Luận văn Chất lượng công chức cấp xã huyện Đam Rông, tỉnh Lâm Đồng

Chất lượng công chức chính quyền cấp xã huyện Đam Rông chỉ có thể được nâng cao khi có một hệ thống lý thuyết hoàn thiện để trên cơ sở đó phân tích, đánh giá hiện trạng, qua đó rút ra những kết luận khoa học về chất lượng công chức chính quyền cấp xã. Theo đó, luận văn đã đề các giải pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lượng công chức chính quyền cấp xã huyện Đam Rông như xây dựng đội ngũ công chức cấp xã có phẩm chất chính trị và phẩm chất đạo đức tốt; tiếp tục nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng; đổi mới công tác tuyển dụng; bố trí, sử dụng hợp lý, khoa học và hiệu quả; tăng cường hướng dẫn, kiểm tra, giám sát và đánh giá chất lượng; đổi mới chính sách tiền lương, chế độ phúc lợi và thực hiện tốt công tác khen thưởng, kỷ luật công chức cấp xã. Chỉ khi thực hiện quyết liệt, đống bộ các giải pháp này mới có thể nâng cao chất lượng công chức chính quyền cấp xã huyện Đam Rông, tỉnh Lâm Đồng.

pdf131 trang | Chia sẻ: yenxoi77 | Lượt xem: 447 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Chất lượng công chức cấp xã huyện Đam Rông, tỉnh Lâm Đồng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
của các tổ chức thành viên trong hệ thống chính trị. Bảo đảm nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể quyết định đi đôi với thực hiện đầy đủ trách nhiệm cá nhân trong công tác cán bộ. Gắn xây dựng đội ngũ cán bộ với 92 xây dựng các tổ chức trong hệ thống chính trị và đổi mới cơ chế chính sách đối với cán bộ. Việc bố trí, sử dụng cán bộ công chức nhất là cán bộ, công chức cấp xã phải đúng tiêu chuẩn phù hợp với chuyên môn và sở trường công tác, vì nhiệm vụ mà bố trí cán bộ, mạnh dạn giao việc tạo điều kiện để cán bộ tự phấn đấu trưởng thành, đồng thời đảm bảo tính kế cận trong đội ngũ cán bộ. Kiên quyết chống tư tưởng cục bộ địa phương, định kiến, hẹp hòi, tư tưởng kèn cựa, gây mất đoàn kết nội bộ, đồng thời chống các phân tử cơ hội, cá nhân chủ nghĩa. Phấn đấu xây dựng đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị có phẩm chất và năng lực, có bản lĩnh chính trị vững vàng trên cơ sở lập trường giai cấp công nhân, đủ về số lượng và chất lượng; đồng bộ về cơ cấu, bảo đảm sự chuyển tiếp và vững vàng giữa các thế hệ cán bộ; đủ sức thực hiện thắng lợi sự nghiệp phát triển của huyện (Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ III). Trên cơ sở Quyết định số 916/QĐ-UBND ngày 23/4/2012 của UBND tỉnh Lâm Đồng về phê duyệt quy hoạch và phát triển nguồn nhân lực tỉnh Lâm Đồng đến năm 2020 và Đề án số 510/ĐA-UBND ngày 29/5/2010 của Ủy ban nhân dân huyện Đam Rông về đào tạo, nâng cao và phát triển nguồn nhân lực huyện Đam Rông đến năm 2015 và định hướng đến năm 2020 và Quyết định 124/QĐ-TTg ngày 16/01/2014 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt đề án tiếp tục củng cố, kiện toàn chính quyền cơ sở vùng Tây Nguyên giai đoạn 2014-2020. Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện đã đề ra mục tiêu đến năm 2020 của huyện Đam Rông là: - Về mục tiêu chung: Xây dựng đội ngũ công chức cấp xã của huyện có bản lĩnh chính trị vững vàng, có phẩm chất đạo đức tốt, lối sống 93 lành mạnh, có tinh thần đoàn kết, hợp tác, có ý thức tổ chức kỷ luật cao, tôn trọng tập thể, gắn bó với nhân dân, kiên quyết đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí; có tư duy đổi mới, sáng tạo, có kiến thức chuyên môn và năng lực thực tiễn, có phong cách làm việc khoa học, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, đủ về số lượng, đảm bảo chất lượng, đồng bộ về cơ cấu, có tính kế thừa và phát triển, đảm bảo sự chuyển tiếp liên tục giữa các thế hệ cán bộ. Đồng thời tập trung kiện toàn đội ngũ cán bộ, công chức từ huyện đến cơ sở đảm bảo về số lượng và chất lượng; tạo ra lực lượng cán bộ có trình độ vững vàng về mặt chuyên môn, Lý luận chính trị. Đào tạo cán bộ, công chức, cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý có phẩm chất và năng lực, có phong cách làm việc khoa học, nhanh nhẹn, chuyên nghiệp nhằm thực hiện nhiệm vụ kinh tế xã hội, đảm bảo quốc phòng an ninh xây dựng hệ thống chính trị của địa phương vững mạnh. - Về mục tiêu cụ thể: Đến năm 2020: 100% đội ngũ cán bộ, công chức đảm bảo về trình độ học vấn, chuyên môn, Lý luận chính trị, QLNN, ngoại ngữ, tin học, tiếng dân tộc. Đưa huyện trở thành huyện nông thôn mới. Mục tiêu trên được xây dựng và thực hiện theo quan điểm: Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ trên cơ sở nguyên tắc tập trung dân chủ, phát huy trách nhiệm của các tổ chức thành viên trong hệ thống chính trị và người đứng đầu. Xây dựng đội ngũ công chức phải xuất phát từ yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH và sát với điều kiện thực tiễn của địa phương. Qua hoạt động thực tiễn và phong trào quần chúng để tuyển chọn, giáo dục, rèn luyện, bồi dưỡng, bố trí và sử dụng cán bộ và ưu tiên đào tạo phát triển nguồn nhân lực tại chỗ; gồm đội ngũ cán bộ, công chức hiện đang làm việc và đội ngũ lao động dự bị, 94 nhân lực dự nguồn từ sinh viên đang học. Đồng thời trên nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ; nguyên tắc tập trung dân chủ; nguyên tắc tự phê bình và phê bình; giữ vững và phát huy truyền thống đoàn kết, thống nhất trong Đảng. Xây dựng đội ngũ cán bộ gắn liền với kiện toàn tổ chức bộ máy và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên gắn liền với nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng, xây dựng tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể trong sạch, vững mạnh. 3.2. Giải pháp nâng cao chất lượng công chức cấp xã huyện Đam Rông, tỉnh Lâm Đồng Trước yêu cầu của công cuộc đổi mới, với mục tiêu xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức nói chung và công chức cấp xã nói riêng, từng bước hiện đại hóa để quản lý có hiệu quả công việc của Đảng và Nhà nước, thúc đẩy xã hội phát triển lành mạnh, đúng hướng, phục vụ đắc lực đời sống nhân dân, xây dựng nếp sống và làm việc theo pháp luật xã hội chủ nghĩa. Một trong số những giải pháp trọng tâm là xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ công chức cấp xã thực thi công vụ có chất lượng và hiệu quả. Đội ngũ công chức cấp xã chính là hạt nhân, có vị trí, vai trò và nhiệm vụ hết sức quan trọng trong việc thực thi các nhiệm vụ phát triển KT-XH ở địa phương. Công chức cấp xã có vai trò rất