Luận văn Chế định miễn trách nhiệm hình sự trong luật hình sự Việt Nam

Miễn trách nhiệm hình sự là một trong những chế định quan trọng pháp luật hình sự Việt Nam, thể hiện chính sách nhân đạo của Đảng và Nhà nước ta đối với người phạm tội và hành vi do họ thực hiện, đồng thời nhằm động viên, khuyến khích người phạm tội lập công chuộc tội, chứng tỏ khả năng giáo dục, cải tạo tốt để hòa nhập với cộng đồng. Việc quy định trong pháp luật hình sự Việt Nam chế định này thể hiện phương châm đúng đắn của đường lối xử lý về hình sự, - đảm bảo sự kết hợp hài hòa giữa các biện pháp cưỡng chế hình sự nghiêm khắc nhất của Nhà nước với các biện pháp tác động xã hội khác để cải tạo, giáo dục người phạm tội, bằng cách đó hạn chế áp dụng các biện pháp mang tính trấn áp (trừng trị) về mặt hình sự.

pdf138 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 4652 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Chế định miễn trách nhiệm hình sự trong luật hình sự Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
năm 1999, nhà làm luật cần phải bổ sung thêm một số trường hợp miễn trách nhiệm hình sự khác như: miễn trách nhiệm hình sự cho người phạm tội trốn khỏi nơi giam, miễn trách nhiệm hình sự do sự hòa hoãn giữa người bị hại và người phạm tội, miễn trách nhiệm do hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, miễn trách nhiệm hình sự cho người già và đang bị bệnh nặng... Thứ bảy, theo chúng tôi cần bổ sung thêm nội dung "tuy không bị ép buộc" vào điều kiện để miễn trách nhiệm hình sự cho người phạm tội làm môi giới hối lộ. Bởi lẽ, có như vậy mới đảm bảo sự công bằng giữa người có hành vi đưa hối lộ và người có hành vi môi giới hối lộ. Ngoài ra, đoạn 2 khoản 6 Điều 289 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định "Người đưa hối lộ tuy không bị ép buộc nhưng đã chủ động khai báo trước khi bị phát giác, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự..." nhưng khoản 6 Điều 290 thì "Người môi giới hối lộ mà chủ động khai báo trước khi bị phát giác, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự". Cho nên, nếu người làm môi giới hối lộ vì bị ép buộc mới ra khai báo trước khi bị phát giác thì cũng không thể xem xét cho họ được miễn trách nhiệm hình sự được. Hơn nữa, việc người phạm tội làm môi giới hối lộ tuy không bị ép buộc mà chủ động ra khai báo với các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền trước khi bị phát giác mới thể hiện sự ăn năn hối cải, thật thà khai báo và do vậy rõ ràng mới xứng đáng để được hưởng lượng khoan hồng của Nhà nước - có thể được miễn trách nhiệm hình sự. Và tám là, đối với trường hợp miễn trách nhiệm hình sự cho người phạm tội không tố giác tội phạm, cần phải khẳng định rõ "... có hành động can ngăn hoặc hạn chế tới mức thấp nhất tác hại của tội phạm" thì mới có thể được miễn trách nhiệm hình sự. Lý do, cần quy định chặt chẽ nhằm đòi hỏi người phạm tội phải thực sự ăn năn hối cải, phải có những hành động tích cực để hạn chế tới mức thấp nhất những hậu quả (thiệt hại) nguy hiểm cho xã hội. Nếu đã có hành động tích cực can ngăn và trong điều kiện cho phép để hậu quả có thể không xảy ra nhưng hậu quả vẫn xảy ra thì người phạm tội chỉ được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, chứ không thể cho họ được miễn trách nhiệm hình sự. Như vậy, trên cơ sở những nhận xét và kiến nghị này, dưới góc độ nhận thức-khoa học, chúng tôi xin đưa ra mô hình lý luận của các quy phạm về chế định miễn trách nhiệm hình sự như sau: Thứ nhất, cần xây dựng trong Phần chung Bộ luật hình sự năm 1999 một Chương độc lập với tên gọi là "Về miễn trách nhiệm hình sự" với điều luật mới. Cụ thể trong đó bao gồm một điều quy định về khái niệm miễn trách nhiệm hình sự, một điều liệt kê danh mục những trường hợp miễn trách nhiệm hình sự trong Bộ luật hình sự hiện hành và toàn bộ các điều luật đề cập đến tất cả những trường hợp miễn trách nhiệm hình sự đã được điều chỉnh trong Bộ luật hình sự năm 1999 (bao gồm hai loại có tính chất bắt buộc và tùy nghi). Thứ hai, trong các điều luật này đã được sửa đổi, bổ sung về những cụm từ, căn cứ và những điều kiện để áp dụng đối với từng trường hợp miễn trách nhiệm hình sự mà chúng tôi đã kiến nghị. Thứ ba, để phù hợp với yêu cầu của thực tiễn xét xử và phù hợp với pháp luật hình sự các nước, cũng như thể hiện xu hướng nhân đạo hóa hơn nữa của pháp luật hình sự trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân, trong Chương này chúng tôi cũng ghi nhận và đưa ra mô hình lý luận về những trường hợp miễn trách nhiệm hình sự đòi hỏi nhà làm luật nước ta cần ghi nhận bổ sung vào chế định này. Do đó, Chương nói trên sẽ như sau: "Chương___ Miễn trách nhiệm hình sự Điều... Khái niệm miễn trách nhiệm hình sự (mới). 1. Miễn trách nhiệm hình sự là sự hủy bỏ hậu quả pháp lý của việc thực hiện hành vi phạm tội cho người bị coi là có lỗi trong việc thực hiện hành vi ấy, do cơ quan tư pháp hình sự có thẩm quyền áp dụng tùy thuộc vào giai đoạn tố tụng hình sự tương ứng khi người này đáp ứng đầy đủ căn cứ pháp lý và những điều kiện do luật định. 2. Căn cứ vào các tình tiết cụ thể của vụ án, người được miễn trách nhiệm hình sự vẫn có thể phải chịu một hoặc nhiều biện pháp cưỡng chế về tố tụng hình sự, hành chính, dân sự hoặc lao động hay biện pháp kỷ luật. 3. Trong trường hợp cần thiết, người phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự có thể phải chịu sự giám sát, giáo dục của gia đình, cơ quan hoặc tổ chức có thẩm quyền tương ứng. Điều... Những trường hợp miễn trách nhiệm hình sự (mới). 1. Căn cứ vào các tình tiết cụ thể tương ứng được quy định tại các điều từ Điều...... đến Điều....... Bộ luật này, người phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự khi thuộc một trong những trường hợp sau đây. a) Do tự ý nửa chừng chấm dứt tội phạm. b) Do sự chuyển biến của tình hình mà hành vi phạm tội và người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa (hay còn gọi là "do sự chuyển biến của tình hình"). c) Khi do có quyết định đại xá. d) Do hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự. đ) Người phạm tội có các tình tiết quy định tại khoản 3 Điều 80 Bộ luật này. 2. Căn cứ vào các tình tiết cụ thể tương ứng được quy định tại các điều từ Điều...... đến Điều...... Bộ luật này, người phạm tội có thể được miễn trách nhiệm hình sự khi thuộc một trong những trường hợp sau đây. a) Trước khi tội phạm bị phát giác, người phạm tội đã tự thú, khai rõ sự việc, góp phần có hiệu quả vào việc phát hiện và điều tra tội phạm, cố gắng hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả của tội phạm (hay còn gọi là "do sự ăn năn hối cải của người phạm tội"). b) Người chưa thành niên phạm tội ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng, gây thiệt hại không lớn, có nhiều tình tiết giảm nhẹ và được gia đình hoặc cơ quan, tổ chức tương ứng nhận giám sát, giáo dục. c) Do sự hòa hoãn giữa người phạm tội và người bị hại. d) Người phạm tội trốn khỏi nơi giam đã tự thú, khai báo rõ ràng và trong thời gian bỏ trốn không phạm tội mới. đ) Người phạm tội là người già hoặc đang bị bệnh nặng, có nhiều tình tiết giảm nhẹ. e) Người phạm tội có các tình tiết quy định tại khoản 6 Điều 289, khoản 6 Điều 290 và khoản 3 Điều 314 Bộ luật này. Điều... Miễn trách nhiệm hình sự do tự ý nửa chừng chấm dứt tội phạm (Điều 19 Bộ luật hình sự năm 1999) 1. Giữ nguyên như trong Bộ luật hình sự năm 1999. 