Ngân hàng có chức năng huy động mọi nguồn vốn trong nền kinh tế để cho vay nên đó là công cụ tích tụ và tập trung vốn để hỗ trợ các doanh nghiệp trong quá trình sản xuất kinh doanh, thực hiện việc tái sản xuất mở rộng theo chiều rộng và chiều sâu, thực hiện tốt việc tự do di chuyển vốn từ ngành có tỷ suất lợi nhuận thấp sang ngành có tỷ suất lợi nhuận cao. Tín dụng Ngân hàng cũng góp phần hút và đẩy tiền ra lưu thông, chống lạm phát, ổn định tiền tệ giá cả, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp.
Để đáp ứng nhu cầu vốn tín dụng cho các doanh nghiệp, trước hết tín dụng Ngân hàng cần phải có những giải pháp thích hợp để thu hút và mở rộng các hình thức cho vay. Nhằm thúc đẩy nền kinh tế phát triển mạnh mẽ, các Ngân hàng cần mở rộng cho vay trung và dài hạn để các doanh nghiệp từng bước đổi mới thiết bị công nghệ, mở rộng cho vay đối với tất cả các thành phần kinh tế.
62 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2383 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Chất lượng tín dụng ngân hàng, hiện trạng và giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại Ngân hàng thương mại cổ phần Navibank Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
vay VND trong năm 2009 là 0.85%/tháng, lớn hơn rất nhiều. Do đó các doanh nghiệp thường chú ý đến nợ VND điều này thường gây ra những thiệt thòi cho Ngân hàng khi bị chiếm dụng vốn ngoại tệ trong thời gian dài.
Qua số liệu phân tích trên cho thấy, hoạt động kinh doanh của Ngân hàng tương đối ổn định và phát triển. Tuy nhiên, trong hoạt động kinh
doanh tín dụng của Ngân hàng còn chứa đựng một số nguyên nhân mang lại rủi ro mà đặc biệt là rủi ro do nguyên nhân khách quan đem lại, đòi hỏi phải tính toán định lượng được trước những tổn thất trong kế hoạch kinh doanh của mình. Từ đó tìm những giải pháp để hạn chế đến mức thấp nhất những tổn thất đó để hoạt động kinh doanh đem lại hiệu quả cao hơn. Nếu Chi nhánh không có những giải pháp đồng bộ, tích cực để củng cố nâng cao chất lượng tín dụng sẽ gây những hậu quả cho hoạt động kinh doanh của Ngân hàng và kinh tế trên địa bàn.
Tóm lại, với sự phấn đấu nỗ lực, có thể nói công tác kinh doanh tín dụng của Ngân hàng Navibank Hà Nội năm 2009 được mở rộng hơn năm 2007, 2008 chất lượng tín dụng đã được tăng lên một cách đáng kể. Đó là những thành tích lớn trong công tác tín dụng năm 2009 tại chi nhánh Ngân hàng Navibank Hà Nội.
3. Đánh giá những nguyên nhân ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng tại NAVIBANK HÀ NỘI.
Tín dụng Ngân hàng là một loại kinh doanh đặc biệt mang tính tổng hợp gắn liền với các điều kiện kinh tế chính trị của đất nước. Bởi vậy muốn đưa ra những biện pháp khoa học nhằm nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng chúng ta phải tìm ra những nguyên nhân, những yếu tố tác động đến chất lượng hoạt động tín dụng.
3.1. Nguyên nhân bên ngoài :
Môi trường kinh tế:
Nền kinh tế của nước ta hiện nay đang ở trong giai đoạn đầu của quá trình đổi mới, nhiều vấn đề còn dở dang, các chính sách và cơ chế quản lý vĩ mô của nhà nước đang trong quá trình điều chỉnh, đổi mới, bởi vậy nhiều vấn đề còn chưa hoàn thiện. Môi trường kinh doanh của các tổ chức tín dụng trong đó các NHTM còn thiếu nhiều yếu tố nh: hệ thống văn bản pháp luật nhà nước đang được hình thành nhưng chưa đồng bộ, thậm chí có khi chồng chéo. Hoạt động kinh doanh của các tổ chức tín dụng chưa thực sự độc lập, đôi khi còn chịu những tác động của phương pháp quản lý bằng mệnh lệnh hành chính làm cho tín dụng kém hiệu quả.
Các Doanh nghiệp sản xuất kinh doanh kém hiệu quả, khả năng tự vay vốn bị hạn chế, dẫn đến vốn để đầu tư chiều sâu, mở rộng bị thu hẹp, thiếu thị trường tiêu thụ trong điều kiện cạnh tranh gay gắt, khiến cho tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp gặp khó khăn trong cả khâu sản xuất lẫn tiêu thụ hàng hoá, ảnh hưởng trực tiếp đến tình hình tài chính của Doanh nghiệp và khả năng trả nợ vốn vay Ngân hàng. Bên cạnh đó, sản xuất kinh doanh trong nước phải cạnh tranh gay gắt với hàng lậu và hàng nhập ngoại, các doanh nghiệp chậm thích nghi với cơ chế thị trường, việc chuyển hướng về điều chỉnh phương án sản xuất kinh doanh không theo kịp sự thay đổi của cơ chế và chính sách vĩ mô. Vì vậy một số doanh nghiệp và ngành sản xuất kinh doanh gặp khó khăn hàng hoá vật tư bị tồn kho, thua lỗ, mất khả năng thanh toán, làm phát sinh nợ khó đòi.
Môi trường pháp lý :
Môi trường pháp lý cho kinh doanh tín dụng của Ngân hàng chưa đầy đủ, đồng bộ. Một số văn bản pháp lý có liên quan tới vấn đề thế chấp vốn vay Ngân hàng, ở khía cạnh này hay khía cạnh khác qui định chưa đồng bộ, đầy đủ, nhất là thiếu các văn bản hướng dẫn, hoặc có hướng dẫn nhưng chưa phù hợp, nên quá trình thực hiện còn gặp nhiều khó khăn, thể hiện:
* Về cơ sở pháp lý của tài sản thế chấp:
Theo quy định của luật pháp thì cơ sở đảm bảo cho việc thế chấp tài sản là bản hợp đồng được ký kết giữa hai bên thế chấp và nhận thế chấp, cùng bản gốc giấy tờ chứng minh cùng sở hữu tài sản do bên thế chấp giao cho bên nhận thế chấp. Thực tế các cơ quan quản lý Nhà nước chịu trách nhiệm cấp chứng thư nhận quyền sở hữu tài sản cho các chủ sở hữu chưa được rộng khắp. Do đó thế chấp và xử lý tài sản thế chấp vay vốn Ngân hàng nhiều khó khăn phức tạp, do thiếu cơ sở pháp lý và quyền sở hữu tài sản.
Đối với DNNN, hầu hết không có giấy tờ chứng minh quyền sở hữu hay quyền sử dụng tài sản khi giao vốn mà chỉ có bản xác nhận tổng số vốn giao của cơ quan thẩm quyền. Trên thực tế nhiều DNNN vay vốn chưa thực hiện thế chấp tài sản, một phần vì chưa làm được giấy tờ chứng nhận sở hữu.
* Vấn đề phát mại tài sản thế chấp:
Pháp lệnh kế toán thống kê chưa đủ hiệu lực bắt buộc các doanh nghiệp thực hiện chế độ hoạch toán thống kê chính xác kịp thời. Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh chưa hoạch toán kế toán theo qui định, chưa thực hiện chế độ kiểm toán bắt buộc đối với các báo cáo tài chính của doanh nghiệp, nên số liệu không phản ánh chính xác tình hình sản xuất, kinh doanh tài chính của khách hàng, làm cho việc xử lý phân tích thông tin và ra quyết định của Ngân hàng cũng thiếu chính xác.
Hiệu lực của cơ quan hành pháp chưa đáp ứng được yêu cầu giải quyết các tranh chấp, tố tụng và hợp đồng kinh tế...
Các hình thức kinh doanh tiền tệ trái phép đang phát triển nhanh chóng và hoạt động tự do, như các tổ chức cho vay nặng lãi, cho vay nóng,... không có cơ quan nào quản lý, kiểm tra kiểm soát, thủ đoạn của chúng là móc nối với khách hàng để lừa đảo Ngân hàng cho vay tiền, cho vay lại vay nóng, giúp khách hàng đảo nợ ở các tổ chức tín dụng, gây khó khăn cho hoạt động tín dụng Ngân hàng.
