: Chất bán dẫn Graphene
GVHD: Trương Minh Đức SVTH: Lê Thị Bích Liên
43
- Do khó chế tạo với diện tích lớn nên ứng dụng graphene trong cuộc
sống hàng ngày vẫn còn hạn chế.
- Các nhà vật lý cũng cho biết khả năng nghiên cứu các tính chất điện
động lượng tử của graphene là rất sáng sủa. Tuy nhiên, những tiến bộ dường
như bị giới hạn bởi chất lượng điện tử không đủ trong các cấu trúc graphene
nhân tạo. Ngoài ra, chất nền của graphene và môi trường xung quanh có xu
hướng huỷ hoại tính chất điện tử của các mẫu graphene.
3.6 Các phương pháp chế tạo Graphene
Có nhiều cách để chế tạo Graphene nhưng rất khó khăn và chi phí cao.
Các nhà khoa học đang nghiên cứu để tìm ra phương pháp chế tạo Graphene
đơn giản, ít tốn kém, có thể tạo ra trên diện tích lớn và có thể đưa vào sản xuất
hàng loạt trong công nghiệp. Trong tiểu luận này tôi chỉ trình bày sơ lược một
số phương pháp được các nhà khoa học dùng để tạo ra Graphene từ khi nó
mới được khám phá cho đến những phương pháp mới nhất hiện nay.
3.6.1 Phương pháp chemical exfoliation
Trước khi tìm ra graphene, các nhà khoa học đã nhiều lần thất bại khi
cố tách những miếng mỏng graphene từ graphite. Ban đầu, người ta dùng một
thủ thuật hóa học gọi là chemical exfoliation – tức là chèn nhiều phân tử hóa
học vào giữa những phiến graphene để tách nó ra. Tuy nhiên cái mà họ có
được chỉ là những mảng như nhọ nồi. Từ đó không ai dùng kĩ thuật này để lấy
graphene nữa.
3.6.2 Phương pháp micromechanical cleavage
Sau khi thất bại với phương pháp chemical exfoliation các nhà khoa học
đã áp dụng một kĩ thuật trực tiếp hơn, gọi là micromechanical cleavage (cắt vi
cơ), tách graphite thành những miếng mỏng bằng cách nạo hoặc chà graphite
vào một mặt phẳng khác, từ đó có thể gỡ những miếng graphite với độ dày
khoảng 100 nguyên tử. Bằng cách này thì năm 1990, các nhà vật lý người Đức
Đề tài: Chất bán dẫn Graphene
GVHD: Trương Minh Đức SVTH: Lê Thị Bích Liên
44
ở RWTH Aachen Univrsity đã lấy được những miếng graphite mỏng đến độ
trong suốt. Khoảng 10 năm sau đó, không có một tiến bộ nào đáng kể. Mặc
dầu họ có thể lấy được những miếng mỏng khoảng vài mươi nguyên tử,
nhưng đó chỉ là những miếng graphite mỏng, không phải graphene. Lúc đó,
không ai nghĩ graphene có thể hiện diện được trong thiên nhiên.
3.6.3 Phương pháp băng keo Scotch
Graphene được nhóm của giáo sư Geim tổng hợp từ graphite năm 2004.
Việc khám phá ra cách chế tạo graphene là câu chuyện hy hữu trong lịch sử
khoa học, bởi nó xuất phát từ một cuộn băng keo. Tiến sĩ Geim đặt mảnh
graphite lên một miếng băng keo đặc biệt, dán hai đầu lại với nhau, rồi mở
băng keo ra... Cứ làm như vậy nhiều lần cho đến khi miếng graphite trở nên
thật mỏng. Qua đó, mảnh graphite được tách ra từng lớp một, ngày càng
mỏng, sau đó người ta hòa chúng vào acetone. Trong hỗn hợp thu được có cả
những đơn lớp cacbon chỉ dày 1 nguyên tử. Một miếng graphite dày 1 nguyên
tử thì không thể nhìn thấy được, nhưng tiến sĩ Geim thấy được rằng 1 miếng
graphite tạo ra 1 cầu vồng nhiều sắc màu rực rỡ. Đến nay, quan sát bằng kính
hiển vi, qua màu sắc, các nhà nghiên cứu có thể biết được độ dày của miếng
graphite.