2. Người tổ chức, người xúi giục hoặc người giúp sức được miễn trách nhiệm hình sự nếu các biện pháp tích cực mà họ áp dụng đã ngăn chặn được việc thực hiện tội phạm đến cùng của người thực hành (mới). Điều... Miễn trách nhiệm hình sự do sự chuyển biến của tình hình (khoản 1 Điều 25 Bộ luật hình sự năm 1999) Khi tiến hành điều tra, truy tố hoặc xét xử do sự chuyển biến của tình hình mà hành vi phạm tội và người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa, thì người phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự (sửa đổi, bổ sung). Điều... Miễn trách nhiệm hình sự do có quyết định đại xá (khoản 3 Điều 25 Bộ luật hình sự năm 1999) Giữ nguyên như trong Bộ luật hình sự năm 1999. Điều... Miễn trách nhiệm hình sự do hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự (mới) Người phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự nếu tính từ ngày tội phạm được thực hiện đã qua một thời hạn nhất định tương ứng với từng loại tội phạm quy định tại Điều 23 Bộ luật này. Điều... Miễn trách nhiệm hình sự cho người phạm tội gián điệp (mới) Người phạm tội gián điệp được quy định tại Điều 80 Bộ luật này nếu đã nhận làm gián điệp, nhưng không thực hiện nhiệm vụ được giao mà tự thú, thành khẩn khai báo với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thì được miễn trách nhiệm hình sự. Điều... Miễn trách nhiệm hình sự do sự ăn năn hối cải của người phạm tội (khoản 2 Điều 25 Bộ luật hình sự năm 1999) Giữ nguyên như trong Bộ luật hình sự năm 1999. Điều... Miễn trách nhiệm hình sự cho người chưa thành niên phạm tội (khoản 2 Điều 69 Bộ luật hình sự năm 1999) Người chưa thành niên phạm tội ít nghiêm trọng hoặc phạm tội nghiêm trọng, gây thiệt hại không lớn, có nhiều tình tiết giảm nhẹ và được gia đình hoặc cơ quan, tổ chức tương ứng nhận giám sát giáo dục, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự (sửa đổi, bổ sung). Điều... Miễn trách nhiệm hình sự cho sự hòa hoãn giữa người phạm tội và người bị hại (mới) Người lần đầu phạm tội ít nghiêm trọng hoặc phạm tội nghiêm trọng, gây thiệt hại không lớn, nhưng nếu người đó đã hòa hoãn được với người bị hại và tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại đã gây ra, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự. Điều... Miễn trách nhiệm hình sự cho người phạm tội trốn khỏi nơi giam (mới) Người phạm tội quy định tại Điều 311 Bộ luật này, nhưng đã tự thú, khai báo rõ sự việc và trong thời gian lẩn trốn không phạm tội mới, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự về tội trốn khỏi nơi giam, giữ hoặc trốn khi đang bị dẫn giải, đang bị xét xử. Điều... Miễn trách nhiệm hình sự cho người phạm tội đưa hối lộ (mới) Người phạm tội đưa hối lộ được quy định tại Điều 289 Bộ luật này tuy không bị ép buộc, nhưng đã chủ động khai báo trước khi bị phát giác thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự và được trả lại một phần hoặc toàn bộ của đã dùng để đưa hối lộ. Điều... Miễn trách nhiệm hình sự cho người phạm tội làm môi giới hối lộ (mới) Người phạm tội làm môi giới hối lộ được quy định tại Điều 290 Bộ luật này, tuy không bị ép buộc nhưng đã chủ động khai báo trước khi bị phát giác, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự. Điều... Miễn trách nhiệm hình sự cho người phạm tội không tố giác tội phạm (mới) Người phạm tội không tố giác một trong các tội phạm được quy định tại Điều 314 Bộ luật này, nhưng đã có hành động can ngăn người phạm tội hoặc hạn chế tới mức thấp nhất tác hại của tội phạm, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự. Điều... Miễn trách nhiệm hình sự cho người phạm tội là người già hoặc đang bị bệnh nặng, có nhiều tình tiết giảm nhẹ (mới) Người phạm tội ít nghiêm trọng hoặc tội nghiêm trọng, nhưng gây thiệt hại không lớn là người già hoặc đang bị bệnh nặng, có nhiều tình tiết giảm nhẹ, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự. * * * Như vậy, lập luận khoa học và luận chứng cho các quy phạm trong mô hình lý luận trên đây về chế định miễn trách nhiệm hình sự trong luật hình sự Việt Nam có thể nhận thấy qua một số điểm sau đây: Thứ nhất, việc ghi nhận các điều luật trong mô hình lý luận trên sẽ góp phần đảm bảo được sự nhận thức và áp dụng thống nhất pháp luật hình sự của các cơ quan và người có thẩm quyền đối với một loạt vấn đề mà cho đến nay chưa được điều chỉnh trong Bộ luật hình sự năm 1999 của nước ta. Đó là: - Đưa ra định nghĩa pháp lý của khái niệm miễn trách nhiệm hình sự là gì và khẳng định bản chất pháp lý chung của chế định này. - Phân định rõ những trường hợp miễn trách nhiệm hình sự bắt buộc và những trường hợp miễn trách nhiệm hình sự tùy nghi (lựa chọn). - Trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn xét xử và đã thể hiện trong văn bản hướng dẫn thống nhất có tính chất chỉ đạo của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao tại Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 05/01/1986 về việc Hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật hình sự đã khẳng định người được miễn trách nhiệm hình sự vẫn có thể phải chịu một hay nhiều biện pháp cưỡng chế về tố tụng hình sự, hành chính, dân sự hoặc lao động hay biện pháp kỷ luật. - Quy định rõ tùy từng trường hợp, nếu thấy cần thiết việc giao người phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự cho gia đình hoặc cơ quan tổ chức tương ứng giám sát, giáo dục, qua đó thể hiện sự kết hợp giữa biện pháp cưỡng chế về hình sự với các biện pháp tác động xã hội khác trong việc giáo dục, cải tạo người phạm tội. - Ghi nhận trường hợp miễn trách nhiệm hình sự do tự ý nửa chừng chấm dứt tội phạm (Điều 19) đối với tất cả các loại người đồng phạm (người thực hành, người tổ chức, người xúi giục và người giúp sức). Đồng thời, thay cụm từ "việc phạm tội" bằng cụm từ "tội phạm" để đảm bảo tính