Nền kinh tế Việt Nam đang trong đà tăng trưởng hàng năm khá cao, nhiều cơ hội
được mở ra với các nhà đầu tư khi Việt Nam được gia nhập WTO. Đứng trước áp lực hội
nhập ngày càng mạnh mẽ, tất cả các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế ráo riết
tìm vốn, mở rộng sản xuất kinh doanh, tăng cường tính cạnh tranh trên thị trường ngày
một được mở rộng. Về phía nhà nước, chủ trương cổ phần hóa các công ty nhà nước đảm
bảo tính tự chủ trong kinh doanh được đẩy mạnh, các văn bản pháp luật ngày càng giảm
tính chất bảo hộ với nền kinh tế. Đây là cơ hội phát triển tốt của ngành quỹ đầu tư nói
chung.
90 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2997 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Chiến lược hoạt động của quỹ đầu tư chứng khoán Việt Nam VF1, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n được hoàn thiện nhưng với sự năng động và linh hoạt của
nền kinh tế thì vẫn còn chậm chạp. Ví như tỉ lệ sở hữu đối với nhà đầu tư nước ngoài
trong một số lĩnh vực sẽ được nâng lên 49%, có lẽ đến tháng 6 năm 2005 thì chính sách
này mới được quyết định. Trong quá trình hoạt động của mình, VF1 vừa hoạt động vừa
đưa ra những đề xuất nhằm hoàn thiện pháp luật về quỹ đầu tư đang còn đang trong quá
trình sơ khai.
- Xung đột lợi ích sẽ làm cho VF1 không có được lòng tin của nhà đầu tư. VF1 sẽ
tăng cường hoạt động quan hệ với nhà đầu tư để nhà đầu tư trở nên tin tưởng VFM hơn
khi giao tiền của mình cho VFM. Các báo cáo NAV, báo cáo tài chính và các thông tin
liên quan sẽ được cập nhật thường xuyên hơn trên website www.vinafund.com và các
phương tiện thông tin khác. Các biện pháp trên sẽ giúp các nhà đầu tư nắm rõ hoạt động
đầu tư của VFM và biết được vốn của mình đang được dùng làm gì, việc minh bạch
thông tin này sẽ đảm bảo đến mức thấp nhất việc xảy ra xung đột lợi ích.
- Các loại rủi ro sẽ gây nên thiệt hại cho VF1, do vậy VF1 sẽ phải đảm bảo cho
các tài sản nắm giữ một độ an toàn nhất định. Bằng cách vượt qua những yếu điểm của
mình thông qua việc đảm bảo sự chính xác của thông tin đầu vào, phân tích đúng đắn và
có chiến lược đầu tư hợp lý, hạn chế mọi rủi ro đến mức thấp nhất có thể được trên cơ sở
có chiến lược quản lý từng loại rủi ro.
6.5. Ma trận SWOT
SWOT MATRIX
Opportunities
1. Kinh tế Việt Nam tăng
trưởng cao và ổn định
2. Thị trường chứng khoán
hấp dẫn
3. Tiến trình CPH đang được
đẩy mạnh
4. Được ưu đãi về thuế với
hoạt động của quỹ, Cty
CPH, Cty niêm yết
Threats
1. Khả năng thanh khoản
2. Sức ép cạnh tranh
3. Thủ tục pháp lý chưa hoàn
thiện
4. Xung đột lợi ích
5. Rủi ro tín dụng, rủi ro thị
trường…
Strengths
1. Hỗ trợ từ các
đối tác trong liên
doanh
2. Được quản lý
bởi các chuyên gia
nhiều kinh nghiệm
3. Quy trình đầu
tư chặc chẽ.
4. Loại hình đầu
tư mới
5. Cơ cấu vốn ổn
định
- Tận dụng nguồn nhân lực,
xây dựng quy trình đầu tư
chặt chẽ, tìm cơ hội đầu tư
an toàn, có lợi nhất.
- Rút ngắn thời gian chuẩn bị
đầu tư, nắm bắt các cơ hội
từ TTCK.
- Kinh nghiệm và uy tín các
đối tác tạo hình ảnh tốt cho
VFM, tạo đà thuận lợi khi
đầu tư vào các cty CPH.
- Thu nhập của VF1 không
phải chịu thuế là điểm làm
VF1 hấp dẫn các nhà đầu
tư, là điều kiện tạo lập các
quỹ mới.
- Ưu tiên đầu tư vào các CP
niêm yết và sắp niêm yết có
tiềm năng phát triển. Ngoài ra
có thể đầu tư vào bất động sản,
lĩnh vực khác với tiềm năng và
thu nhập kỳ vọng cao.
- Đẩy nhanh quy trình nghiên
cứu đầu tư với sự hỗ trợ kinh
nghiệm từ các đối tác trong liên
doanh VFM để chớp lấy cơ hội
từ TTCK và các Cty CPH trước
các đối thủ cạnh tranh.
- Vừa hoạt động, vừa đề xuất ý
kiến nhằm hoàn thiện khung
pháp lý cho quỹ đầu tư.
- Nâng cao sự giám sát của Ban
đại diện và NH giám sát, hạn
chế xung đột lợi ích.
- Nhắm đến mục tiêu cân bằng,
hạn chế rủi ro.
Weaknesses
1. Chăm
sóc nhà đầu tư còn hạn
chế
2. Cơ chế
đầu tư không linh hoạt
3. Dự đoán
thị trường sai trong
một số ít thương vụ
đầu tư.
- Làm cho các nhà đầu tư
hiểu về bản chất của VF1,
mục tiêu, phương thức hoạt
động…
- Tạo sự linh hoạt cho cơ chế
đầu tư, đáp ứng sự nhạy cảm
của nền kinh tế tăng trưởng.
-Nâng cao vị thế trong mắt
nhà đầu tư để có thể mở rộng
qui mô quỹ, lập quỹ mới đầu
tư trên TTCK Việt Nam
nhiều tiềm năng.
-Tăng tính linh hoạt, chính
xác cho hoạt động nghiên cứu
đầu tư, đầu tư vào các công ty
CPH với chi phí thấp, thu
nhập cao.
- Nâng cao sự linh hoạt cho cơ
chế đầu tư để có thể chuyển đổi
các khoản đầu tư một cách dễ
dàng.
- Tạo nên những ưu thế trong
cạnh tranh bằng cơ chế đầu tư
linh hoạt, nhanh chóng và hiệu
quả.
- Tăng cường chăm sóc nhà đầu
tư, minh bạch thông tin, hạn
chế được xung đột lợi ích.
- Nâng cao sự chính xác của
thông tin đầu vào, phân tích
đúng đắn, đầu tư hợp lý, hạn
chế đến mức tối đa các rủi ro
có thể xảy đến, đảm bảo sự an
toàn cho danh mục đầu tư.