Hiện nay, các tổ chức tín dụng mới được phép trích. Quĩ dự phòng đặc biệt mà thực chất là quĩ dự phòng chung cho các loại rủi ro. Theo cơ chế hiện hành, quĩ này được tính bằng 10% số lợi nhuận sau khi nộp thuế là chưa phù hợp với nguyên tắc hoạch toán kinh doanh và không bình đẳng với các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh khác. Khi có rủi ro xảy ra quĩ này không đủ bù đắp, nên gây những khó khăn cho hoạt động Ngân hàng.
3.2. Nguyên nhân bên trong:
Về cơ cấu đầu tư của ngân hàng:
Tỷ trọng cho vay ngoại tệ của Ngân hàng trong tổng dự nợ vẫn rất cao (58,1%). Như đã phân tích, cho vay ngoại tệ lãi suất thấp rủi ro cao cho vay VND lãi suất cao rủi ro thấp vì khách hàng khi có dư nợ vay ngoại tệ và tiền VND, họ sẽ tập trung ưu tiên trả nợ VND trước (do phải chịu lãi suất cao). Chính vì thế tỷ lệ nợ quá hạn của USD là rất cao. Điều này chứng tỏ cho vay bằng ngoại tệ có rủi ro cao hơn. Do vậy, chi nhánh cần thay đổi cơ cấu đầu tư của mình theo hướng tích cực cho vay VND, giảm vay bằng ngoại tệ.
Tỷ trọng cho vay trung và dài hạn của Chi nhánh còn chiếm tỷ lệ nhỏ so với cho vay ngắn hạn trong tổng dư nợ (chỉ chiếm 16%). Chi nhánh cần tích cực nâng cao dư nợ cho vay trung và dài hạn vì đầu tư trung và dài hạn không những giúp doanh nghiệp đổi mới thiết bị, công nghệ phục vụ cho sản xuất mà còn giúp cho Ngân hàng hạn chế rủi ro trong quá trình cho vay (Navibank chưa từng có nợ quá hạn đối với các khoản vay trung và dài hạn).
Về chính sách đầu tư :
Trong những năm qua chi nhánh luôn cố gắng mở rộng mạng lưới phục vụ xuống các địa phương ở miền Bắc. Điều này có tác dụng rất lớn làm tăng khối lượng tín dụng của Ngân hàng song lại có những hạn chế về sự nắm rõ khách hàng, hiểu biết khách hàng và gặp khó khăn trong việc kiểm tra trước, trong và sau khi vay, nên để khách hàng sử vốn sai mục đích (dùng vốn vay ngắn hạn vào đầu tư xây dựng cơ bản hoặc khi bán được hàng thì không trả nợ ngay mà để quay vòng vốn, mua bán lòng vòng...) Và cán bộ Ngân hàng không phát hiện ra để ngăn chặn kịp thời, dẫn tới khách hàng không trả được nợ vay đúng hạn.
Về trình độ cán bộ tín dụng:
Mặc dù chi nhánh luôn quan tâm tới việc đào tạo đội ngũ cán bộ tín dụng, ngay trong việc tuyển lựa cán bộ tín dụng cũng đặt ra yêu cầu trình độ đại học, đã qua công tác tín dụng ở Ngân hàng khác, hiểu biết về các ngành kinh tế khác. Song điều bất cập xảy ra là trình độ bằng cấp thì nhiều song việc áp dụng vào thực tế công việc lại đòi hỏi phải năng động, nhanh nhạy đòi hỏi cán bộ tín dụng phải có năng lực quản lý, trình độ, kiến thức khoa học và thực tiễn cuộc sống để quyết đoán một món vay cho phù hợp, đúng cơ chế, tính toán được hiệu quả cho cả Ngân hàng và kháchh hàng, và có thể lường trước được những bất trắc có thể xảy ra. Thực tế tại Navibank Hà Nội, điều này còn đang tồn tại vì là một Ngân hàng còn rất trẻ nên cán bộ tín dụng chưa có bề dày kinh nghiệm trong vấn đề kiểm tra theo dõi chặt chẽ món vay dẫn đến đơn vị sử dụng vốn sai mục đích, do vậy khi đến hạn không trả được nợ phải chuyển qua nợ quá hạn.
Quy trình tín dụng :
Trong việc thực hiện chiến dịch mạng lưới gắn với cơ chế khoán tài chính phân phối tiền lương theo kết quả làm ra để chiếm lĩnh thị trường, tăng cường lợi thế cạnh tranh với các tổ chức tín dụng khác. Một số cán bộ chưa ý thức được mục đích, ý nghĩa của nó là mở rông kinh doanh Ngân hàng gắn liền với hiệu quả kinh tế xã hội và hiệu quả của chính bản thân Ngân hàng, mở rộng cho vay mang tính thái quá, để có thu nhập cao, chạy theo số lượng mà không quan tâm tới chất lượng và hiệu quả vốn đầu tư, dẫn đến hậu quả xấu cho chất lượng tín dụng.
Thông tin tín dụng :
Hệ thống thông tin phòng ngừa rủi ro trong hoạt động tín dụng chưa thực sự phát huy hiệu quả, chưa có một qui chế đủ hiệu lực đưa các NHTM, tổ chức tín dụng trên địa bàn cùng vào guồng máy để có sự hợp tác và tương trợ lẫn nhau trong việc đảm bảo cung cấp thông tin đầy đủ, chính xác kịp thời.
Kiểm soát nội bộ:
Vai trò chủ động kiểm tra, kiểm soát tự phát hiện của các Chi nhánh cơ sở làm chưa thường xuyên và chưa sâu sát và nghiêm túc, cả về mặt nội dung, phương pháp và các biện pháp xử lý. Chất lượng kiểm tra, phóc tra và sửa chữa sai sót kiểm tra chưa cao, khắc phục xử lý chưa kiên quyết và dứt điểm.
Tóm lại: Qua đánh giá chất lượng hoạt động tín dụng ở Chi nhánh Ngân hàng Navibank Hà Nội trong những năm qua đã khẳng định được vai trò tín dụng Ngân hàng góp phần vào sự nghiệp phát triển xây dựng kinh tế, kiềm chế lạm phát, ổn định tiền tệ. Tuy vậy, vẫn còn nhiều vấn đề tồn tại cần phải xem xét một cách nghiêm túc để có giải pháp khắc phục, nhằm không ngừng củng cố chất lượng tín dụng, đóng góp tốt hơn nữa cho quá trình xây dựng kinh tế và phát triển xã hội đất nước.
CHƯƠNG III: NHỮNG GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG NAVIBANK HÀ NỘI.
Qua việc phân tích đánh giá tình hình huy động vốn và sử dụng vốn tại Navibank Hà Nội ta thấy rằng; Cùng với sự chuyển biến của nền kinh tế thị trường, Ngân hàng đã thu được nhiều kết quả đáng khích lệ trong hoạt động kinh doanh tiền tệ đặc biệt là công tác huy động vốn và sử dụng vốn trên địa bàn. Đó là kết quả đạt được do sự chỉ đạo sát sao của NHNN, Navibank cùng với ban lãnh đạo, các phòng ban làm việc một cách khoa học không mệt mỏi, đã căn cứ vào tình hình thực tế của Ngân hàng và địa bàn Ngân hàng để phục vụ, từ đó đưa ra các giải pháp hợp lý phù hợp với yêu cầu của khách hàng mà vẫn đảm bảo lợi Ých, mục tiêu của Ngân hàng.
1. quan điểm, định hướng và mục tiêu nâng cao chất lượng tín dụng
1.1. Quan điểm về nâng cao chất lượng tín dụng :
Để ngày càng thích ứng với cơ chế thị trường và thực sự trở thành đòn bẩy thúc đẩy kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nâng cao chất lượng tín dụng, góp phần thực hiện chiến lược phát triển Ngân hàng đến năm 2005, đó là “tạo lập một hệ thống Ngân hàng đủ mạnh cả về năng lực hoạch định chính sách, năng lực quản lý, năng lực điều hành kinh doanh, đủ mạnh về trình độ công nghệ và kỹ thuật hiện đại để hoạt động kinh doanh, để hoạt động Ngân hàng bắt kịp với cơ chế thị trường, trở thành công cụ phục vụ đắc lực cho mục tiêu kiềm chế lạm phát, ổn định tiền tệ, đáp ứng mọi nhu cầu vốn và phương tiện thanh toán cho nền kinh tế, phục vụ tốt cho tăng trưởng nhanh và bền vững”.