chính xác và phù hợp với thực tiễn áp dụng. - Thay cụm từ "hoặc" bằng cụm từ "và" trong trường hợp miễn trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 25 Bộ luật hình sự năm 1999 - "do sự chuyển biến của tình hình mà người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội hoặc hành vi phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa". Bởi lẽ, có như vậy mới phù hợp với thực tiễn và hơn nữa, dấu hiệu về nhân thân của người phạm tội thường gắn liền với dấu hiệu hành vi phạm tội và ngược lại, hành vi phạm tội phần nào đã phản ánh chính xác về nhân thân của người phạm tội đó. - Bổ sung các trường hợp miễn trách nhiệm hình sự chưa được Bộ luật hình sự năm 1999 hiện hành ghi nhận mà thực tiễn xét xử nước ta đã thừa nhận, áp dụng và một số trường hợp đã được ghi nhận trong các văn bản pháp luật, cũng như để phù hợp với pháp luật hình sự các nước và xu hướng nhân đạo hóa trong pháp luật hình sự Việt Nam. Cụ thể, đó là miễn trách nhiệm hình sự cho người phạm tội trốn khỏi nơi giam, miễn trách nhiệm hình sự do sự hòa hoãn giữa người bị hại và người phạm tội, miễn trách nhiệm do hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, miễn trách nhiệm hình sự cho người phạm tội là người già hoặc đang bị bệnh nặng, có nhiều tình tiết giảm nhẹ... - Sửa đổi câu chữ, thêm bớt cụm từ trong từng trường hợp miễn trách nhiệm hình sự trong Bộ luật hình sự (và trong mô hình lý luận) cho chặt chẽ, chính xác, đầy đủ và phù hợp với thực tiễn áp dụng các quy định này. Thứ hai, các quy định tại mô hình lý luận trên đều thể hiện tính chính xác về mặt khoa học vì dựa trên cơ sở lý luận đúng đắn và các nguyên tắc của luật hình sự (như: dân chủ, công bằng, nhân đạo...) trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân, đồng thời đảm bảo tính nhất quán về mặt logic pháp lý. Bởi lẽ, tên gọi của Chương mới "Về miễn trách nhiệm hình sự" hoàn toàn phản ánh đúng đắn bản chất pháp lý chung, đầy đủ và toàn diện của tất cả những trường hợp miễn trách nhiệm hình sự quy định trong Chương ấy. Bản chất pháp lý này được khẳng định dứt khoát tại điều luật ghi nhận về khái niệm miễn trách nhiệm hình sự. Thứ ba, việc xây dựng một chương độc lập về miễn trách nhiệm hình sự với đầy đủ những trường hợp miễn trách nhiệm hình sự có nội dung chặt chẽ và chính xác sẽ góp phần rất quan trọng giúp cho các cơ quan và người có thẩm quyền trong các cơ quan tiến hành tố tụng (như điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán...) áp dụng các quy định tương ứng này được đúng đắn và chính xác trên thực tế. Ngoài ra, bên cạnh giải pháp hoàn thiện pháp luật hình sự, để các quy định về miễn trách nhiệm hình sự này được áp dụng khả thi trên thực tế, đòi hỏi cần có một số giải pháp khác nâng cao hơn nữa hiệu quả thực thi các quy định này, đồng thời thực hiện mục đích cao hơn là góp phần giáo dục và phòng ngừa chung, đảm bảo tất cả mọi quyết định áp dụng miễn trách nhiệm hình sự đều có căn cứ, hợp pháp và đúng pháp luật, cũng như không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, tránh khả năng tái phạm hoặc vi phạm pháp luật của người phạm tội sau khi được miễn trách nhiệm hình sự. 3.3.2. Giải pháp về sự tham gia của các cơ quan, tổ chức và gia đình người được miễn trách nhiệm hình sự để giám sát, quản lý và giáo dục Trong Bộ luật hình sự năm 1999 hiện hành, nhà làm luật Việt Nam mới chỉ quy định riêng trường hợp miễn trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội (khoản 2 Điều 69) là "giao người phạm tội cho gia đình hoặc cơ quan, tổ chức nơi người đó cư trú, công tác giám sát, giáo dục". Ngoài ra, trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 trước đây cũng đã quy định: "Trong trường hợp được quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 25 Bộ luật hình sự, thì cơ quan Điều tra ra quyết định đình chỉ điều tra vụ án và có thể chuyển giao hồ sơ cho cơ quan Nhà nước có thẩm quyền" (khoản 3 Điều 139)... Như vậy, hiện nay việc chuyển giao người phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự cho gia đình, cơ quan, tổ chức mới chỉ được áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội (khoản 2 Điều 69) là bắt buộc, còn lại chưa áp dụng đối với những trường hợp miễn trách nhiệm hình sự khác trong Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, theo chúng tôi, biện pháp quản lý này nên áp dụng bắt buộc đối với trường hợp miễn trách nhiệm hình sự cho người chưa thành niên và là lựa chọn đối với những trường hợp miễn trách nhiệm hình sự khác. Bởi lẽ, như chúng ta đã biết miễn trách nhiệm hình sự là một biện pháp pháp lý cần sự tham gia rộng rãi của quần chúng nhân dân, của các cơ quan, tổ chức và nhất là gia đình người được miễn trách nhiệm hình sự để giám sát, giáo dục họ. Việc giao cho gia đình, cơ quan hoặc tổ chức tương ứng giám sát và giáo dục người phạm tội nói chung, người phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự nói riêng chính là thể hiện sự vận dụng đúng đắn các biện pháp cưỡng chế của Nhà nước, sức mạnh tổng hợp của các tổ chức quần chúng, cũng như của gia đình và chính quyền địa phương nhằm xóa bỏ những điều kiện, khả năng tiếp tục tái vi phạm hoặc phạm tội, làm cho người phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự chủ động tích cực cải tạo trở thành người lao động lương thiện và có ích cho xã hội. Trong nội dung cải tạo, giáo dục và giám sát người phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự, gia đình hoặc cơ quan, tổ chức cần phải có những biện pháp tích cực tác động làm cho người được miễn trách nhiệm hình sự thấy được hành vi phạm tội của mình trước đó, hậu quả tác hại mà mình đã gây ra cho gia đình và cho xã hội, thấy được chính sách khoan hồng, độ lượng của Đảng và Nhà nước, sự quan tâm của gia đình, cơ quan tổ chức đối với họ, để họ ý thức được trách nhiệm của mình trước gia đình, trước chính quyền địa phương và trước xã hội, quên đi quá khứ sai lầm, phấn đấu lao động và làm việc để trở thành người có ích cho gia đình và cho xã hội. Chính vì vậy, về giải pháp này, chúng tôi đã cụ thể hóa bằng việc ghi nhận nó trong nội dung khoản 3 điều luật đầu tiên về khái niệm miễn trách nhiệm hình sự trong mô hình lý luận của chế định miễn trách nhiệm hình sự. 3.3.3. Giải pháp nâng cao ý thức pháp luật, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của người có thẩm quyền quyết định việc áp dụng miễn trách nhiệm hình sự Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới đã chỉ rõ "Công tác cán bộ của các cơ quan tư pháp chưa đáp ứng được yêu cầu của tình hình hiện nay. Đội ngũ cán bộ tư pháp còn thiếu về số