Chương III: Mô hình Quỹ đầu tư tại các nước và một số bài học từ quá trình
hình thành và hoạt động của quỹ đầu tư ở các nước và Việt Nam
1. Quỹ đầu tư tại một số thị trường phát triển
1.1. Mỹ
Thị trường chứng khoán Mỹ là nơi có ngành quỹ đầu tư rất phát triển. Các quỹ đầu
tư hoạt động theo 2 mô hình là quỹ đầu tư dạng công ty và quỹ đầu tư dạng tín thác, trong
đó các quỹ đầu tư dạng công ty, đặc biệt là các quỹ đầu tư dạng mở chiếm ưu thế. Theo
luật Công ty đầu tư 1940, quỹ đầu tư tập thể tại Mỹ bao gồm các thể chế sau:
• Công ty phát hành chứng chỉ ghi mệnh giá
• Công ty quản lý
• Đơn vị tín thác đầu tư
• Đơn vị tín thác tham gia
Các quỹ đầu tư tại Mỹ đã hình thành từ cuối thế kỷ trước. Năm 1893, quỹ tín thác
tài sản cá nhân Boston, là quỹ dạng đóng đầu tiên được thành lập tại Hoa kỳ. Năm 1904
cũng tại Hoa kỳ, quỹ đầu tư chứng khoán của ngành đường sắt và chiếu sáng, quỹ dạng
đóng đầu tiên sử dụng đòn bẩy, tức là vay vốn để mua chứng khoán được thành lập.
Trong giai đoạn ban đầu phát triển thị trường chứng khoán, đặc biệt là những năm 20,
quỹ đầu tư dạng đóng phát triển mạnh mẽ. Hàng trăm quỹ dạng này đã được thành lập.
Nhưng chỉ đến cuối năm 1929, cuộc đại khủng hoảng đầu tiên trên thị trường chứng
khoán đã kéo theo sự thua lỗ và phá sản của một loạt các quỹ đóng đặc biệt là các quỹ sử
dụng hệ số đòn bẩy. Khi Luật Công ty Đầu tư được ban hành năm 1940, hình thức chủ
yếu của công ty đầu tư vẫn là các công ty đầu tư dạng đóng. Mặc dù quỹ đầu tư dạng mở
đầu tiên được lập tại Mỹ vào năm 1924, nhưng công ty đầu tư dạng mở còn khá mới vào
thời điểm này. Nhưng từ sau đó, công ty đầu tư dạng mở đã phát triển mạnh mẽ và tới
những năm 60, loại hình quỹ đầu tư này đã nên rất phổ biến tại thị trường chứng khoán
Mỹ và chiếm tới 4/5 tổng tài sản trong ngành quỹ đầu tư tại Mỹ. Quỹ dạng đóng trở nên
ít thông dụng hơn và chỉ chiếm chưa tới 5% tổng giá trị tài sản của ngành.
Các quỹ đầu tư tập thể tại Mỹ ra đời trước khi có luật điều chỉnh chính thức. Bộ
luật Công ty Đầu tư 1940 và luật song hành với nó là luật Các nhà tư vấn đầu tư 1940 là
các văn bản pháp luật chính điều chỉnh tổ chức và hoạt động của quỹ đầu tư và được Uỷ
ban Giao dịch và Chứng khoán Hoa kỳ ban hành sau khi nghiên cứu thực tiễn hoạt động
của các công ty đầu tư. Các công ty đầu tư tại Mỹ cũng thuộc điều chỉnh của các luật
khác như Luật Chứng khoán 1933 và Luật Giao dịch và Chứng khoán 1934 về yêu cầu
công bố thông tin và các chế độ báo cáo. Uỷ ban Giao dịch và Chứng khoán Mỹ có thẩm
quyền thanh tra và giám sát hoạt động của các công ty đầu tư cũng như của các nhà tư
vấn đầu tư (tổ chức quản lý đầu tư của quỹ).
1.2. Nhật Bản
Tại Nhật hiện đang tồn tại hai loại hình quỹ đầu tư là quỹ tín thác đầu tư kiểu hợp
đồng và quỹ tín thác kiểu công ty.
Quỹ tín thác đầu tư theo cả hai kiểu là kiểu hợp đồng và kiểu công ty được chia ra
thành kiểu quỹ mở và kiểu quỹ đóng phụ thuộc vào việc nhà đầu tư có hay không có
quyền yêu cầu mua lại chứng chỉ hưởng lợi hoặc chứng chỉ đầu tư. Hầu hết tất cả các quỹ
tín thác đầu tư kiểu hợp đồng hiện có ở Nhật Bản là kiểu quỹ mở. Tuy nhiên, theo nghĩa
mà các chứng chỉ hưởng lợi được niêm yết và giao dịch trên sở giao dịch chứng khoán
trên khắp nước Nhật, quỹ tín thác đầu tư được niêm yết có mối liên kết với chỉ số Nikkei
300 mà được thiết lập vào năm 1995 có thể được gọi là kiểu quỹ đóng. Quỹ quốc gia
(một quỹ tín thác đầu tư nước ngoài kiểu công ty) được niêm yết trên Sở giao dịch chứng
khoán Osaka là một kiểu quỹ đóng.
Các quỹ tín thác đầu tư được hình thành ở Nhật Bản chịu sự điều chỉnh của Luật
Tín thác đầu tư chứng khoán tháng 6 năm 1951. Bản thân các quỹ này không hình thành
một cách tự phát như ở các nước Châu Âu mà là một sản phẩm do chính phủ đưa ra nhằm
thuyết phục một chính sách được xây dựng để khuyến khích công chúng mua một số
lượng lớn cổ phiếu do ”zaibatsu” (tên gọi một tập đoàn kinh doanh lớn trước chiến tranh)
phát hành bị Liên minh các đảng cầm quyền phá vỡ (được gọi là phổ thông hoá việc sở
hữu chứng khoán) và giúp cho các ngành thiếu tiền lập quỹ. Do Luật Tín thác đầu tư
được xây dựng theo kiểu tín thác đầu tư trước chiến tranh, nên nó lấy theo mẫu tín thác
đầu tư theo kiểu đơn vị tín thác. Luật này được sửa đổi vào năm 1967, sau cuộc suy thoái
chứng khoán để xác định một cách rõ ràng nghĩa vụ uỷ thác (luật yêu cầu những người
mà được uỷ thác bằng một hợp đồng quản lý tài sản cho những người để hành động một
cách đáng tin cậy và chỉ vì lợi ích của những người đó) của các công ty quản lý tín thác
đầu tư đối với những người hưởng lợi của quỹ, và lập nên mã đường dẫn của mình
(những điều khoản ít bị thay đổi có liên quan đến các hành vi bị cấm). Các văn bản Luật
và các quy định có liên quan đến việc tín thác đầu tư đã được sửa đổi trong một số trường
hợp, và các sức ép chính của việc cải cách được hướng trực tiếp về phía đa dạng hoá các
sản phẩm, các yêu cầu tiết lộ thông tin ít thay đổi, và việc áp dụng các biện pháp giải
quyết đối việc huỷ bỏ sớm hợp đồng. Tuy nhiên, không có một sự thay đổi cơ bản khung
hệ thống pháp luật về tín thác đầu tư đến khi Luật Tín thác đầu tư được sửa đổi như là
một phần của Luật Cải cách hệ thống tài chính có hiệu lực vào tháng 12-1998. Số lượng
các điều trong Luật đã được tăng lên gấp 4 lần từ 38 điều lên 253 điều, và tên của Luật
được đổi thành ”Luật về các vấn đề liên quan đến tín thác đầu tư chứng khoán và Công ty
đầu tư chứng khoán”. Công ty đầu tư chứng khoán được gọi chung là ”kiểu công ty tín
thác đầu tư”, và do việc sửa đổi Luật, việc thành lập kiểu công ty tín thác đầu tư, kiểu
công ty mà thường có ở các quốc gia Châu Âu, cuối cùng được cho phép, ngoài những
kiểu quỹ thành lập theo hợp đồng. Hơn nữa, các mặt hoạt động của ngành cũng được cải
cách-cho phép các tổ chức ngân hàng bán các chứng chỉ hưởng lợi từ quỹ đầu tư ngoài
chức năng của mình và khoán phí hoa hồng hướng dẫn đầu tư vào quỹ cho các tổ chức
khác bởi các công ty quản lý quỹ tín thác đầu tư.