3.6.4 Ma sát các cột graphite lên bề mặt silicon xốp
Nhóm các nhà nghiên cứu dẫn đầu là Rodney Ruoff, giáo sư về kỹ thuật
nano hiện ở Đại học Northwestern, báo cáo rằng ông có thể ma sát các cột
graphite nhỏ bé lên bề mặt silicon xốp, khiến chúng trải dài như một chồng
bài. Ông đề nghị kỹ thuật này có thể sản sinh ra graphene đơn lớp, nhưng ông
không thể xác định bề dày các lớp. Philip Kim, một giáo sư vật lý ở
Columbia, cũng đạt được kết quả tương tự khi làm “viết chì nano”, gắn 1 tinh
thể graphite lên đỉnh của kính hiển vi lực nguyên tử và di chuyển nó theo bề
mặt. Ông cũng tìm ra cách tách graphite thành từng mảnh nhỏ. Nhưng các
Đề tài: Chất bán dẫn Graphene
GVHD: Trương Minh Đức SVTH: Lê Thị Bích Liên
45
mảnh đó, mỏng khoảng 5 phần tỷ của 1 mét, tuy vậy, có thể bao gồm ít nhất
10 lớp nguyên tử.
3.6.5 Cho các phân tử hydrocacbon đi qua bề mặt iridi
Giáo sư Dario Alfc và TS Monica Pozzo, Khoa Khoa học Trái đất, Đại
học London, là những người đang cố gắng tìm hiểu và mô tả cơ chế hình
thành graphene trong một phương pháp sản xuất đặc biệt. Đó là cho các phân
tử hydrocacbon đi qua bề mặt iridi (Ir) được làm nóng trong khoảng từ 300C
đến 10000C. Khi tiếp xúc với bề mặt này, những phân tử hydrocacbon giải
phóng các nguyên tử H, chỉ còn những nguyên tử C bám vào bề mặt Ir và tập
trung ở đó thành những kết cấu nano. Những kết cấu nano này phát triển thành
mảng graphene hoàn chỉnh. Giáo sư Alfc cho biết phương pháp phát triển
graphene được nhiều người biết đến tuy nhiên vẫn chưa giải thích được cơ chế
thực hiện từ một bề mặt bao phủ cacbon đến một mảng graphene.
3.6.6 Phương pháp tổng hợp graphene trên diện tích lớn
Đó là việc liên kết từng miếng nhỏ trên 1 mặt phẳng để tạo thành 1 dải
có dạng như 1 cuộn phim. Cái đó không gọi là tổng hợp mà chỉ là cắt tấm
graphene ra thành từng mảnh rồi ráp chúng lại mà thôi. Cách làm là đưa chất
xúc tác vào để diện tích lớp màng graphene có thể nở rộng. Công nghệ này
đáp ứng được cả 2 tiêu chí dẫn điện tốt và an toàn mà các phương pháp khác
hiện nay chưa đảm bảo được.
3.6.7 Kết hợp siêu âm tách lớp và ly tâm.
Trong phương pháp này, graphite thương mại (đã được acid hoá bằng
HNO3 và H2SO4) được tách lớp ở 10000C bằng hỗn hợp khí Ar+3%H3. Sản
phẩm được phân tán trong dung dịch 1,2-dichloroethane + poly(m-
phenylenevinylene-co-2,5-dioctoxy-p-phenylenevinylene), siêu âm tách các
lớp graphene. Cuối cùng là ly tâm để thu sản phẩm.
3.6.8 Phương pháp bóc tách
Đề tài: Chất bán dẫn Graphene
GVHD: Trương Minh Đức SVTH: Lê Thị Bích Liên
46
Hiện nay phương pháp bóc tách là
phương pháp đơn giản sản xuất những
mẩu graphene tương đối lớn. Phương này
do Abhay Shukla và các cộng sự ở
trường Đại học Pierre và Marie ở Paris
đề xuất. Nhóm nghiên cứu vừa chứng
minh được rằng khối graphite có thể gắn
kết lên trên thủy tinh borosilicate và rồi
tách ra để lại một lớp graphene trên chất nền đó.
Phương pháp “bóc tách” thông dụng nhất dùng để sản xuất graphene chỉ có
ích trong việc tạo ra những nguyên mẫu dụng cụ cỡ nhỏ, nhưng phương pháp
mới khiến cho có thể áp dụng cách thức này ở một quy mô lớn hơn trong khi
vẫn giữ được chất lượng cao của mẫu.