quan trọng, là nền tảng ở cơ sở. Địa phương mạnh hay yếu một phần quan trọng phụ thuộc vào chất lượng đội ngũ công chức xã. Công chức cấp xã góp phần quyết định sự thành bại của chủ trương đường lối và nhiệm vụ chính trị của Đảng và Nhà nước, do đó, đầu tư xây dựng chất lượng đội ngũ công chức cấp xã có phẩm chất, đạo đức, có năng lực thực thi công vụ là nhiệm vụ bức thiết của cấp ủy chính quyền các cấp. Với tầm quan trọng đó, dựa 95 vào điều kiện cụ thể của huyện Đam Rông, một số giải pháp được đề xuất để nâng cao chất lượng công chức cấp xã trên địa bàn thành phố như sau: 3.2.1. Xây dựng đội ngũ công chức cấp xã đáp ứng yêu cầu về phẩm chất chính trị và phẩm chất đạo đức Trong những năm qua tỉnh Lâm Đồng và huyện Đam Rông đã ban hành, triển khai thực hiện nhiều chủ trương biện pháp đẩy mạnh cải cách hành chính, cải tiến lề lối; tăng cường kỷ luật, kỷ cương hành chính, giáo dục phẩm chất đạo đức, lối sống; kiên quyết chống hành vi quan liêu tham nhũng, lãng phí tiêu cực, thiếu trách nhiệm nhũng nhiễu nhân dân của công chức. Tuy nhiên, bên cạnh kết quả đạt được, chất lượng công chức cấp xã huyện Đam Rông vẫn chưa thực sự chuyển biến tốt theo hướng phục vụ nhân dân, kỷ luật, kỷ cương hành chính vẫn còn chưa nghiêm; tác phong lề lối làm việc, tinh thần trách nhiệm, thái độ phục vụ nhân dân và một bộ phận công chức chưa đáp ứng được yêu cầu xây dựng và phát triển thành phố trong tình hình mới. Để góp phần nâng cao đạo đức công vụ của công chức cấp xã huyện Đam Rông thiết thực và hiệu quả, cần xây dựng và hoàn thiện chuẩn mực nhằm cụ thể hóa nguyên tắc đạo đức công vụ. Công chức cần không ngừng tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng, tích cực học tập nâng cao trình độ, năng lực, chịu học, biết học và học có hiệu quả; luôn bám sát thực tiễn, vận dụng kiến thức vào thực tiễn, đồng thời kiên trì tích lũy kiến thức, kinh nghiệm và kỹ năng công tác, rèn luyện bản lĩnh và năng lực lãnh đạo, quản lý, khả năng hợp tác, tổ chức thực hiện và chịu trách nhiệm; kiên quyết và kiên trì trong cuộc đấu tranh chống lại dốt nát, nghèo đói, thói hư, tật xấu, nhất là sự lười biếng, đố kỵ, lối sống buông thả và sa đọa. Đồng thời, thường xuyên giáo dục và nêu cao tinh thần tự tu dưỡng đạo đức công vụ, đạo đức cá nhân: Giáo dục đạo đức 96 công vụ là nhiệm vụ hết sức nặng nề, khó khăn, tỉ mỉ và phức tạp, vừa cấp bách vừa lâu dài, phải thực hiện bằng nhiều biện pháp, hình thức trong thực tiễn hoạt động công vụ và trong sinh hoạt hàng ngày. Đó là một quá trình giáo dục tổng hợp bao gồm giáo dục chính trị, pháp luật, đạo đức, thẩm mỹ, văn hóa giao tiếp, ý thức lao động, kỹ năng lao động nghề nghiệp, giáo dục phẩm hạnh, lòng tự trọng, tình thương yêu con người Đặc biệt, chú trọng mối quan hệ mật thiết giữa quy phạm pháp luật và các quy phạm đạo đức. Ở chừng mực nào đó, cần thiết phải thể chế hóa những quy phạm, nguyên tắc đạo đức thành những quy phạm pháp luật. Mặt khác, coi việc xử lý nghiêm, kịp thời và công bằng những sai phạm của công chức có ý nghĩa to lớn trong việc giáo dục và răn đe công chức, đồng thời củng cố niềm tin của nhân dân vào Nhà nước và pháp luật. Bên cạnh đó, một mặt giáo dục đạo đức là quá trình kết hợp giữa giáo dục và tự giáo dục, là sự thức tỉnh tự phán xử và làm cho lương tâm trong sạch. Mục tiêu của việc giáo dục đạo đức là quá trình biến nhận thức cái tất yếu thành cái tự do, biến ý thức nghĩa vụ thành tình cảm, thành niềm tin vững chắc, thành sự thôi thúc bên trong, hình thành ý thức cái cần phải làm để khỏi xấu hổ trước người khác và trước bản thân. Thông qua hoạt động công vụ, phục vụ nhân dân, công chức không chỉ thực hiện nghĩa vụ của mình là cống hiến cho xã hội mà còn phát triển làm phong phú bản thân, tạo ra điều hiện cơ bản để đạt được hạnh phúc. Rèn luyện đạo đức là một quá trình khó khăn, lâu dài. Mặt khác, kiên quyết xử lý nghiêm minh, kịp thời và công bằng những sai phạm của công chức có hành vi vi phạm đạo đức công vụ. Với những hành vi gây nhũng nhiễu, phiền hà về thủ tục hành chính trong giải quyết công việc của công dân. Đặc biệt, các trường hợp tái phạm có tổ chức, có tình tiết 97 nghiêm trọng cần phải được xử lý kiên quyết, nghiêm minh, kịp thời và công bằng nhằm góp phần giáo dục và răn đe công chức, đồng thời củng cố niềm tin của nhân dân vào Nhà nước và pháp luật. Thực hiện nghiêm chế độ tự phê bình và phê bình nhằm đề cao giá trị đạo đức, sự hướng thiện của con người, ngăn ngừa, hạn chế sa sút, suy thoái đạo đức. Ngoài ra, cần tiến hành rà soát, bổ sung, sửa đổi các quy định về quy trình, thủ tục hành chính không còn phù hợp, gây phiền hà cho tiếp nhận, xử lý công việc của công dân; kiên quyết loại bỏ những khâu trung gian, thủ tục rườm rà, chồng chéo, những loại giấy tờ không cần thiết, công khai hóa, minh bạch hóa các quy định về trình tự, thủ tục hành chính nhằm tránh tình trạng công chức lợi dụng kẽ hở từ những quy định của pháp luật và vận dụng tùy tiện trong giải quyết công việc. Nâng cao đạo đức công vụ là một đòi hỏi tất yếu và để thực hiện được cần có một hệ thống giải pháp đồng bộ vừa đề cao giá trị đạo đức, sự hướng thiện của người công chức, vừa có cơ chế tạo điều kiện cho các giá trị đạo đức phát triển và vừa ngăn ngừa, hạn chế sự sa sút, suy thoái đạo đức. Bồi dưỡng, nâng cao đạo đức công vụ, trước hết là trách nhiệm, nghĩa vụ của mỗi công chức, đây cũng là kết quả từ nỗ lực chung của các cơ quan nhà nước, các tổ chức đoàn thể và của toàn xã hội. Hiện nay, tham nhũng, tiêu cực đã trở thành điều nhức nhối trong đời sống xã hội, làm giảm lòng tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, giảm hiệu lực của cơ quan Nhà nước các cấp trên tất cả các lĩnh vực trong đời sống xã hội; là lực cản lớn của quá trình đổi mới xây dựng đất nước, mảnh đất tốt gieo mầm cho các thế lực thù địch lợi dụng để phá hoại sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội nước ta. Để chống tham nhũng, tiêu cực trong đội ngũ công chức nhất là công chức cấp xã là công việc cấp bách và cần tập trung vào một số nhiệm vụ như thực hiện 98 nghiêm túc kết luận tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương 4 khoá IX; Tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) khoá VIII; Nghị quyết số 12-NQ/TW - Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”. Đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng chỉnh đốn