Tới tận năm 1990, Chính phủ mới cấp giấy phép cho công ty quản lý quỹ tín thác
đầu tư nước ngoài và các công ty này chỉ thực sự bán các chứng chỉ hưởng lợi trực tiếp
cho người đầu tư vào năm 1993.
1.3. Anh
Tại Anh tồn tại cả hai loại hình quỹ đầu tư dạng công ty và dạng hợp đồng. Các
quỹ đầu tư tại Anh tồn tại dưới dạng 2 loại hình: quỹ tín thác đầu tư và quỹ tín thác đơn
vị. Quỹ tín thác đầu tư được xem như là một quỹ đóng, còn quỹ tín thác đơn vị được xem
như là một quỹ mở.
Về mục tiêu và chính sách đầu tư, trong trường hợp của một quỹ đầu tư mô hình
công ty, Ban giám đốc sẽ quyết định chính sách đầu tư. Trong trường hợp của một quỹ
đầu tư mô hình tín thác, thông qua Ban giám sát sẽ kiểm tra việc chính sách đầu tư có
được thực hiện một cách chính xác hay không, những chính sách đầu tư sẽ được những
nhà quản lý quỹ lựa chọn. Việc quản lý của cả hai loại quỹ được giao phó cho một công
ty quản lý, có thể là một công ty ở bên ngoài như một ngân hàng đầu tư. Một số các công
ty quản lý thực hiện một sự ổn định toàn bộ đối với các quỹ và điều này đặc biệt hữu ích
đối với các quỹ đầu tư từ khi một trong các quỹ được thừa nhận là đã hoặc động rất tốt
trong quá khứ và điều này cũng là một trong những điều giúp rất nhiều cho hoạt động
tiếp thị. Mỗi một quỹ có một đặc điểm riêng đối với chính sách đầu tư riêng của mình, có
thể còn phụ thuộc vào điều kiện địa lý như Quỹ các công ty nhỏ Framlington American,
hoặc sức ép về thu nhập như quỹ đầu tư tăng trưởng thu nhập Dunedin, hoặc đơn giản chỉ
là cung cấp một danh mục đầu tư đã được đa dạng hoá trải rộng trên các lĩnh vực công
nghiệp khác nhau và trải rộng trên các thị trường khác nhau. Tuy nhiên, đa số các quỹ
này sẽ có một phần lớn danh mục đầu tư của họ vào chứng khoán Anh, xem như việc
không chịu quá nhiều rủi ro để tăng tính không ổn định của danh mục đầu tư. Trước kia,
40% danh mục đầu tư đã được cân bằng sẽ được đầu tư vào chứng khoán nước ngoài,
việc đầu tư sẽ mang đến rất nhiều lợi nhuận từ việc đa dạng hoá mang tính quốc tế, và
những quỹ này thông thường được đánh giá thông qua chỉ số FT-Actuaries.
2. Quỹ đầu tư tại một số thị trường đang lên
2.1. Hàn Quốc
Các quỹ tín thác đầu tư (Securities Investment Trusts - ITC) tại Hàn quốc được
hình thành từ năm 1969 với mô hình tương tự như mô hình quỹ tín thác đầu tư dạng hợp
đồng của Anh hơn là mô hình các công ty đầu tư tại Mỹ. Các công ty ITC chào bán các
sản phẩm của mình dưới hình thức là các chứng chỉ hưởng lợi cho các nhà đầu tư thông
qua các chi nhánh của mình. Mặc dầu quỹ đầu tư dạng mở được phép lập tại Hàn Quốc,
tất cả các quỹ đầu tư tín thác thường lập dưới hình thức quỹ đầu tư dạng đóng với thời
gian hoạt động nhất định và được niêm yết tại Sở Giao dịch Chứng khoán Hàn Quốc
(KSE).
Hiện nay, Hàn Quốc đã cho phép tồn tại cả hai loại hình quỹ đầu tư: tín thác đầu
tư chứng khoán dạng hợp đồng và quỹ đầu tư dạng công ty.
2.2. Thái Lan
Quỹ đầu tư tại Thái Lan toàn bộ là theo dạng hợp đồng tín thác, hay có thể gọi là
hợp đồng theo một số nước. Theo mô hình này, quỹ không phải là một pháp nhân. Hoạt
động của quỹ được thực hiện trên cơ sở hợp đồng tín thác giữa công ty quản lý quỹ, công
ty tín thác và nhà đầu tư, trong đó công ty quản lý quỹ có trách nhiệm quản lý và đầu tư
tài sản của quỹ vào các lĩnh vực khác nhau theo điều lệ và hợp đồng tín thác. Còn công ty
tín thác hoạt động như là người bảo quản tài sản của quỹ và có nhiệm vụ giám sát các
quyết định, hoạt động của công ty quản lý quỹ liên quan đến tài sản của quỹ. Theo cơ cấu
vận động vốn, ở Thái Lan có cả quỹ mở và quỹ đóng.
Năm 1975, công ty Quỹ tập thể (Mutual Fund Company – MFC) là công ty quản
lý quỹ đầu tiên duy nhất được cấp phép hoạt động trong lĩnh vực quản lý quỹ. Công ty
MFC là liên doanh giữa chính phủ Thái Lan và Công ty tài chính quốc tế IFC. Đến cuối
năm 1990, công ty đã thành lập được trên 10 quỹ đầu tư tập thể. Tất cả các quỹ trong giai
đoạn này đều là các quỹ đóng và được niêm yết tại sở giao dịch Chứng khoán Thái Lan
(SET) và đầu tư chủ yếu vào cổ phiếu.
Sau năm 1992, các quỹ tập thể hoạt động sôi nổi tại Thái Lan do chính sách
khuyến khích thành lập một loạt các công ty quản lý quỹ. Có 7 công ty quản lý quỹ được
thành lập trong giai đoạn này và tuân thủ theo số vốn pháp định là 100 triệu Baht.
Đầu những năm 1990 thì ở Thái Lan mới có sự xuất hiện của quỹ mở. Các quỹ
đóng từng chiếm tỷ lệ 97%, thì tới năm 1998 chỉ còn chiếm 61%. Từ sau khủng hoảng tài
chính năm 1997, các quỹ có xu hướng đầu tư vào các công cụ tài chính có thu nhập cố
định hơn là cổ phiếu.
2.3. Malaysia
Về quỹ đầu tư tập thể, Malaysia hiện tồn tại các loại hình quỹ sau: quỹ hưu trí, quỹ
tiết kiệm, quỹ tín thác đầu tư, quỹ bảo hiểm, quỹ pilgrim (dành cho những người theo đạo
Hồi truyền thống). Do là thuộc địa của Anh nên các quỹ tín thác ở Malaysia chịu ảnh
hưởng của pháp luật Anh. Luật công ty tín thác của Malaysia được ban hành năm 1949
và được chỉnh sửa và hợp nhất với luật công ty 1965 vào năm 1978. Bên cạnh đó, các
quỹ tín thác đầu tư và công ty quản lý quỹ còn chịu điều chỉnh của Luật chứng khoán và
các quy định cụ thể của Uỷ ban Chứng khoán Malaysia.