3.6.9 Gắn kết dương cực trên nền thủy tinh
Gắn kết dương cực là gắn dính một chất dẫn hoặc chất bán dẫn lên trên
một chất nền thủy tinh, sử dụng lực tĩnh điện lớn phát sinh từ sự dẫn ion của
chất nền. Điều này có nghĩa là không cần đến chất kết dính nào cả. Phương
pháp đó đã được sử dụng rộng rãi trong ngành công nghiệp vi điện tử để gắn
kết các bánh xốp silicon với thủy tinh. Kĩ thuật này chưa từng được thử
nghiệm trên các chất nền phân lớp, kiểu như graphene, vì chúng không bám
dính mà bị tách ra. Chỉ có lớp đầu tiên hoặc vài ba lớp nguyên tử đầu tiên gắn
kết với chất nền, còn khối chất có thể bóc tách ra. Vì các mẩu được gắn kết
với một chất nền thủy tinh rắn chắc, cho nên cách này tạo ra được các mẩu
diện tích bề mặt lớn hơn có chất lượng cao theo kiểu hiệu quả và đơn giản.
Phương pháp cũng có thể sử dụng cho các chất phân lớp khác.
Từ trước đến nay, các nhà nghiên cứu đã sản xuất được các mẩu kích cỡ
milimét, nhưng họ nói họ có thể cải thiện tỉ lệ này.
Hình 45: Từ trước vào: Adrian Balan,
Rakesh Kumar, Abhay Shukla.
Đề tài: Chất bán dẫn Graphene
GVHD: Trương Minh Đức SVTH: Lê Thị Bích Liên
47
3.6.10 Chế tạo graphene trong một lóe sáng đèn flash
Khi chiếu một camera flash vào graphite oxit đủ để tạo ra graphene.
Quá trình này còn có thể sử dụng để những khuôn graphene phức tạp có thể
tích hợp vào các mạch điện tử gốc cacbon nhanh và linh hoạt. Một sự bùng
phát ngắn ngủi của ánh sáng có thể thực hiện phản ứng trong một mili giây.
Điều then chốt đối với tiến trình là hiệu ứng quang nhiệt: camera flash phân
phối một xung năng lượng biến đổi thành nhiệt trong graphite oxit. Xung năng
lượng phát ra từ camera flash này gây cảm ứng một “vụ nổ nano” trong màng
graphite-oxit. Sự biến đổi xảy ra nhanh đến mức màng chất phồng lên và giãn
ra đến hai bậc độ lớn. Các tấm graphite oxit xám, trong suốt, bị đen đi và nở
ra, đi cùng là một tiếng bốp to. Vật liệu màu đen thu được– nó thủng kiểu tổ
ong và chỉ là một phần khối lượng riêng của graphite. Phân tích thêm cho thấy
vật liệu đó cấu thành từ các tấm graphene mất trật tự và các giá cách đều với
nhau. Có thể thêm các hạt nano plastic vào khối graphite oxit đó, sao cho khi
hỗn hợp bị chiếu ánh sáng flash, thì các hạt của nó hợp nhất với nhau kiểu như
các giọt chất lỏng, khóa miếng graphene thành một vật liệu composite dai.
Vì quá trình sản xuất sạch, nhanh và đơn giản, nên việc sản xuất
graphene ở quy mô công nghiệp qua quá trình này là có thể. Một thách thức
hiện tồn tại là gắn graphene lên trên các bề mặt silicon hoặc thủy tinh cho thiết
kế vi mạch. Người ta cũng có thể sử dụng graphite oxit cách điện để chế tạo
mạch điện sau đó biến đổi nó thành graphene dẫn điện với một lóe sáng đèn
flash. Ngoài ra, các mặt nạ cản sáng có thể được sử dụng để tạo ra những
khuôn mẫu graphene phức tạp. Để phát triển nghiên cứu này, các nhà khoa
học đang có kế hoạch sử dụng quá trình trên chế tạo một mạch điện cấp độ
nano, nhưng tiến trình không đơn giản khi nó có liên quan đến những lượng
nhỏ vật liệu vì nhiệt phát sinh bởi xung sáng có thể tiêu tan quá nhanh để kích
ngòi cho một phản ứng.
Đề tài: Chất bán dẫn Graphene
GVHD: Trương Minh Đức SVTH: Lê Thị Bích Liên
48
3.7 Ứng dụng Graphene
3.7.1 Dây dẫn và điện cực trong suốt
Các nhà nghiên cứu của trường Đại học California, Mỹ, đã phát triển
một phương pháp mới sản xuất ống ghép nano cacbon-graphene có tiềm năng
dùng làm dây dẫn trong suốt trong các tấm pin mặt trời và các thiết bị điện tử
gia dụng khác. Các ống ghép nano cacbon-graphene này sẽ là vật liệu thay thế
rẻ hơn và mềm dẻo hơn nhiều so với các loại vật liệu hiện đang được sử dụng
trong các tấm pin mặt trời và các thiết bị điện tử dẻo khác.