đảng, đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực, đồng thời phải thường xuyên coi trọng công tác giáo dục chính trị, lãnh đạo tư tưởng đối với công chức; tổ chức học tập quán triệt xây dựng kế hoạch hành động thực hiện Luật Chống tham nhũng, Luật Thực hành tiết kiệm; duy trì thành nề nếp việc học tập đạo đức, tư tưởng Hồ Chí Minh để giáo dục cho công chức chính quyền cấp xã noi theo tấm gương cần kiệm liêm chính, chí công vô tư của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tiếp tục duy trì nền nếp, nâng cao chất lượng sinh hoạt tự phê và phê bình trong công chức cấp xã. Thực hiện nghiêm chế độ nhận xét, đánh giá đối với công chức, đặc biệt là khâu thông báo công khai đối với công chức về những ưu, khuyết điểm của công chức để họ có kế hoạch phấn đấu. Đồng thời, cần bổ sung, hoàn thiện các cơ chế, chính sách, quy định của Nhà nước về quản lý tài chính, quản lý công sản, xây dựng cơ bản, không tạo kẽ hở cho phần tử xấu lợi dụng. Xóa bỏ các thủ tục hành chính phiền hà nhất là ở những lĩnh vực, những khâu dễ xảy ra tham nhũng. Duy trì thành nề nếp việc thanh tra, kiểm tra, kiểm soát bảo đảm tính minh bạch trong việc sử dụng ngân sách Nhà nước, sử dụng tài sản công. Ngoài ra, cần thực hiện tốt chế độ kê khai tài sản công chức theo quy định; chế độ công khai hóa hoạt động công vụ, nhất là trong các công việc quan hệ với công dân, trong các lĩnh vực liên quan đến những vấn đề nhạy cảm được xã hội quan tâm như chính sách cán bộ, công chức, quản 99 lý đất đai, đầu tư xây dựng cơ bản và tài chính, ngân sách, Thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở, phát huy vai trò của nhân dân trong tham gia xây dựng và giám sát mọi hoạt động, sinh hoạt của công chức cấp xã. Bảo vệ những người đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực. Xử lý nghiêm khắc, thích đáng những công chức cấp xã thoái hóa, biến chất. 3.2.2. Tiếp tục đổi mới công tác tuyển dụng công chức cấp xã Tuyển dụng công chức nói chung và công chức cấp xã là việc làm có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, có tính chất quyết định đến chất lượng công chức sau này. Đây là một vấn đề nhạy cảm, phức tạp và rất dễ xảy ra tiêu cực. Trong thời gian qua, công tác tuyển dụng đã có nhiều đổi mới tuy nhiên vẫn còn những hạn chế nhất định, vì vậy để nâng cao chất lượng thực thi công vụ của công chức cấp xã, công tác tuyển dụng cần phải được thực hiện một số hoạt động sau: Đổi mới nội dung và cách thức thi tuyển công chức: Nội dung thi tuyển công chức cấp xã phải gắn với chuyên ngành của vị trí dự tuyển để khảo sát được trình độ và các kỹ năng của thí sinh, đảm bảo thí sinh có thể thực hiện ngay công việc ở vị trí tuyển dụng; kỹ năng soạn thảo văn bản quản lý hành chính nhà nước; kỹ năng ứng dựng công nghệ thông tin. Ứng dụng công nghệ thông tin trong phương pháp thi tuyển trắc nghiệm kiến thức chung qua máy tính nhằm nâng cao chất lượng, đảm bảo khách quan, công bằng và góp phần phòng chống tiêu cực trong thi tuyển công chức. Đảm bảo công tác tuyển dụng công chức xã được diễn ra theo hướng dân chủ, công khai, minh bạch, cạnh tranh lành mạnh và tuyển chọn đúng người đáp ứng yêu cầu tiêu chuẩn chức danh. Căn cứ vào yêu 100 cầu nhiệm vụ, tiêu chuẩn chức danh và số lượng công chức cấp xã theo từng chức danh được UBND huyện giao (trên cơ sở quyết định giao chỉ tiêu của UBND tỉnh), UBND các xã có trách nhiệm xây dựng kế hoạch tuyển dụng công chức cấp xã hằng năm theo từng chức danh, báo cáo UBND huyện để phê duyệt và tổ chức tuyển dụng. UBND huyện tổ chức thông báo công khai trên phương tiện thông tin đại chúng và niêm yết công khai tại trụ sở làm việc của UBND huyện, phòng Nội vụ, UBND xã về đối tượng, tiêu chuẩn, điều kiện tuyển dụng và chính sách thu hút người giỏi về công tác ở xã, thời gian, địa điểm tiếp nhận hồ sơ nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho mọi người được biết tham gia tuyển dụng và giám sát việc thực hiện công tác tuyển dụng. 3.2.3 Nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng công chức cấp xã Như đã đề cập ở Chương 1, đào tạo, bồi dưỡng có ảnh hưởng quan trọng đến năng lực thực thi công vụ của công chức cấp xã, đó là nền tảng, là tiền đề quan trọng để công chức cấp xã thực thi công vụ một cách có hiệu quả. Qua nghiên cứu thực trạng chất lượng công chức cấp xã huyện Đam Rông tại chương 2 cũng đã chỉ ra những tồn tại, hạn chế trong thực thi công vụ của công chức, trong đó đã phân tích và làm rõ những tồn tại, hạn chế bắt nguồn từ công tác đào tạo, bồi dưỡng công chức cấp xã. Những tồn tại, hạn chế trong công tác đào tạo, bồi dưỡng công chức cấp xã của thành phố hiện nay là một trong những nguyên nhân có ảnh hưởng trực tiếp đến năng lực của công chức cấp xã. Đào tạo, bồi dưỡng chưa thực sự trở thành công cụ hữu hiệu để nâng cao năng lực công chức cấp xã của huyện hiện nay. Vì vậy, giải pháp đào tạo, bồi dưỡng công chức cấp xã cần tập trung vào những nội dung sau: 101 Đào tạo, bồi dưỡng công chức cấp xã phải gắn với yêu cầu của vị trí công tác và định hướng quy hoạch cán bộ dài hạn Đào tạo, bồi dưỡng có vị trí, vai trò rất quan trọng trong việc nâng cao năng lực của công chức. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng”, thấm nhuần chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta từ trước tới nay luôn coi trọng vấn đề đào tạo, bồi dưỡng cán bộ (nói chung) và nhờ có đội ngũ cán bộ, công chức được huấn luyện, đào tạo, chuẩn bị tốt nên trong từng giai đoạn cách mạng, Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân giành được những thắng lợi có ý nghĩa to lớn. Bước vào thời kỳ phát triển mới của đất nước, Đảng ta chỉ rõ: “Đầu tư thích đáng cho việc đào tạo, bồi dưỡng những người ưu tú trở thành cán bộ chủ chốt” và phải “dành kinh phí thỏa đáng cho việc đào tạo, bồi dưỡng, đãi ngộ cán bộ cơ sở”. Việc đào tạo, bồi dưỡng công chức cấp xã huyện Đam Rông hiện nay cần tập trung vào một số nội dung vừa mang tính cấp bách vừa mang tính lâu dài đó là: Đối với công tác đào tạo, công chức lớn tuổi không có trình độ chuyên môn, không có nhu cầu đào tạo thì giải quyết chế độ thôi việc hưởng bảo hiểm xã hội hoặc về hưu trước tuổi theo quy định để tuyển dụng công chức đã chuẩn hóa về trình độ. Những công chức có trình độ chuyên môn chưa đạt chuẩn, đã tham gia công tác nhiều năm và có phẩm chất chính trị, đạo đức tốt, có sự gắn bó tâm huyết với cơ sở, còn thời gian tham gia công