Tới năm 1970 mới có 3 công ty quản lý quỹ và tới năm 1980 mới có 5 công ty
quản lý quỹ ra đời. Tới năm 1992, có 13 công ty quản lý quỹ với số quỹ số quỹ được
thành lập là 39 quỹ tín thác đầu tư. Tới tháng 5/1997, số công ty quản lý quỹ đã tăng lên
31 công ty với tổng số quỹ được thành lập là 80 quỹ.
Công ty quản lý quỹ theo pháp luật Malaysia là một pháp nhân, có mức vốn pháp
định là 5 triệu Ringit trở lên. Các tổ chức nước ngoài được phép góp vốn vào liên doanh
tối đa là 30% vốn góp.
2.4. Trung Quốc
Các quỹ đầu tư tập thể được chính thức thành lập tại Trung Quốc từ năm 1991.
Các tổ chức quản lý quỹ phát triển nhanh chóng mặc dù thiếu luật điều chỉnh và các
thông tư, hướng dẫn của pháp luật.
Các quỹ đầu tư này có chính sách đầu tư hỗn độn, kết hợp đầu tư trực tiếp và đầu
tư gián tiếp. Các quỹ đầu tư thường chỉ đầu tư 40% tài sản vào thị trường chứng khoán,
phần còn lại vào bất động sản và các đầu tư trực tiếp khác. Hầu hết các quỹ thực hiện
việc đa dạng hóa đầu tư để giảm thiểu rủi ro, đầu tư vào chứng khoán, tín phiếu kho bạc,
trái phiếu công ty. Tất cả các quỹ đầu tư tại Trung Quốc tới năm 1996 đều là các quỹ
đóng, mặc dù không có quy định nào của chính phủ không cho phép thành lập các quỹ
đầu tư dạng mở.
Tới tận năm 1996, tại Trung Quốc chưa có các quy định chính thức ở cấp độ nhà
nước về quỹ đầu tư. Do thiếu các quy định như vậy nên chi nhánh Ngân hàng Nhân dân
Trung Hoa tại Thẩm Quyến và tại Thượng Hải đã ban hành các quy định của mình để
điều chỉnh hoạt động của các quỹ đầu tư tập thể tại địa phương.
3. Quỹ đầu tư tại Việt Nam
3.1. Vietnam Enterprise Investment Limited
Quỹ VEIL bao gồm hơn 100 nhà đầu tư tổ chức và cá nhân quốc tế. Giá trị tài sản
ròng của VEIL theo báo cáo thường niên năm 2003 là 112 triệu USD. Công ty tài chính
quốc tế IFC là cổ đông lớn nhất của VEIL. Hiện nay VEIL đã đầu tư hơn 51 dự án vào
Việt Nam. VEIL hiện là nhà đầu tư nước ngoài lớn nhất trên thị trường chứng khoán Việt
Nam. Hiện nay cổ phiếu của VEIL được niêm yết tại thị trường chứng khoán Dublin
(Ireland), và được giao dịch qua thị trường OTC tại London, New York, Hong Kong và
Việt Nam.
Các chiến lược của VEIL
Theo báo cáo thường niên năm 2003, VEIL đầu tư 19,8% tài sản vào trái phiếu
chính phủ, 19,2% vào các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam,
15,8% vào tài sản, 4,5% vào các quỹ Việt Nam, 36% vào các công ty chưa niêm yết (bao
gồm các công ty có khả năng niêm yết), 4,8% vào các tài sản khác.
Còn theo các lĩnh vực của nền kinh tế thì danh mục đầu tư của VEIL như sau:
15,8% vào tài sản, 14,1% vào các ngân hàng, 7,4% vào lĩnh vực thương mại, 7,7% vào
lĩnh vực xây dựng, 7,4% vào công nghệ thông tin, 4,5% vào các quỹ, 5% vào thực phẩm,
3,5% vào chế biến hải sản, 3,6% vào lĩnh vực truyền thông, 7,1% vào lĩnh vực vận tải,
19,7% vào trái phiếu.
10 công ty, dự án được đầu tư nhiều vốn nhất của VEIL (theo báo cáo tài chính
năm 2003) là:
• Trái phiếu chính phủ (24,5% tài sản của VEIL)
• Khu căn hộ cao cấp Hanoi Lakeview (15,9%)
• Công ty cổ phần cơ điện lạnh (8,4%)
• Ngân hàng TMCP á Châu (8,4%)
• NH TMCP Sài Gòn Thương Tín (5,3%)
• Công ty quỹ đầu tư Việt Nam (Singapore) (5,4%)
• Công ty cổ phần cáp và vật liệu truyền thông (4,4%)
• Công ty Xi măng Viet Trung (3,9%)
• Công ty General Forwarding & Agency (3,7%)
• Công ty TNHH Glass Egg Digital Media Ltd. (3,6%)
3.2. Mekong Enterprise Fund
Quỹ Doanh Nghiệp Mekong được thành lập vào tháng 4 năm 2002. Quỹ Doanh
Nghiệp Mekong (Mekong Enterprise Fund), hay đôi khi còn được gọi là “Quỹ Mekong”,
là một quỹ đầu tư với số vốn đầu tư $18.5 triệu chuyên đầu tư vào cổ phần của các doanh
nghiệp tư nhân hàng đầu tại Việt Nam, Campuchia và Lào. Quỹ không có nhân viên riêng
mà được quản lý bởi công ty Mekong Capital theo một hợp đồng quản lý dài hạn.
Quỹ Doanh Nghiệp Mekong chủ yếu tập trung đầu tư vào các công ty sản xuất tư
nhân ở Việt Nam. Đây thường là những công ty gia đình với những người sáng lập có
một sự nỗ lực rất lớn cho sự thành công của doanh nghiệp. Nhiều công ty lựa chọn việc
nhận đầu tư từ Quỹ là những công ty tư nhân có ý định niêm yết trên thị trường chứng
khoán Việt Nam hoặc muốn cải tiến các hệ thống quản lý của họ để có thể trở nên cạnh
tranh hơn và tăng trưởng nhanh hơn.
Những công ty Quỹ hiện đang đầu tư bao gồm công ty nhựa Tân Đại Hưng, công
ty AA, công ty phần mềm Lạc Việt, công ty dây điện từ Ngô Han, công ty đồ chơi gỗ
Nam Hoa, công ty in bao bì Minh Phúc, và công ty chế biến gỗ Đức Thành.
Đến cuối năm 2004, có đến hơn 59% cổ phiếu của Mekong Capital được nắm giữ
bởi nhân viên, điều này bảo đảm rằng đội ngũ nhân viên của chúng tôi hết lòng tận tụy
với công ty vì có động cơ thúc đẩy rõ rệt.
Việc đầu tư của Quỹ Mekong được thực hiện một cách có chọn lọc, đấy là những
công ty được quản lý tốt. Những công ty này là những công ty có đội ngũ lãnh đạo tốt, có
tầm nhìn chiến lược, có khát khao thành công.
