Chất lượng cán bộ nói chung và chất lượng chủ tịch, phó chủ tịch
UBND cấp huyện là một trong những vấn đề được Đảng và Nhà nước Việt
Nam quan tâm. Ngay từ nhà nước Việt Nam mới ra đời, chủ tịch Hồ Chí
Minh cũng đã căn dặn “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc” và “Công việc
thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”.
Hội nghị lần thứ ba, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá VIII) đã
ban hành Nghị quyết số 03-NQ/TW ngày 18/6/1997 về “Chiến lược cán bộ
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”. Chiến lược cán bộ
đã xác định phương hướng cơ bản, các quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ và
những giải pháp lớn về xây dựng đội ngũ cán bộ đến năm 2020. Và trong suốt
20 năm qua, xây dựng một đội ngũ cán bộ có chất lượng; có đức có tài đã
được khảng định qua nhiều nghị quyết của Đảng.
Chất lượng cán bộ nói riêng và người làm việc cho tổ chức nói chung là
một vấn đề vừa mang tính lý luận và thực tiễn.
Luận văn đã cố gắng hệ thống hóa lại những vấn đề cần quan tâm liên
quan đến cụm từ chất lượng. Qua hệ thống các quan niệm khác nhau về chất
lượng và qua đó khái quát cách hiểu chất lượng con người nói chung và con
người làm việc cho các tổ chức và tổ chức nhà nước nói riêng. Chất lượng
luôn phải gắn liền với cụm từ tiêu chuẩn chất lượng. Thiếu từ tiêu chuẩn, sẽ
không giúp chúng ta hiểu rõ khái niệm chất lượng.
Chất lượng đội ngũ cán bộ và đội ngũ chủ tịch, phó chủ tịch các cấp
cũng như cấp huyện nói riêng phải gắn liền với một hệ thống các tiêu chuẩn
cụ thể gọi chung là hệ thông tiêu chuẩn chất lượng.
Một cán bộ nói chung và chủ tịch, phó chủ tịch cấp huyện nói riêng
phải thỏa mãn hệ thống các tiêu chuẩn chất lượng đề ra đối với chức danh cụ
thể đó. Nếu chủ tịch, phó chủ tịch không đáp ứng những tiêu chuẩn quy định86
của Đảng và pháp luật nhà nước đều được xếp vào loại không đủ tiêu chuẩn
và không có chất lượng.
101 trang |
Chia sẻ: yenxoi77 | Lượt xem: 591 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Chất lượng chủ tịch, phó chủ tịch ủy ban nhân dân cấp huyện tỉnh Phú Yên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ẤP HUYỆN TỈNH PHÚ YÊN
3.1. Quan điểm về nâng cao chất lượng cán bộ quản lý nói chung và
chủ tịch, phó chủ tịch UBND cấp huyện nói riêng.
3.1.1. Cách tiếp cận nâng cao chất lượng chủ tịch, phó chủ tich Ủy
ban nhân dân cấp huyện
Nâng cao chất lượng là cách nói được sử dụng khá phổ biến khi nghiên
cứu chất lượng. Cụm từ này cần phải được hiểu theo hai cấp độ.
Cấp độ thứ nhất: nâng cao chất lượng người làm việc trong tổ chức nói
chung và trong các cơ quan nhà nước nói riêng là nhằm làm cho tất cả người
làm việc cho tổ chức đạt được tiêu chuẩn chất lượng từng vị trí mà người lao
động đảm nhận. Tiêu chuẩn chất lượng đó do chính tổ chức quy định.
Nếu còn có những người lao động làm việc cho tổ chức chưa đạt được
tiêu chuẩn chất lượng quy định cho vị trí họ đảm nhận, nhà quản lý và chính
người lao động có trách nhiệm làm thế nào để họ đáp ứng được tiêu chuẩn
chất lượng đã đề ra.
Cấp độ thứ hai: nâng cao chất lượng trong tổ chức kể cả cơ quan nhà
nước xây dựng một hệ thống tiêu chuẩn chất lượng mới cao hơn tiêu chuẩn
chất lượng đã có, đã được sử dụng để tuyển dụng người, đưa người vào vị trí
chức danh cụ thể. Tiêu chuẩn chất lượng mới, cao hơn tiêu chuẩn chất lượng
cũ đòi hỏi tất cả mọi thành viên của tổ chức bằng nhiều cách khác nhau phải
làm thế nào đáp ứng được đòi hỏi tiêu chuẩn chất lượng mới đối với vị trí
chức danh mà họ đảm nhận. Mặt khác, các nhà quản lý phải quan tâm để giúp
đỡ người đảm nhận vị trí công việc có thể bằng nhiều cách khác nhau đáp ứng
được tiêu chuẩn chất lượng mới, cao hơn.
Sau một thời gian ban hành, tổ chức yêu cầu tất cả người lao động phải
đáp ứng tiêu chuẩn chất lượng mới. Nếu ai không đáp ứng tiêu chuẩn chất
lượng sẽ coi như “không có chất lượng” và sẽ bị loại bỏ khỏi tổ chức. Đây
65
cũng chính là cách tiếp cận nâng cao chất lượng đối với sản xuất hàng hóa và
dịch vụ. Hệ thống các tiêu chuẩn chất lượng của sản phẩm hàng hóa và dịch
vụ này càng được nâng cao hơn nhằm đáp ứng sự hài lòng cao hơn của người
sử dụng.
Trong bối cảnh chung của sự hội nhập quốc tế, khu vực, tiêu chuẩn chất
lượng của người làm việc trong tổ chức ngày càng gia tăng do đòi hỏi năng
lực ngày càng cao hơn.
Người làm việc cho tổ chức nhà nước cũng sẽ phải đứng trước thách
thức đó.
Hiện nay, chúng ta chưa thay đổi cách thức bàn về tiêu chuẩn chất
lượng cán bộ nói chung và chủ tịch, phó chủ tịch ủy ban nhân dân cấp huyện
nói riêng. Những quy định tiêu chuẩn cán bộ theo Nghị quyết Trung ương lần
thứ 3, khóa VIII và được nhắc lại ở ở Kết luận của Hội nghị Ban chấp hành
Trung ương lần thứ 9 (khóa IX). Cần nghiên cứu để cập nhật, bổ sung, nâng
cao các tiêu chuẩn quy định
Theo tác giả, triển khai Kết luận số 24-KL/TW của Bộ Chính trị (khóa
XI) [9] trong đó nhấn mạnh “Xây dựng tiêu chuẩn chức danh cán bộ”. Mặc dù
đã có các tiêu chí, những theo tác giả bổ sung nhóm tiêu chí cụ thể về kỹ năng
lãnh đạo quản lý đối với chủ tịch, phó chủ tịch ủy ban nhân dân cấp huyện
như Bộ Nội vụ đã quy định. Những kỹ năng này đã được quy định và bắt
buộc cần phải có nhằm hướng đến thành thạo các nội dung đó.
- Kỹ năng giải quyết vấn đề và ra quyết định;
- Kỹ năng chủ trì, điều hành cuộc họp;
- Kỹ năng xử lý tình huống khẩn cấp;
- Kỹ năng kiểm tra, đánh giá
- Kỹ năng tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo
- Kỹ năng thuyết trình và trả lời chất vấn[11].
66
3.1.2. Yêu cầu đòi hỏi của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII cũng đã khẳng định
“Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hoá"
trong nội bộ. Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp
chiến lược, đủ năng lực, phẩm chất và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ”. Đây cũng
không phải lần thứ nhất văn kiện của Đảng đề cập đến tầm quan trọng của vấn
đề đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý- đội ngũ những người đảm nhận chức
danh quản lý trong cả hệ thống chính trị cũng như từng cơ quan nhà nước.
Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành trung ương lần thứ 4 Khóa XI và
Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành trung ương lần thứ 4 Khóa XII đã chỉ ra
khá nhiều vấn đề gắn liền với chất lượng đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý
trong cả hệ thống chính trị.
Trong bối cảnh hội nhập hiện nay, đòi hỏi đội ngũ cán bộ phải đạt
những tiêu chuẩn không giống như thời kỳ trước đây, và nhiều tiêu chí mới
liên quan đến hội nhập cũng sẽ phải bổ sung.
Nâng cao chất lượng – thực tế chính là nâng cao tiêu chuẩn cần phải có
để có thể đưa vào đảm nhận chức danh quản lý các cấp đã trở nên vấn đề
thách thức và sống còn.