tác dài thì tạo điều kiện để công chức được tham gia các lớp đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn phù hợp để đạt chuẩn theo quy định. Những công chức đã có trình độ chuyên môn là bậc trung cấp, trong thực tế công tác đã phát huy được sở trường chuyên môn, có nhu 102 cầu nâng cao trình độ chuyên môn để đáp ứng tốt hơn yêu cầu công tác thì đưa đi đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn bằng các lớp đại học hệ vừa học vừa làm. Việc cử công chức đi đào tạo phải đảm bảo đúng chuyên ngành, phù hợp với vị trí mà công chức đang đảm nhận và cơ sở đào tạo phải là cơ sở có uy tính, chất lượng, tránh việc đi đào tạo chỉ cốt để có bằng cấp cao hơn để hưởng thụ ngạch bậc lương hoặc để thăng tiến. Đối với những công chức có trình độ chuyên môn không phù hợp với vị trí công tác đang đảm nhận thì cần đánh giá, phân thành hai nhóm để có kế hoạch bố trí, sử dụng phù hợp như làm tốt công tác bố trí nhân sự, công chức có chuyên môn phù hợp với vị trí công tác khác thì luân chuyển để công chức phát huy được kiến thức chuyên môn và góp phần nâng cao hiệu quả công tác. Công chức có trình độ chuyên môn không phù hợp với các vị trí công tác tại xã mà có phẩm chất đạo đức tốt, có tâm huyết với công tác được giao, đã có nhiều năm tham gia công tác tại địa phương, được nhân dân tín nhiệm mà xã hiện chưa có nhân lực có trình độ chuyên môn phù hợp để thay thế thì bố trí tham gia các lớp bồi dưỡng về chuyên môn phù hợp với vị trí công tác, đồng thời có kế hoạch đưa đi đào tạo trình độ chuyên môn đúng với vị trí chức danh công tác đang đảm nhiệm. Đào tạo về LLCT: tiêu chuẩn chức danh quy định công chức phải được đào tạo về LLCT. Hiện nay việc đào tạo LLCT cho công chức cấp xã được thực hiện theo hai cấp. Đào tạo Sơ cấp LLCT do Trung tâm bồi dưỡng chính trị huyện Đam Rông đảm nhận và đào tạo trung cấp LLCT do Trường Chính trị tỉnh Lâm Đồng đảm nhận. Việc đào tạo LLCT hiện nay vẫn là đào tạo chung cho cả cán bộ, công chức cho nên đào tạo nói chung còn mang tính lý luận, chưa thể đi vào chuyên sâu và phù hợp với 103 từng nhóm đối tượng. Vì thế huyện cần rà soát lại trình độ lý luận chính trị ở từng nhóm công chức để có kế hoạch đào tạo phù họp. Đào tạo nhất định phải gắn với vị trí công tác, phải xuất phát từ nhu cầu thực tiễn công tác. Kiên quyết không đưa công chức đi đào tạo những chuyên ngành không đúng với vị trí công tác, không giải quyết nâng ngạch đối với công chức có bằng tốt nghiệp không phù hợp với vị trí công tác đang đảm nhận. Đối với 2 vị trí chức danh có số lượng công chức chưa qua đào tạo chiếm tỷ lệ cao là Trưởng Công an xã và Chỉ huy trưởng Quân sự xã thì cần tăng cường công tác đào tạo tại Trường Quân sự tỉnh và giao cho Công an huyện tham mưu cho Công an tỉnh phối hợp với Trường Trung học Cảnh sát nhân dân, Trường Trung học An ninh nhân dân đưa học viên đi đào tạo đảm bảo đào tạo đúng đối tượng, vị trí chức danh Trưởng công an xã, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ tại địa phương. Cùng với việc đào tạo để hướng tới đạt chuẩn chức danh công chức theo quy định cần chú trọng việc đào tạo nguồn kế cận. Muốn vậy, phải làm tốt công tác quy hoạch cán bộ, trong đó chú trọng những cán bộ trẻ, là người dân tộc thiểu số đã được đào tạo những chuyên ngành phù hợp với vị trí công tác thì cần có quy hoạch, kế hoạch dự nguồn để đảm bảo đội ngũ công chức kế cận. Đối với bồi dưỡng, việc bồi dưỡng cũng không thực hiện theo cách cào bằng như vẫn làm mà cần phải phân nhóm đối tượng để xác định nội dung, chương trình, phương pháp bồi dưỡng cho phù hợp: Công chức đã có trình độ chuyên môn phù hợp với vị trí công tác đang đảm nhận thì hàng năm cần tập trung bồi dưỡng nâng cao kiến thức chuyên môn, nhất là các kiến thức chuyên sâu, những quy định mới mang tính chất ngành, lĩnh vực. 104 Công chức có trình độ chuyên môn không phù hợp với các vị trí công tác tại xã mà có phẩm chất đạo đức tốt, có tâm huyết với công tác được giao, đã có nhiều năm tham gia công tác tại địa phương, được nhân dân tín nhiệm mà xã hiện chưa có nhân lực có trình độ chuyên môn phù hợp để thay thế mà bản thân công chức hiện đang đảm nhận tốt thì bố trí tham gia các lớp bồi dưỡng về chuyên môn phù hợp với vị trí công tác để tiếp tục tham gia công tác tại địa phương để phát huy kinh nghiệm, hiểu biết phong tục tập quán thuận tiện cho việc triển khai các nhiệm vụ chính trị tại cơ sở. Việc bồi dưỡng cần tập trung nâng cao trình độ chuyên môn, kiến thức quản lý Nhà nước đối với ngành, lĩnh vực mà công chức phụ trách, truyền đạt những kỹ năng tác nghiệp chuyên môn, những kinh nghiệm trong thực tế công tác, việc bồi dưỡng sẽ lồng ghép được ba nội dung quan trọng là: lý luận, kiến thức, kinh nghiệm thực tế; ngoài ra việc cập nhật hệ thống các quy định mới của nhà nước và các lỹ năng trong quản lý nhà nước đối với ngành, lĩnh vực cũng là đòi hỏi cần thiết. Huyện Đam Rông, người dân tộc thiểu số sinh sống chiếm ưu thế thì công chức cấp xã phải được quan tâm bồi dưỡng tiếng dân tộc thiểu số địa phương đó để phục vụ tốt yêu cầu công tác của địa phương, tránh tình trạng bồi dưỡng tiếng dân tộc thiểu số nhưng không phù hợp với người dân tộc thiểu số tại chỗ. Chú trọng bồi dưỡng kỹ năng ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý nhà nước nói chung và giao dịch điện tử trong thực hiện cơ chế “một cửa”, “một cửa liên thông” trong giải quyết thủ tục hành chính cho tổ chức, cá nhân, và trao đổi thông tin chỉ đạo quản lý bằng thư điện tử trong hệ thống cơ quan hành chính ở địa phương. 