Dây dẫn trong suốt là một bộ phận tích hợp của rất nhiều thiết bị điện
tử, bao gồm tivi màn hình phẳng, màn hình plasma và các màn hình cảm ứng
cũng như pin mặt trời. Vật liệu chuẩn để sản xuất các dây dẫn trong suốt là
oxit thiếc Indi nhưng oxit thiếc Indi lại có rất nhiều hạn chế, chúng rất đắt tiền
vừa do chi phí sản xuất lẫn mức độ khan hiếm Indi, đồng thời oxit thiếc Indi
cứng và dễ vỡ.
Ống ghép nano cacbon-graphene là một loại vật liệu thay thế cho oxit
thiếc Indi có hiệu suất cao lý tưởng trong các thiết bị điện tử có các linh kiện
rời. Graphene là chất dẫn điện tuyệt vời và ống nano cacbon là những ứng cử
viên lý tưởng đối với các dây dẫn điện trong suốt vì chúng có thể dẫn điện
trong khi đòi hỏi rất ít vật liệu. Phương pháp kết hợp hai loại vật liệu này rất
đơn giản, rẻ tiền và tương thích với các thiết bị mềm dẻo. Ống ghép nano
cacbon-graphene được sản xuất theo phương pháp này đạt được hiệu suất có
thể sánh được với các oxit thiếc Indi hiện đang được sử dụng trong các thiết bị
mềm dẻo.
Ống ghép nano cacbon-graphene cũng là ứng cử viên lý tưởng cho các
điện cực trong pin mặt trời polyme. Một trong những tiện ích của pin mặt trời
bằng polyme là polyme rất mềm dẻo. Nhưng khi thay thế cho oxit thiếc Indi
thường bị mất hiệu suất theo độ dẻo nên không được sử dụng. Ống ghép nano
Đề tài: Chất bán dẫn Graphene
GVHD: Trương Minh Đức SVTH: Lê Thị Bích Liên
49
cacbon-graphene vẫn duy trì được hiệu suất khi bị uốn cong và cũng có thể
tương thích với chất dẻo. Tiềm năng của ống ghép nano cacbon-graphene
không chỉ giới hạn trong những cải tiến sắp xếp linh kiện mà với các nghiên
cứu sâu hơn, ống ghép nano cacbon-graphene có tiềm năng tạo ra các khối kết
cấu cho các linh kiện điện tử quang học trong tương lai
3.7.2 FET graphene
Transistor hiệu ứng trường (FET) được chế tạo bằng cách làm nóng một
bánh xốp silicon carbide (SiC) để tạo ra một lớp
mặt gồm những nguyên tử cacbon ở dạng
graphene. Các cực phát và thu song song được
cho lắng lên trên graphene, để lại những rãnh
graphene bị bóc trần ở giữa chúng. Tiếp theo,
cho lắng một màng mỏng cách điện lên trên
graphene bị bóc trần mà không làm ảnh hưởng
bất lợi đến những tính chất điện tử của nó. Để
làm như vậy, trước tiên ta đặt thêm một lớp poly-
hydroxystrene 10 nm để bảo vệ graphene. Sau
đó, một lớp oxit bình thường được cho lắng lên,
tiếp theo là một điện cực cổng kim loại. Chiều
dài cổng tương đối lớn, đến 240 nm, nhưng nó có
thể thu nhỏ xuống trong tương lai để cải thiện hơn nữa hiệu suất của dụng cụ.
Transistor graphene vừa chế tạo có tần số ngưỡng cao hơn MOSFET
silicon tốt nhất có cùng chiều dài cổng (tần số ngưỡng là tần số mà trên đó
một transistor sẽ chịu sự suy giảm đáng kể hiệu suất của nó). Không giống
như đa số FET graphene khác, chế tạo từ những giàn graphene, dụng cụ này
được chế tạo bằng những kĩ thuật sử dụng trong công nghiệp chất bán dẫn.