Bước vào thời kỳ đổi mới, một bộ phận đáng kể cán bộ công chức lãnh
đạo, quản lý nhà nước không theo kịp, không đáp ứng được yêu cầu nhiệm
vụ, thiếu kiến thức về chuyên môn, bất cập về nhiều mặt, còn thiếu cán bộ
lãnh đạo, quản lý có trình độ, năng lực chuyên môn, năng lực tổ chức, quản lý
giỏi; thừa cán bộ lãnh đạo, quản lý kém cả phẩm chất đạo đức, sức khỏe cũng
như năng lực công tác. Sự yếu kém của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý,
cũng như chất lượng nguồn nhân lực hiện nay là một thách thức lớn trong
quá trình hội nhập quốc tế. Chính vì vậy, yêu cầu nâng cao chất lượng, trình
độ, năng lực đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý nhà nước đáp ứng yêu cầu
67
CNH, HĐH đất nước, xây dựng nền kinh tế thị trường và mở cửa hội nhập
quốc tế là nhiệm vụ quan trọng và cấp bách trong giai đoạn hiện nay.
Suy thoái, tự diễn biến trong từng cán bộ, công chức, viên chức nói
chung và cán bộ đảm nhận chức danh quản lý các cấp (trong đó có chủ tịch,
phó chủ tịch UBND cấp huyện) có thể đến từ nhiều nguyên nhân, nhưng có
thể một trong nguyên nhân rất cơ bản là thiếu cách thức để xác định đúng ai
có thể đưa vào bộ máy nhà nước nói chung và đảm nhận chức danh quản lý
nói riêng. Những “người đó”, nếu không có cách để ngăn không đưa vào bộ
máy nhà nước và không có cách để loại bỏ nhanh ra khỏi bộ máy nhà nước,
thì đó chính là “thù trong” của chính bộ máy nhà nước.
3.1.3. Yêu cầu cụ thể đối với từng chức danh lãnh đạo quản lý
Trong xu hướng chung hiện nay, khi Việt Nam hội nhập sâu rộng vào
khu vực cũng như quốc tế, đòi hòi đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức làm
việc cho nhà nước cũng như toàn bộ hệ thống chính trị phải đáp ứng rất nhiều
tiêu chí với những mức độ tiêu chuẩn cao hơn.
Đó không chỉ là những tiêu chí gắn với tiêu chuẩn về chính trị mang ý
thức chính trị chung, bảo đảm đúng định hướng cán bộ của Đảng, mà điều rất
cơ bản chính là những năng lực liên quan đến hội nhập, làm việc trong môi
trường quốc tế. Đây là một thách thức lớn nhất hiện nay.
Chúng ta không chỉ nói về những phẩm chất chính trị , giá trị chung mà
quan trong phải có đủ năng lực dể đảm nhận một vị trí công việc cụ thể trong
tổ chức, cơ quan nhà nước. Những tiêu chí đòi hỏi năng lực liên quan đến:
- Quản lý theo những mô hình, phỏng cách mới phù hợp với chuẩn mực
quốc tế;
- Trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cũng phải ngang tầm quốc tế;
- Trình độ ngoại ngữ;
- Kỹ năng nghề nghiệp.
Việt Nam được đánh giá chỉ mới đạt mức 3,9/10 thang điểm về chất
lượng nguồn nhân lực. Để nguồn nhân lực, lực lượng lao động Việt Nam
68
ngang với tầm khu vực, quốc tế hoặc đạt ở mức trung bình (5/10), bắt buộc
chúng ta phải thay đổi cách xác định tiêu chuấn chất lượng người để đưa vào
nhà nước để có thể làm việc không chỉ ở Việt Nam mà mang tính toàn cầu. Là
chủ tịch, phó chủ tịch UBND cấp huyện, đòi hỏi ngoài các tiêu chí/tiêu
chuẩn(cụ thể) về chính trị, cần phải am hiểu về khoa học, kỹ thuật, quản lý
của một số lĩnh vực như: nông nghiệp, thủ công nghiệp, dịch vụ... trên địa bàn
mình lãnh đạo, quản lý. Kiến thức này không nhất thiết phải ở trình độ chuyên
gia, nhưng phải hiểu biết những vấn đề cơ bản nhất để khi thực hiện sự lãnh
đạo và quản lý sản xuất, kinh doanh ở các lĩnh vực nói trên không bị lạc hậu
trước những tiến bộ khoa học kỹ thuật của thời đại. Các tiêu chuẩn chất lượng
đó phải được kiểm toán trước khi đề cử, giới thiệu cho hội đồng nhân dân
bầu.
Nếu chúng ta căn cứ vào công việc giao cho chủ tịch, các phó chủ tịch,
sẽ có thể xây dựng được hệ thống tiêu chuẩn (chất lượng) chức danh cho các
vị trí chủ tịch, phó chủ tịch như đã nêu ở chương 1.
Trên thực tế, nhìn chung, ở một số địa phương để được bầu vào giữ
chức danh chủ tịch, phó chủ tịch UBND cấp huyện, trước hết cán bộ đó theo
quy định của Đảng phải đủ tiêu chuẩn chung và tiêu chuẩn của cấp ủy viên
và của thường trực cấp ủy (nếu có); được cán bộ đảng viên, đại hội Đảng và
cấp ủy địa phương tín nhiệm, cán bộ đó được đại đa số cử tri tín nhiệm bầu
vào HĐND cấp huyện khi đảm bảo thêm tiêu chuẩn của đại biểu HĐND cấp
huyện và đại diện tiếng nói, quyền lợi chính đáng của đại đa số cử tri địa
phương; có đủ năng lực đảm trách chức vụ kiêm nhiệm và thực thi công vụ
hiệu lực, hiệu quả; được đại biểu HĐND cấp huyện tín nhiệm cao bầu giữ
chức vụ chủ tịch UBND cấp huyện khi có đủ uy tín phẩm chất, trình độ,
năng lực quản lý, điều hành phát triển KT - XH, giữ vững QP - AN địa
phương. Tuy nhiên, hai nhóm chức danh chủ tịch, phó chủ tịch UBND cấp
huyện phải có tiêu chuẩn khác nhau.
69
3.1.4. Một vài đề xuất về tiêu chuẩn (chất lượng) chức danh chủ tịch,
phó chủ tịch ủy ban nhân dân cấp huyện
Một số kiến nghị về tiêu chuẩn (chất lượng) đối với chủ tịch, phó chủ
tịch UBND cấp huyện.
- Phải được xem xét đáp ứng những quy định mang tính chất chung
của tiêu chuẩn cán bộ đã được văn bản của Đảng và Nhà nước quy định. Tùy
thuộc vào quy định và cách hướng dẫn nên những người được ứng cử vào
chức danh này đã được cấp ủy đảng chọn;
- Về kinh nghiệm lãnh đạo quản lý: một số địa phương có quy định
phải kinh qua chức danh quản lý cấp cơ sở. Điều này có thể không hợp lý.
Bản thân người lãnh đạo quản lý cấp cở sở xét về phạm vi không gian, lĩnh
vực có thể không giống với cấp huyện. Theo Luật Tổ chức chính quyền địa
phương (2015), thì các thủ trưởng cơ quan chuyên môn cấp huyện là ủy viên
ủy ban nhân dân cấp huyện. Do đó, theo tác giả, chủ tịch, phó chủ tịch Ủy
ban nhân dân cấp huyện phải kinh qua chức danh thủ trưởng, phó thủ trưởng
cơ quan chuyên môn cấp huyện.
- Về năng lực chuyên môn: theo tác giả, những người được xem xét đề
đưa vào danh sách bầu chủ tịch, phó chủ tịch ủy ban nhân dân cấp huyện
phải đạt trình độ chuẩn tối thiểu là ngạch chuyên viên chính- tức cũng đã có
kinh nghiệm, am hiểu về hoạt động của cơ quan nhà nước. Ứng viên này tối
thiểu cũng đã tham gia công việc trong bộ máy nhà nước trên 6 năm. Nếu
đáp ứng năng lực chuyên môn theo tiêu chuẩn ngạch chuyên viên chính
cũng đảm bảo tối thiểu về khả năng ngoại ngữ, tin học. Nếu sau này Nhà
nước bỏ quy định ngạch công chức, theo mô hình vị trí việc làm, sẽ xây
dựng khung năng lực cụ thể cho chức danh chủ tịch.
- Phải tham gia và có chứng chỉ bồi dưỡng kỹ năng lãnh đạo quản lý
dành cho chủ tịch, phó chủ tịch UBND cấp huyện. Không chấp nhận ứng
viên để bầu chủ tịch, phó chủ tịch chưa qua lớp bồi dưỡng kỹ năng lãnh đạo
quản lý cấp huyện;
70
Từ bốn nội dung trên, sẽ cụ thể hóa cho từng chức danh cụ thể.
3.2. Một số giải pháp nâng cao chất lượng chủ tịch, phó chủ tịch Ủy
ban nhân dân cấp huyện nói chung và chủ tịch, phó chủ tịch Ủy ban
nhân dân cấp huyện tỉnh Phú Yên.