Các nhà đầu tư của quỹ bao gồm: Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB), Quỹ Phát
triển Bắc Âu (NDF), Văn Phòng Vụ Kinh tế Thụy Sỹ (SECO), Quỹ hợp tác công nghiệp
Phần Lan (Finnfund), Công ty đầu tư vào các nước đang phát triển của Bỉ (BIO) và các
nhà đầu tư tư nhân khác.
Quỹ Doanh Nghiệp Mekong tập trung đầu tư vào cổ phần của các doanh nghiệp tư
nhân tại Việt Nam, Lào và Campuchia (“Vùng Mekong”). Đầu tư cổ phần có thể bao
gồm cổ phần phổ thông, cổ phần ưu đãi, trái phiếu chuyển đổi và các loại chứng khoán
liên quan đến cổ phần khác. Quỹ đặt mục tiêu đạt được mức lợi nhuận thu được cao nhất
có thể đối với các khoản đầu tư của mình và đồng thời tạo được tác động tích cực đến sự
phát triển của các doanh nghiệp tư nhân tại vùng Mekong. Quỹ hướng đến việc đạt được
các mục tiêu của mình bằng cách đưa ra những sự trợ giúp đáng kể cho các công ty mà
Quỹ đầu tư, đặc biệt trong việc giúp họ phát triển hệ thống quản lý trong các lĩnh vực như
quản trị nhân sự, quản lý mối quan hệ khách hàng, bán hàng và tiếp thị, quản lý tài chính,
hệ thống quản lý thông tin, v.v. dựa trên những thông lệ quốc tế tốt nhất.
Chiến lược đầu tư của quỹ Mekong:
Chiến lược đầu tư trọng điểm
Quỹ tập trung đầu tư vào các công ty tư nhân được quản lý tốt tại Việt Nam, Lào và
Cam-pu-chia. Khi xem xét các cơ hội đầu tư tiềm năng, MEF cho rằng lòng tận tụy, động
cơ thúc đẩy làm việc và năng lực của các chủ doanh nghiệp và ban quản lý cấp cao của
công ty là yếu tố quan trọng nhất. Tuy nhiên, MEF cũng xem xét các vấn đề khác ví dụ
như công ty có thể lớn mạnh bao nhanh nếu đội ngũ quản lý thực hiện thành công kế
hoạch kinh doanh. MEF cũng xem xét khả năng của mình trong việc tạo thêm giá trị cho
công ty sau khi Quỹ Doanh Nghiệp Mekong đầu tư vào bởi vì MEF chỉ đầu tư vào các
công ty mà MEF có thể tạo thêm giá trị với tư cách là một cổ đông.
Những ngành Quỹ tập trung đầu tư
Quỹ tập trung đầu tư vào những ngành sản xuất nhưng có thể xem xét đến các lĩnh vực
khác. Các lĩnh vực Quỹ tập trung đầu tư gồm có:
1. Chế biến nông sản và hải sản;
2. Sản xuất đồ gỗ, bàn ghế và thủ công mỹ nghệ;
3. Công nghiệp nhẹ, bao gồm may mặc, giày dép và đồ nhựa;
4. Sản xuất nguyên liệu cho các ngành công nghiệp;
5. Các công ty tập trung vào việc quảng bá thương hiệu và hệ thống phân phối;
6. Chế tạo máy móc và thiết bị;
7. Gia công phần mềm và phần mềm quản lý quy trình kinh doanh.
Quỹ không chỉ giới hạn đầu tư vào những ngành này mà có thể đầu tư vào những lĩnh
vực khác. Tuy nhiên, quỹ sẽ không đầu tư vào các lĩnh vực bất động sản, khách sạn hoặc
ngân hàng.
Tạo thêm giá trị với tư cách là Nhà đầu tư
Chiến lược của Quỹ được dựa trên nguyên tắc Quỹ sẽ làm tăng thêm giá trị đáng kể cho
các công ty mà Quỹ đầu tư. Với tư cách là nhà đầu tư cổ phần, Quỹ có động lực mạnh mẽ
trong việc cố gắng làm gia tăng giá trị các khoản đầu tư của mình bằng cách tư vấn và hỗ
trợ rất hữu ích cho các công ty được đầu tư.
Các công ty mà Quỹ Mekong tham gia đầu tư
Tên công ty
Vốn đầu
tư của
Quỹ
Mekong
(USD)
Thời
gian đầu
tư
Tóm tắt về ngành nghề kinh doanh
Công ty cổ
phần xây
dựng kiến
trúc AA
1.530.000
03 – 2004
và
01 - 2005
Công ty AA là công ty hàng đầu về trang trí nội
thất và sản xuất các mặt hàng đồ gỗ tại Việt Nam.
AA xác định vị trí riêng biệt trên thị trường bằng
tiêu chuẩn chất lượng cao và nét văn hóa sâu sắc
của doanh nghiệp là chú ý chi tiết. AA cũng cam
kết theo đuổi chính sách liên tục phát triển về
chất lượng của đội ngũ quản lý.
Công ty cổ
phần nhựa
Tân Đại
Hưng
1.600.000 03 – 2003
Tân Đại Hưng là nhà sản xuất hàng đầu của Việt
Nam chuyên sản xuất bao dệt PP (Poly-
Propylene), bao jumbo, bao Container, bao lưới
Raschel, bao Leno, bao PE (Poly-Ethylene) tráng
PP, bao HDPE (High Density Poly-Ethylene) và
bao LDPE (Low Density Poly-Ethylene).
Các loại bao này thường được sử dụng để đóng
gói phân bón, gạo, đường, thức ăn gia súc, hóa
chất và các sản phẩm nông nghiệp khác.
Công ty cổ
phần tin học
Lạc Việt
745.000 10 – 2003
LẠC VIỆT là một trong số các công ty chuyên
về công nghệ thông tin hàng đầu tại Việt Nam.
LẠC VIỆT đã xây dựng một số phần mềm ứng
dụng hoàn chỉnh, một vài trong số đó là các sản
phẩm hàng đầu trong thị trường ở Việt Nam. Sức
mạnh của LẠC VIỆT thể hiện qua cam kết của
công ty không ngừng hoàn thiện phương pháp
sản xuất phần mềm và sự tiên phong của công ty
trong việc nhận dạng và đáp ứng các yêu cầu của
khách hàng.
Công ty cổ
phần dây
điện từ Ngô
Han
1.850.000 04 - 2004
Công ty Cổ phần Ngô Han (“Ngô Han”) là nhà
sản xuất dây điện từ chuyên nghiệp hàng đầu tại
Việt Nam, với khoảng 40% thị phần. Công ty sản
xuất nhiều cỡ dây điện từ tròn và dẹp. Dây điện
từ được sử dụng chủ yếu trong động cơ, máy biến
thế, tăng phô, máy ổn áp, linh kiện điện tử và các
thiết bị khác dùng để tạo hoặc chuyển đổi điện từ
trường.
Công ty cổ
phần và
thương mại
Nam Hoa
900.000 06 – 2004
Nam Hoa là công ty hàng đầu tại Việt nam về sản
xuất đồ chơi bằng gỗ cho trẻ em ở độ tuổi từ 1
đến 10 tuổi. Nam Hoa xác định vị trí riêng biệt
trên thị trường bằng nét văn hoá sâu sắc của
doanh nghiệp là sự cam kết tuân theo các tiêu
chuẩn chất lượng và các tiêu chuẩn an toàn của
đồ chơi cũng như việc chú ý đến chi tiết. Nam
Hoa cũng cam kết thường xuyên phát triển chất
lượng của đội ngũ quản lý doanh nghiệp và cải
thiện hệ thống quản lý.