lượng, yếu về trình độ và năng lực nghiệp vụ, một bộ phận tiêu cực, thiếu trách nhiệm, thiếu bản lĩnh, sa sút về phẩm chất đạo đức. Đây là một vấn đề nghiêm trọng, làm ảnh hưởng đến kỷ cương, pháp luật, giảm hiệu lực của bộ máy Nhà nước...". Trong việc áp dụng pháp luật liên quan đến đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án nói chung, đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án do miễn trách nhiệm hình sự nói riêng cho thấy việc các cơ quan và người có thẩm quyền áp dụng chưa đúng pháp luật dẫn đến bỏ lọt tội phạm và người phạm tội một phần do tinh thần trách nhiệm, năng lực trình độ và kinh nghiệm công tác của một số kiểm sát viên, cán bộ nghiệp vụ (nhất là cấp huyện) làm công tác kiểm sát điều tra còn hạn chế, dẫn đến việc nghiên cứu không đầy đủ, đề xuất không chính xác trong việc phê chuẩn các lệnh, quyết định ở một số vụ án không đúng pháp luật. Hơn nữa, cũng phải nói đến một nguyên nhân nữa là do lãnh đạo Viện kiểm sát, các đơn vị nghiệp vụ có nơi chưa quan tâm nhiều đến các thông tin, chứng cứ, tài liệu dẫn đến quyết định đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án trái pháp luật... [80], [86]. Chính vì vậy, yêu cầu cấp thiết ở đây đòi hỏi phải nâng cao tiêu chuẩn về chính trị, đạo đức, ý thức pháp luật và nghề nghiệp chuyên môn của cán bộ tư pháp nói chung, người có thẩm quyền áp dụng miễn trách nhiệm hình sự trong cơ quan tiến hành tố tụng nói riêng. Cụ thể bồi dưỡng chính trị và đạo đức, đặc biệt là học tập kiến thức để nâng cao nhận thức của cán bộ, điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán... về các quy định của pháp luật hình sự, pháp luật tố tụng hình sự để vận dụng pháp luật chính xác vào những trường hợp cụ thể trên thực tế. Để làm được việc đó, đòi hỏi hàng quý, hàng năm các cơ quan tư pháp phải nghiêm túc tiến hành nhận xét, đánh giá về trách nhiệm, phẩm chất đạo đức, năng lực trình độ ý thức pháp luật của từng cán bộ, chiến sĩ của đơn vị mình. Trong lĩnh vực áp dụng các quy định pháp luật về đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án, đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án do miễn trách nhiệm hình sự cũng đòi hỏi cán bộ thực thi pháp luật trong công tác này phải nắm vững các căn cứ (lý do) đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án, căn cứ và những điều kiện miễn trách nhiệm hình sự, thẩm quyền quyết định, trình tự thủ tục trong pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự để việc áp dụng được công minh, chính xác và đúng pháp luật. Đặc biệt, tất cả cán bộ, điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán... cũng cần nắm vững các quy định mới trong Bộ luật tố tụng hình sự vừa được Quốc hội nước ta thông qua ngày 26/11/2003, nhất là các quy định liên quan đến đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án do miễn trách nhiệm hình sự. 3.3.4. Giải pháp tăng cường vai trò của Viện kiểm sát trong việc kiểm tra, giám sát án đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án do miễn trách nhiệm hình sự Hiện nay, trong việc đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án nói chung, đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án do miễn trách nhiệm hình sự nói riêng cũng còn nhiều vi phạm, thực hiện chưa đúng và chưa đầy đủ các quy định pháp luật hình sự về miễn trách nhiệm hình sự dẫn đến bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, nhiều bị can, bị cáo lẽ ra phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự nhưng lại được miễn trách nhiệm hình sự, hoặc việc đánh giá tính chất và mức độ nguy hiểm cho người phạm tội còn chưa đầy đủ và chính xác. Có người rõ ràng là phạm tội, phạm tội có tình tiết tăng nặng định khung hoặc phạm tội nghiêm trọng, có mức hình phạt cao hoặc người phạm tội đã có tiền án, tiền sự, có đồng phạm, tái phạm, đã bị xử lý hành chính... nhưng vẫn được đình chỉ do miễn trách nhiệm hình sự. Do đó, để việc áp dụng miễn trách nhiệm hình sự có căn cứ và đúng pháp luật, một giải pháp cũng rất quan trọng là phải tăng cường vai trò của Viện kiểm sát trong việc kiểm tra, giám sát án đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án nói chung, đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án do miễn trách nhiệm hình sự nói riêng. Để làm tốt công tác này Viện kiểm sát phải thực hiện nghiêm chỉnh một số nội dung sau: - Phải tiến hành kiểm tra thường xuyên, liên tục và chặt chẽ việc quản lý tin báo tội phạm và phân loại xử lý chính xác. Công tác này phải được phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan hữu quan thực hiện chính xác, kịp thời ngay từ giai đoạn đầu, có quan điểm rõ ràng và dứt khoát với cơ quan Điều tra về các vụ, bị can mà cơ quan Điều tra đình chỉ điều tra do miễn trách nhiệm hình sự mà điều kiện chưa chính xác, chưa rõ ràng hoặc chưa đúng pháp luật. - Phân công cán bộ kiểm sát và theo dõi các quyết định đình chỉ điều tra của cơ quan Điều tra, nếu phát hiện vi phạm phải kịp thời có biện pháp khắc phục, đảm bảo quyền lợi cho người bị áp dụng tố tụng oan, sai, đồng thời kiểm điểm làm rõ trách nhiệm để rút kinh nghiệm, chấn chỉnh, nếu có vi phạm thì có biện pháp xử lý hoặc bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật. - Thực hiện chế độ báo cáo về án đình chỉ. Về các trường hợp đình chỉ điều tra do miễn trách nhiệm hình sự của cơ quan Điều tra phải có sự báo cáo với Viện kiểm sát cùng cấp để tiện theo dõi và kiểm tra vi phạm, những trường hợp có nghi ngờ về quyết định đình chỉ điều tra của cơ quan Điều tra do miễn trách nhiệm hình sự, Viện kiểm sát cần yêu cầu cơ quan Điều tra báo cáo và cùng phối hợp để có quyết định chính xác về từng trường hợp. - Việc phân loại những trường hợp đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án và bị can do miễn trách nhiệm hình sự cần được cơ quan Điều tra và Viện kiểm sát lập bảng chi tiết và rõ ràng. Hiện nay, các cơ quan này mới chỉ báo cáo liệt kê các số liệu đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án về miễn trách nhiệm hình sự theo Điều 19, Điều 25 và khoản 2 Điều 69 Bộ luật hình sự năm 1999 là bao nhiêu, với loại án gì chứ chưa thống kê số lượng miễn trách nhiệm cụ thể về từng trường hợp tương ứng (vì ngoài những trường hợp này, trong Bộ luật hình sự còn nhiều trường hợp miễn trách nhiệm hình sự khác chưa được thống kê chi tiết và đầy đủ, hoặc ngay trong Điều 25 cũng đã có đến ba trường hợp miễn trách nhiệm hình sự). Làm tốt điều này, không những góp phần hạn chế các vụ án, bị can đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án do miễn trách nhiệm hình sự không chính xác và đúng pháp