105 3.2.4. Bố trí, sử dụng công chức cấp xã hợp lý và thực hiện tốt công tác phân công công việc cho công chức cấp xã Trong Chương 2 của luận văn cũng đã đề cập đến những tồn tại hạn chế về chất lượng của công chức cấp xã của huyện Đam Rông hiện nay. Đồng thời, khẳng định một trong những nguyên nhân quan trọng làm hạn chế chất lượng của công chức đó là việc bố trí, sử dụng công chức chưa phù hợp. Việc bố trí, sử dụng công chức phù hợp có ảnh hưởng trực tiếp đến việc nâng cao năng lực thực thi công vụ của công chức cấp xã. Thực tế cho thấy việc sử dụng công chức không đúng với chuyên môn đào tạo, sở trường công tác thì không những công chức không phát huy được kiến thức, kinh nghiệm công tác mà còn làm trì trệ công tác, làm ảnh hưởng đến việc thực thi công vụ của chính quyền xã. Vì vậy, cần sắp xếp công chức đúng với chuyên môn đào tạo, đúng sở trường công tác. Để việc bố trí sử dụng công chức phù hợp thì việc đánh giá công chức phải được quan tâm và thực hiện nghiêm túc. Đánh giá công chức phải được đặt trong môi trường, điều kiện và hoàn cảnh cụ thể; phải đảm bảo thật sự dân chủ, khách quan, công tâm, theo quy trình chặt chẽ với một hệ thống các tiêu chí đánh giá rõ ràng, phù hợp với từng vị trí chức danh công chức. Thực tế cho thấy việc đánh giá công chức hiện nay dựa trên 6 tiêu chí theo quy định của Luật cán bộ, công chức 2008 (Sự chấp hành đường lối, chủ tương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước; Phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, tác phòng và lề lối làm việc; năng lực, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ; Tiến độ và kết quả thực hiện nhiệm vụ; Tinh thần trách nhiệm và phối hợp trong thực hiện nhiệm vụ; Thái độ phục vụ nhân dân) đã bộc lộ những tồn tại, hạn chế nhất định vì những tiêu chí này còn quá chung chung, chưa cụ thể hóa phù hợp với đặc điểm, điều kiện của từng vị trí 106 công chức cấp xã. Do đó, trên cơ sở các tiêu chí trên, Đảng ủy, Ủy ban nhân dân cấp xã phải cụ thể hóa thành các tiêu chí phù hợp để đánh giá công chức, trong đó chú trọng lấy kết quả thực thi công vụ, mức độ hài lòng của nhân dân làm thước đo để đánh giá công chức. Trong đánh giá cần khắc phục ngay tình trạng nể nang, cục bộ, bè phái, thiếu công tâm, thiếu khách quan, áp đặt. Với đặc thù các xã thuần nông, người quen, những biểu hiện tâm lý xã hội như bè phái, cục bộ, nể nang là khá phổ biến, vì thế trong công tác đánh giá công chức cấp xã cần mở rộng dân chủ, phát huy được vai trò lãnh đạo của Đảng ủy xã. Trong việc bố trí, sử dụng công chức phải đảm bảo các quy định của Trung ương và điều kiện đặc thù của địa phương: Công chức được bố trí ở vị trí chức danh nào phải có trình độ chuyên môn phù hợp với vị trí chức danh đó, trong đó ưu tiên công chức cấp xã đã được đưa đi đào tạo theo Đề án Tây Nguyên và đề án 50 của tỉnh. Vì vậy, UBND huyện cần nhanh chóng ban hành Quy định về tiêu chuẩn chức danh công chức phù hợp với đặc điểm điều kiện của thành phố cũng như quy định những ngành đào tạo chuyên môn phù hợp với từng vị trí chức danh công chức cấp xã. Đây là căn cứ quan trọng để tuyển dụng cũng như bố trí, sử dụng công chức theo yêu cầu công tác thực tế. Bố trí, sử dụng công chức phải xuất phát từ quan điểm “từ việc sinh ra người, không vì người sinh ra việc”. Thực tế cho thấy vì thân quen mà bố trí công chức với mục đích là “giải quyết việc làm cho con em”, làm cho bộ máy cấp xã phình to, tạo gánh nặng cho ngân sách, nhưng hiệu quả công việc không cao. Vì thế, với nguồn nhân lực hiện có UBND xã phải cân nhắc, sắp xếp công chức phù hợp với trình độ chuyên môn, năng lực thực tiễn và sở trường công tác, kiên quyết không sắp xếp công 107 chức trái chuyên ngành đào tạo, vượt quá số lượng quy định. Trong bố trí, sử dụng công chức phải đảm bảo tính khách quan, công bằng, tránh hiện tượng cục bộ địa phương, bè phái hay hiện tượng nể nang, dựa dẫm. Bố trí, sử dụng công chức cũng phải đảm bảo được tính đồng bộ trong công tác cán bộ nói chung, tính ổn định của bộ máy, đảm bảo nguồn kế cận khi công chức chuyển sang làm công tác khác hoặc được luân chuyển. Trong việc bố trí, sử dụng công chức phải tính đến những yếu tố đặc thù của địa phương, đơn vị. Hiện nay mỗi xã đều có những đặc thù riêng về kinh tế - văn hóa - xã hội, quốc phòng - an ninh và do đó đặc thù quản lý hành chính Nhà nước cũng rất khác nhau, sẽ có những lĩnh vực công tác có khối lượng công việc lớn và cần nhiều nhân lực hơn. Trong kế hoạch sử dụng công chức hàng năm, UBND huyện cần cân đối chỉ tiêu hoặc cho chủ trương để UBND các xã hợp đồng thêm công chức lĩnh vực Địa chính - Xây dựng giúp UBND xã trong công tác triển khai thực hiện nhóm công việc đầu tư cơ sở hạ tầng, môi trường trong công tác xây dựng xã đạt chuẩn nông thôn mới nhưng việc bổ sung biên chế không làm thay đổi số lượng công chức xã mà điều chỉnh số lượng của từng chức danh cho phù hợp. Đánh giá, bố trí sử dụng công chức cần kiên quyết tránh những hiện tượng như né tránh, nể nang, dựa dẫm, cục bộ, bè phái. Kiên quyết loại bỏ những công chức kém về năng lực, thiếu tinh thần ý thức trách nhiệm, lạm dụng công vụ để vụ lợi, sách nhiễu nhân dân, tham ô, tham nhũng. Như thế vừa góp phần làm trong sạch bộ máy chính quyền xã, vừa tạo điều kiện để sử dụng và phát huy được năng lực của những công chức có trình độ và tâm huyết với công tác, qua đó cũng nâng cao được tính kỷ luật công tác, rèn luyện đạo đức công chức, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước của chính quyền cấp xã. 108 3.2.5. Thực hiện việc khen thưởng, kỷ luật công bằng, kịp thời, nghiêm minh Về khen thưởng, động viên kịp thời là một trong những nhân tố quan trọng tác động đến chất lượng đội ngũ công chức. Trong thời gian qua, công tác khen thưởng đã tạo động lực để công chức hăng hái thi đua hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình. Tuy nhiên, chính sách khen thưởng còn một số bất cập, thời điểm thực hiện công tác khen thưởng chưa kịp thời, việc xem xét, đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ và tổ chức thực hiện khen thưởng mỗi năm một lần vào cuối năm chứ chưa thực hiện công tác xem xét, đánh giá mức độ hoàn thành công việc hàng tháng, quý hoặc sau khi kết thúc một công việc để tổ chức khen thưởng động viên công chức cấp xã kịp thời; việc xem xét khen thưởng dựa trên kết quả đánh giá thực hiện công việc của công chức cấp xã chưa căn cứ vào thành tích công tác của công chức nên chưa thực sự động viên, khuyến khích được công chức cấp xã hăng say, nỗ lực làm việc. Khen thưởng cho từng công chức cấp xã cần được cân nhắc trên nhiều mặt song căn cứ quan trọng và chủ yếu nhất đó là kết quả, hiệu quả thực hiện công việc của công chức cấp xã dựa trên kết quả đánh giá định kỳ hàng tháng, quý, cuối năm hoặc sau khi kết thúc một công việc quan trọng của từng công chức. Kết quả đánh giá thực hiện công việc là cơ sở quan trọng để tiến hành xem xét, khen thưởng công chức cấp xã. Công tác khen thưởng cần phải gắn bó mật thiết với công tác đánh giá thực hiện công việc của công chức cấp xã. Cần lựa chọn hình thức, giá trị phần thưởng phù hợp với từng đối tượng công chức cấp xã để phát huy tác dụng tốt, động viên khuyến khích được công chức cấp xã hăng say làm việc. Tránh khen thưởng theo