1.2. Mục tiêu nâng cao chất lượng tín dụng trong thời gian tới
Là mét NHTM, Navibank Hà Nội có chức năng kinh doanh tiền tệ, tín dụng và làm các dịch vụ Ngân hàng, kết hợp việc thực thì các chính sách tiền tệ nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế trên địa bàn Ngân hàng phục vụ. Mục tiêu của Ngân hàng là phấn đấu trở thành một trong những tổ chức tài chính quan trọng, có vị trí then chốt trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế của thủ đô theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Để làm được như vậy, Navibank Hà Nội phải phát triển mạnh để trở thành một Ngân hàng hiện đại có đủ sức đáp ứng nhu cầu vốn cho nền kinh tế, phục vụ việc đầu tư, chuyển giao công nghệ và các nhu cầu khác xuất hiện trên địa bàn.
Mục tiêu của các doanh nghiệp nói chung, của các NHTM nói riêng là tối đa hoá lợi nhuận trong điều kiện cho phép. Lợi nhuận là mục tiêu cao nhất và là điều kiện để tồn tại và phát triển của một doanh nghiệp. Do đó, nâng cao chất lượng tín dụng là phải phục vụ mục tiêu đem lại lợi nhuận cho Ngân hàng thông qua các khoản tín dụng được cấp cho khách hàng.
Lợi nhuận của Ngân hàng phụ thuộc vào việc sử dụng có hiệu quả nguồn lực hiện có, giảm thiểu rủi ro trong quá trình cho vay và dự tính đúng khả năng phát triển trong tương lai để có chính sách tín dụng và biện pháp phù hợp. Lợi nhuận là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp, nó phản ảnh cả mặt lượng và mặt chất của quá trình kinh doanh tức phản ánh chất lượng tín dụng mà cụ thể là hiệu quả của NHTM trong việc sử dụng các nguồn lực hiện có để thoả mãn nhu cầu khách hàng.
Tuy nhiên động cơ lợi nhuận của NHTM phải luôn gắn với mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Do vậy, việc nâng cao chất lượng tín dụng còn phải nằm vào sự phát triển của nền kinh tế, tạo sự vững chắc cho chiến lược phát triển kinh tế lâu bền của đất nước. Và cũng từ đó có tác động ngược trở lại để NHTM không ngừng nâng cao chất lượng tín dụng và đạt hiệu quả cao nhất trong kinh doanh.
1.3. Định hướng nâng cao chất lượng tín dụng:
Linh hoạt trong huy động vốn cho phù hợp với sự phát triển về quy mô yêu cầu sử dụng vốn, trong bất kỳ trường hợp nào cũng phải tuyệt đối đảm bảo khả năng thanh toán trong cả hai loại vốn nội và ngoại tệ.
Làm cho hoạt động tín dụng thích nghi nhanh với cơ chế thị trường, đa dạng hoá hoạt động tín dụng vì mục tiêu lợi nhuận trên cơ sở tiết kiệm chi phí và giảm thiểu rủi ro trong khuôn khổ pháp luật qui định, góp phần kiềm chế lạm phát, tăng trưởng kinh tế ổn định tiền tệ, thực hiện tốt chính sách tiền tệ tín dụng.
Từng bước hiện đại hoá quá trình nghiệp vụ tín dụng, trên cơ sở đổi mới công nghệ Ngân hàng, tạo tiền đề đáp ứng nhu cầu vốn của nền kinh tế với chất lượng tốt, góp phần đắc lực vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, từng bước quốc tế hoá hoạt động Ngân hàng, hội nhập với cộng đồng và tài chính tiền tệ quốc tế.
Từng bước hoàn thiện hệ thống tổ chức bộ máy và phương thức điều hành, nâng cao trình độ nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ tín dụng và kiến thức chuyên môn nghiệp vụ, pháp luật, trình độ tin học và ngoại ngữ, rèn luyện phẩm chất và phong cách, đáp ứng đòi hỏi của hoạt động tín dụng trong thời kỳ mới. Cần giao trách nhiệm cụ thể, rõ ràng xử phạt nghiêm minh nhưng cũng phải quan tâm hơn nữa đến quyền lợi của cán bộ tín dụng một cách thỏa đáng.
Đòi hỏi cán bộ cần phải có một kiến thức nhất định để thẩm định, tái thẩm định dự án đầu tư thật kỹ. Trước khi quyết định đầu tư phải nhận thức đầy đủ về đối tượng đầu tư.
Tăng cường công tác thanh tra kiểm soát từ nhiều phía, kiểm soát nội bộ, kiểm soát chồng chéo để từ đó có biện pháp khắc phục, sửa chữa sai lầm kịp thời nhằm giảm rủi ro ở mức thấp nhất trong hoạt động kinh doanh của các NHTM. Đồng thời nâng cao trình độ quản lý kinh doanh, đảm bảo cho hoạt động tín dụng theo đúng luật pháp, an toàn và hiệu quả.
2. những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lượng tín dụng ở chi nhánh ngân hàng NAVIBANK HÀ NỘI.
2.1. Xây dựng và sử dụng quĩ bù đắp rủi ro cho hoạt động tín dụng:
Rủi ro tín dụng luôn là bạn đồng hành với hoạt động kinh doanh tín dụng của các NHTM, rủi ro tín dụng làm cho các NHTM kinh doanh không có hiệu quả, làm ngưng trệ thậm chí làm cho Ngân hàng lâm vào tình trạng phá sản. Do công tác tín dụng là một công tác sống còn của một NHTM, nên phải có cơ chế để chủ động khắc phục nó. Đã kinh doanh là phải chấp nhận rủi ro, kinh doanh tiền tệ lại có mức độ rủi ro tăng gấp nhiều lần so với loại hình kinh doanh khác, bởi kết quả kinh doanh của Ngân hàng không những phụ thuộc vào các yếu tố như ở các doanh nghiệp bình thường vẫn có, mà còn phụ thuộc vào kết quả kinh doanh của khách hàng (đặc biệt là khách hàng vay vốn) rủi ro trong kinh doanh của khách hàng cuối cùng dẫn đến rủi ro của Ngân hàng. Cho đến nay vẫn chưa có cơ chế hữu hiệu để phòng chống rủi ro mất vốn do người vay gây ra, ngoài quĩ dự phòng đặc biệt quá bé nhỏ (chưa đủ sức chủ động phòng chống và khắc phục tình trạng nợ quá hạn khê đọng khó đòi). Khi nợ quá hạn khó đòi tăng lên sẽ gây khó khăn cho hoạt động Ngân hàng do không có nguồn để bù đắp các tổn thất do khách hàng không trả được nợ, Mặc dù Nhà nước đã có một số biện pháp để giải quyết nợ khê đọng, khó đòi dưới hình thức khoanh nợ, nhưng đấy mới chỉ là biện pháp tạm thời, về lâu dài Ngân hàng cần có cơ chế hình thành quĩ bù đắp rủi ro tín dụng để giải quyết các khoản nợ này.
Theo xu thế chung, các nước trên thế giới đều có quĩ bù đắp rủi ro cho các khoản tín dụng.
Từ những lý do trên cho thấy cần phải có cơ chế phù hợp để các NHTM có thể chủ động trong việc bù đắp rủi ro tín dụng có hiệu quả.
Nguồn hình thành quĩ bù đắp rủi ro: được trích từ chi phí hoạt động kinh doanh của Ngân hàng, bằng cách này làm cho quĩ thể hiện đúng bản chất của nó là: rủi ro gắn liền với kinh doanh thông qua hoạch toán, để phản ánh đúng các chi phí phát sinh trong quá trình kinh doanh, lấy thu bù chi có lãi, phù hợp với thông lệ quốc tế.
Theo kinh nghiệm một số nước trên thế giới, căn cứ vào tình hình thực tế ở các NHTM, tỷ lệ trích để hình thành quĩ bù đắp rủi ro có thể theo các hình thức sau:
+ Đối với nợ quá hạn dưới 6 tháng trích 50% trên số nợ quá hạn.
+ Đối với nợ quá hạn trên 6 tháng đến 12 tháng trích 75%.
+ Đối với nợ quá hạn từ 12 tháng trở lên trích 100%.
+ Trích 0,5% trên tổng dư nợ bình thường.
Đối với quĩ dự phòng đặc biệt, không nên khống chế mức tối đa 100% vốn điều lệ, nhằm tăng cường khả năng phòng chống rủi ro và mức độ an toàn trong kinh doan của Ngân hàng thương mại.