luật, mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho Viện kiểm sát kiểm sát chặt chẽ việc áp dụng từng trường hợp miễn trách nhiệm hình sự, cũng như kịp thời khắc phục sai phạm để xác định trách nhiệm của từng cán bộ. 3.3.5. Giải pháp tăng cường sự hợp tác quốc tế và trao đổi về kinh nghiệm lập pháp hình sự về miễn trách nhiệm hình sự Trong xu thế mở rộng hội nhập khu vực và quốc tế hiện nay, thì hợp tác giữa nước ta với các nước khác trên thế giới về lĩnh vực tư pháp là rất cần thiết. Trên cơ sở đảm bảo độc lập, chủ quyền và an ninh quốc gia, đòi hỏi cần nghiên cứu, tham khảo, học tập có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế về tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp, về đào tạo cán bộ tư pháp, về đấu tranh phòng và chống tội phạm, về kỹ thuật lập pháp các Bộ luật, các chế định hay quy phạm pháp luật... Do đó, việc tăng cường sự hợp tác quốc tế và trao đổi về kinh nghiệm lập pháp hình sự nói chung, các quy định của pháp luật hình sự về miễn trách nhiệm hình sự nói riêng có ý nghĩa quan trọng và là tất yếu. Tuy nhiên, trong lĩnh vực nghiên cứu, tham khảo, học tập có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế về chế định này đòi hỏi chúng ta phải tham khảo trước hết pháp luật hình sự các nước có kinh nghiệm lập pháp, các nước khu vực và các nước có quan hệ truyền thống. Ví dụ: miễn trách nhiệm hình sự do hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự (Liên Bang Nga, Vương quốc Anh); miễn trách nhiệm hình sự do hòa hoãn giữa người bị hại và người phạm tội (Liên bang Nga, Thụy Điển)...[18], [96], [97]. Những quy định này có thể tham khảo để hoàn thiện pháp luật hình sự Việt Nam. Tuy nhiên, khi tham khảo chúng ta phải có sự sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với điều kiện kinh tế- xã hội, phù hợp với thực tiễn xét xử và có tính đến sự đồng bộ với các văn bản và đạo luật khác liên quan trong hệ thống pháp luật. Ngoài ra, để có kinh nghiệm lập pháp hình sự về miễn trách nhiệm hình sự, chúng ta còn cần tiến hành một số công việc như: Thứ nhất, Bộ Tư pháp cần chủ trì hoặc cùng với các cơ quan bảo vệ pháp luật khác (như: Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an...) tiếp tục cho dịch và in Bộ luật hình sự và Bộ luật tố tụng hình sự của các nước (vì hiện nay chúng ta mới cho dịch và in các Bộ luật này của một số nước), đặc biệt là một số nước có kinh nghiệm lập pháp phát triển và các nước có quan hệ truyền thống với nước ta. Bởi lẽ, hiện nay chúng ta đang mở rộng quan hệ giao lưu và hợp tác về nhiều mặt, nhiều lĩnh vực với các nước này, đòi hỏi cần phải tìm hiểu pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự hiện hành của nước họ. Thứ hai, trong xu thế hội nhập khu vực và quốc tế, cần cử các đoàn cán bộ bao gồm không chỉ các nhà khoa học luật hình sự, mà còn các cán bộ hoạt động thực tiễn (điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán...) đi nghiên cứu, học tập và trao đổi kinh nghiệm lập pháp hình sự và lập pháp tố tụng hình sự nói chung, về miễn trách nhiệm hình sự nói riêng của các nước tiên tiến trên thế giới, cũng như tham khảo các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định này trong thực tiễn các nước ra sao để qua đó tiếp tục hoàn thiện pháp luật nước nhà. kết luận Việc nghiên cứu đề tài "Chế định miễn trách nhiệm hình sự trong luật hình sự Việt Nam" trong luận văn cao học này cho phép đưa ra một số kết luận chung dưới đây. 1. Miễn trách nhiệm hình sự là một trong những chế định quan trọng pháp luật hình sự Việt Nam, thể hiện chính sách nhân đạo của Đảng và Nhà nước ta đối với người phạm tội và hành vi do họ thực hiện, đồng thời nhằm động viên, khuyến khích người phạm tội lập công chuộc tội, chứng tỏ khả năng giáo dục, cải tạo tốt để hòa nhập với cộng đồng. Việc quy định trong pháp luật hình sự Việt Nam chế định này thể hiện phương châm đúng đắn của đường lối xử lý về hình sự, - đảm bảo sự kết hợp hài hòa giữa các biện pháp cưỡng chế hình sự nghiêm khắc nhất của Nhà nước với các biện pháp tác động xã hội khác để cải tạo, giáo dục người phạm tội, bằng cách đó hạn chế áp dụng các biện pháp mang tính trấn áp (trừng trị) về mặt hình sự. 2. Miễn trách nhiệm hình sự cũng có quan hệ mật thiết và chặt chẽ với chế định trách nhiệm hình sự. Có thể khẳng định rằng, khái niệm và cơ sở của miễn trách nhiệm hình sự cũng xuất phát từ khái niệm và cơ sở của trách nhiệm hình sự. Cho nên, giải quyết tốt vấn đề trách nhiệm hình sự và việc áp dụng đúng đắn chế định miễn trách nhiệm hình sự trong thực tiễn sẽ tạo cơ sở pháp lý thuận lợi cho các cơ quan áp dụng pháp luật đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo vệ có hiệu quả các lợi ích của Nhà nước, các quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và công dân. 3. Mặc dù những trường hợp miễn trách nhiệm hình sự đã được quy định một cách chính thức và cụ thể trong Bộ luật hình sự nhưng đối với mỗi trường hợp miễn trách nhiệm hình sự thì việc hiểu rõ bản chất của nó để áp dụng trong thực tiễn còn nhiều vấn đề chưa rõ ràng và chưa thống nhất. Vì thế, trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, các cơ quan tư pháp hình sự có thẩm quyền nhiều khi còn áp dụng chưa đúng với quy định của điều luật. Cho nên, trong thực tiễn xét xử cho thấy bên cạnh những quyết định miễn trách nhiệm hình sự có căn cứ và đúng pháp luật thì vẫn còn có một số trường hợp miễn trách nhiệm hình sự không có căn cứ và chưa đúng pháp luật, bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, qua đó gây ảnh hưởng lớn đến công tác đấu tranh phòng và chống tội phạm. 4. Trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân và vì dân hiện nay để nhân đạo hóa hơn nữa chính sách hình sự nói chung và luật hình sự nước ta nói riêng, cũng như để phù hợp với thực tiễn xét xử và pháp luật hình sự các nước, dưới góc độ nhận thức-khoa học, nhà làm luật cần điều chỉnh chế định miễn trách nhiệm hình sự thành một chương riêng biệt (độc lập) tương ứng trong Bộ luật hình sự năm 1999 hiện hành, đồng thời ghi nhận bổ sung thêm một số trường hợp thường có trong thực tiễn xét xử có thể áp dụng chế định này. Bên cạnh đó, cũng cần có những giải pháp khác nâng cao hiệu quả áp dụng quyết định miễn trách nhiệm hình sự trong thực tiễn để việc áp dụng đảm bảo có căn cứ hợp pháp và đúng pháp luật. 5. ở một chừng mực nhất định, luận văn đã giải quyết được một số vấn đề lý luận - thực tiễn xung quanh chế định miễn trách nhiệm hình sự, góp phần hoàn thiện pháp luật hình sự, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng và chống tội phạm. Tuy nhiên, việc tiếp tục nghiên cứu sâu sắc hơn chế định này dưới góc độ nhận thức - khoa học không những là hướng nghiên cứu quan trọng, mà còn là việc làm cần thiết của khoa học luật hình sự nước ta hiện nay. danh mục tài liệu tham khảo 1. Ban chỉ đạo thi hành Bộ luật hình sự (2000), Tài liệu Tập huấn chuyên sâu về Bộ luật hình sự năm 1999, Nhà in Bộ Công an, Hà Nội. 2. Nguyễn Mai Bộ (2001), "Một số ý kiến về chính sách hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội trong Bộ luật hình sự năm 1999", Nhà nước và pháp luật, (4). 