Công ty cổ
phần sản
xuất và
thương mại
1.000.000 11- 2004
Minh Phúc là một công ty in bao bì của Việt nam
hiện đang có tốc độ phát triển nhanh chóng,
chuyên về in bao bì bằng giấy, foil kim loại, nhãn
hàng hoá và bao thư. Minh Phúc có các thiết bị in
Minh Phúc ấn hiện đại sử dụng công nghệ in offset và in ống
đồng.
Công ty cổ
phần chế
biến gỗ Đức
Thành
1.350.000 02 – 2005
Công ty Cổ phần Chế biến Gỗ Đức Thành (“Đức
Thành”) là nhà sản xuất chuyên nghiệp hàng đầu
về hàng nhà bếp và gia dụng làm bằng gỗ cao su
và gỗ tràm bông vàng tại Việt Nam. Đức Thành
xác định vị trí chuyên biệt trên thị trường bởi tính
ưu việt trong hoạt động điều hành và quản lý quy
trình sản xuất nhằm đạt chất lượng cao và luôn
giao hàng đúng hạn.
Công ty cổ
phần may
Minh Hoàng
1.850.000 04 - 2005
Minh Hoàng là một trong những công ty may tư
nhân lớn nhất về cả lực lượng lao động và khả
năng sản xuất.Công ty có 1350 công nhân và
1020 máy may. Công ty đang có kế hoạch mở
rộng khả năng sản xuất lên gấp đôi.
Ngoài 2 quỹ cơ bản trên, chúng ta còn có thể kể tên các quỹ đang hoạt động tại
Việt Nam như IDG (vốn 100 triệu USD, đầu tư mạo hiểm), PXP (Phan – Xi – Phăng),
VOF, Vina Capital... Một số quỹ như Arisaig Asian Fund (Singapore), DEG (Đức), FMO
(Thụy Sỹ) chưa mở văn phòng đại diện ở Việt Nam nhưng đã đặt chân vào thị trường cổ
phiếu. Trên là các quỹ đầu tư nước ngoài, còn các quỹ đầu tư trong nước có thể kể đến là
Thành Việt, quỹ của các công ty bảo hiểm như Prudential, Manulife, Bảo Việt, AIA, Bảo
Minh – CMG.
4. Một số bài học rút ra
Có thể rút ra nhiều bài học cho việc hình thành và phát triển ngành quỹ đầu tư
chứng khoán tại Việt Nam qua kinh nghiệm của các thị trường trên thế giới cũng như các
quỹ nước ngoài tại Việt Nam. Kinh nghiệm này được rút ra từ tiến trình phát triển của thị
trường quỹ đầu tư từ giai đoạn ban đầu sơ khai đến khi đạt được sự phát triển nhất định.
Và các bài học rút ra dưới đây chính là những nét chung, có thể áp dụng trong điều kiện
sơ khai của thị trường Việt Nam.
Về tiến trình hình thành các quỹ đầu tư tại các nước: các quỹ đầu tư tại các nước
đều hình thành sau khi thị trường chứng khoán đã có một khoảng thời gian phát triển nhất
định.
Về mô hình quỹ đầu tư thì có thể thấy rằng với các thị trường phát triển, có thể áp
dụng cả 2 mô hình quỹ công ty và mô hình quỹ hợp đồng nhằm tạo ra một cơ chế cạnh
tranh linh hoạt giữa các định chế, đồng thời tạo ra sự biến đổi mạnh mẽ của thị trường tài
chính. Còn với các thị trường mới nổi, do hệ thống pháp luật chưa hoàn thiện, các quỹ
đầu tư hầu hết hoạt động theo mô hình quỹ hợp đồng.
Một đặc điểm về hình thái ban đầu của quỹ đầu tư tập thể mà tất cả các thị trường
chứng khoán, trong tiến trình phát triển của ngành quỹ đầu tư đều có nét chung. Đó là
các quỹ đầu tư dạng đóng được hình thành và phát triển trước các quỹ đầu tư dạng mở.
Điều này có thể lý giải là do cơ cấu vốn ổn định của các quỹ đầu tư dạng đóng giúp cho
các tổ chức quản lý quỹ chủ động trong việc đầu tư mang tính dài hạn trong điều kiện
kinh nghiệm đầu tư chuyên nghiệp chưa nhiều.
Về hệ thống pháp luật điều chỉnh ngành quỹ đầu tư, có thể thấy mỗi nước đều có
các bộ luật điều chỉnh quan hệ trong quỹ đầu tư, hoặc tối thiểu cũng là các chương lớn
trong các bộ luật về chứng khoán. Quỹ đầu tư là loại định chế tài chính có cơ cấu tổ chức
hoạt động tương đối phức tạp. Quỹ đầu tư tập thể hoạt động với hai vai trò trên thị
trường: một nhà phát hành và một nhà đầu tư có tổ chức. Vấn đề cốt lỗi trong mục đích
điều chỉnh loại hình định chế này của hệ thống pháp luật các nước chính là tính chất đại
chúng của việc phát hành và việc bảo vệ quyền lợi của người uỷ thác tiền là những người
đầu tư vào quỹ. Vì vậy pháp luật về quỹ đầu tư được đưa ra nhằm bảo vệ quyền lợi các
bên có liên quan, tránh việc xâm hại lợi ích lẫn nhau do xung đột quyền lợi trong hoạt
động giữa các bên có liên quan.
Về quy mô, tính tất yếu là các quỹ đầu tư đi từ quy mô nhỏ lên quy mô lớn. Với
các thị trường mới nổi, nơi các quỹ hợp đồng là phổ biến,việc các công ty quản lý quỹ
được hình thành là điều hiển nhiên do nguyên nhân gì thì trên cũng đã nêu. Các công ty
quản lý quỹ theo mô hình này cũng đòi hỏi phải có mức vốn pháp định tương đối lớn và
một cơ cấu sở hữu gồm các tổ chức tài chính lớn, hoặc là công ty con của một tổ chức tài
chính lớn nhằm để thể hiện tiềm năng của công ty quản lý quỹ là tổ chức đứng ra huy
động vốn lập quỹ cũng như tạo niềm tin cho công chúng khi đầu tư vào các quỹ do công
ty quản lý.
Đối với các thị trường phát triển trong khuynh hướng toàn cầu hoá và tự do hoá thị
trường tài chính hiện nay, sự tham gia của các tổ chức nước ngoài vào việc huy động vốn
lập quỹ cũng như thành lập các tổ chức quản lý quỹ không chịu bất kỳ sự hạn chế nào.
Tuy nhiên, đối với các thị trường mới nổi, do còn hạn chế về trình độ phát triển cũng như
năng lực quản lý nên đều có giới hạn nhất định về mức độ tham gia của các tổ chức kinh
doanh chứng khoán nước ngoài vào các công ty quản lý quỹ cũng như tỷ lệ tham gia đầu
tư vào các quỹ của nhà đầu tư nước ngoài.