Nh vậy, trong mỗi NHTM có 2 quĩ đều nhằm phòng chống rủi ro trong hoạt động tín dụng, nhưng chúng khác nhau ở nguồn hình thành và quĩ sử dụng:
+ Quĩ dự phòng đặc biệt được hình thành từ lợi nhuận ròng để bù đắp rủi ro khi Ngân hàng thua lỗ, thiệt hại bất ngờ do những nguyên nhân khách quan, bất khả kháng.
+ Quĩ bù đắp rủi ro tín dụng được hình thành từ nguồn chi phí và được sử dụng để bù đắp những tổn thất do khách hàng gây ra.
2.2. Củng cố công tác mạng lưới và khoán tài chính đến nhóm và người lao động, thực hiện đa dạng hoá dịch vụ Ngân hàng:
Hệ thống mạng lưới có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc mở rộng kinh doanh là điều kiện nâng cao khả năng cạnh tranh và phục vụ phát triển kinh tế của Ngân hàng, trong cơ chế thị trường. Tuy nhiên trong quá trình mở rộng mạng lưới hoạt động, việc thành lập theo mét chi nhánh đòi hỏi phải nghiên cứu, phân tích kỹ lưỡng các điều kiện, khả năng cho phép về tổ chức môi trường hoạt động kinh doanh. Có thể nói: “Nơi nào kinh tế hàng hoá phát triển thì hoạt động kinh doanh của Ngân hàng mới phát triển tốt được”. Khi mở rộng mạng lưới hoạt động mà không hội đủ các điều kiện, không đem lại hiệu quả kinh doanh và hiệu quả kinh tế xã hội thì hoàn toàn không nên. Ở những nơi mà Ngân hàng chưa mở được Chi nhánh, cần có sự kết hợp chặt chẽ với cấp uỷ, chính quyền, các đoàn thể xã hội ở địa phương để xây dựng các tổ nhóm tương hỗ vay vốn Ngân hàng.
Đối với Chi nhánh mới thành lập môi trường và địa bàn kinh doanh gặp khó khăn. Việc thực hiện cơ chế khoán tài chính, các Ngân hàng cơ sở cần có sự điều tiết về thu nhập cho cán bộ được giao phụ trách ở địa bàn này, tuỳ từng trường hợp có thể ưu tiên một phần tiền lương, nhằm tạo điều kiện giúp đỡ các đơn vị này, khó khăn từng bước đi lên. Tránh sự cát cứ cục bộ theo từng địa bàn, tránh hiện tượng mục đích đảm bảo thu nhập cho cán bộ mà cho vay bừa, cho vay Èu và các hiện tượng tiêu cực khác, gây nên hậu quả xấu không có lợi cho sự nghiệp kinh doanhh của Chi nhánh. Ở những Chi nhánh cơ sở điều kiện kinh doanh không đảm bảo, khó có khả năng khắc phục khó khăn, nơi đó cần rà soát lại, nếu còn cơ hội phát triển thì để lại tiếp tục tìm biện pháp tháo gỡ, nếu không có phương án tháo gỡ thì sát nhập hoặc giải thể, tạo nên môi trường kinh doanh lành mạnh, đảm bảo chất lượng hiệu quả.
Chi nhánh cần bổ sung cơ chế khoán tài chính, không nên phân phối tiền lương chỉ căn cứ vào kết quả tài chính làm ra, mà cần gắn với mức độ hoàn thành các chỉ tiêu kinh doanh chủ yếu. Đặc biệt là các chỉ tiêu về chất lượng tín dụng nh thu nợ quá hạn, khống chế tỷ lệ nợ quá hạn...có chính sách khen thưởng kịp thời thoả đáng đối với tập thể cá nhân có chất lượng tín dụng tốt. Đi liền với chính sách khen thưởng cần có chế tài về hành chính và vật chất đối với đơn vị và cá nhân kinh doanh kém hiệu quả, cho vay nợ đọng, mất vốn, tiêu cực trong thực hiện nhiệm vụ. Có nh vậy mới gắn được trách nhiệm của từng cá nhân trong việc nâng cao chất lượng tín dụng, góp phần mở rộng kinh doanh có hiệu quả.
Thực hiện đa dạng hoá các loại hình dịch vụ Ngân hàng: Các NHTM đang hoạt động kinh doanh trong môi trường cạnh tranh gay gắt. Đa dạng hoá dịch vụ và hướng tới khách hàng là phương hướng quan trọng để nâng cao hiệu quả và khả năng cạnh tranh của các Ngân hàng vì :
- Đa dạng hoá tạo khả năng mở rộng thị trường và khách hàng, tạo khả năng doanh thu và lợi nhuận. Với nhiều loại hình dịch vụ khác nhau, Ngân hàng có thể khai thác đuợc những khoảng trống trên thị trường để tăng thêm thị phần của mình.
- Đa dạng hóa để phân tán rủi ro, đặc biệt là rủi ro tín dụng. Việc kinh doanh nhiều lĩnh vực, đa dạng dịch vụ tạo nên nhiều lợi nhuận, có thể bổ sung cho nhau khi thị trường biến động, giúp Ngân hàng ổn định mức doanh lợi. Tăng tỷ lệ nguồn thu từ các dịch vụ khác sẽ làm giảm sức Ðp là cần phải cho vay thật nhiều để có thu nhập ổn định cho cán bộ, mặc dù điều kiện vay chưa đầy đủ. Từ đó giảm được những khoản tín dụng cấp ra chứa đựng nhiều rủi ro mất vốn có điều kiện nâng cao chất lượng tín dụng.
- Phát triển kinh doanh theo hướng đa dạng hoá là điều kiện quan trọng mở rộng qui mô và mạng lưới Ngân hàng, tận dụng khai thác các tiềm năng của đội ngũ cán bộ nhân viên trong chiến lược phát triển, và điều đó cho phép Ngân hàng mở rộng ảnh hưởng của mình một cách vững chắc. Muốn ổn định thu nhập của Chi nhánh thì việc mở rộng kinh doanh đa năng là hết sức quan trọng. Các loại dịch vụ đang làm củng cố và phát triển, đồng thời mở rộng thêm một số loại hình dịch vụ mới như: Dịch vụ tư vấn, kinh doanh bất động sản... Đáp ứng nhu cầu ngày càng tốt hơn của khách hàng, phù hợp với điều kiện, khả năng của Ngân hàng, hạn chế rủi ro trong kinh doanh.
2.3. Nâng cao chất lượng nghiệp vụ đánh giá khách hàng để có biện pháp đầu tư tín dụng thích hợp:
Khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, song song với việc mở rộng phạm vi và qui mô tín dụng, đối tượng khách hàng cũng ngày càng phong phú hơn, theo đó khả năng thất thoát vốn cũng ngày càng tăng, đe doạ sự tồn tại và phát triển của Ngân hàng. Vì vậy để đảm bảo an toàn vốn trong kinh doanh để sử dụng hiệu quả vốn tín dụng, Ngân hàng cần chọn cho mình những khách hàng tốt trên cơ sở nâng cao chất lượng nghiệp vụ đánh giá khách hàng.
Chất lượng nghiệp vụ đánh giá khách hàng thể hiện ở khả năng phân tích nhận định tình hình khách hàng trước, trong và sau khi cho vay, nó có mối quan hệ chặt chẽ với chất lượng tín dụng. Đánh giá tình hình khách hàng càng chính xác, chất lượng tín dụng càng cao, bởi thông qua đánh giá Ngân hàng sẽ phân loại được khách hàng, từng bước thanh lọc những kháchh hàng yếu kém, thu hút và tập trung đầu tư cho những khách hàng hoạt động sản xuất kinh doanh tốt, có hiệu quả. Hạn chế đến mức tối đa rủi ro thất thoát vốn.
Đánh giá khách hàng từ đó phân loại khách hàng để có biện pháp tín dụng thích hợp có rất nhiều chỉ tiêu xem xét. Cần xem xét những khía cạnh sau:
* Đối với các DNNN
Doanh nghiệp xếp loại A:
Là doanh nghiệp có hoạt động sản xuất kinh doanh ổn định liên tục rõ ràng, thực hiện tốt nghĩa vụ với Ngân sách Nhà nước, quan hệ thanh toán với Ngân hàng, bạn hàng sòng phẳng, có tín nhiệm, không có nợ quá hạn và lãi treo, có hệ số bảo toàn vốn >1 (DN không những bảo toàn mà còn tăng vốn).