3. Bộ luật hình sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1985 (1998), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 4. Bộ luật hình sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1999 (2002), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 5. Bộ luật tố tụng hình sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1988 (2001), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 6. Lê Cảm (1999), Hoàn thiện pháp luật hình sự Việt Nam trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền (Một số vấn đề cơ bản của Phần chung), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. 7. Lê Cảm (2000), Các nghiên cứu chuyên khảo về Phần chung luật hình sự (tập III), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. 8. Lê Cảm (2000), "Chế định trách nhiệm hình sự trong Bộ luật hình sự năm 1999", Dân chủ và pháp luật, (1). 9. Lê Cảm (2000), "Chế định thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự trong pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành", Dân chủ và pháp luật, (11). 10. Lê Cảm (2001), "Về các dạng miễn trách nhiệm hình sự được quy định tại Điều 25 Bộ luật hình sự năm 1999", Tòa án nhân dân, (1). 11. Lê Cảm (2001), "Về sáu dạng miễn trách nhiệm hình sự khác (ngoài Điều 25) trong Bộ luật hình sự năm 1999", Dân chủ và pháp luật, (2). 12. Lê Cảm (2001), "Khái niệm, các đặc điểm (dấu hiệu), phân loại và bản chất pháp lý của các biện pháp tha miễn trong luật hình sự Việt Nam", Khoa học pháp lý, (3). 13. Lê Cảm (2002), "Chế định miễn trách nhiệm hình sự trong Bộ luật hình sự năm 1999", Nhà nước và pháp luật Việt Nam trước thềm thế kỷ XXI, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. 14. Lê Cảm (2002), "Về bản chất pháp lý của các khái niệm: Miễn trách nhiệm hình sự, truy cứu trách nhiệm hình sự, không phải chịu trách nhiệm hình sự và loại trừ trách nhiệm hình sự", Kiểm sát, (1). 15. Lê Cảm (2002), "Hệ thống pháp luật hình sự Tây Ban Nha", Nghiên cứu châu Âu, (5). 16. Lê Cảm (2002), "Chế định miễn hình phạt và các chế định về chấp hành hình phạt trong luật hình sự Việt Nam", Nhà nước và pháp luật, (4). 17. Lê Cảm (2002), Những vấn đề lý luận cơ bản về chế định thời hiệu trong luật hình sự Việt Nam, Chủ nhiệm đề tài nghiên cứu khoa học cấp Khoa trực thuộc (Trường thành viên) năm 2001, Hà Nội. 18. Lê Cảm (Chủ biên) (2002), "Những vấn đề cơ bản về pháp luật hình sự của một số nước trên thế giới", Thông tin Khoa học pháp lý, Viện Khoa học pháp lý (Bộ Tư pháp), (8). 19. Lê Cảm (2003), "Hệ thống pháp luật hình sự Liên bang Nga", Nghiên cứu châu Âu, (1). 20. Lê Cảm (Chủ biên) (2003), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần chung), Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội. 21. Lê Cảm (Chủ biên) (2003), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm), Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội. 22. Lê Cảm - Trịnh Tiến Việt (2001), "Chế định thời hiệu trong luật hình sự Việt Nam: Một số vấn đề lý luận cơ bản", Khoa học pháp lý, (2). 23. Lê Cảm - Trịnh Tiến Việt (2004), "Phân biệt miễn trách nhiệm hình sự và miễn hình phạt", Khoa học pháp lý, (2). 24. Nguyễn Ngọc Chí (1997), "Chế định miễn trách nhiệm hình sự trong luật hình sự Việt Nam", Khoa học (khoa học xã hội), (4). 25. Nguyễn Ngọc Chí (Chủ biên) (2001), Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội. 26. Thanh Cao (2004), "Kiên Giang: Xung quanh việc đình chỉ điều tra một vụ án", Báo Pháp luật (Bộ Tư pháp), số 117 ra ngày 16/05. 27. Kim Dung (1999), "Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội", Kiểm sát, Chuyên đề về Bộ luật hình sự, (4). 28. Thái Quế Dung (1999), "Những trường hợp được miễn trách nhiệm hình sự theo Điều 48 Bộ luật hình sự", Kiểm sát, Chuyên đề về Bộ luật hình sự, (4). 29. Nguyễn Văn Đạm (1999), Từ điển Tiếng Việt - Tường giải và liên tưởng, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội. 30. Phạm Ngọc Đản (1997), "Miễn trách nhiệm hình sự và thẩm quyền của Viện kiểm sát", Kiểm sát, (7). 31. Giáo trình Triết học Mác-Lênin (1999), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 32. Giáo trình Luật hình sự Việt Nam. Phần chung (1995), Trường Đại học Cảnh sát, Hà Nội. 33. Phạm Hồng Hải (1988), "Về chế định miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự Việt Nam", Nhà nước và pháp luật, (3). 34. Phạm Hồng Hải (2001), "Về chế định miễn trách nhiệm hình sự trong Bộ luật hình sự năm 1999", Dân chủ và pháp luật, (12). 35. Hiến pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 (1998), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 36. Ngọ Duy Hiểu (2001), "Chính sách hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội trong Bộ luật hình sự năm 1999", Tòa án nhân dân, (11). 37. Nguyễn Ngọc Hòa và Lê Thị Sơn (1999), "Thuật ngữ Luật hình sự", Trong sách: Từ điển giải thích thuật ngữ Luật học, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. 38. Nguyễn Ngọc Hòa (Chủ biên) (2001), Trách nhiệm hình sự và hình phạt, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. 39. Nguyễn Ngọc Hòa (Chủ biên) (2002), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. 40. Phạm Mạnh Hùng (1993), "Một số ý kiến về miễn trách nhiệm hình sự", Tòa án nhân dân, (2). 41. Phạm Mạnh Hùng (1995), "Về chế định tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội", Tòa án nhân dân, (8). 42. Nguyễn Hiển Khanh (2002), "Miễn trách nhiệm hình sự trong trường hợp "Do sự chuyển biến của tình hình mà người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa" theo quy định của Điều 25 Bộ luật hình sự", Kiểm sát, (1). 43. Nguyễn Duy Lãm (Chủ biên) (1996), Sổ tay thuật ngữ pháp lý thông dụng, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 44. Hoàng Thị Liên (2000), "Trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên phạm tội", Kiểm sát, (4). 45. Uông Chu Lưu (Chủ biên) (2001), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 1999 (Tập I - Phần chung), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 46. Trần Văn Luyện (2000), "Những điểm mới về chính sách hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội", Tòa án nhân dân, (12). 