Tuy nhiên, một thiếu sót của những dụng cụ graphene là chúng không thể sử
Hình 46: Giản đồ FET
graphene của IBM: dụng cụ
mọc trên một chất nền silicon
carbide (khối màu đen) và bao
gồm các điện cực phát và thu
(bằng vàng), graphene (mạng
lưới màu đen), lớp cách điện
(màu xanh lá) và các điện cực
cổng (bằng bạc)
Đề tài: Chất bán dẫn Graphene
GVHD: Trương Minh Đức SVTH: Lê Thị Bích Liên
50
dụng trong các mạch kĩ thuật số. Đây là vì graphene có khe năng lượng bằng 0
giữa các electron dẫn và electron hóa trị của nó – và chính “dải khe” này cho
phép các chất bán dẫn truyền thống chuyển mạch dòng điện từ ngắt sang
đóng.
Các nhà nghiên cứu IBM hiện có kế hoạch thu nhỏ transistor của họ, cải
thiện độ tinh khiết của graphene và tối ưu hóa kiến trúc của dụng cụ, và còn
đang khảo sát các phương thức tạo ra một dải khe ở transistor graphene để cho
nó có thể dùng trong những ứng dụng kĩ thuật số.
3.7.3 Chíp máy tính
Các nhà nghiên cứu đã tạo ra được chiếc
bóng bán dẫn nhỏ nhất trên thế giới- có bề dày
chỉ bằng một nguyên tử và rộng 10 nguyên tử
từ Graphene. Chiếc bóng bán dẫn này, về bản
chất là một công tắc bật tắt. Chiếc bóng bán dẫn
là thiết bị quan trọng của một bảng vi mạch và
là nền tảng của bất cứ thiết bị điện tử nào.
Những chiếc bóng bán dẫn này sẽ làm việc với
điều kiện nhiệt độ trong phòng - giống như yêu
cầu đối với các thiết bị điện tử hiện đại khác.
Bóng bán dẫn Graphene càng nhỏ lại càng hoạt động tốt. Bóng bán dẫn được
chế tạo bằng cách lắp Graphene vào một mạch điện siêu nhỏ. Chiếc bóng bán
dẫn đầu tiên được chế tạo bởi các nhà khoa học tại Manchester (Tiến sỹ
Kostya Novoselov và giáo sư Andre Geim).
Ngành kinh doanh chất bán dẫn hiện nay đang được tiến hành trên cơ
sở chắc chắn loại bỏ được những chip siêu nhỏ làm từ nguyên liệu silicon
mỏng manh. Với con chip làm bằng công nghệ Graphene khắc phục được điều
này. Các nhà khoa học dự đoán Graphene sẽ là vật liệu thay thế Silicon trong
Hình 47: Tiến sỹ Leonid
Ponomarenko giới thiệu một
thiết bị với chiếc bóng bán
dẫn nhúng bên trong
Đề tài: Chất bán dẫn Graphene
GVHD: Trương Minh Đức SVTH: Lê Thị Bích Liên
51
ngành công nghiệp điện tử. Ngoài ra Palacios cùng trợ lí giáo sư Jing Kong và
2 sinh viên khác là Han Wang và Daniel Nezich đã chế tạo một loại chip thử
nghiệm làm từ Graphene có khả năng khuếch đại tín hiệu điện tử. Theo các
nhà khoa học công nghệ khuếch đại tín hiệu điện tử đang được sử dụng hiện
nay thường tạo ra tín hiệu nhiễu và đòi hỏi phải có bộ lọc mạnh và tiêu tốn
năng lượng. Còn loại chip Graphene chỉ sử dụng một transitor và nguồn ra
hoàn toàn sạch và không cần bộ lọc. Thời gian đầu, một nhóm nghiên cứu
được lãnh đạo bởi Hongjie Dai, J. G. Jackson và Giáo sư Hoá học C. J. Wood,
đã chế tạo được những transitor được gọi là "transitor hiệu ứng trường"- một
thành phần quan trọng để cấu thành các con chip- cùng với graphene thì có thể
hoạt động trong nhiệt độ phòng. Transitor hiệu ứng trường (ta đã nghiên cứu ở
trên) là một chìa khoá cốt lõi của các con chip máy tính, hoạt động giống như
người chuyên chở dữ liệu từ một địa điểm khác. Họ có một kênh bán dẫn
được kẹp vào giữa hai điện cực kim loại. Trong hình dạng của một trường
điện, một bản đỡ kim loại có thể rút ra hai vật đỡ cực âm và cực dương bên
trong và bên ngoài của một bán dẫn. Nó cho phép dòng điện hoặc được chạy
qua hoặc bị chặn lại, bằng cách đóng mở và mở thiết bị điều khiển, bằng cách
đó mà điều chỉnh cho đúng đường đi của dữ liệu.