Số vốn DN có thực tế
Hệ số = -----------------------------------
bảo toàn vốn Số vốn DN phải bảo toàn
tại thời điểm xác định
Chênh lệch chỉ số
Số vốn phải Số vốn giá cả đầu kì với chỉ
bảo toàn tại thời = phải bảo toàn x số giá cả tại thời + 1
điểm xác định đầu kỳ điểm xác định
Đối với những Doanh nghiệp xếp loại A này, ngoài việc cho vay trên cơ sở vốn tự có tài sản thế chấp, nếu doanh nghiệp có phương án sản xuất kinh doanh có hiệu quả, Ngân hàng có thể cho vay bổ sung thêm trong mức độ cần thiết, hợp lý.
Doanh nghiệp xếp loại B:
Là doanh nghiệp sản xuất kinh doanh không ổn định kết quả tài chính bình thường, lãi thấp, quan hệ thanh toán Ngân hàng, bạn hàng, và Ngân sách chưa có uy tín cao, mặc dù vẫn bảo toàn vốn (hệ số bảo toàn vốn = 1). Đối với Doanh nghiệp này Ngân hàng chỉ nên cho vay theo cơ sở giá trị tài sản thế chấp và vốn tự có.
Doanh nghiệp xếp loại C:
Là doanh nghiệp sản xuất kinh doanh không ổn định, kết quả tài chính thua lỗ, không có biện pháp khắc phục, quan hệ thanh toán không sòng phẳng, có phát sinh nợ quá hạn, lãi treo, hệ số bảo toàn vốn <1 (Doanh nghiệp mất dần vốn). Đối với những doanh nghiệp này, Ngân hàng không cho vay vốn, kể cả đơn vị có tài sản thế chấp, nếu còn dư nợ Ngân hàng cần tìm mọi biện pháp khẩn trương thu hồi vốn về.
* Đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh :
Ngân hàng cần phải tìm hiểu kỹ tư cách khách hàng, khả năng quản lý, năng lực sản xuất kinh doanh, tình hình công nợ, hiệu quả sản xuất kinh doanh..., nếu có biểu hiện tốt Ngân hàng mới đầu tư vốn sau này. Khi cho vay vốn khách hàng phải có tài sản thế chấp, cầm cố bảo lãnh, đầy đủ hợp pháp. Đây là điều kiện quan trọng để đảm bảo việc hoàn trả nợ đầy đủ cả gốc và lãi cho Ngân hàng, mặc dù các tài khoản tín dụng được cung cấp ra không phải để sau này phải bán các tài sản thế chấp, cầm cố, thu nợ.
2.4. Thiết lập mối quan hệ tốt và lâu bền với khách hàng :
Trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng, khách hàng vừa là người cung cấp nguồn vốn cho hoạt động tín dụng, đồng thời cũng là người sử dụng nguồn vốn này, nên khách hàng có ý nghĩa rất quan trọng. Thiết lập mối quan hệ tốt và lâu bền với khách hàng, các Ngân hàng sẽ có đối sách thích hợp để có thể đứng vững trong môi trường cạnh tranh.
Thiết lập mối quan hệ tốt và lâu bền với khách hàng sẽ giúp ngân hàng
- Đánh giá đúng chất lượng khách hàng, tiết kiệm được chi phí thẩm định và kiểm tra giám sát. Thông qua việc quan hệ tín dụng một cách thường xuyên, Ngân hàng có thể nắm bắt được những thông tin về hoạt động kinh doanh của khách hàng. Căn cứ vào số dư trên tài khoản của họ, Ngân hàng sẽ biết được khả năng tiềm tàng và chu kỳ sử dụng vốn, tiền mặt cũng như quan hệ khách hàng với các khách hàng khác trong việc mua nguyên liệu, tiêu thụ sản phẩm... Đây là cách tốt nhất để thu nhập các thông tin về khách hàng và là cơ sở để Ngân hàng tiết kiệm được chi phí cho việc thẩm định, sàng lọc thông tin, tránh được rủi ro về đạo đức, kế hoạch hoá được nguồn cũng như các chi phí giám sát khách hàng khi đã có sẵn phương thức giám sát khách hàng.
- Thu hút vốn để củng cố đầu vào mở rộng đầu ra theo đúng yêu cầu của khách hàng. Thông qua mối quan hệ lâu bền với khách hàng, Ngân hàng có thể huy động được một khối lượng nguồn vốn từ tiền gửi của khách hàng. Sự am hiểu của khách hàng sẽ làm cho Ngân hàng hiểu rõ nhu cầu của khách hàng về loại tín dụng, khối lượng tín dụng, giá cả cho vay để có kế hoạch bố trí nguồn vốn kịp thời, đáp ứng nhu cầu vốn tín dụng của khách hàng. Do tiết kiệm được chi phí trong thẩm định, kiểm tra giám sát khách hàng nên Ngân hàng sẽ có điều kiện để hạ lãi suất cho vay, điều đó sẽ cuốn hút được khách hàng, làm cho khách hàng, gắn bó hơn với Ngân hàng. Mối quan hệ không những ngày càng củng cố đối với khách hàng hiện tại mà cả đối với khách hàng tiềm năng, và nhờ đó khách hàng sẽ càng có cơ hội để nâng cao được chất lượng tín dụng.
- Đề ra chính sách chiến lược, kế hoạch tác nghiệp trong từng thời kỳ và xu hướng phát triển hoạt động Ngân hàng trong tương lai để không ngừng thích nghi với sự biến động của thị trường, tìm kiếm cơ hội không ngừng nâng cao chất lượng tín dụng và hiệu quả kinh doanh của Ngân hàng.
- Có điều kiện giảm thiểu rủi ro trong hoạt động tín dụng nhất là rủi ro về đạo đức để vươn tới sự hoàn thiện về chất lượng tín dụng, nhằm tạo dựng được hình ảnh, biểu tượng tốt của Ngân hàng trên thị trường.
Để thiết lập được mối quan hệ tốt lâu bền với khách hàng, Ngân hàng phải có kế hoạch củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động, đề cao uy tín của Ngân hàng trên thị trường, thông qua việc cải thiện và mở rộng thêm nhiều hình thức phục vụ, đổi mới tác phong kinh doanh, thu hút thêm nhiều khách hàng đối với Ngân hàng như những người bạn tin cậy.
2.5. Tăng cường công tác quản lý nợ và giải quyết nợ quá hạn :
Đây là một biện pháp có ảnh hưởng trực tiếp, quyết định đến thực hiện chu trình khép kín của khoản tín dụng, đây là vấn đề sống còn của Ngân hàng. Trong bối cảnh hiện nay, Chi nhánh Ngân hàng Navibank Hà Nội cần chủ động thực hiện tốt vấn đề này.
Để tăng cường công tác quản lý nợ ngân hàng cần phải :
- Chấp hành nghiêm túc các quy định hiện hành về hoạt động tín dụng, phát hiện và kiến nghị kịp thời những điều bất hợp lý không phù hợp với Ngân hàng để có biện pháp khắc phục kịp thời. Yêu cầu các Chi nhánh cơ sở phải thực hiện tốt các điều khoản qui định trong chế độ, thể lệ tín dụng về qui trình, thủ tục xét duyệt cho vay, quản lý hồ sơ vốn, theo dõi tình hình sử dụng vốn vay của khách hàng, mỗi khi đưa ra quyết định tín dụng phải có sự cân nhắc kỹ lưỡng, không được xem xét một cách hời hợt và phê duyệt dễ dàng, phải đặt nó trong mối quan hệ tác động qua lại giữa các nhân tố: pháp luật, chủ trương chính sách, qui trình cho vay, quan trọng nhất là phải biết rõ khách hàng của mình là người như thế nào ? Họ muốn gì ?... Và từ đó căn cứ vào quy trình nghiệp vụ, thể lệ, chế độ và kinh nghiệm để xử lý cho có hiệu quả. Ngân hàng kiên quyết không cho vay các dự án không có tính khả thi, kém hiệu quả kinh tế, mặc dù khách hàng có đầy đủ các tài khoản thế chấp, vì mục đích cho vay không đơn thuần chỉ là thu nợ mà là giúp khách hàng có vốn để duy trì hoặc mở rộng qui mô sản xuất kinh doanh, đem lại hiệu quả kinh tế cho khách hàng, cho xã hội và chính bản thân Ngân hàng. Một khi đã phải mang tài sản thế chấp ra phát mại để thu hồi nợ, thì sản xuất kinh doanh còng thua lỗ rồi, vốn mất rồi, quan hệ giữa Ngân hàng và khách hàng chấm dứt, uy tín của Ngân hàng bị giảm sút (chưa nói khó khăn phức tạp khi xử lý tài sản thế chấp). Tuy nhiên cũng cần nói thêm rằng đối với những khách hàng có dự án khả thi xin vay vốn thuộc đối tượng phải thế chấp tài sản làm đảm bảo, các Chi nhánh vẫn phải nghiêm túc thực hiện nhằm hạn chế rủi ro trong kinh doanh.