Hệ thống chính trị Việt Nam tạo nên sự thống nhất về công tác cán bộ.
Những tiêu chuẩn quy định về cán bộ, công chức và viên chức mang tính
thống nhất từ trung ương đến tận cấp cơ sở. Việt Nam không phân biệt cán
bộ, công chức, viên chức trung ương và địa phương. Tất cả đều điều chỉnh
chung bằng Luật cán bộ, công chức cũng như các nghị quyết của Đảng.
Kiến nghị một số giải pháp nhằm khắc phục hạn chế của chất lượng
chức danh chủ tịch, phó chủ tịch UBND cấp huyện của Phú Yên đã nêu trên
cũng đồng thời là kiến nghị chung cho cấp huyện cả nước.
3.2.1. Tiêu chuẩn chức danh chủ tịch, phó chủ tịch Ủy ban nhân
dân cấp huyện.
Câu hỏi lớn nhất cần phải xem xét chính là “tiêu chuẩn nào; cân đong,
đo đếm ra sao, v.v.” để đưa người vào bộ máy nhà nước bao gồm cả những
người làm chuyên môn đơn thuần và những người đảm nhận chức danh chủ
tịch, phó chủ tịch UBND cấp huyện.
Chất lượng người làm việc trong cơ quan nhà nước không thể nói
chung chung; nói dựa trên cảm tính mà không cân đong, đo đếm được những
tiêu chuẩn đó.
Khi nói về nâng cao chất lượng, phải xuất phát từ nâng cao tiêu chuẩn
để đưa người vào cơ quan nhà nước. Những cụm từ “ tuyệt đối không đưa
những người có biểu hiện suy thoái đạo đức, lối sống,v.v...” đã được sử dụng,
nhưng lại thiếu cụ thể để phát hiện ra những điều đó.
Tiêu chuẩn hiện nay để bổ nhiệm vào các chức danh chủ tịch, phó chủ
tịch UBND cấp huyện cần phải được xem xét cụ thể có vấn đề gì đặt ra cần
phải xem xét, điều chỉnh, thay đổi hay giữ nguyên. Phải xóa bỏ cơ chế “nợ
71
tiêu chuẩn”. Nếu ai không đủ tiêu chuẩn, sẽ không được bầu và khi đã bầu
nếu phát hiện sẽ loại bỏ ngay
Để làm được điều đó, hãy bắt đầu xem xét lại tiêu chuẩn. Và tất cả tiêu
chuẩn đều phải xem xét trên nguyên tắc lượng hóa và đưa ra chuẩn cụ thể.
Trên cơ sở hệ thống tiêu chuẩn hiện tại đã đáp ứng, nghiên cứu xu
hướng vận động, phát triển cũng như yêu cầu đỏi hỏi của hoạt động quản lý
và cung cấp dịch vụ, nâng cấp (nâng cao) hệ thống tiêu chuẩn hiện có và đỏi
hỏi chủ tịch, phó chủ tịch UBND cấp huyện đang làm việc trong bộ máy nhà
nước phải học tập để đáp ứng những tiêu chuẩn mới cao hơn. Nếu sau một
khoảng thời gian nhất định, nếu không đáp ứng “tiêu chuẩn mới” cũng sẽ bị
loại bỏ. Để làm được điều này, một mặt cần ban hành hệ thống tiêu chuẩn mới
thích ứng với đòi hỏi của công việc; mặt khác phải xây dựng một chiến lược
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức nhằm đáp ứng đòi hỏi mới.
Tiêu chuẩn mới được sử dụng để tuyển chọn, bổ nhiệm những người
đưa vào bộ máy nhà nước và những người đảm nhận các chức danh quản lý.
Đối với tiêu chuẩn để bổ nhiệm vào chức danh chủ tịch, phó chủ tịch
UBND cấp huyện, cần công khai để tất cả cán bộ, công chức, viên chức biết.
Và ai có khát vọng đảm nhận chức danh chủ tịch, phó chủ tịch sẽ tự rèn luyện
mình để đủ các tiêu chuẩn đó. Không hạn chế ở một vài nhóm đối tượng
“được quy hoạch”.
Khi nền tảng cơ bản của chất lượng được xây dựng một cách vững chắc
(hệ thống tiêu chuẩn); có tham khảo tiêu chuẩn của các nước khu vực và thế
giới, vấn đề tiếp theo là đưa những tiêu chuẩn đó vào từng vị trí cụ thể.
Nghị quyết Trung ương lần thứ 5 Khóa X cũng định hướng: "Chủ tịch
uỷ ban nhân dân là người đứng đầu cơ quan hành chính, chịu trách nhiệm
trước hội đồng nhân dân cùng cấp và cơ quan hành chính cấp trên”; Người
đứng đầu cơ quan hành chính có trách nhiệm đề xuất, giới thiệu nhân sự cấp
phó và các thành viên của cơ quan hành chính để cấp uỷ có thẩm quyền xem
72
xét, quyết định, sau đó giới thiệu cho cơ quan dân cử để bầu hoặc bổ nhiệm
và chịu trách nhiệm về việc đề xuất, giới thiệu của mình”[4].
Cần xây dựng một hệ thống các tiêu chuẩn cụ thể đối với hai chức danh
chủ tịch, phó chủ tịch ủy ban nhân dân các cấp. Và thông qua đó có thể thay
đổi cả cách bầu chọn các chức danh này.
Giải pháp này phải được coi là giái pháp tiên quyết. Đồng thời đây
cũng là giải pháp mang tính thách thức trong điều kiện của nước ta.
Trong nhiều năm, tiêu chuẩn để đưa người vào bộ máy nhà nước cũng
như tiêu chuẩn để đưa người đảm nhận các chức danh chủ tịch, phó chủ tịch
thường quan tâm nhiều đến yếu tố chính trị, thân nhân và mang tính định
hướng chung chung.
Mặc dù chúng ta luôn nhấn mạnh sự kết hợp giữa hai yếu tố “đức và
tài”- hồng và chuyên”. Nhưng yếu tố “đức” thường bị che đậy rất tính vi khó
có thể phát hiện, đánh giá khi chưa đặt vào vị trí chức danh quản lý và cũng
chưa có cơ hội để thể hiện “xấu tốt- đỏ hay đen”. Ít ai tự đánh giá mình không
có “đức”. Chỉ từ thực tiễn, hành vi bộc lộ khi đảm nhận chức danh quản lý
mới có thể thấy rõ “xấu tốt- đen – trắng”. Ít ai có thể hình dung hoàng hôn
nhiệm kỳ để làm những việc thất đức, vi phạm pháp luật. Tiêu chí “đức” đạt
ra nhiều thách thức khi xây dựng tiêu chuẩn.
Tài thể hiện ở năng lực để thực thi công vụ được giao. Ở mức độ nhất
định, có thể đánh giá được tương đối có tài hay không trước khi được bổ
nhiệm. Mặc dù, bổ nhiệm vào chức danh chủ tịch, phó chủ tịch thường làm
những công vụ trước đó chưa làm, do đó đòi hỏi trắc nghiệm tiêu chuẩn tài
cũng rất quan trọng.
Nếu kết hợp với giải pháp kiểm soát, có thể xây dựng nhiều hơn các
tiêu chuẩn về tài để lựa chọn người bổ nhiệm vào chức danh quản lý , bầu vào
chức danh chủ tịch, phó chủ tịch UBND cấp huyện. Đưa người tài- có năng
lực và đạt tiêu chuẩn vào các chức danh là xu hướng cần quan tâm.
73
Mặt khác, đề cao giá trị đạo đức thực thi công vụ theo hướng kiểm soát
chặt chẽ việc tuân thủ nghiêm chỉnh pháp luật của nhà nước, thì đó chính thể
hiện người đảm nhận chức danh quản lý, chủ tịch, phó chủ tịch có đức. Điều
này đã và đang trở thành xu hướng chung của thế giới khi đề cao đạo đức
pháp luật.
Người đảm nhận chức danh chủ tịch, phó chủ tịch vi phạm pháp luật,
coi thường pháp luật là “không có đức” và cần phải đưa ngay ra khỏi chức
danh đó. Không có bất cứ lý do gì để ở lại bộ máy nhà nước, vẫn tiếp tục đảm
nhận chức danh đối với người không có đức. Không thể châm chước, thông
qua mang tính hình thức: khiển trách, cảnh cao người coi thường pháp luật.
Xây dựng hệ thống tiêu chuẩn chức danh chủ tịch, phó chủ tịch là công
vụ phức tạp; đòi hỏi phải nghiên cứu, khảo sát.