Ở rất nhiều nước, quỹ đầu tư ra đời không phải tự phát hình thành mà xuất phát từ
định hướng phát triển của chính phủ từng nước, nhằm hình thành các định chế đầu tư có
tổ chức, góp phần bình ổn hoạt động của thị trường chứng khoán nói chung.
Tóm lại kinh nghiệm về quỹ đầu tư chỉ là những tham khảo cần thiết cho việc hình
thành và phát triển một quỹ đầu tư như VF1. Những kinh nghiệm trên sẽ giúp chúng ta có
khả năng đưa ra một lộ trình phát triển, một chiến lược toàn diện cho sự phát triển của
quỹ VF1.
Chương IV: Đề xuất chiến lược hoạt động của Quỹ đầu tư chứng khoán Việt
Nam VF1.
1. Tiêu chí lựa chọn chiến lược
Quỹ đầu tư chứng khoán Việt Nam là một quỹ cân bằng nên mục tiêu VF1 hướng
đến là một danh mục đầu tư ổn định, cân đối.
Bản chất của quỹ đầu tư là đầu tư trung và dài hạn nên ngay trong hiện tại đòi hỏi
quỹ phải mang lại một khoản lợi nhuận cao là không phù hợp. Phải xác định rõ rằng, thu
nhập của một quỹ đầu tư là từ cổ tức, trái tức và giá trị chênh lệch khi thanh toán các
khoản đầu tư. Nên chỉ mới qua vài tháng hoạt động VF1 chưa thể tạo ra lợi nhuận mong
muốn. Nhiều nhà đầu tư không hiểu rằng mục tiêu của một quỹ đầu tư là tăng trưởng chứ
không phải là thu nhập. Như vậy kì vọng về thu nhập lớn của người đầu tư cơ hội không
đạt được, họ tiến hành “giải phóng” ngay khoản đầu tư và kết quả là VF1 bị bán ra ồ ạt,
trong khi người mua vào chủ yếu là các nhà đầu tư nước ngoài. Hiện nay VF1 đang giao
dịch với giá chiết khấu khoảng 8-9% so với mệnh giá trong khi NAV của VF1 ở mức
10433đ/1CP. Như vậy rõ ràng, trong mắt các nhà đầu tư, VF1 không còn hấp dẫn nữa.
Tuy nhiên trong danh mục đầu tư của VF1 thì hầu hết các công ty mà quỹ đầu tư
đều có kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh tốt và có mức tăng trưởng ổn định, phù hợp
với dự đoán cũng như chiến lược của VFM.
Chính sự giảm sút niềm tin vào VF1 đã làm cho kế hoạch mở rộng thêm các quỹ
khác của VFM bị trì hoãn lại. Bây giờ vấn đề với VF1 là phải làm cho các nhà đầu tư
hiểu rõ bản chất của các quỹ đầu tư, “đồng cam cộng khổ” với VF1. Khi lấy được niềm
tin của nhà đầu tư thì hoạt động của VF1 mới mang lại hiệu quả đích thực, ngay cả trong
quá trình đầu tư của VF1. Vậy chiến lược đề ra phải làm sao cho nhà đầu tư hưởng ứng
với hoạt động của VF1, chấp nhận tính chất dài hạn của VF1, đồng thời tạo cơ hội cho
VFM huy động thêm các quỹ mới với những tiêu chí đầu tư mới.
2. Đề xuất chiến lược
Vậy với tiêu chí lựa chọn chiến lược hướng trước hết về nhà đầu tư và với mô
hình SWOT chúng ta sẽ đề ra các chiến lược sau:
- Tăng cường chăm sóc nhà đầu tư, lấy lại niềm tin từ phía nhà đầu tư, tiếp thu ý
kiến đóng góp của nhà đầu tư nhằm giúp cho VF1 ngày càng hoàn thiện hơn. VFM sẽ
phải tiếp xúc nhiều hơn với các nhà đầu tư, giải thích rõ với nhà đầu tư để họ hiểu bản
chất, mục tiêu và phương hướng đầu tư của VF1. Thiết nghĩ khi đã hiểu rõ bản chất của
quỹ đầu tư thì họ sẽ có một sự tính toán, cân nhắc kĩ lưỡng phù hợp với mục tiêu của
mình chứ không phải bán ra ồ ạt theo tâm lý đám đông như bây giờ. Ngoài ra, để tăng
cường lòng tin của nhà đầu tư thì nhất thiết phải có một hành lang pháp lý cho ngành quỹ
đầu tư để bảo vệ lợi ích của nhà đầu tư và tạo nên nền tảng cho sự hoạt động của ngành
quỹ đầu tư..
- Bước tiếp theo là sẽ củng cố cơ chế đầu tư, bênh cạnh việc chăm sóc những
khoản đã đầu tư, VF1 sẽ tìm những cơ hội đầu tư mới và có thể có sự chuyển hóa các
khoản đầu tư từ lĩnh vực này sang lĩnh vực khác. Ngoài ra, khi VF1 có sự phát triển ổn
định ở một mức độ nhất định thì các nhà quản lý cũng nghĩ đến việc tận dụng những cơ
hội được tạo ra bởi nền kinh tế tăng trưởng cao, từ TTCK hấp dẫn, từ các công ty CPH…
Giải pháp cho vấn đề này là mở rộng quy mô của VF1 bằng việc phát hành thêm các
chứng chỉ quỹ, ghi tăng vốn điều lệ hay là lập các quỹ mới có tiêu chí đầu tư khác nhau
nhằm phục vụ cho các nhu cầu đầu tư khác nhau của các nhà đầu tư.
3. Giải pháp thực hiện
Sau khi niêm yết vào ngày 8/11/2004, kì vọng của nhà đầu tư vào VF1 giảm dần,
nguyên nhân có thể là do tình trạng trầm lắng của thị trường chứng khoán Việt Nam
những tháng cuối năm 2004. Các nhà đầu tư trên TTCK Việt Nam mất niềm tin vào VF1
và chính họ đã làm cho giá VF1 liên tục giảm. Những toan tính vội vàng của các nhà đầu
tư cá nhân khi chưa hiểu rõ về quỹ đã dẫn đến kết cục VF1 giao dịch ở giá chiết khấu có
khi đến 15% so với mệnh giá mặc dù NAV vẫn tăng, đây rõ ràng là cơ hội cho các nhà
đầu tư có tầm nhìn chiến lược.
Sau khi VF1 được niêm yết, việc cập nhật thông tin về nhà đầu tư không được
thường xuyên. Thông tin đến tay nhà đầu tư qua 2 con đường, hoặc là trên website
www.vinafund.com hoặc là trên bản tin của TTCK khi có các thông tin liên quan. Điều
này dẫn đến việc nhà đầu tư mơ hồ trong các luồng thông tin về VF1, các nhà đầu tư
nhiều khi còn không thể biết vốn đầu tư của mình đang được sử dụng thế nào. Tuy là
việc bảo mật thông tin của VFM cũng là vì lợi ích của nhà đầu tư, nhưng VFM cũng nên
quan tâm đến việc chăm sóc nhà đầu tư ở một mức độ nhất định.
Nhận thấy các hoạt động chăm sóc trên đây vẫn chưa đủ, VFM đã tổ chức gần 20
buổi gặp gỡ các nhà đầu tư theo từng nhóm tại miền Bắc và miền Nam để có thể thông
báo cho các nhà đầu tư về các hoạt động của VFM trong thời gian sử dụng vốn của VF1.