- Thực hiện việc kiểm soát chặt chẽ các khoản tín dụng phát hiện và ngăn chặn kịp thời các hành vi của khách hàng làm ảnh hưởng tới mức độ an toàn của các khoản tiền đã cho vay như lừa đảo, một tài sản vay vốn nhiều Ngân hàng, vay của Ngân hàng này trả cho Ngân hàng khác...
Nhất thiết phải tổ chức duyệt cho vay theo hướng “chạc 3”. Trong đó gồm có cán bộ tín dụng, là người đề nghị, một lãnh đạo phòng tín dụng là người tái thẩm định và kiểm soát, một lãnh đạo Ngân hàng là người duyệt cho vay. Một khoản tín dụng phát ra phải có 3 chữ ký của 3 thành phần độc lập, và phải qui định rõ trách nhiệm của từng cán bộ tham gia cấp tín dụng. Thực hiện tốt qui định có tác dụng tăng cường trách nhiệm của các bộ phận độc lập trong việc phối hợp với nhau để xét duyệt cho vay, nhờ đó có thể quản lý tốt các khoản tín dụng ngay từ khâu đầu, tăng cường tính hợp tác phối hợp giữa các bộ phận, đơn vị trong Ngân hàng. Điều này có ý nghĩa hơn, khi các hoạt động tín dụng càng trở nên phức tạp với qui mô ngày càng lớn.
- Tổ chức đánh giá phân loại các khoản nợ để lượng định rủi ro trong quá trình cho vay. Việc đánh giá phân loại này được tiến hành ngay từ khi quyết định cho vay, bởi thông qua quyết định đánh giá, phân loại Ngân hàng mới có thể lượng định được rủi ro để đi đến quyết định mở rộng hay thu hẹp một loại tín dụng nào đó, đồng thời để có biện pháp theo dõi, quản lý phù hợp với từng khoản nợ. Quá trình đánh giá, phân loại nợ như sau:
+ Đánh giá các khoản khi quyết định cho vay, do bị chi phối bởi các qui định trong chế độ, thể lệ tín dụng nên khi quyết định cho vay, các trường hợp chỉ rơi vào một trong hai trường hợp xếp loại, đó là nợ đủ tiêu chuẩn hay nợ cần chú ý.
Nợ đủ tiêu chuẩn thường được áp dụng với khách hàng có đủ điều kiện vay vốn theo qui định hiện hành, thể hiện là tình hình tài chính tốt, có uy tín và khả năng chiếm lĩnh thị trường, có tài sản thế chấp hay có người bảo lãnh theo qui định của chế độ.
Nợ cần chú ý là những khoản nợ còn lại, tuy chưa đủ tiêu chuẩn vay vốn, nhưng ở mặt này hay mặt khác Ngân hàng còn băn khoăn do chưa có đủ cơ sở tin cậy để kết luận chính xác.
+ Đánh giá các khoản nợ trong quá trình theo dõi việc sử dụng tiền vay và trả nợ khách hàng : sau khi phát tiền vay, các Ngân hàng phải thường xuyên bám sát, kiểm tra việc sử dụng vốn và đôn đốc khách hàng trả nợ đúng hạn. Căn cứ vào tình hình tài chính của khách hàng, thấy những khoản nợ có biểu hiện khác thường, nhưng chưa có dấu hiệu tổn thất thì vẫn được theo dõi ở khoản Nợ cần chú ý, để có biện pháp tích cực tìm nguyên nhân sửa chữa những sai lầm đó để có thể thu nợ đúng hạn. Đối với những khoản nợ có khả năng tổn thất cần được phân loại tùy theo mức độ tổn thất dự tính có thể xảy ra. Với cách phân loại, đánh giá nh trên sẽ có tác dụng:
Phản ánh một cách đầy đủ, tình hình hoạt động tín dụng của Chi nhánh giúp cho việc kiểm tra, giám sát hoạt động tín dụng được dễ dàng, thuận tiện, giúp cho các cấp lãnh đạo nắm bắt tình hình kịp thời từ đó có biện pháp chỉ đạo có hiệu quả hoạt động tín dụng.
Là căn cứ để định lượng rủi ro tín dụng, để có biện pháp chỉ đạo phù hợp nhằm giảm tối thiểu rủi ro mất vốn trong hoạt động kinh doanh.
Từ việc định lượng rủi ro tín dụng, trên cơ sở đó xây dựng quỹ dự phòng rủi ro tín dụng, bù đắp được các tổn thất do khách hàng không trả được nợ.
Để giải quyết nợ quá hạn, chi nhánh cần tiến hành các biện pháp:
- Trước hết các Chi nhánh cần có biện pháp hữu hiệu để ngăn chặn nợ quá hạn mới tiếp tục phát sinh như chấn chỉnh lại các thiếu sót ở các khâu trong quá trình cho vay, thiết lập bổ sung đầy đủ các hồ sơ pháp lý, hạn chế đến mức tối đa những kẽ hở trong khâu nghiệp vụ để đề phòng lừa đảo, chiếm đoạt vốn Ngân hàng.
- Tổ chức kiểm tra sử dụng vốn chi tiết đến từng khách hàng, từng món vay kết hợp với đánh giá, phân loại nợ cụ thể. Đặc biệt qua đó phân tích chính xác những nguyên nhân dẫn đến không thu hồi được nợ quá hạn. Chi nhánh cần có biện pháp giao chỉ tiêu thu nợ quá hạn, khống chế tỷ lệ nợ quá hạn đến từng chi nhánh cơ sở, coi đó là một trong những tiêu thức để phân phối tiền lương, quĩ khen thưởng. Căn cứ vào chỉ tiêu được giao từng chi nhánh cơ sở phải xây dựng được phương án thu nợ quá hạn cho từng thời kỳ, giao chỉ tiêu, quyết toán chỉ tiêu này đến từng cán bộ tín dụng, có cơ chế khen thưởng kịp thời cho những cán bộ hoàn thành tốt nhiệm vụ, xử lý nghiêm khắc những cán bộ thiếu tinh thần trách nhiệm gây thất thoát vốn.
- Những trường hợp khách hàng cố tình dây dưa, chây ỳ để nợ quá hạn kéo dài, các Ngân hàng cần sử dụng những biện pháp cứng rắn kết hợp với sự hỗ trợ của chính quyền địa phương, các cơ quan chức năng để phát mại tài sản thế chấp, khởi kiện, cưỡng chế để thu hồi nợ. Làm cương quyết, dứt điểm từng trường hợp tránh sự lan truyền trong việc chây ỳ không trả nợ Ngân hàng trong các địa phương.
Tăng cường có hiệu lực công tác kiểm tra kiểm soát. Để thực hiện tốt giải pháp này, chi nhánh cần thực hiện tốt:
- Giám sát khách hàng vay, theo dõi rủi ro có thể xảy ra bằng các hình thức khác nhau:
+ Kiểm tra định kỳ dựa trên cơ sở các báo cáo tài chính của doanh nghiệp.
+ Kiểm tra thường xuyên đánh giá tài sản thế chấp theo giá trị, hiện vật ở thời điểm hiện tại.
+ Theo dõi tình hình chung của ngành, mà trong đó doanh nghiệp vay hoạt động.
+ Kiểm tra thông qua các thông tin thu nhập được từ các nguồn khác.
Thông qua giám sát phải đạt được các mục tiêu :
Đối với khách hàng : Thường xuyên nắm tình hình tài chính và sự biến động trong các khâu của quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, nắm vững chu kỳ sản xuất để có kế hoạch giúp doanh nghiệp về vốn trong quá trình kinh doanh và thu nợ kịp thời. Ngoài ra cũng cần chú ý tới những thông tin khác có liên quan để dự báo khả năng trả nợ của doanh nghiệp. Đề ra biện pháp xử lý nợ kịp thời khi mét doanh nghiệp có biểu hiện xấu, làm giảm khả năng thu nợ của Ngân hàng.
Đối với ngân hàng : Xem xét tình hình tuân thủ chính sách, thủ tục cho vay, những nhược điểm trong quy trình tín dụng, năng lực cán bộ trong việc thực hiện nghiệp vụ tín dụng, định giá tài sản thế chấp, sự bảo đảm của hồ sơ tín dụng, thực trạng của Ngân hàng thông qua việc xếp loại tín dụng. Phát hiện những sai phạm để chấn chỉnh kịp thời, chống tiêu cực ngay trong cán bộ Ngân hàng.