Xây dựng hệ thống các tiêu chuẩn để bổ nhiệm chức danh quản lý phải
dựa trên bản mô tả công việc cho từng chức danh chủ tịch, phó chủ tịch. Bản
mô tả công việc phải chi tiết, rõ ràng và phân định được giữa chức danh này
so với chức danh khác. Phải thể hiện rõ:
- Các loại công việc phải thực hiện;
- Yêu cầu đòi hỏi kết quả;
- Trách nhiệm và chịu trách nhiệm;
- Phạm vi quyền hạn;
- Khác.
Trên cơ sở đó xây dựng những yêu cầu, đòi hỏi đối với người bổ nhiệm
vào chức danh chủ tịch, phó chủ tịch đó- tiêu chuẩn. Và bất cứ ai ngồi vào vị
trí chức danh chủ tịch, phó chủ tịch đó đều phải thỏa mãn đầy đủ các tiêu
chuẩn.
Mỗi ứng viên khi được đề cử để bầu, phải được kiểm tra, đánh giá về
mức độ đạt tiêu chuẩn. Nếu không đạt tiêu chuẩn đòi hỏi sẽ không được giới
thiệu. Đây là công việc Đảng cần phải quan tâm khi giới thiệu người để Hội
đồng nhân dân bầu.
74
Trước mắt, cần xây dựng tiêu chuẩn chức danh chủ tịch, phó chủ tịch
UBND cấp huyện trên cơ sở nhiệm vụ và quyền hạn được trao cho các chức
danh này. Phải xây dựng tiêu chuẩn để tìm kiếm đúng người làm tốt những
nhiệm vụ và quyền hạn được trao. Và do đó, phải quan tâm đến tiêu chuẩn
năng lực quản lý.
Bắt buộc tất cả người đảm nhận chức danh chủ tịch, phó chủ tịch
UBND cấp huyện phải tham gia khóa bồi dưỡng kỹ năng lãnh đạo quản lý do
Bộ Nội vụ ban hành.
Đồng thời, đề nghị Bộ Nội vụ Ban hành tiêu chuẩn chức danh chủ tịch,
phó chủ tịch UBND cấp huyện theo bốn nhóm đã nêu ở mục 3.1.4.
3.2.2. Hoàn thiện cách thức tuyển chọn người bầu đảm nhận các
chức danh chủ tịch, phó chủ tịch.
Tuyển chọn người để đề đạt vào vị trí chức danh quản lý nói chung, bầu
vào chức danh chủ tịch, phó chủ tịch cấp huyện nói riêng là yếu tố then chôt
quyết định hiệu quả hoạt động của cấp huyện.
Về nguyên lý chung, cần áp dụng một cách đầy đủ lý thuyết tuyển chọn
nhân sự cho cấp huyện. Một số nội dung sau cần phải quan tâm:
- Công bố công khai tiêu chuẩn (chất lượng –tổi thiểu) về những vị trí
chức danh chủ tịch, phó chủ tịch.
- Các tiêu chuẩn này phải rõ ràng cụ thể, gắn với vị trí bầu. Không sử
dụng những cụm từ mang tính chung chung, đâu cũng đúng.
- Công bố công khai số lượng vị trí cần;
- Công bố công khai hình thức tuyển chọn, bầu cử;
- Công bố công khai người được tuyển chọn, bầu cử.
Tuyệt đối không đưa vào những "tiêu chuẩn” chỉ nhằm loại trừ tất cả
mọi ứng viên đủ tiêu chuẩn, để lại những ứng viên thuộc diện “ưu tiên”,
nhưng pháp luật lại không quy định.
75
Phải bảo đảm cơ hội bình đẳng làm việc cho nhà nước đối với tất cả ai
đủ tiêu chuẩn. Không sử dụng tiêu chí mang tính “cục bộ, địa phương” để loại
bỏ cơ hội bình đẳng, nếu pháp luật không quy định;
Tất cả ai có đủ tiêu chuẩn đều là ứng viên cho vị trí chức danh cần bầu.
Không phân biệt quy hoạch hay chưa được đưa vào quy hoach. Ai thực tài sẽ
được chọn; ai sáng giá nhất sẽ được chọn.
Các chức danh chủ tịch, phó chủ tịch UBND các cấp được HĐND cũng
cần có sự thay đổi nhất định. Cần tiếp cận dần đến với mô hình thi tuyển. Sự
khác biệt ở đây, hội đồng tuyển chọn là HĐND cùng cấp. Theo quy định hiện
hành HĐND sẽ bầu ra các chức danh chủ tịch, phó chủ tịch, các ủy viên
UBND. Do đó, để các lá phiếu của từng đại biểu, giống như là phiếu của
thành viên hội đồng thi tuyển, cần thay đổi cơ chế bầu cử.
Bầu cử phải theo đúng nguyên tắc “bầu và chọn”. Do đó, mỗi chức
danh cần phải có số dư. Không hạn chế số lượng ứng cử. Bầu chức danh chủ
tịch cũng phải tạo ra cơ chế cạnh tranh. Một mặt, nguyên tắc “Đảng cử,
HĐND bầu”, nhưng có thể không phải cử một người mà có thể giới thiệu một
danh sách những người đủ tiêu chuẩn cho HĐND lựa chọn. Và cũng có thể
mở rộng dân chủ giới thiệu ứng viên khác.
Mỗi một ứng viên, cần dành cho họ thời gian để trình bày “cương lĩnh
hành động cụ thể của họ” và trình bày cho Đại biểu HĐND nghe để từ đó đưa
ra quyết định bầu, chọn ai.
Các chức danh khác như phó chủ tịch, các ủy viên UBND cũng phải
thực hiện đúng nguyên tắc bầu, có cạnh tranh; có trình bày cương lĩnh hành
động.
Không để như hiện nay, chủ tịch sau khi bầu có thể giới thiệu đề cử phó
chủ tịch, ủy viên ủy ban nhân dân. Cần có cơ chế tự ứng cử, tự đề cử.
Chọn người và bầu người để đưa vào các vị trí chức danh quản lý là
một vấn đề then chốt để có đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức làm việc cho
nhà nước có đủ tiêu chuẩn (chất lượng) theo mong muốn của nhà nước; có thể
76
nâng cao được hiệu quả hoạt động của nhà nước. Nếu không thay đổi cách
thức tuyển chọn có thể sẽ đưa người “cơ hội, kém năng lực vào bộ máy”.
3.2.3. Đổi mới từng bước công tác quy hoạch các chức danh chủ tịch,
phó chủ tịch Ủy ban nhân dân trong bộ máy nhà nước và hệ thống chính trị
Cụm từ “quy hoạch” sử dụng ở Việt Nam từ rất sớm. Nhiều văn bản
của Đảng đã xác vấn đề này. Mục đích của công tác quy hoạch là “Tạo sự chủ
động, có tầm nhìn chiến lược trong công tác cán bộ; khắc phục tình trạng
hẫng hụt trong đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, bảo đảm tính kế thừa, phát
triển và sự chuyển tiếp liên tục, vững vàng giữa các thế hệ cán bộ, giữ vững
đoàn kết nội bộ và sự ổn định chính trị. Chuẩn bị từ xa và tạo nguồn cán bộ
dồi dào làm căn cứ để đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ cán bộ đảm nhận
các chức danh lãnh đạo, quản lý các cấp trong hệ thống chính trị vững vàng
về chính trị, trong sáng về đạo đức, thành thạo về chuyên môn, nghiệp vụ, có
trình độ và năng lực, nhất là năng lực trí tuệ và thực tiễn tốt, đủ về số lượng,
đồng bộ về cơ cấu, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước.”[7]
Yêu cầu chung về công tác quy hoạch cũng đã được quy định: “Quy
hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý là công tác phát hiện sớm nguồn cán bộ trẻ có
đức, có tài, có triển vọng về khả năng lãnh đạo, quản lý, đưa vào quy hoạch
để có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, tạo nguồn các chức danh lãnh đạo, quản
lý, đáp ứng nhiệm vụ chính trị trước mắt và lâu dài của từng địa phương, cơ
quan, đơn vị và của đất nước.Đề án quy hoạch cán bộ là kế hoạch tổng thể,
dài hạn về đội ngũ cán bộ có triển vọng đảm nhiệm các chức danh lãnh đạo,
quản lý và kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, bố trí, sử dụng số cán
bộ đó theo quy hoạch”[9]
Thực trạng quy hoạch cán bộ (đúng tên gọi của công tác này là quy
hoạch người để đảm nhận chức danh quản lý các cấp trong cả hệ thống chính
trị bao gồm cả cơ quan nhà nước) đã được tổng kết và rút ra những hạn chế
của công tác này. Bên cạnh những két quả, “công tác quy hoạch cán bộ cũng
77
còn những mặt yếu, như việc xây dựng và thực hiện quy hoạch cán bộ ở một
số địa phương, đơn vị chưa căn cứ chủ yếu vào đánh giá cán bộ, chưa xuất
phát từ yêu cầu nhiệm vụ và năng lực thực tiễn của cán bộ, chưa gắn quy
hoạch với đào tạo, bố trí, sử dụng cán bộ, dẫn đến nhiều đề án quy hoạch còn
hình thức, thiếu tính khả thi. Chất lượng quy hoạch cán bộ chưa cao, chưa
đồng đều và hầu hết các đề án quy hoạch chưa có tầm nhìn xa, chưa bảo đảm
cơ cấu 3 độ tuổi. Cơ cấu cán bộ trong quy hoạch chưa cân đối, ít cán bộ trẻ,
cán bộ nữ; trình độ, ngành, nghề đào tạo của cán bộ ở nhiều nơi chưa phù
hợp, chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ. Nhìn tổng thể, quy hoạch cán bộ
thời gian qua chưa có sự liên thông giữa cấp dưới với cấp trên, giữa địa
phương với Trung ương, giữa các ngành, các lĩnh vực công tác...”[8].