hình thức bình quân chủ nghĩa, giá trị các phần thưởng tương xứng với kết quả 109 thành tích công tác của mỗi công chức cấp xã mới thực sự động viên, khuyến khích công chức cấp xã, hăng say nỗ lực làm việc. Về kỷ luật, bên cạnh khen thưởng kịp thời việc kỷ luật công bằng nghiêm minh là một vấn đề quan trọng trong xây dựng chất lượng độ ngũ công chức ở cấp xã. Nếu việc xem xét kỷ luật không đủ nghiêm khắc, không công khai, minh bạch thì chất lượng công tác này sẽ rất thấp. Phải vạch rõ những cái sai, khuyết điểm, vì đâu mà có khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm kiếm mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đó. Muốn sửa các sai lầm khuyết điểm để kỷ luật công bằng, nghiêm minh thì khâu tổ chức cán bộ phải được làm trước. Đây là khâu then chốt của then chốt, làm được như vậy mới xây dựng chất lượng đội ngũ công chức cấp xã vững mạnh. 3.2.6. Tăng cường hướng dẫn, kiểm tra, giám sát và đánh giá năng thực thi công vụ của công chức cấp xã Công chức cấp xã thực thi công vụ và trực tiếp chịu trách nhiệm trước UBND và chủ tịch UBND xã nhưng cũng đồng thời chịu sự quản lý, giám sát của Đảng ủy và Mặt trận Tổ quốc xã cũng như hệ thống chính trị tại xã. Để công chức cấp xã thực sự phát huy được sở trường và năng lực công tác, bên cạnh việc mở rộng dân chủ, tạo cơ chế làm việc thuận lợi thì không thể thiếu công tác quản lý, kiểm tra, giám sát việc thực thi công vụ của công chức cấp xã. Công tác quản lý, kiểm tra, giám sát làm nhằm đảm bảo cho công chức thực thi công vụ đúng quy định của pháp luật, không gây phiền hà, sách nhiễu đối với nhân dân. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nhắc nhở: “Cấp xã là gần gũi với nhân dân nhất, là nền tảng của hành chính. Cấp xã làm được việc thì mọi việc đều xong xuôi. Thế mà vì hẹp hòi, bao biện, không biết phân công, Vì cấp trên không biết cân nhắc, giúp đỡ, đốc thúc, kiểm tra, huấn luyện. 110 Thành thử phần nhiều cấp xã là uể oải, thiếu năng lực, kém tinh thần”. Đánh giá việc thực hiện Nghị quyết Trung ương (khóa VIII ) về công tác cán bộ, Hội nghị Trung ương 6 khóa IX chỉ rõ: “Công tác giáo dục chính trị - tư tưởng, rèn luyện cán bộ ít hiệu quả; công tác quản lý nội bộ, đấu tranh tự phê bình và phê bình yếu, không kịp thời nhắc nhở, ngăn ngừa cán bộ mắc sai lầm, không chỉ ra đúng địa chỉ và chưa kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng. Cấp trên và tập thể còn nể nang, nương nhẹ, thậm chí có trường hợp còn bao che những cán bộ có dấu hiệu tham nhũng, quan liêu gây tác hại lớn chưa bị xử lý trách nhiệm nên thường có thái độ thiếu nghiêm khắc với những biểu hiện tham nhũng, quan liêu của cán bộ dưới quyền. Nhiều người trung thực, tích cực đấu tranh chống tham nhũng chưa được bảo vệ, thậm chí còn bị trù dập, vô hiệu hóa. Nhiều biểu hiện tiêu cực trong công tác cán bộ như cục bộ, địa phương, lôi bè, kéo cánh, chạy quyền, chạy chức, chạy tội chưa được khắc phục, khiến cán bộ và nhân dân bất bình”. Điều đó cho thấy tầm quan trọng đặc biệt của công tác quản lý công chức, nhất là với các xã của huyện đều thuần nông, công chức cấp xã chưa tách hẳn đời sống kinh tế nông nghiệp và các quan hệ nông dân, nông thôn. Vì vậy, công tác quản lý công chức phải được UBND tiến hành thường xuyên và qua nhiều kênh thông tin khác nhau để quản lý. Công tác kiểm tra, giám sát việc thực thi công vụ của công chức cấp xã cần được tiến hành thường xuyên kết hợp với những lần kiểm tra đột xuất, có trọng tâm, trọng điểm và việc giải quyết những vụ, việc có tính chất phức tạp, có dư luận trong nhân dân. Cách thức kiểm tra, quản lý là rất quan trọng. kiểm tra, giám sát chặt chẽ nhưng không để cho công chức bị ức chế, làm ảnh hưởng đến kết quả công tác. Vì thế trong công tác 111 quản lý, kiểm tra, giám sát việc thực thi công vụ của công chức cấp xã cần chú ý những nội dung sau: Quản lý, kiểm tra, giám sát là việc làm thường xuyên của Chủ tịch UBND xã và Đảng ủy cũng như thực hiện chức năng giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc xã. Trong kiểm tra, giám sát phải nêu cao tinh thần tự phê bình và phê bình, có tình đồng chí thân ái giúp đỡ lẫn nhau, tuyệt đối không dùng việc kiểm tra công chức để moi móc, cố ý bịa đặt, tìm kiếm những khuyết điểm, sai sót để trù dập mà là để nhắc nhở, cảnh báo, phòng ngừa những sai phạm có thể xảy ra trên tinh thần xây dựng; đồng thời xử lý nghiêm minh để giáo dục, răn đe những công chức vi phạm kỷ luật qua kiểm tra, giám sát. Trong công tác quản lý công chức cấp xã cần phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng ủy xã, vai trò giám sát của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể trong hệ thống chính trị tại xã. Chính Đảng ủy xã cùng với Mặt trận Tổ quốc, bằng những thông tin do nhân dân cung cấp, kiến nghị hay khiếu nại, tố cáo là những căn cứ thực tế quan trọng để đánh giá năng lực của từng công chức cấp xã, nhất là đối với những vị trí công chức cấp xã được cho là nhạy cảm. Đối với những công chức cấp xã yếu kém về năng lực và phẩm chất, không đáp ứng được yêu cầu công tác thì cần lãnh đạo UBND xã có kế hoạch cho luân chuyển sang làm công việc phù hợp hoặc cho nghỉ việc để bố trí, tuyển dụng công chức có đủ năng lực và phẩm chất thay thế, đáp ứng tốt yêu cầu công tác. Quản lý công chức cấp xã phải dựa trên các cơ sở pháp lý, nguyên tắc thực thi công vụ và điều kiện hoàn cảnh cụ thể của từng xã, từng công chức, không tùy tiện, cào bằng. Quản lý phải luôn đi đôi với công tác đánh giá, kịp thời phát triển những sai sót để uốn nắn sửa chữa 112 cũng như thẳng thắn phê bình và giúp đỡ sửa chữa những khuyết điểm, hạn chế. Quản lý, kiểm tra, giám sát việc thực thi công vụ của công chức cấp xã phải đi liền với công tác khen thưởng và kỷ luật. Những công chức xã có tinh thần trách nhiệm trong công tác, được nhân dân tín nhiệm thì phải được động viên khen thưởng kịp thời để họ tiếp tục nâng cao hiệu quả công tác. Những công chức thiếu tinh thần ý thức trách nhiệm, vi phạm kỷ luật, có hành vi sách nhiễu nhân dân thì cần phải được xem xét nhắc nhở hoặc kỷ luật kịp thời thậm chí là buộc thôi việc để đảm bảo trong sạch bộ máy, góp phần nâng cao hiệu quả công tác của cơ quan. Quản lý, kiểm tra, giám sát công chức phải đảm bảo tính khách quan, công tâm, công bằng, có tính đồng chí, không trù dập, không bao che. Có như vậy mới tạo động lực để công chức phấn đấu, khắc phục hạn chế, thiếu