Qua kiểm tra, giám sát, các khoản nợ có vấn đề cũng nh kết quả kiểm tra nợ cầm cố thông báo kịp thời cho các cấp lãnh đạo để có biện pháp xử lý thích hợp, hạn chế tổn thất.
- Tăng cường hiệu lực của bộ máy kiểm tra, kiểm soát :
Ngoài công tác giám sát do cán bộ tín dụng tiến hành, đòi hỏi các Ngân hàng phải tăng cường tổ chức kiểm tra, kiểm soát nội bộ Ngân hàng. Nhiệm vụ của tổ chức này là thường xuyên kiểm tra, kiểm soát việc thực hiện thể lệ chế độ, qui trình tín dụng tìm ra những sai sót, vướng mắc vi phạm trong các khâu nghiệp vụ. Trên cơ sở có thể đề ra biện pháp khắc phục có hiệu quả để củng cố chất lượng tín dụng, ngăn ngừa rủi ro.
2.6. Từng bước qui chuẩn đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ :
Không thể đạt được sự tiến bộ thực sự về chất lượng tín dụng nếu không có sự hợp tác và cam kết đầy đủ của toàn bộ tập thể, cán bộ nhân viên có đạo đức nghề nghiệp, có trình độ nghiệp vụ nhận thức xã hội, hiểu biết pháp luật tốt. Muốn có chất lượng tín dụng tốt, đáp ứng yêu cầu hoạt động kinh doanh của Ngân hàng trong tình hình mới, Ngân hàng chỉ nên đưa những cán bộ có đủ tiêu chuẩn vào làm nghiệp vụ tín dụng. Do đó cần phải có định hướng tiêu chuẩn hoá cán bộ tín dụng. Ngoài vấn đề phẩm chất, đạo đức nghề nghiệp đòi hỏi cán bộ tín dụng cần có những kỹ năng sau:
+ Kỹ năng bán hàng: Đòi hỏi cán bộ tín dụng phải có những kỹ năng nhất định về Maketing để thu hút khách hàng, nắm vững nghiệp vụ tín dụng để cho vay được nhiều với chất lượng tốt.
+ Kỹ năng tìm hiểu điều tra: Kỹ năng này yêu cầu cán bộ tín dụng biết cách thu nhập và khai thác thông tin có Ých cho Ngân hàng, từ khách hàng và các nguồn khác, để phục vụ cho hoạt động nghiệp vụ của mình.
+ Kỹ năng phân tích: Đòi hỏi cán bộ tín dụng phải biết nhận định đánh giá tình hình có cơ sở khoa học từ đó rót ra kinh nghiệm tìm biện pháp tốt hơn để không ngừng củng cố nâng cao chất lượng tín dụng.
+ Kỹ năng viết: Đòi hỏi cán bộ tín dụng phải có khả năng nêu bật được điểm mạnh, điểm yếu của khách hàng, chỉ ra được những rủi ro, nguy hiểm gặp phải khi đặt quan hệ tín dụng dưới hình thức văn bản có tính thuyết phục để trình lên xin ý kiến chỉ đạo của các cấp lãnh đạo.
+ Kỹ năng đàm phán với khách hàng: Đòi hỏi cán bộ tín dụng phải biết thương lượng với khách hàng, về các vấn đề có liên quan tới việc tuân thủ các điều khoản đã qui định trong chế độ, thể lệ cho vay, để khoản vay được tiến hành trong điều kiện tốt nhất.
Trên cơ sở những yêu cầu, đòi hỏi trên Ngân hàng cần rà soát lại đội ngũ cán bộ hiện có: Có kế hoạch và đào tạo lại, bổ sung những mặt còn thiếu, còn yếu nhằm nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, khắc phục tình trạng bất cập về trình độ kỹ thuật nghiệp vụ của cán bộ tín dụng, nhất là số cán bộ sắp xếp lại tổ chức, đang làm nghiệp vụ kế toán, ngân quĩ, chuyển sang làm tín dụng. Tuỳ theo điều kiện cụ thể mà lựa chọn hình thức đào tạo hợp lý và lựa chọn kiến thức cần đào tạo.
Bên cạnh kiến thức về chuyên môn nghiệp vụ, các cán bộ tín dụng còn phải thường xuyên trang bị thêm hiểu biết về pháp luật, thị trường, các lĩnh vực về kinh tế tài chính, về tin học và ngoại ngữ. Đồng thời chú trọng công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ tín dụng, làm cho họ thấy được vai trò, vị trí và trách nhiệm lớn lao của mình, trong sự nghiệp kinh doanh của ngành, để ngày càng có sự nỗ lực hơn trong công tác. Cơ chế hợp lý khen thưởng những cán bộ làm tốt và có biện pháp xử lý kỷ luật kịp thời những cán bộ vi phạm, thiếu trách nhiệm, phòng chống rủi ro đạo đức trong hoạt động tín dụng.
3. một số kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng tín dụng tại NAVIBANK chi nhánh hà nội.
3.1. Đối với chính phủ :
Một là : Vấn đề thế chấp cầm cố tài sản
- Đề nghị Chính phủ sớm ban hành Nghị định qui định chi tiết thi hành luật DNNN, trong đó có việc quy định danh mục các tài sản mà doanh nghiệp được quyền thế chấp, cầm cố, và tài sản mà doanh nghiệp phải được phép của cơ quan quản lý cho thế chấp, cầm cố. Quy định rõ việc xử lý tài sản thế chấp của DNNN. Nghiên cứu quy định khi giao vốn, thì đồng thời phải cấp giấy tờ về quyền quản lý tài sản cho DNNN để làm cơ sở cho việc quản lý và dùng thế chấp để cầm cố.
- Đề nghị Chính phủ sửa đổi nghị định 18/CP về quy định chi tiết thi hành pháp lệnh về quyền và nghĩa vụ của các tổ chức trong nước được giao đất, thuê đất được thế chấp tài sản trên đất cùng với thế chấp quyền sử dụng đất được giao hoặc được thuê, để phản ánh đúng giá trị thực của tài sản, cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho phát mại tài sản thế chấp, khi người vay không trả được nợ, tránh bế tắc cho hoạt động tín dụng Ngân hàng.
- Đề nghị Chính phủ ban hành nghị định về đấu giá tài sản, nh quy định cụ thể về trình tự, thủ tục, thời hạn bán đấu giá tài sản thế chấp. Xác định và thể chế hoá quá trình kiện tụng cho việc xét xử và tịch thu tài sản thế chấp, cầm cố đảm bảo cho Ngân hàng có thể thu được nợ tới mức cao nhất trên cơ sở giải chấp các tài sản nhận thế chấp, cầm cố.
Hai là: Tăng cường sự quản lý nhà nước đối với Doanh nghiệp quốc doanh.
- Nhà nước đảm bảo cung cấp đủ vốn cho các DNQD, cần có biện pháp giải quyết những doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, yếu kém kéo dài, để tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh giữa doanh nghiệp quốc doanh và doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Đối với những doanh nghiệp có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế bị lỗ, cần có cơ chế cấp bù lỗ kịp thời để đảm bảo cho các doanh nghiệp này có đủ vốn để hoạt động.
- Các cấp cần tiến hành và rà soát lại các doanh nghiệp đã được thành lập để cân đối giữa vốn và ngành nghề kinh doanh, đảm bảo nhiệm vụ kinh doanh phù hợp với thực lực của doanh nghiệp trên các mặt : Vốn, công nghệ mới, đảm bảo tính đồng bộ từ khâu sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm, tạo điều kiện cho hoạt động tín dụng đạt hiệu quả cao.
- Cần có biện pháp kinh tế buộc các doanh nghiệp phải chấp hành đúng pháp lệnh kế toán thống kê, thực hiện tốt công tác duyệt quyết toán và kiểm tra theo chế độ qui định để đảm bảo tính pháp lý và nguồn số liệu cung cấp.
- Đề nghị Chính phủ, các ngành pháp luật và chính quyền địa phương có biện pháp ngăn chặn để xoá bỏ các tổ chức cá nhân kinh doanh tiền tệ, tín dụng trái phép dưới mọi hình thức. Mọi tổ chức và cá nhân chỉ được vay vốn và được huy động vốn từ các tổ chức tín dụng chính thức. Mọi hình thức vay vốn và huy động vốn từ các tổ chức cá nhân không được Nhà nước cấp giấy phép đều vi phạm pháp luật, cần được xử lý nghiêm minh như các hành vi buôn lậu và kinh doanh trái phép.