Ba nội dung cơ bản:
- Đẩy mạnh công tác quy hoạch, luân chuyển cán bộ đồng thời với việc
đổi mới đồng bộ các khâu khác trong công tác cán bộ, trước hết là đổi mới
công tác đánh giá cán bộ, xác định thẩm quyền, trách nhiệm của người đứng
đầu trong công tác cán bộ và trong quy hoạch, luân chuyển cán bộ;
- Thực hiện nghiêm cơ cấu 3 độ tuổi trong quy hoạch cấp ủy và ban
lãnh đạo, quản lý các cấp; tăng cường kiểm tra việc thực hiện quy hoạch, bảo
đảm tính thực chất, khả thi của đề án quy hoạch cán bộ;
- Áp dụng và thực hiện có hiệu quả quy hoạch cán bộ cấp chiến lược;
Công tác quy hoạch người đảm nhận chức danh chủ tịch, phó chủ tịch
UBND các cấp được quan tâm và đem lại nhiều kết quả. Tuy nhiên, công tác
quy hoạch ở nước ta mang tính chất đóng hơn là quy hoạch mở. Và cách quy
hoạch của chúng ta thiên về quy hoạch con người hơn là tư duy quy hoạch vị
trí (tiêu chuẩn chức danh). Hay chưa đưa ra đi trước một bước tiêu chuẩn đảm
nhận chức danh chủ tich, phó chủ tịch các cấp cho những giai đoạn nhiệm kỳ
tiếp theo.
Công tác quy hoạch cán bộ để đặt họ vào vị trí chủ tịch, phó chủ tịch
như hiện nay gắn với quy hoạch cá nhân từng con người cụ thể. Và chỉ những
78
ai được “đưa vào diện quy hoạch” mới có cơ hội để “làm quan”. Điều đó sẽ
tạo nên “chạy quy hoạch” như đã diễn ra hiện nay. Chủ tịch Hồ Chí Minh
cũng đã từng dạy “trong các ngành hoạt động của chúng ta, nào chính trị, nào
kinh tế, nào quân sự, văn hoá, không thiếu những người có năng lực, có sáng
kiến. Nhưng vì cách lãnh đạo của ta còn kém, thói quan liêu còn nồng cho nên
có những người như thế cũng bị dìm xuống, không được cất nhắc. Muốn
tránh khỏi sự hao phí nhân tài, chúng ta cần phải sửa chữa cách lãnh đạo".
Điều cơ bản của quy hoạch theo người, dù dân chủ, công khai thì đó
vẫn là ý chí của “Ai được chọn Ai”. Và khi người chọn chưa thực sự đặt lợi
ích quốc gia, của đất nước lên trên lợi ích của bất cứ nhóm lợi ích nào và vì
lợi ích cá nhân, gia đình thì hậu quả của việc chọn đó sẽ tạo nên những nhóm
người giống nhau. Đó cũng là hiện tượng đang tồn tại ở Việt Nam khi cha có
thể quy hoạch con; chồng quy hoạch vợ.
Quy hoạch mở nên thay thế từng bước cho quy hoạch đóng, quy hoạch
người như hiện nay. Quy hoạch mở là quy hoạch tiêu chí người mà tổ chức
cần cho tương lai theo những tiêu chuẩn nhất định. Tiêu chuẩn đó gắn liền với
mục tiêu phát triển của tổ chức. Đó cũng chính là bản chất của kế hoạch hóa
nguồn nhân lực mang tính khoa học, chuẩn tắc.
Quy hoạch mở tức xây dựng hệ thống tiêu chuẩn (như đã nêu ở giải
pháp 1) cho từng giai đoạn mang tính cập nhật. Đến năm 2021, nhiệm kỳ tới
của Đảng và nhà nước, một bộ trưởng cần đòi hỏi những tiêu chuẩn gì; một
chủ tịch UBND cấp huyện đòi hỏi những tiêu chuẩn như thế nào sẽ được Ban
Tổ chức trung ương cùng với Bộ Nội vụ xây dựng và ban hành. Và tất cả các
vị trí quản lý đều phải được quy hoạch, dự báo đòi hỏi yêu cầu, tiêu chuẩn.
Quy hoạch, dự báo yêu cầu đòi hỏi không nhằm vào bất cứ ai. Chỉ là
quy hoạch yêu cầu đòi hỏi cho vị trí chức danh quản lý cụ thể từ trung ương
đến tận cơ sở.
Tiêu chuẩn cho chức danh chủ tịch, phó chủ tịch phải được xây dựng
dựa trên đòi hỏi, yêu cầu cần phải có để thực thi công vụ sẽ được giao cho
79
chủ tịch, phó chủ tịch cụ thể. Tất cả các vị trí chức danh chủ tịch, phó chủ tịch
hiện tại có tiêu chuẩn, và tương lại nhiệm kỳ tiếp theo cũng sẽ có quy hoạch
tiêu chuẩn mới. Và khi thông báo công khai tiêu chuẩn đó, đến kỹ cần chọn
người, chúng ta chỉ căn cứ vào danh mục những ai đủ tiêu chuẩn để chọn lấy
một hay một số người sáng giá nhất.
Công bố công khai tiêu chuẩn đối với từng vị trí chức danh trước;
không nhằm vào ai; số lượng bao nhiêu. Tất cả những ai có khát vọng đều
dựa vào tiêu chuẩn mà phấn đấu, trở thành ứng cử viên cho chức danh chủ
tịch, phó chủ tịch. Mỗi một cá nhân có khát vọng mong muốn công hiến cho
địa phương đều có thể tự mình căn cứ vào tiêu chuẩn chức danh đó mà phấn
đấu. Tổ chức có người cũng có thể tạo cơ hội để người của tổ chức có đủ tiêu
chuẩn gia nhập ứng viên.
Và khi cần chọn, tuyển một người, chỉ những ai có đủ tiêu chuẩn mới
thành ứng viên.
Những tệ nạn xấu liên quan đến quy hoạch theo người sẽ không còn;
không ai phải chạy để đưa vào quy hoạch; “con cháu các cụ” nếu không có
tâm huyết, không đủ tiêu chuẩn cũng không được đưa vào danh sách ứng cử.
Bất cứ ai có tâm huyết phát triển, cống hiến cho đất nước đều là người
được quy hoạch thông qua tiêu chuẩn. Và đều được đưa vào danh sách để
bầu.
Kết hợp với cách quy hoạch mở với cách quy hoạch theo người, chúng
ta có thể tạo sức ép cho những ai được quy hoạch theo người trong cuộc thi
cạnh tranh chức danh quản lý.
Chủ tịch, phó chủ tịch UBND cấp huyện nói riêng và các cấp nói chung
cũng cần tiến hành quy hoạch mở.
Phải xây dựng tiêu chuẩn chức danh cho chủ tịch, phó chủ tịch UBND
cấp huyện cho nhiệm kỳ 2021-2025 với hệ thống các tiêu chuẩn một cách rõ
ràng cụ thể. Công khai tiêu chuẩn đó từ ngay những năm tới (2017, 2018 ) để
ai có khát vọng làm chủ tịch, phó chủ tịch theo những tiêu chuẩn đã công bố
80
hay phần đấu. Kỳ vọng đến năm 2021, chúng ta sẽ có nhiều người để chọn,
chứ không phải 1, 2, 3 người để chọn lấy 1 người như quy hoạch đóng hiện
nay.
3.2.4. Đổi mới cách thức đào tạo, bồi dưỡng nhằm tạo ra đội ngũ
quản lý nói chung và chủ tịch, phó chủ tịch đáp ứng tiêu chuẩn (chất lượng).