47. Công Tôn Nhân (2004), "Đình chỉ bị can sai luật", Báo Pháp luật Thành phố Hồ Chí Minh, số ra ngày 12/5. 48. Nguyễn Quốc Nhật, Phạm Trung Hòa và Trần Hải Âu (2001), Giáo dục, giúp đỡ người tù tha tái hòa nhập cộng đồng ở Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. 49. Pháp lệnh trừng trị các tội phản cách mạng ngày 30/10/1967. 50. Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng của công dân ngày 21/10/1970. 51. Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa ngày 21/10/1970 52. Pháp lệnh trừng trị tội đầu cơ, buôn lậu, làm hàng giả, kinh doanh trái phép ngày 10/7/1982. 53. Hoàng Phê (Chủ biên) (2002), Từ điển Tiếng Việt, Viện Ngôn ngữ học, Nxb Đà Nẵng. 54. Đỗ Ngọc Quang (1997), Trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm về tham nhũng, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. 55. Đỗ Ngọc Quang, Trịnh Quốc Toản, Nguyễn Ngọc Hòa (1997), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần chung), Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội. 56. Đinh Văn Quế (1998), Những trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự trong luật hình sự Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 57. Đinh Văn Quế (1999), Pháp luật thực tiễn và án lệ, Nxb Đà Nẵng. 58. Đinh Văn Quế (2000), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự 1999 (Phần chung), Nxb Thành phố Hồ Chí Minh. 59. Hoàng Thị Kim Quế (2002), "Tư tưởng Đông, Tây về Nhà nước và pháp luật - Những nhân tố Nhà nước pháp quyền", Nghiên cứu lập pháp, (3). 60. Lê Thị Sơn (1996), "Hoàn thiện chế định cơ sở pháp lý của trách nhiệm hình sự", Luật học, (6). 61. Lê Thị Sơn (1997), "Trách nhiệm hình sự và miễn trách nhiệm hình sự", Luật học, (5). 62. Lê Thị Sơn (2002), "Về trách nhiệm hình sự của hành vi chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt", Luật học, (4). 63. Tạp chí Dân chủ và pháp luật (1998), số Chuyên đề về luật hình sự một số nước trên thế giới, Hà Nội. 64. Kiều Đình Thụ (1998), Tìm hiểu luật hình sự Việt Nam, Nxb Đồng Nai. 65. Trần Quang Tiệp (2002), Một số vấn đề về thi hành án hình sự, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. 66. Trần Quang Tiệp (2003), Lịch sử luật hình sự Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 67. Trần Quang Tiệp (2004), "Vai trò của gia đình trong việc thi hành các loại hình phạt không tước tự do và các biện pháp tư pháp", Nhà nước và pháp luật, (2). 68. Tòa án nhân dân tối cao (1975), Hệ thống hóa luật lệ về hình sự, Hà Nội. 69. Tòa án nhân dân tối cao (2001), Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc áp dụng Phần chung của Bộ luật hình sự năm 1999, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, số 2000/98/040/ĐT, Hà Nội. 70. Tòa án nhân dân tối cao (2001), Thống kê tình hình xét xử của ngành Tòa án quý 4 năm 2000 và 9 tháng đầu năm 2001. 71. Tòa án nhân dân tối cao (2002), Thống kê tình hình xét xử của ngành Tòa án quý 4 năm 2001 và 9 tháng đầu năm 2002. 72. Tòa án nhân dân tối cao (2003), Thống kê tình hình xét xử của ngành Tòa án quý 4 năm 2002 và 9 tháng đầu năm 2003. 73. Nguyễn Đức Tuấn (2002), "Một số ý kiến về tự thú và đầu thú trong Bộ luật hình sự năm 1999", Bản tin Kiểm sát, số Xuân. 74. Đỗ Xuân Tựu (1992), "án trị an đối với miễn trách nhiệm hình sự", Kiểm sát, (1). 75. Đào Trí úc (Chủ biên) (1993), Mô hình lý luận về Bộ luật hình sự Việt Nam (Phần chung), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 76. Đào Trí úc (Chủ biên) (1994), Những vấn đề lý luận của việc đổi mới pháp luật hình sự trong giai đoạn hiện nay, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. 77. Đào Trí úc (Chủ biên) (1994), Tội phạm học, luật hình sự và luật tố tụng hình sự, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 78. Đào Trí úc (2000), Luật hình sự Việt Nam (Quyển I - Những vấn đề chung), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 79. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Ninh Bình (1997), Chuyên đề Nâng cao chất lượng quyết định đình chỉ vụ án, đình chỉ bị can trong tố tụng hình sự, ngày 22/08. 80. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Ninh Bình (1999), Tổng kết một năm thực hiện chuyên đề "Nâng cao chất lượng quyết định đình chỉ vụ án, đình chỉ bị can trong tố tụng hình sự", ngày 01/04. 81. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Nguyên (2001), Quyết định đình chỉ bị can số 02/KSĐT đối với Vũ Ngọc Quyết về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa, ngày 13/06. 82. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Nguyên (2001), Quyết định đình chỉ bị can số 03/KSĐT đối với Nguyễn Quang Vinh về tội cố ý làm trái... gây hậu quả nghiêm trọng, ngày 13/06. 83. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (1997), Thông báo rút kinh nghiệm về án đình chỉ và tạm đình chỉ điều tra, ngày 7/11. 84. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2000), Báo cáo án đình chỉ điều tra, tạm đình chỉ điều tra năm 2000. 85. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2001), Báo cáo án đình chỉ điều tra, tạm đình chỉ điều tra 9 tháng đầu năm 2001. 86. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2002), Báo cáo án đình chỉ điều tra, tạm đình chỉ điều tra năm 2002. 87. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2003), Báo cáo án đình chỉ điều tra, tạm đình chỉ điều tra năm 2003. 88. Võ Khánh Vinh (1997), Trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm về chức vụ, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. 89. Võ Khánh Vinh (Chủ biên) (2001), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần chung), Nxb Giáo dục, Hà Nội. 90. VnExpress.net (2002), Vụ án Năm Cam: Nguyễn Minh Tuân được miễn truy tố, ngày 23/11. 91. VnExpress.net (2002), Đề nghị đình chỉ khởi tố vụ án hình sự tại Fafilm Việt Nam, ngày 07/02. 92. VnExpress.net (2003), Miễn trách nhiệm hình sự với nguyên giám đốc Agrimexco, ngày 9/10. 93. VnExpress.net, Đình chỉ điều tra bị can hủy hoại tài sản công dân, ngày 7/11. tiếng Nga (đã dịch ra tiếng Việt) 94. Kelina X.G. (1974), Những vấn đề lý luận của việc tha miễn trách nhiệm hình sự, Nxb Khoa học, Maxcơva. tiếng Anh 95. Barry M Hager (1999), The Rule of Law, A Lexicon for Policy Makers. The Mansfield center for pacific affairs. 96. Michael Bogdan (Editor) (2000), Swedish Law in the New Millennium, Norstedts Juridik, Printed in Sweden by Elanders Gotab, Stockholm. 