sót, phát huy ưu điểm để nâng cao hiệu quả công tác. 3.2.7. Đổi mới chính sách tiền lương, chế độ phúc lợi cho công chức cấp xã Hiện nay, việc thực hiện các chế độ, chính sách đối với công chức cấp xã đã được thực hiện khá hoàn chỉnh với hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật quy định về tiền lương và các chế độ khác. Những văn bản quan trọng là: Nghị định 204/2004/NĐ-CP ngày 14/12/2004 của Chính phủ về chế độ tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang; Nghị định số 92/2009/NĐ-CP ngày 22/10/2009 của Chính phủ về chức danh, số lượng, một số chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn và những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã; Nghị định 112/2011/NĐ-CP ngày 05/12/2011 của Chính phủ, công chức xã, phường, thị trấn; Thông tư số 06/2012/TT- BNV ngày 30/10/2012 hướng dẫn về chức trách, tiêu chuẩn cụ thể, nhiệm 113 vụ và tuyển dụng công chức cấp xã, phường, thị trấn; Quyết định số 219/2004/QĐ-UBND về việc Quy định số lượng và chế độ đối với cán bộ công chức cấp xã, chế độ phụ cấp đối với cán bộ không chuyên trách cấp xã, thôn - khu phố thuộc tỉnh và Quyết định số 65/2009/QĐ-UBND về việc điều chỉnh Quyết định số 219/2004/QĐ-UBND ngày 03/12/2004 của UBND tỉnh Lâm Đồng về việc Quy định số lượng và chế độ đối với cán bộ công chức cấp xã, chế độ phụ cấp đối với cán bộ không chuyên trách cấp xã, thôn - khu phố thuộc tỉnh. Trên cơ sở các văn bản quy định nêu trên thì vấn đề trước mắt là huyện tập trung rà soát, chỉ đạo các cơ quan có liên quan của huyện và UBND các xã nhanh chóng thực hiện các chế độ, chính sách đối với công chức cấp xã, tạo điều kiện để công chức an tâm công tác, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Thực tế hiện nay còn một số xã việc chuyển xếp lương cho công chức còn nhiều bất cập, chậm được thực hiện hoặc việc thực hiện gặp nhiều lúng túng, thiếu sự thống nhất giữa các cơ quan có liên quan. Hàng năm, có một số lượng khá lớn công chức cấp xã hoành thành các lớp đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn phù hợp với vị trí chức danh đang đảm nhiệm vì thế cần được tổ chức thi nâng ngạch để chuyển xếp lương cho công chức. Tuy nhiên, hiện nay công tác này của huyện còn rất nhiều vấn đề bất cập, từ việc rà soát, lập danh sách và có kế hoạch cử công chức đã có bằng tốt nghiệp cao đẳng, đại học tham gia các lớp bồi dưỡng quản lý Nhà nước ngạch chuyên viên để thi nâng ngạch theo quy định. Có như thế mới tạo động lực để công chức phấn đấu thực hiện tốt hơn nữa công vụ được giao. 114 Tiểu kết chương 3 Chất lượng công chức chính quyền cấp xã huyện Đam Rông chỉ có thể được nâng cao khi có một hệ thống lý thuyết hoàn thiện để trên cơ sở đó phân tích, đánh giá hiện trạng, qua đó rút ra những kết luận khoa học về chất lượng công chức chính quyền cấp xã. Theo đó, luận văn đã đề các giải pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lượng công chức chính quyền cấp xã huyện Đam Rông như xây dựng đội ngũ công chức cấp xã có phẩm chất chính trị và phẩm chất đạo đức tốt; tiếp tục nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng; đổi mới công tác tuyển dụng; bố trí, sử dụng hợp lý, khoa học và hiệu quả; tăng cường hướng dẫn, kiểm tra, giám sát và đánh giá chất lượng; đổi mới chính sách tiền lương, chế độ phúc lợi và thực hiện tốt công tác khen thưởng, kỷ luật công chức cấp xã. Chỉ khi thực hiện quyết liệt, đống bộ các giải pháp này mới có thể nâng cao chất lượng công chức chính quyền cấp xã huyện Đam Rông, tỉnh Lâm Đồng. 115 KẾT LUẬN Đội ngũ công chức cấp xã là những người có quan hệ trực tiếp, gắn bó mật thiết với người dân, là người trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước với người dân để đảm bảo hoàn thành các mục tiêu kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng - an ninh ở địa phương. Việc không ngừng củng cố, chăm lo xây dựng đội ngũ công chức cấp xã là nhiệm vụ chiến lược có ý nghĩa quan trọng trong công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam Xã hội chủ nghĩa. Trong thành tích chung của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc huyện Đam Rông trong công cuộc đổi mới cùng với đất nước, có sự đóng góp rất lớn của đội ngũ công chức cấp xã. Trong thời gian qua, bên cạnh việc quan tâm phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng - an ninh, huyện Đam Rông, tỉnh Lâm Đồng đã thường xuyên quan tâm chăm lo xây dựng đội ngũ công chức trong đó có đội ngũ công chức cấp xã. Đội ngũ công chức cấp xã huyện Đam Rông hiện nay cơ bản đã đủ về số lượng nhưng năng lực, chất lượng thực thi công vụ thực sự vẫn còn là một vấn đề cần quan tâm. Đây vừa là yêu cầu trước mắt vừa là nhiệm vụ lâu dài, vì vậy cần sự quan tâm, đầu tư của các cấp ủy Đảng và chính quyền từ huyện cho đến xã. Năng lực thực thi công vụ của công chức cấp xã huyện Đam Rông hiện nay bên cạnh một số mặt mạnh như tinh thần và ý thức trách nhiệm được nâng cao hơn, trình độ chuyên môn được nâng cao một bước rõ rệt, kỹ năng tác nghiệp chuyên môn đã có sự chuyển biến về chất, góp phần tích cực vào hiệu quả quản lý nhà nước của chính quyền cấp xã. Tuy nhiên, đứng trước những yêu cầu đòi hỏi của thời kỳ hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước với những thử thách mới, yêu cầu mới, nhiệm vụ mới, thực trạng đội ngũ 116 công chức cấp xã huyện Đam Rông còn nhiều tồn tại, bất cập, yếu về chất lượng, chưa đáp ứng được yêu cầu. Để khắc phục những tồn tại, hạn chế, tiếp tục phát huy ưu điểm, nâng cao chất lượng của đội ngũ công chức xã, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước ở chính quyền cấp xã, cần tập trung thực hiện đồng bộ những giải pháp, trong đó cần chú trọng nâng cao hiệu quả công tác đào tạo, bồi dưỡng công chức theo chuẩn chức danh, có chiều sâu, đi đôi với đó là nâng cao hiệu quả công tác đánh giá, bố trí, sử dụng công chức, quy hoạch cán bộ và giải quyết tốt các chế độ chính sách đối với công chức cấp xã. Để hiện thực hóa những giải pháp mà luận văn đã trình bày rất cần sự quan tâm, đầu tư, phối hợp của các cấp ủy Đảng, chính quyền, đoàn thể và các cơ quan có liên quan, xây dựng đội ngũ công chức cấp xã có đủ năng lực và phẩm chất, đáp ứng tốt yêu cầu công tác trong tình hình hiện nay. Qua nghiên cứu lý luận, thống kê, phân tích số liệu thực trạng đội ngũ công chức cấp xã huyện Đam Rông, tác giả đã rút ra những ưu điểm, những tồn tại, hạn