Nếu như giải pháp thứ nhất được thực hiện, thì giải pháp liên quan đến
đào tạo bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức nói chung và đào tạo bồi
dưỡng chủ tịch, phó chủ tịch (từ trung ương đến cấp cơ sở) sẽ phải đối mới
một cách toàn diện theo hướng đào tạo bồi dưỡng nhằm cập nhật nâng cao
năng lực để đáp ứng với đòi hỏi, yêu cầu ngày càng gia tăng của tiêu chuẩn
(chất lượng).
Trước hết, phải thay đổi tư duy về đào tạo bồi dưỡng người đảm nhận
chức danh chủ tịch, phó chủ tịch theo hướng đáp ứng được tiêu chuẩn ngày
càng gia tăng đối với chức danh chủ tịch, phó chủ tịch mà họ đảm nhận.
Không phải đào tạo bồi dưỡng mang tính hàn lâm, lý luận chính trị chung
chung. Phải thay đổi chuyển sang đào tạo bồi dưỡng những nhóm năng lực
liên quan trực tiếp đến điều hành quản lý; cũng như giúp các họ tự quản lý
bản thân tốt hơn (xem bảng 2.3).
Phải xác định đúng bản chất của đào tạo bồi dưỡng. Không phải con
người được đặt vào vị trí chức danh chủ tịch, phó chủ tịch lại còn phải chăm
lo cho việc đào tạo văn hóa; đào tạo để có bằng cấp cao hơn, nhưng lại không
phục vụ để có thể làm tốt chức năng quản lý mà họ phải đảm nhận.
Hai là, hệ thống đào tạo, bồi dưỡng cần phải thay đổi theo hướng tập
trung vào tiêu chuẩn (chất lượng) theo hướng nâng cao, cập nhật. Tập trung
vào chủ yếu vào những nhóm năng lực gắn liền với quản lý. Năng lực tư duy
sáng tạo; năng lực tổ chức năng lực khuyến khích, tạo động lực làm việc.
Ba là, tập trung vào những kỹ năng cơ bản gắn với hoạt động quản lý
của người đảm nhận chức danh quản lý. Những kỹ năng nào còn yếu sẽ được
bồi dưỡng không phải chỉ một lần mà có thể bồi dưỡng cập nhật hàng năm.
81
Bốn là, triển khai chương trình bồi dưỡng chức danh quản lý đã được
ban hành. Tất cả người được bổ nhiệm chức danh quản lý tương ứng phải học
các chương trình bồi dưỡng này trước khi được bổ nhiệm.
Năm là, đối với chức danh chủ tịch, phó chủ tịch UBND cấp huyện, cần
bồi dưỡng ngay chức danh này sau khi Hội đồng Nhân dân cấp huyện đã bầu
chức danh đó.
Chương trình bồi dưỡng kỹ năng lãnh đạo quản lý cho lãnh đạo cấp
huyện (chủ tịch, phó chủ tịch) được Bộ Nội vụ ban hành, trong đó tập trung
vào 6 nhóm kỹ năng. Các nhóm kỹ năng này cần tiến hành bồi dưỡng nhiều
lần. Lần thứ nhất theo đúng như chương trình đã đươc ban hành. Do kỹ năng
phải gắn liền với rèn luyện, thực hành nên hàng năm cần mo. khóa bồi dưỡng
nâng cao kỹ năng cho các chức danh chủ tịch, phó chủ tịch. Coi đó là chương
trình học hàng năm theo quy định của Luật cán bộ công chức.
Sáu là, trang bị cho mỗi một cá nhân người đảm nhận chức danh chủ
tịch, phó chủ tịch UBND cấp huyện (và có thể làm cho các chức danh khác),
một thẻ năng lực cần có đối với chức danh đó. Và hướng dẫn người đảm nhận
chức danh tự đánh giá bản thân theo yêu cầu của từng nhóm năng lực theo
từng giai đoạn. Từ đó, giúp họ xác định được sự hẫng hụt và những năng lực
nào còn hạn chế để tự xây dựng kế hoạch bồi dưỡng.
Bảy là ,khuyến khích người đảm nhận chức danh quản lý tham gia các
khóa học nâng cao từ các cơ sở đào tạo bồi dưỡng trong nước và nước ngoài
để hoàn thiện năng lực quản lý nhằm đáp ứng xu hương toàn cầu hóa.
Tám là, cần sắp xếp lại hệ thống đào tạo bồi dưỡng cán bộ công chức
viên chức nói chung cũng như hệ thống bồi dưỡng chức danh quản lý nói
riêng để tập trung nguồn lực cho bồi dưỡng chức danh quản lý. Phát triển bốn
cơ sở đào tạo bồi dưỡng của Học viện Hành chính Quốc gia để đảm nhận bồi
dưỡng thống nhất các chức danh quản lý từ trung ương đến tận cơ sở. Không
phân cấp bồi dưỡng chức danh quản lý.
82
Đào tạo, bồi dưỡng phải được xây dựng trên những nền tảng rất cơ bản
nhằm trang bị những kiến thức còn yếu, thiếu của công chức nói chung và
công chức quản lý các cấp nói riêng. Không thiết kế những chương trình đào
tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực từng khóa ngắn hạn 2-3 ngày.
Muốn làm được điều này, đòi hỏi các nhà quản lý cấp cao của từng tổ
chức phải chỉ đạo để xây dựng chiến lược đào tạo, bồi dưỡng.
Phải xác định đúng, chính xác những kiến thức, đặc biệt kiến thức quản
lý còn yếu và thiếu của công chức quản lý. Trên cơ sở đó để xây dựng kế
hoạch đào tạo, bồi dưỡng mang tính chiến lược.
3.2.5. Hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát hoạt động thực thi công
vụ của những người đảm nhận chức danh chủ tịch, phó chủ tịch Ủy ban
nhân dân cấp huyện.
Kiên quyết loại bỏ những người suy thoái, biến chất, có biểu hiện tự
diễn biến; có dấu hiệu tham nhũng. Đã đến lúc không nên sử dụng cách làm
mang tính “dĩ hòa, vi quý”; “ không muốn bộc lộ để nhân dân biết được các
nhà quản lý trong hệ thống chính trị, bộ máy nhà nước yếu kém ảnh hưởng
đến uy tín của Đảng”. Đã có quá nhiều thời gian để cán bộ tự rèn luyện mình;
học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Do đó, đã đến lúc kiên quyết xử lý tất cả những ai vi phạm kỷ luật, phép
nước. Chúng ta không lo sợ vì xử lý vi phạm kỷ luật nhiều người sẽ không
còn người để làm việc. Đất nước chúng ta còn nhiều người có phẩm chất, đạo
đức nhưng họ chưa được đưa vào bộ máy nhà nước. Để những người “vi
phạm kỷ cương, vi phạm kỷ luật” làm không tôt nhiệm vụ phải làm, mà còn
cản trở không thể đưa người “trong sáng” vào bộ máy nhà nước.
Để thực hiện tốt vấn đề này đòi hỏi cần nhanh chóng xây dựng và hoàn
thiện cơ chế, chính sách kiểm tra, giám sát hoạt động thực tiễn của chủ tịch,
phó chủ tịch. Cần đưa vào trong quy chế làm việc của Ủy ban Nhân dân cấp
huyện: định kỳ hoặc đột xuất phải đối thoại trực tiếp với nhân dân; lấy phiếu
tín nhiệm trực tiếp của nhân dân đối với chức danh chủ tịch, phó chủ tịch.
83
Chú ý với những chức danh đó nếu không hoàn thành nhiệm vụ được giao,
không được quần chúng tín nhiệm, vi phạm pháp luật, kỷ luật thì phải có quy
định bãi miễn, xử lý nghiêm và công khai trước công luận.
Để thực hiệm kiểm tra, giám sát hoạt động của chủ tịch, phó chủ tịch
cần:
Trước hết, phải xác định thật rõ nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm
của từng cá nhân đảm nhận chức danh quản lý (trong đó có chủ tịch, phó chủ
tịch). Và khi để ra sai sót, phải chịu hoàn toàn trách nhiệm và điều cơ bản sẽ
không đảm nhận vị trí quản lý đó. Chúng ta cứ phải loanh quanh ở những cụm
từ như từ chức, cách chức, giáng chức. Đã đến lúc phải cương quyết xử lý
trách nhiệm, thì mới nâng cao chất lượng làm việc;
Hai là xây dựng hệ thống tiêu chí đánh giá rõ ràng cụ thể, dựa trên kết
quả cụ thể cũng như các hành vi cụ thể.
Ba là, bộ máy kiểm tra, giám sát phải hoạt động hiệu lực, hiệu quả.