97. English Kevin’s law glossary: exemption from criminal liability, tml, ngày 9/10/2003. phụ lục Phụ lục 1 mô hình lý luận về các quy phạm của chế định miễn trách nhiệm hình sự Theo đó, Chương quy định về miễn trách nhiệm hình sự sẽ bao gồm 15 điều luật với nội dung như sau: "Chương ... miễn trách nhiệm hình sự Điều...: Khái niệm miễn trách nhiệm hình sự (mới) 1. Miễn trách nhiệm hình sự là hủy bỏ hậu quả pháp lý của việc thực hiện hành vi phạm tội cho người bị coi là có lỗi trong việc thực hiện hành vi ấy khi có một trong các căn cứ được quy định tại các điều từ Điều ..... đến Điều ..... Bộ luật này. 2. Căn cứ vào các tình tiết cụ thể của vụ án, người được miễn trách nhiệm hình sự vẫn có thể phải chịu một hoặc nhiều các biện pháp cưỡng chế về tố tụng hình sự, hành chính, dân sự hoặc lao động hay biện pháp kỷ luật. Điều...: Các trường hợp miễn trách nhiệm hình sự (mới) Căn cứ vào các tình tiết cụ thể tương ứng được quy định tại các điều từ Điều ..... đến Điều ..... Bộ luật này, người phạm tội được hoặc có thể được miễn trách nhiệm hình sự khi có một trong các căn cứ sau đây: a) Miễn trách nhiệm hình sự do tự ý nửa chừng chấm dứt tội phạm. b) Miễn trách nhiệm hình sự do sự thay đổi của tình hình. c) Miễn trách nhiệm hình sự do sự ăn năn hối cải. d) Miễn trách nhiệm hình sự do có quyết định đại xá. đ) Miễn trách nhiệm hình sự cho người chưa thành niên phạm tội. e) Miễn trách nhiệm hình sự cho người phạm tội gián điệp. f) Miễn trách nhiệm hình sự cho người phạm tội đưa hối lộ. g) Miễn trách nhiệm hình sự cho người phạm tội làm môi giới hối lộ. h) Miễn trách nhiệm hình sự cho người phạm tội không tố giác tội phạm. i) Miễn trách nhiệm hình sự do sự hòa hoãn giữa người bị hại và ngườiphạm tội. j) Miễn trách nhiệm hình sự cho người phạm tội là phụ nữ có thai có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn. k) Miễn trách nhiệm hình sự cho người phạm tội là người già. l) Miễn trách nhiệm hình sự cho người phạm tội bị cố tật nặng và đang mắc bệnh hiểm nghèo. Điều...: Miễn trách nhiệm hình sự do tự ý nửa chừng chấm dứt tội phạm (Điều 19 BLHS năm 1999) 1. (Có thể giữ nguyên như trong BLHS năm 1999). 2. Người giúp sức được miễn trách nhiệm hình sự nếu các biện pháp tích cực mà họ áp dụng đã ngăn chặn được việc thực hiện tội phạm đến cùng của người thực hành (mới). 3. Người tổ chức hoặc người xúi giục có thể được miễn trách nhiệm hình sự nếu các biện pháp tích cực mà họ áp dụng đã ngăn chặn được việc thực hiện tội phạm đến cùng của người thực hành (mới). Điều...: Miễn trách nhiệm hình sự do sự thay đổi của tình hình (khoản 1 Điều 25 BLHS năm 1999) Hành vi tuy về mặt hình thức có dấu hiệu của tội phạm nào đó được quy định trong Phần các tội phạm Bộ luật này, nhưng nếu khi tiến hành điều tra, truy tố hoặc xét xử do sự chuyển biến của tình hình mà hành vi phạm tội hoặc người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa, thì người phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự. Điều...: Miễn trách nhiệm hình sự do sự ăn năn hối cải (khoản 2 Điều 25 BLHS năm 1999) Hành vi tuy về mặt hình thức có dấu hiệu của tội phạm nào đó được quy định trong Phần các tội phạm Bộ luật này, nhưng nếu trước khi hành vi phạm tội bị phát giác, người phạm tội tự thú, khai rõ sự việc, góp phần có hiệu quả vào việc phát hiện điều tra tội phạm cố gắng hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả của tội phạm, thì cũng có thể được miễn trách nhiệm hình sự. Điều...: Miễn trách nhiệm hình sự do có quyết định đại xá (khoản 3 Điều 23 BLHS năm 1999). (Có thể giữ nguyên như trong BLHS năm 1999). Điều...: Miễn trách nhiệm hình sự cho người chưa thành niên phạm tội (khoản 2 Điều 69 BLHS năm 1999). Người chưa thành niên phạm tội ít nghiêm trọng hoặc phạm tội nghiêm trọng, nhưng gây hại không lớn, có nhiều tình tiết giảm nhẹ và được gia đình hoặc cơ quan tổ chức nhận giám sát giáo dục, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự. Điều...: Miễn trách nhiệm hình sự cho người phạm tội gián điệp (mới) Người phạm tội gián điệp được quy định tại Điều 80 Bộ luật này nếu chỉ mới nhận làm gián điệp, nhưng không thực hiện nhiệm vụ được giao và tự thú, thành khẩn khai báo với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thì được miễn trách nhiệm hình sự. Điều...: Miễn trách nhiệm hình sự cho người phạm tội đưa hối lộ (mới) Người phạm tội đưa hối lộ được quy định tại Điều 289 Bộ luật này mặc dù không bị ép buộc, nhưng đã chủ động khai báo trước khi bị phát giác, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự và được trả lại một phần hoặc toàn bộ của đã dùng để đưa hối lộ. Điều...: Miễn trách nhiệm hình sự cho người phạm tội làm môi giới hối lộ (mới) Người phạm tội làm môi giới hối lộ được quy định tại Điều 290 Bộ luật này, nhưng đã chủ động khai báo trước khi bị phát giác, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự. Điều...: Miễn trách nhiệm hình sự cho người phạm tội không tố giác tội phạm (mới) Người phạm tội không tố giác tội phạm được quy định tại Điều 314 Bộ luật này, nhưng đã có hành động can ngăn người phạm tội hoặc hạn chế tác hại của tội phạm, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự. Điều...: Miễn trách nhiệm hình sự do sự hòa hoãn giữa người bị hại và người phạm tội (mới) Nếu người lần đầu phạm tội ít nghiêm trọng hoặc phạm tội nghiêm trọng do vô ý và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, nhưng nếu người đó đã hòa hoãn được với người bị hại và tự nguyện bồi thường thiệt hại đã gây ra, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự. Điều... Miễn trách nhiệm hình sự cho người phạm tội là phụ nữ có thai có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn (mới) Nếu người lần đầu phạm tội ít nghiêm trọng hoặc phạm tội nghiêm trọng do vô ý và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nhưng là phụ nữ có thai và có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự. Điều...: Miễn trách nhiệm hình sự cho người phạm tội là người già (mới) Nếu người lần đầu phạm tội ít nghiêm trọng hoặc phạm tội nghiêm trọng do vô ý mà thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, nhưng người đó là người già - phụ nữ trên 65 tuổi hoặc nam giới trên 70 tuổi, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự. Điều...: Miễn trách nhiệm hình sự cho người phạm tội bị cố tật nặng và đang mắc bệnh hiểm nghèo (mới) Nếu người lần đầu phạm tội ít nghiêm trọng hoặc phạm tội nghiêm trọng do vô ý và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, nhưng người đó bị cố tật nặng và đang mắc bệnh hiểm nghèo, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự. Nguồn: [13; tr. 233-238].

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf86_2979.pdf
Luận văn liên quan