chế, nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế đó; làm rõ các nguyên nhân và đề xuất được hệ thống các giải pháp để nâng cao chất lượng đội ngũ công chức cấp xã huyện Đam Rông. Tuy nhiên, do điều kiện thời gian cũng như trình độ, năng lực, việc đầu tư thời gian cho công tác nghiên cứu về nâng cao chất lượng đội ngũ công chức của huyện Đam Rông còn hạn chế, các tài liệu sưu tầm để nghiên cứu chưa được nhiều, nội dung, số lượng đối tượng khảo sát mới chỉ tập trung ở góc độ số liệu thống kê, thu thập không phản ánh được một cách toàn diện, chính xác thực trạng chất lượng đội ngũ công chức cấp xã của huyện Đam Rông. Việc nâng cao chất lượng đội ngũ công chức cấp xã là một vấn đề rất khó khăn và phức tạp. Một số giải pháp đề xuất trong luận 117 văn có thể còn có hạn chế, cần phải được tiếp tục được đánh giá, nghiên cứu, bổ sung và hoàn thiện để có tính khả thi cao góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ công chức cấp xã của huyện Đam Rông, tỉnh Lâm Đồng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn CNH-HĐH đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế. 118 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Ban Tuyên giáo Trung ương (2007), Tài liệu học tập các Nghị quyết hội nghị Trung ương 5, khóa X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 2. Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Đam Rông khóa II (2011), Nghị quyết số 03-NQ/TU về nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ xã giai đoạn 2011-2015. 3. Bộ Nội vụ (2007), Quyết định số 03/2007/QĐ-BNV về việc ban hành Quy tắc ứng xử của cán bộ, công chức, viên chức làm việc trong bộ máy chính quyền địa phương. 4. Bộ Nội vụ (2005), Thông tư số 04/2005/TT-BNV về hướng dẫn thực hiện chế độ phụ cấp thâm niên vượt khung đối với cán bộ, công chức, viên chức. 5. Bộ trưởng Bộ Nội vụ (2004), Quyết định số 04/2004/QĐ-BNV về việc ban hành Quy định tiêu chuẩn cụ thể đối với cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn. 6. Bộ Nội vụ, Bộ Tài chính và Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2010), Thông tư liên tịch số 03/2010/TTLT-BNV-BTC- BLĐTB&XH hướng dẫn thực hiện Nghị định số 92/2009/NĐ-CP ngày 22 tháng 10 năm 2009 của Chính phủ về chức danh, số lượng, một số chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn và những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã. 7. Bộ Tư pháp và Bộ Nội vụ (2005), Thông tư liên tịch số 04/2005/TTLT-BTP-BNV hướng dẫn về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức các cơ quan chuyên môn giúp Ủy ban nhân dân quản lý nhà nước về công tác tư pháp ở địa phương. 119 9. Chính phủ (2003), Nghị định số 121/2003/NĐ-CP về chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn. 10. Chính phủ (2004), Nghị định số 114/2004/NĐ-CP về cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn. 11. Chính phủ (2004), Nghị định số 204/2004/NĐ-CP về chế độ tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang. 12. Chính phủ (2003), Nghị định số 159/2005/NĐ-CP về phân loại đơn vị hành chính xã, phường, thị trấn. 13. Chính phủ (2006), Nghị định số 152/2006/NĐ-CP hướng dẫn một số điều của Luật Bảo hiểm xã hội. 14. Chính phủ (2009), Nghị định số 62/2009/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Bảo hiểm y tế. 15. Chính phủ (2009), Nghị định số 76/2009/NĐ-CP về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 204/2004/NĐ-CP ngày 14 tháng 12 năm 2004 của Chính phủ về chế độ tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang. 16. Chính phủ (2009), Nghị định số 92/2009/NĐ-CP ngày về chức danh, số lượng, một số chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn và những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã. 17. Chính phủ (2010), Nghị định số 06/2010/NĐ-CP quy định những người là công chức. 18. Chính phủ (2011), Nghị quyết số 30c/NQ-CP về việc ban hành Chương trình tổng thể cải cách hành chính Nhà nước giai đoạn 2011 – 2020. 19. Đảng bộ tỉnh Lâm Đồng lần thứ X (2015), Văn kiện Đại hội đại biểu tỉnh Lâm Đồng. 120 20. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 21. Đảng Cộng sản Việt Nam (2012), Nghị quyết Trung ương 4, khóa XI một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay. 22. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Chỉ thị số 03-CT/TW, ngày 14/5/2011 của Bộ Chính trị về tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. 23. Hồ Chí Minh toàn tập (2004), tập 5, Nxb. Sự thật, Hà Nội. 24. Quốc hội (2008), Luật Cán bộ, công chức. 25. Ủy ban nhân dân tỉnh Lâm Đồng (2004), Quyết định số 219/2004/QĐ-UBND về việc Quy định số lượng và chế độ đối với cán bộ công chức cấp xã, chế độ phụ cấp đối với cán bộ không chuyên trách cấp xã, thôn - khu phố thuộc tỉnh. 26. Ủy ban nhân dân tỉnh Lâm Đồng (2009), Quyết định số 65/2009/QĐ-UBND V/v điều chỉnh Quyết định số 219/2004/QĐ-UBND ngày 03 tháng 12 năm 2004 của Ủy ban nhân dân tỉnh Lâm Đồng về việc Quy định số lượng và chế độ đối với cán bộ công chức cấp xã, chế độ phụ cấp đối với cán bộ không chuyên trách cấp xã, thôn - khu phố thuộc tỉnh. 27. Ủy ban nhân dân tỉnh Lâm Đồng (2015), Quyết định số 10/2015/QĐ-UBND về việc Ban hành Quy chế tổ chức tuyển dụng công chức xã, phường, thị trấn trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng. 25. Ủy ban nhân dân huyện Đam Rông, các báo cáo thống kê cán bộ công chức, báo cáo đánh giá chất cán bộ, công chức xã, phường năm 2011, 2012, 2013, 2014, 2015, 2016. 26. Quốc hội (2008), Luật Cán bộ, Công chức 22/2008/QH12. 121 27. Cuốn sách “Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng đội ngũ CBCC” do TS. Thang Văn Phúc và TS. Nguyễn Minh Phương (đồng chủ biên), NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2005 28. Cuốn sách “Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” do PGS.TS Nguyễn Phú Trọng và PGS.TS Trần Xuân Sầm (đồng chủ biên), NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2003 29. Nguyễn Minh Sản, “Pháp luật về cán bộ, công chức chính quyền cấp xã ở Việt Nam hiện nay - Những vấn đề lý luận và thực tiễn”. Nxb. Chính trị - Hành chính, Hà Nội, 2009. 30. Bài báo “Xây dựng đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số (DTTS) ở Lâm Đồng”. 31. Bài báo “Đam Rông đổi mới, nâng cao chất lượng hệ thống chính trị”.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_van_chat_luong_cong_chuc_cap_xa_huyen_dam_rong_tinh_lam.pdf
Luận văn liên quan