3.7.4 Màn hình ti vi cảm ứng
Hiện tại, hầu hết màn hình cảm ứng đều dựa trên lớp màng mỏng oxit
thiếc Indi. Tuy nhiên indium là một nguyên tố rất hiếm có và một số nhà
nghiên cứu đã tính toán rằng nguồn cung cấp indium của thế giới có thể bị cạn
kiệt trong vòng 10 năm nữa. Nếu các nhà khoa học không chế tạo ra một chất
liệu thay thế cho indium thì màn hình cảm ứng có thể sẽ đối mặt với một
tương lai khắc nghiệt hơn nữa.
Các nhà nghiên cứu người Anh đã chế tạo ra một màn hình tinh thể
lỏng tí hon bằng cách sử dụng Graphene. Một ngày nào đó màn hình này có
Đề tài: Chất bán dẫn Graphene
GVHD: Trương Minh Đức SVTH: Lê Thị Bích Liên
52
thể được ứng dụng vào mọi thứ từ màn hình cảm ứng của điện thoại di động
đến ti vi. Để tạo ra các màn hình tinh thể lỏng bằng graphene, các nhà nghiên
cứu đã phân hủy các mảnh graphite thành graphene, và phun xịt các thể vẩn
thu được lên một bề mặt thủy tinh. Khi bề mặt hòa tan được sấy khô, các nhà
nghiên cứu đã lựa ra những mảnh nhỏ và sử dụng chúng như các cực điện cho
màn hình tinh thể lỏng nhỏ. Màn hình tinh thể lỏng này rất nhỏ bé, chỉ bằng
một độ phân giải pixel và kích cỡ khoảng bằng 1 micromet. Tuy nhiên, các
nhà nghiên cứu cho biết, nếu như con số này được nâng cấp thì độ phân giải
sẽ gần giống như màn hình điện thoại di động.
Khó khăn gặp phải là khó chế tạo ra một lượng lớn vật liệu graphene
chất lượng cao và khó điều khiển được cấu trúc bề mặt.
3.7.5 Chất phụ gia trong dung dịch khoan
Các nhà khoa học nghiên cứu hoạt động của graphene trong nước để bít
kín các lỗ rỗng và phát triển vấn đề này nhằm tạo ra được những công thức
dung dịch khoan thích hợp có chứa graphene. Khi hiểu biết được hoạt động
của graphene trong nước, tìm hiểu thêm về khả năng nút kín của graphene có
thể chịu ảnh hưởng như thế nào bởi sự có mặt của bất cứ hợp chất nào trong
dung dịch khoan thì ta có thể tạo ra dung dịch khoan tối ưu hơn.
Hiệu quả bít nhét kín chính là cơ sở để ứng dụng trong dung dịch
khoan. Các dung dịch gốc dầu hoặc gốc nước thông thường được bơm xuống
giếng khoan qua cột cần khoan để làm sạch choòng khoan và đưa mùn khoan
theo dòng chất lưu di chuyển ngược lên trên bề mặt. Các loại dung dịch khoan
này, có chứa rất nhiều phụ gia hoá học, lại không thể bịt kín các lỗ rỗng trong
vỉa theo đó dầu có thể chảy qua.
Tổ hợp của graphene hoà tan trong dầu và oxit graphene hoà tan trong
nước, với kích thước nano được sử dụng bít kín, được cho thêm vào dung dịch
khoan. Các hạt này dưới áp suất riêng của chất lưu sẽ nhanh chóng tạo thành
Đề tài: Chất bán dẫn Graphene
GVHD: Trương Minh Đức SVTH: Lê Thị Bích Liên
53
một lớp màng thấm lọc mỏng trên thành giếng khoan. Khi dung dịch khoan
được thoát lên khi bộ bộ dụng cụ quay, áp suất của vỉa sẽ ép lớp lọc graphene
qua các lỗ rỗng và chảy vào trong giếng khoan, cho phép việc khai thác
hydrocabon diễn ra bình thường. Khi giảm áp lực thuỷ tĩnh trong giếng và kéo
choòng khoan ra khỏi giếng khoan, áp suất trong đất đá sẽ lớn hơn rất nhiều
so với áp suất trong lỗ khoan, áp suất này phá vỡ lớp thấm lọc và dầu chảy
vào trong giếng.
Trong tương lai sẽ tập trung vào việc sử dụng graphene để hoàn thiện
dung dịch khoan và các sản phẩm khoan khác. Trong vài năm tới công nghệ
nano sẽ được ứng dụng rộng rãi trong việc điều chế các loai dung dịch để
khoan trong các điều kiện địa chất phức tạp các giếng khoan dầu khí.