Không thể để cho hoạt động của các cơ quan này đối với từng tổ chức, cá
nhân lại không phát hiện ra sai sót. Kiện toàn lại cơ quan này và phải trao cho
họ thực quyền và trách nhiệm.
Bốn là, lấy ý kiến mức độ hài lòng của công dân đối với tất cả các chức
danh lãnh đạo quản lý các cấp, trong đó có chức danh chủ tịch, phó chủ tịch
UBND cấp huyện. Nếu sau 2 hay 3 lần ý kiến hài lòng của công dân thấp với
một chức danh nhất định, HĐND thể xem xét để bãi nhiệm chức danh do
HĐND bầu.
84
Tiểu kết chương 3
Nâng cao chất lượng đội ngũ chủ tịch, phó chủ tịch cấp huyện của tỉnh
Phú Yên là một đòi hỏi mang tính chiến lược, nhưng đồng thời cũng là một
thách thức.
Nâng cao chất lượng đội ngũ chủ tịch, phó chủ tịch tức là làm cho đội
ngũ này đáp ứng được tiêu chuẩn chất lượng trước mắt cũng như trong giai
đoạn tới.
Nâng cao chất lượng đội ngũ chủ tịch, phó chủ tịch cấp huyện cũng như
cán bộ nói chung trong bối cảnh chính trị Việt Nam đều đặt dưới sự lãnh đạo
của Đảng. Nâng cao chất lượng đội ngũ chủ tịch, phó chủ tịch cũng là góp
phần đẩy lùi suy thoái, tự diễn biến như Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành
Trung ương lần thứ 4 (khóa XII) đã chỉ ra.
Trong Chương 3, tác giả dựa vào những hạn chế hiện tại của đội ngũ
chủ tịch, phó chủ tịch cấp huyện của tỉnh Phú Yên ( 9 chủ tịch, 19 phó chủ
tịch) cũng như nhận định chung của các văn bản pháp luật của nhà nước và
văn kiện Đảng, đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần nâng cao chất lượng
đội ngũ chủ tịch, phó chủ tịch cấp huyện.
Thực hiện 5 nhóm giải pháp không phải chỉ riêng tỉnh Phú Yên có thể
làm được mà đòi hỏi sự quan tâm của các cơ quan quản lý cán bộ, công chức
và viên chức.
Ban Tổ chức trung ương; Bộ Nội vụ sớm ban hành tiêu chuẩn chức
danh lãnh đạo, quản lý, đặc biệt tiêu chuẩn chức danh chủ tịch, phó chủ tịch
UBND các cấp. Dựa vào tiêu chuẩn chức danh này, từng HĐND mới có thể
lựa chọn người xứng đáng đảm nhận chức danh chủ tịch, phó chủ tịch UBND
từng cấp cũng như cấp huyện.
85
KẾT LUẬN
Chất lượng cán bộ nói chung và chất lượng chủ tịch, phó chủ tịch
UBND cấp huyện là một trong những vấn đề được Đảng và Nhà nước Việt
Nam quan tâm. Ngay từ nhà nước Việt Nam mới ra đời, chủ tịch Hồ Chí
Minh cũng đã căn dặn “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc” và “Công việc
thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”.
Hội nghị lần thứ ba, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá VIII) đã
ban hành Nghị quyết số 03-NQ/TW ngày 18/6/1997 về “Chiến lược cán bộ
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”. Chiến lược cán bộ
đã xác định phương hướng cơ bản, các quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ và
những giải pháp lớn về xây dựng đội ngũ cán bộ đến năm 2020. Và trong suốt
20 năm qua, xây dựng một đội ngũ cán bộ có chất lượng; có đức có tài đã
được khảng định qua nhiều nghị quyết của Đảng.
Chất lượng cán bộ nói riêng và người làm việc cho tổ chức nói chung là
một vấn đề vừa mang tính lý luận và thực tiễn.
Luận văn đã cố gắng hệ thống hóa lại những vấn đề cần quan tâm liên
quan đến cụm từ chất lượng. Qua hệ thống các quan niệm khác nhau về chất
lượng và qua đó khái quát cách hiểu chất lượng con người nói chung và con
người làm việc cho các tổ chức và tổ chức nhà nước nói riêng. Chất lượng
luôn phải gắn liền với cụm từ tiêu chuẩn chất lượng. Thiếu từ tiêu chuẩn, sẽ
không giúp chúng ta hiểu rõ khái niệm chất lượng.
Chất lượng đội ngũ cán bộ và đội ngũ chủ tịch, phó chủ tịch các cấp
cũng như cấp huyện nói riêng phải gắn liền với một hệ thống các tiêu chuẩn
cụ thể gọi chung là hệ thông tiêu chuẩn chất lượng.
Một cán bộ nói chung và chủ tịch, phó chủ tịch cấp huyện nói riêng
phải thỏa mãn hệ thống các tiêu chuẩn chất lượng đề ra đối với chức danh cụ
thể đó. Nếu chủ tịch, phó chủ tịch không đáp ứng những tiêu chuẩn quy định
86
của Đảng và pháp luật nhà nước đều được xếp vào loại không đủ tiêu chuẩn
và không có chất lượng.
Đội ngũ cán bộ nói chung và đội ngũ cán bộ là chủ tịch, phó chủ tịch
UBND cấp huyện phải tự rèn luyện không ngừng để đáp ứng những tiêu
chuẩn chất lượng đã được đề ra.
Thực trạng hiện nay về chất lượng đội ngũ chủ tịch, phó chủ tịch cấp
huyện trên địa bàn tỉnh Phú Yên bao gồm 9 chủ tịch và 20 phó chủ tịch bằng
cách tiếp cận khảo sát bằng ba chỉ tiêu:
- Mức độ đáp ứng hệ thống tiêu chuẩn chất lượng đã được đề ra;
- Mức độ hoàn thành công việc (nhiệm vụ) được giao;
- Mức độ hài lòng của nhân dân đối với chủ tịch, phó chủ tịch.
Qua khảo sát, đa số đội ngũ chủ tịch, phó chủ tịch ủy ban nhân dân cấp
huyện tỉnh phú Yên đều được đánh giá từ tốt trở lên.
Tuy nhiên, cần nhìn nhận đúng kết quả thống kê và khảo sát khi mà hệ
thống các tiêu chuẩn chất lượng để xem xét từng chức danh chủ tịch, phó chủ
tịch cấp huyện cũng như các cấp khác còn chung chung, giống nhau như được
quy định trong văn kiện của Đảng. Tất cả cán bộ nói chung đều sử dụng cùng
một cách tiếp cận. Cho đến nay, Việt Nam vẫn chưa có hệ thống tiêu chuẩn
chất lượng đội ngũ chủ tịch, phó chủ tịch UBND các cấp cũng như UBND
cấp huyện nên chưa thể đánh giá chính xác mức độ đáp hệ thống tiêu chuẩn
chất lượng.
Mặt khác, các nhiệm vụ thực hiện và cách thức đánh giá đã tạo ra kết
quả đánh giá như đã được phản ảnh. Kết quả đó theo nhiều ý kiến chưa phản
ảnh đúng thực trạng chất lượng của đội ngũ cán bộ.
Luận văn cũng đã mạnh dạn đề xuất 5 kiến nghị mang tính giải pháp để
hoàn thiện tiêu chuẩn chất lượng của đọi ngũ chủ tịch, phó chủ tịch cấp huyện
thuộc tỉnh Phú Yên.
1- Tiêu chuẩn chức danh chủ tịch, phó chủ tịch UBND cấp huyện.
87
2- Hoàn thiện cách thức tuyển chọn người bầu đảm nhận các chức danh
chủ tịch, phó chủ tịch.
3- Đổi mới từng bước công tác quy hoạch các chức danh chủ tịch, phó chủ
tịch UBND trong bộ máy nhà nước và hệ thống chính trị
4- Đổi mới cách thức đào tạo, bồi dưỡng nhằm tạo ra đội ngũ quản lý nói
chung và chủ tịch, phó chủ tịch đáp ứng tiêu chuẩn (chất lượng).
5- Hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát hoạt động thực thi công vụ của
những người đảm nhận chức danh chủ tịch, phó chủ tịch UBND cấp huyện.
Nếu tập trung thực hiện được 5 nhóm giải pháp trên cho đội ngũ chủ
tịch, phó chủ tịch UBND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Phú Yên cũng như cả
nước, đội ngũ chủ tịch, phó chủ tịch UBND cấp huyện sẽ đáp ứng tiêu chuẩn
chất lượng đòi hỏi của Đảng và Nhà nước đối với đội ngũ chủ tịch, phó chủ
tịch UBND cấp huyện./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1- Ban Chấp hành Trung ương (khóa X) (2009) Kết luận số 37-KL/TW
ngày 2/2/2009 của Hội nghị lần thứ 9 Ban chấp hành Trung ương (khóa X) về
tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Chiến lược cán bộ từ nay đến năm 2020
2- Ban Chấp hành Trung ương (khóa VIII) (1997), Nghị quyết Số 03-
NQ/TW ngày 18 tháng 6 năm 1997 về chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước .
3- Ban Chấp hành Trung ương (khóa VIII) (1997), Nghị quyết Số 03-
NQ/TW ngày 18 tháng 6 năm 1997 về chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước .
4- Ban Chấp hành Trung ương (khóa X) (2007), Nghị quyết Hội nghị Ban
chấp hành trung ương lần thứ 5 khóa X về đẩy mạnh cải cách hành chính
5- Ban Thường vụ Thành ủy thành phố Hồ Chí Minh (2013), Quyết định
số 2231-QĐ/TU ngày 19/6/2013 về ban hành tiêu chuẩn chức danh cán bộ
thuộc diện Ban Thường vụ Thành ủy quản lý
6- Ban Thường vụ Tỉnh ủy Phú Yên (2007), Quyết định số 2727- QĐ/TU
ngày 29/11/2007 về Quy định tiêu chuẩn chức danh cán bộ lãnh đạo, quản lý
7- Ban Tổ chức Trung ương (2014), Hướng dẫn số 26-HD/BTCTW ngày
18 tháng 8 năm 2014 về công tác nhân sự cấp ủy tại Đại hội đảng bộ các cấp
tiến thời Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng
8- Bộ Chính trị (2004), Nghị quyết số 42/NQ-TW ngày 30-11-2004 về
công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước
9- Bộ chính trị (2012), Kết luận Số: 24-KL/TW ngày 5 tháng 6 năm 2012
về đẩy mạnh công tác quy hoạch và luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý đến
năm 2020 và những năm tiếp theo.
10- Ban Tổ chức Trung ương (2012), Hướng dẫn số: 15-HD/BTCTW ngày
05 tháng 11 năm 2012 về công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý theo
tinh thần Nghị quyết số 42-NQ/TW ngày 30/11/2004 của Bộ Chính trị (khóa
IX) và Kết luận số 24-KL/TW ngày 05/6/2012 của Bộ Chính trị (khóa XI)
11 Bộ Nội vụ (2015): Quyết định số 415/QĐ-BNV của Bộ trưởng Bộ Nội
vụ ngày 29/5/2015 ban hành chương trình bồi dưỡng lãnh đạo, quản lý
cấp huyện.
12. Bộ Nội vụ (2017). “ Điều tra đánh giá thực trạng và đề xuất giải pháp
nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã (xã, phường, thị trấn)
đápứng yêu cầu đẩy mạnh cải cách chế độ công vụ , công chức
13- Chính phủ (2016), Nghị định Số: 08/2016/NĐ-CP ngày 25 tháng 01
năm 2016 quy định số lượng phó chủ tịch ủy ban nhân dân và quy trình, thủ
tục bầu, từ chức, miễn nhiệm, bãi nhiệm, điều động, cách chức thành viên ủy
ban nhân dân
14- Chính phủ (2007), Nghị định số 15/2007/NĐ-CP ngày 26 tháng 01
năm 2007 về phân loại đơn vị hành chính cấp tỉnh và cấp huyện
15- Chính phủ (2015), Nghị định Số: 56/2015/NĐ-CP ngày 09 tháng 06
năm 2015 về đánh giá và phân loại cán bộ, công chức, viên chức .
16. Chính phủ (2011).Nghị quyết 30C/NQ-CP ban hành chương trình tổng
thể cải cách hành chính giai đoạn 2011-2020.
17- Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2011-2020
18- Cao Duy Hạ - Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh.
Tạp chí Tổ chức Nhà nước Số 1/2010.
19- Đại học bách khoa Hà Nội. Quản trị chất lượng. NXB Đại học 2000.
20- Nguyễn Thành Dũng (2012).“Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chủ
chốt cấp huyện ở các tỉnh Tây Nguyên trong giai đoạn hiện nay”. Luận án tiến
sĩ tại Học viện chính trị -Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh.2012 .
21. Hệ thống tiêu chuẩn quốc gia Cộng hòa Pháp NFX50-109. Tổng cục
Đo lương tiêu chuẩn chất lượng. 2010
22. Hội đồng nhân dân tỉnh Phú Yên (2015). Nghị quyết số 163/2015/NQ-
HĐND, ngày 25 tháng 12 năm 2015 của HĐND tỉnh Phú Yên.
23- Trương Văn Hùng, Từ Điển Tiếng Việt Phổ Thông 2010. Nhà xuất bản
Thanh niên. 2010;
24. Đỗ Hoàng Linh: Chủ Tịch Hồ Chí Minh với công tác lựa chọn và sử
dụng cán bộ, đảng viên . Học viện cảnh sát nhân dân. 2010.
25- Huỳnh Văn Long (2002), Xây dựng đội ngũ bí thư huyện ủy, chủ tịch
Ủy ban Nhân dân huyện Vùng đồng bằng Sông cửu long ngang tầm đòi hỏi
của thời kỳ đẩy mạnh công nghệ hóa, hiện đại hóa đất nước (1996-2020).
Luận án tiến sĩ. Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. 2002.
26- Niên giám Thống kê tỉnh Phú Yên các năm.
27- Quốc hội nước Cộng hòa XHCN (2015). Luật Tổ chức Chính quyền
Địa phương số 77/2015/QH13 (khoá XIII, kỳ họp thứ 9).
28- Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam khóa XI (2006). Luật tiêu
chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật số 68/2006/QH11ngày 29/6/2006
29- Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam khóa XII (2008). Luật Cán
bộ Công chức, kỳ họp thứ 4, thông qua ngày 13 tháng 11 năm 2008, Hà Nội
30 - Võ Kim Sơn. Phân tích và dự báo kinh tế - xã hội cho các nhà quản lý.
NXB KHKT. 1999.
31- Thủ tướng Chính phủ (2006), Quyết định số: 75/2006/QĐ-TTg ngày
12 tháng 4 năm 2006 về Quy chế làm việc mẫu của ủy ban nhân dân huyện,
quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh.
32- Thủ tướng Chính phủ (2008), Quyết định số 1391/QĐ-TTG ngày 29
tháng 09 năm 2008 phân loại đơn vị hành chính đối với tỉnh Phú Yên
33- Từ điển năng lực của Đại học Harvard. Bản dịch. NXB Trẻ. Năm 2011
.
34- Văn Tất Thu (2012). Nâng cao chất lượng cán bộ lãnh đạo, quản lý
nhà nước trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
Tạp chỉ Cộng sản điện tử. 31/10/2012
35- Trần Văn Thuận (2005) : “Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp quận
của Thành phố Hồ Chí Minh trong thời kỳ đẩy mạnh CNH - HĐH đất nước”.
Luận văn. Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. 2005
36- Nguyễn Phú Trọng, Trần Xuân Sầm (2003), Luận cứ khoa học cho
việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh CNH - HĐH
đất nước. NXB chính trị quốc gia -2003
37-. Tổng cục đo lường và tiêu chuấn Việt Nam. Những công trình nghiên
cứu chất lượng. NXB TCĐLTC. 2009
38- Ủy Ban Thường vụ Quốc Hội (2016) Nghị quyết
số:1211/2016/UBTVQH13 ngày 25 tháng 05 năm 2016 về tiêu chuẩn của đơn
vị hành chính và phân loại đơn vị hành chính.
Mẫu bảng hỏi
Phiếu khảo sát ý kiến của dân về mức độ hài lòng của họ đối với hoạt
động của chủ tịch Ủy ban Nhân dân cấp huyện trên địa bàn tỉnh Phú Yên.
Qua thực tiến hoạt động của Chủ tịch, Phó chủ tịch Ủy ban Nhân dân
huyện nơi ông/bà làm việc và sống. Ông/Bà có thể cho biết cảm nghĩ của
ông/bà về mức độ hài lòng của ông/bà đối với chủ tịch và các phó chủ tịch.
Chức danh Ý kiến người dân Ghi chú
Rất hài
lòng
Hài
lòng
Chưa
hài lòng
Ý kiến
khác
Chủ tịch Ủy
ban nhân dân
huyện/thành
phố
Các phó chủ
tịch Ủy ban
nhân dân
huyện/thành
phố
Ghi chú: Nếu có ý kiến khác, cụ thể với từng phó chủ tịch, Ghi thêm vào cột
ghi chú
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_van_chat_luong_chu_tich_pho_chu_tich_uy_ban_nhan_dan_ca.pdf