3.2. Đối với NHNN
Hiện nay, các Ngân hàng đã chuyển sang hoạch toán kinh doanh, tín dụng Ngân hàng không còn tình trạng bao cấp, nguyên tắc tín dụng trong nền kinh tế thị trường cần phải có một nội dung mới. Đó là phải đáp ứng yêu cầu hoạch toán kinh doanh của Ngân hàng và phải tôn trọng quyền tự chủ tài chính của khách hàng trong việc sử dụng vốn vay đúng mục đích, linh hoạt, chủ động và phù hợp với cơ chế thị trường. Nghiên cứu các thể lệ tín dụng của NHNN ban hành trong thời gian gần đây chưa đáp ứng được yêu cầu trên. Đề nghị NHNN nghiên cứu làm rõ các nguyên tắc tín dụng trong cơ chế thị trường ở nước ta hiện nay. Từ nguyên tắc này mà cụ thể hoá trong nghiệp vụ sử dụng vốn vay của khách hàng sao cho vừa bảo đảm tính hiệu quả trong việc sử dụng vốn vay của khách hàng vừa bảo đảm hoạch toán kinh doanh của Ngân hàng.
NHNN cần rà soát các văn bản chồng chéo, thiếu đồng bộ, không còn phù hợp với thực tế để hệ thống các văn bản của ngành mang tính pháp lý cao chứ không đơn thuần là hướng dẫn nghiệp vụ. Nâng cao hiệu lực Thanh tra và quản lý của NHNN trong việc khắc phục những khuyết điểm , xử lý kiên quyết những sai phạm đã được phát hiện và chủ động có giải pháp đồng bộ với các ngành có liên quan.
3.3. Đối với Navibank
- Hiện nay các hình thức huy động vốn của Navibank còn chưa đa dạng chỉ gồm: hình thức tiền gửi vãng lai có và không có kỳ hạn của các doanh nghiệp, cá nhân và các hình thức huy động tiết kiệm các loại kỳ hạn. Trong những năm tiếp theo Ngân hàng nên nghiên cứu và triển khai các biện pháp kích thích cũng nh là thực hiện các hình thức huy động mới nh: phát hành kỳ phiếu, phát hành chứng chỉ tiền gửi.
- Trong điều kiện vốn tự có của mình còn yếu, một số NHTM cổ phần ở Việt Nam trong đó có Navibank chưa giám áp dụng nhiều loại cho vay trung và dài hạn vì mức độ rủi ro của cho vay trung và dài hạn là rất cao. Vì vậy, chính sách tín dụng của Chi nhánh Navibank trong giai đoạn tới nên chăng vẫn tập trung cho vay ngắn hạn sao cho có chất lượng cao nhất, bên cạnh đó đào sâu nghiên cứu cho vay trung và dài hạn đối với những dự án thực sự có hiệu quả. Điều này đòi hỏi trình độ thẩm định, kiểm soát của cán bộ tín dụng phải được nâng lên một cách đáng kể.
- Hơn nữa, thực tế cho thấy các DNNN vay vốn của Navibank là rất lành mạnh. Ngân hàng nên mở rộng doanh sè cho vay đối với thành phần này. Ngân hàng cũng nên có chính sách ưu đãi về lãi suất hoặc có thưởng với những khách hàng truyền thống và có những món vay lành mạnh.
- Về tài sản thế chấp Chi nhánh Navibank cần phải:
+ Thực hiện công chứng đầy đủ các hợp đồng cầm cố thế chấp.
+ Đối với tài sản là hàng hoá, Ngân hàng phải thường xuyên kiểm kê hàng hoá tránh việc khách hàng tự ý di chuyển hàng hoá.
+ Cần cẩn trọng và lưu tâm trong công tác định giá TSTC, phải có sự phân tích thị trường mua bán tài sản đó và xu hướng của nó trong tương lai. Cần định giá lại TSTC thường xuyên trong quá trình cho vay.
- Tuy đã có nhiều cố gắng nhưng việc quản lý các khoản tín dụng đang lưu hành còn hạn chế nên Navibank còn mắc phải rủi ro đạo đức từ phía khách hàng rất nhiều. Ngân hàng cần tăng cường kiểm tra, giám sát việc sử dụng vốn của khách hàng, nghiên cứu kỹ tình hình thu chi tiền mặt tại đơn vị đó qua Ngân hàng vừa tạo điều kiện giúp khách hàng thiếu vốn được vay sử dụng có hiệu quả, đồng thời mở rộng hoạt động tín dụng của mình trên cơ sở lợi nhuận và an toàn cao trong khi cho vay. Ban kiểm soát cần giám sát chặt chẽ hơn với những nguồn trả nợ chính của khách hàng. Ban kiểm soát cần tích cực xuống đơn vị hơn nhằm phát hiện kịp thời các rủi ro tiềm tàng có thể mà bước đầu cán bộ tín dụng chưa thẩm định được.
Mặc dù Navibank rất quan tâm đến việc tuyển lựa và đào tạo cán bộ đặc biệt là cán bộ tín dụng. Song điều bất cập xảy ra là các cán bộ của chi nhánh đa số các cán bộ trẻ được đào tạo cơ bản nhanh nhạy với cơ chế thị trường có ngoại ngữ, tin học nhưng lại thiếu thực tế, chưa được thử thách tôi luyện do vậy việc đưa ra các quyết định tín dụng vẫn còn nhiều sai sót.
- Bên cạnh đó Ngân hàng cần phải xác định vai trò trách nhiệm, vị trí của đội ngũ cán bộ tín dụng thật đúng mức và không quên đảm bảo quyền lợi tương xứng cho họ. Điều này chắc chắn sẽ hạn chế được các rủi ro không đáng có do ý thức chủ quan của cán bộ Ngân hàng gây ra.
KẾT LUẬN
Ngân hàng có chức năng huy động mọi nguồn vốn trong nền kinh tế để cho vay nên đó là công cụ tích tụ và tập trung vốn để hỗ trợ các doanh nghiệp trong quá trình sản xuất kinh doanh, thực hiện việc tái sản xuất mở rộng theo chiều rộng và chiều sâu, thực hiện tốt việc tự do di chuyển vốn từ ngành có tỷ suất lợi nhuận thấp sang ngành có tỷ suất lợi nhuận cao. Tín dụng Ngân hàng cũng góp phần hút và đẩy tiền ra lưu thông, chống lạm phát, ổn định tiền tệ giá cả, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp.
Để đáp ứng nhu cầu vốn tín dụng cho các doanh nghiệp, trước hết tín dụng Ngân hàng cần phải có những giải pháp thích hợp để thu hút và mở rộng các hình thức cho vay. Nhằm thúc đẩy nền kinh tế phát triển mạnh mẽ, các Ngân hàng cần mở rộng cho vay trung và dài hạn để các doanh nghiệp từng bước đổi mới thiết bị công nghệ, mở rộng cho vay đối với tất cả các thành phần kinh tế.
Trước tình trạng số dư nợ quá hạn và nợ khó đòi ở các Ngân hàng đang tăng cao, các Ngân hàng cần đề ra các biện pháp để nâng cao chất lượng nghiệp vụ tín dụng, đảm bảo an toàn vốn vay, hạn chế thấp nhất các rủi ro thiệt hại có thể xảy ra. Ngân hàng Navibank Hà Nội cũng luôn nhận thức được điều này nên Ngân hàng đã và đang tìm cách thu hồi nợ quá hạn và nợ khó đòi từ các năm trước tồn tại đồng thời nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ tín dụng, đưa ra các quy định chặt chẽ trong cho vay nhằm hạn chế tối đa rủi ro. Báo cáo, trên cơ sở nghiên cứu, phân tích những nguyên nhân, khả năng có thể dẫn đến rủi ro cho tín dụng Ngân hàng đã đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng Ngân hàng nâng cao hiệu quả kinh doanh. Báo cáo chắc chắn còn có nhiều khiếm khuyết về cả cách diễn đạt cũng như chưa đề cập được hết các vấn đề có liên quan, Em rất mong nhận được các ý kiến đóng góp của các Thầy, Cô giáo, các nhà quản lý, kinh doanh và tất các bạn bè quan tâm tới vấn đề này. Em xin chân thành cảm ơn toàn bộ các cán bộ Ngân hàng Navibank Hà Nội - nơi em thực tập đã tận tình giúp đỡ và hướng dẫn em trong quá trình hoàn thành bản báo cáo này.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- chat_luong_tin_dung_ngan_hang_hien_trang_va_giai_phap_nang_cao_chat_l_.doc