Hiện nay, Trường đại học Rice và M-I SWACO - công ty dung dịch
khoan hàng đầu thế giới, đã ký thoả thuận nghiên cứu sử dụng những tiến bộ
của công nghệ nano để nâng cao lưu lượng các giếng khoan. Mục tiêu của dự
án là nghiên cứu bổ sung chất phụ gia graphene có kích thước nano vào dung
dịch khoan để ngăn ngừa những phức tạp trong quá trình khoan.
3.7.6 Làm đế cho các mẫu nghiên cứu trong kính hiển vi điện tử
truyền qua (TEM)
Các nhà vật lý Mỹ vừa khẳng định họ đã sử
dụng một kính hiển vi điện tử truyền qua (TEM)
để quan sát một đơn nguyên tử Hydro, một nguyên
tử rất nhẹ. Bước đột phá này được tạo ra bằng cách
đưa nguyên tử trên một tấm graphene. Ta có thể
nhìn thấy các chuỗi hydrocacbon di động trên bề
mặt tấm graphene, và giả thiết rằng kỹ thuật này có
thể được sử dụng để nghiên cứu các quá trình động học trong các phân tử sinh
học.
Hình 48: Hình ảnh đơn
nguyên tử Hydro
Đề tài: Chất bán dẫn Graphene
GVHD: Trương Minh Đức SVTH: Lê Thị Bích Liên
54
Kính hiển vi điện tử
truyền qua được dùng để
quan sát các nguyên tử
riêng biệt, nhưng mới chỉ
có thể sử dụng để ghi ảnh
các nguyên tử nặng. Một
nguyên nhân là TEM tạo
ảnh bằng cách chiếu một
chùm điện tử hẹp qua mẫu
vật và đo góc lệch của
điện tử bị lệch đi khi qua
qua các nguyên tử. Các
nguyên tử nhẹ (ví dụ như
Hydro, Helium…) thì lệch
ít hơn rất nhiều so với các
nguyên tử nặng, có nghĩa
là việc ghi ảnh rất khó khăn. Mẫu vật sử dụng trong TEM cần phải được đặt
trên một đế cần phải đủ bền để không bị phá hủy bởi chùm điện tử có năng
lượng cao nhưng lại phải đủ mỏng để cho hầu hết các điện tử truyền qua. Các
màng mỏng kim loại hoặc bán dẫn thường được dùng làm đế nhưng lại rất
nặng so với các nguyên tử đơn nhất và lại chứa nhiều nguyên tử nặng hơn
nhiều so với cacbon và hydro. Do đó, tán xạ từ đế thường có xu hướng che
mất các tín hiệu (vốn rất yếu) từ các nguyên tử nhẹ. Để khắc phục vấn đề này
người ta sử dụng graphene. Ý tưởng này được đưa ra khi các nhà khoa học sử
dụng TEM để nghiên cứu các sai hỏng trong graphene. Trong khi quan sát các
nhà khoa học phát hiện ra rằng họ có thể phân biệt các nguyên tử cacbon và
hydrogen riêng biệt cũng như là các chuỗi hydrocacbon – là các nhiễm bẩn
Hình 49: Ảnh chụp các nguyên tử riêng biệt ở độ phóng
đại siêu cao a) Nguyên tử cacbon (chấm đen được chỉ
mũi tên), b) phân bố cường độ ảnh, c) mô hình nguyên
tử; d) nguyên tử hydro. Thang chia độ dài là 2 nm
Đề tài: Chất bán dẫn Graphene
GVHD: Trương Minh Đức SVTH: Lê Thị Bích Liên
55
trên bề mặt của graphene. Đặc tính chủ yếu của kỹ thuật là các nguyên tử
cacbon trong mạng graphene là không thể nhìn thấy với TEM cho dù là kỹ
thuật này có thể nhìn thấy một cách rõ ràng nguyên tử cacbon riêng lẻ trên bề
mặt graphene.
Các nguyên tử
cacbon được xếp trong
những sự sắp xếp thông
thường với một khoảng
cách không thể phân tích
trong kính hiển vi, do đó,
tấm cacbon cung cấp một
nền đồng đều mà ta vẫn
cho là không có cấu trúc
nào trên nó. Cùng với việc nhìn thấy các nguyên tử riêng biệt, ta có thể quan
sát thấy việc chùm điện tử tạo ra một lỗ thụ động trên đế graphene. Thậm chí
có thể quan sát thấy một lỗ đang được sửa chữa khi mà graphene hấp thụ các
nguyên tử cacbon từ môi trường xung quanh.
Graphene là một đế cực tốt cho các mẫu TEM vì nó có một ảnh hưởng
tối thiểu trong quá trình ghi ảnh. Một lớp graphene đơn nhất có thể giúp cho
việc tăng độ nhạy ghi ảnh. Tuy nhiên, đối với việc quan sát đơn nguyên tử chỉ
có thể sử dụng một cách hạn chế bởi vì quá khó để tiến hành và lại dễ dẫn đến
việc hiểu sai các thông tin.
Hình 50: Ảnh chụp đế graphene ở độ phóng đại nhỏ
(thang chia độ dài trên mỗi bức ảnh là 1 mm và 10 nm),
đế được xử lý ở mức độ siêu sạch và hầu như không đạt
độ tương phản nào với đế.
Đề tài: Chất bán dẫn Graphene
GVHD: Trương Minh Đức SVTH: Lê Thị Bích Liên
56
KẾT LUẬN
Với cấu trúc một màng mỏng có bề dày một nguyên tử, Graphene có
nhiều tính chất gây bất ngờ và thú vị. Graphene mở ra một tiềm năng nghiên
cứu khoa học mới trong thang vi mô. Cấu tạo của Graphene rất đơn giản
nhưng để tạo ra được nó thì không đơn giản chút nào. Với lớp Graphene đơn
lớp không có khe vùng năng lượng nên nó gây trở ngại cho việc ứng dụng nó
vào thực tiễn. Tuy nhiên lớp kép Graphene lại có tính chất rất đặc biệt là độ
rộng vùng cấm có thể thay đổi bằng điện trường ngoài. Trước kia các nhà
khoa học cho rằng độ rộng vùng cấm chất bán dẫn cố định, không thể thay đổi
được. Nhưng với tính chất đặc biệt của lớp kép Graphene mở ra một tầm nhìn
mới và hướng nghiên cứu mới cho vật lý bán dẫn. Graphene mới đạt được
nhiều thành tựu gần đây nhất năm 2009 nên khoa học công nghệ thế giới đang
vạch ra những ứng dụng trong tương lai và đang nghiên cứu để biến nó thành
hiện thực. Đặc biệt công nghệ điện tử đang tiến đến những giới hạn cuối cùng
của kích thước các thiết bị điện tử. Silic là chất bán dẫn được sử dụng nhiều
nhất trong công nghệ điện tử, nhưng nó không thể tạo ra các thiết bị nhỏ hơn
nữa. Chất bán dẫn Graphene ra đời mở ra hy vọng mới cho ngành công nghệ
điện tử để thay thế cho Silic. Công nghệ dùng graphene để sản xuất vi mạch
hoàn toàn tương tự như công nghệ dùng silicon nhưng để đến được sự xuất
hiện của graphene trong vi mạch điện tử phải mất nhiều năm nữa.
Đề tài: Chất bán dẫn Graphene
GVHD: Trương Minh Đức SVTH: Lê Thị Bích Liên
57
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê Đình, Bài giảng Vật lý chất rắn và bán dẫn, Đại học sư phạm huế
(1999).
2. Trương Minh Đức, Giáo trình Vật lý chất rắn, Đại học sư phạm huế
(2010).
3. Nguyễn Ngọc Long, Vật lý chất rắn, NXB Đại học quốc gia Hà Nội
(2007).
4. Đào Trần Cao, Cơ sở vật lý chất rắn, NXB Đại học quốc gia Hà Nội
(2007).
5. Nguyễn Quang Báu, Lý thuyết bán dẫn, NXB Đại học quốc gia Hà
Nội (2004).
6. Hoàng Nhâm, Hóa học vô cơ, tập 2, NXB Giáo Dục (2005).
7. Nguyễn Hữu Đình, Đỗ Đình Rãng, Hóa học hữu cơ, NXB Giáo Dục
Việt Nam (2009).
8. Trương Văn Tân, Vật liệu tiên tiến, Nhà xuất bản trẻ (2008).
9. Nguyễn Thế Khôi, Nguyễn Hữu Mình, Vật lý chất rắn, Nhà xuất bản
giáo dục (1992).
10. Nguyễn Xuân Chánh- Lê Băng Sương, Vật lý với khoa học và công
nghệ hiện đại, Nhà xuất bản giáo dục (2003).
11. Mạng Internet
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- de_cuong_1_3909_1809.pdf