Đồng thời buổi gặp gỡ còn giúp các nhà đầu tư hiểu rõ bản chất của quỹ đầu tư VF1 và
đây cũng là dịp để VFM tiếp nhận các ý kiến đóng góp từ phía các nhà đầu tư.
Trong thời gian tới, nhằm đảm bảo việc chăm sóc nhà đầu tư được tốt hơn, tạo
niềm tin của các nhà đầu tư về VF1, VFM triển khai các hoạt động sau:
- Ngoài việc cung cấp các báo cáo giá trị tài sản ròng NAV, báo cáo tài chính và
các thông tin liên quan tại trang web www.vinafund.com, VFM còn thực hiện việc cung
cấp bản tin VF1 gồm các nội dung: tình hình giao dịch chứng chỉ quỹ, các hoạt động đầu
tư của quỹ, phân tích một số dự án tiêu biểu, các thông tin kinh tế, tài chính, pháp luật
liên quan…định kỳ hàng quý. bản tin này được chuyển đến tận tay nhà đầu tư và cũng
được đăng trên website của VFM.
- VFM đề xuất nhà đầu tư đăng ký email để nhận được thông tin qua email một
cách kịp thời khi có thông báo.
- Trên Website www.vinafund.com , tại mục “ý kiến nhà đầu tư” VFM sẽ nhận tất
cả những ý kiến đóng góp, thắc mắc của nhà đầu tư. Và VFM sẽ trả lời cho các nhà đầu
tư trong một thời gian sớm nhất.
- Định kỳ hàng quý, VFM sẽ tổ chức các buổi gặp gỡ, trao đổi với các nhà đầu tư
trên toàn quốc về tình hình hoạt động của quỹ, về những thắc mắc của nhà đầu tư.
- Ngoài ra, nhà đầu tư cũng có thể liên hệ trực tiếp với VFM tại trụ sở chính ở TP
Hồ Chí Minh hay chi nhánh tại Hà Nội để có những thông tin chính xác nhất, kịp thời
nhất về tình hình của VF1.
- Đối với các nhà đầu tư nước ngoài, VFM đang xúc tiến tăng tỉ lệ sở hữu của của
nhà đầu tư nước ngoài lên 49%. Để đáp ứng sự quan tâm của nhà đầu tư nước ngoài,
VFM cũng củng cố lại trang web bằng tiếng Anh và sẽ kết hợp chặt chẽ với các công ty
chứng khoán để hỗ trợ việc cung cấp thông tin cần thiết, mở tài khoản và hướng dẫn giao
dịch chứng chỉ quỹ VF1 cho các nhà đầu tư nước ngoài.
- Lòng tin của nhà đầu tư xuất phát từ việc những lợi ích của họ được đảm bảo. Ý
thức được vấn đề này, VFM sẽ phải tiến hành kết hợp với Bộ Tài chính và Ủy ban chứng
khoán Nhà nước xây dựng bộ luật về quỹ đầu tư. Hiện nay, ngành quỹ đầu tư chưa có
một bộ luật riêng mà các quy chế điều chỉnh quan hệ trong ngành quỹ đầu tư là một phần
trong quy chế 73/2004/QĐ-BTC về quỹ đầu tư chứng khoán và công ty quản lý quỹ. Việc
ra đời một bộ luật về quỹ đầu tư sẽ là khung pháp lý chắc chắn cho sự phát triển của
ngành quỹ đầu tư dựa trên niềm tin của các nhà đầu tư vào quỹ do mình bỏ tiền ra.
Với tất cả nỗ lực như trên, VFM sẽ lấy lại được niềm tin từ các nhà đầu tư. Trong
thời gian tới nhằm đáp ứng nhu cầu đầu tư tài chính của nhà đầu tư, giúp các nhà đầu tư
nắm bắt tốt nhất các cơ hội đầu tư tốt trong nền kinh tế, VFM ngoài việc tăng vốn điều lệ,
sẽ tiến hành huy động các quỹ mới như quỹ địa ốc, quỹ hạ tầng hay quỹ bảo toàn...
Sắp đến cơ hội trên thị trường Việt Nam là rất phong phú. Thứ nhất, gia nhập
WTO sẽ là điều kiện buộc các doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh thông qua việc
nâng cao năng lực tài chính và điều tất yếu là nhu cầu vốn đầu tư trong nền kinh tế tăng
lên. Thứ 2 là sự phát triển nhanh, mạnh của TTCK Việt Nam. Việt Nam đã có 2 trung
tâm giao dịch chứng khoán tại TP Hồ Chí Minh và tại Hà Nội. Trên 2 trung tâm này có
càng nhiều công ty cổ phần niêm yết, mà nổi lên là các công ty có vốn điều lệ lên đến
hàng trăm tỉ. Năm 2005, dự kiến sẽ có 2 NHTMCP lên sàn tạo nên nhiều hàng hóa hấp
dẫn cho thị trường. Thứ 3 là chương trình cổ phần hóa các DNNN được đẩy mạnh.
Hiện nay, VF1 đã được đầu tư 240 tỷ và 60 tỷ còn lại sẽ được nghiên cứu đầu tư
trong thời gian đến. Như vậy khi đầu tư hết số tiền này, để đầu tư vào một dự án, một
chứng khoán khác, buộc lòng quỹ VF1 phải thanh hoán các khoản đầu tư trước để có tiền
đầu tư vào các chứng khoán tiềm năng hơn.
Với các dự án đã đầu tư, VF1 tiến hành chăm sóc các khoản đầu tư nhằm mang lại
sự tăng trưởng mong muốn. Các chuyên gia của VFM sẽ được đưa vào hội đồng quản trị
của các công ty để có thể nắm vững các chiến lược, kế hoạch kinh doanh của công ty,
đồng thời vạch ra các chiến lược cho các công ty giúp tăng giá trị các công ty, đồng thời
giúp cho giá trị các khoản đầu tư của VF1 vào các công ty này cũng tăng. Ngoài ra, các
chuyên gia của VFM thường xuyên nghiên cứu các thông tin liên quan đến hoạt động của
các công ty trong danh mục đầu tư như các báo cáo tài chính, thị phần, mức tăng trưởng
và các thông tin khác về hoạt động kinh doanh. Từ đó sẽ có các chiến lược phù hợp.
- Với các công ty làm ăn tốt, VF1 tiếp tục gắn bó và có những đóng góp giúp công
ty làm ăn tốt hơn. Hơn nữa, VFM sẽ luôn nghiên cứu thị trường, tìm những cơ hội đầu tư
tốt hơn cho VF1 để có thể chuyển hóa các khoản đầu tư khi cần
- Với các công ty làm ăn không tốt, VFM sẽ tham gia vào việc cải thiện tình hình
hoạt động sản xuất kinh doanh. Có thể bằng việc đưa ra các đề án tái cấu trúc công ty,
VFM sẽ hướng hoạt động của các công ty theo mô hình hiện đại, nâng cao sức cạnh
tranh, mở rộng thị phần... giúp công ty làm ăn tốt hơn, cải thiện danh mục đầu tư của
VF1.
Với số tiền còn lại, VF1 tiếp tục nghiên cứu đầu tư vào các công ty có tiềm năng,
có vị thế nhằm củng cố danh mục đầu tư.
Trong thời gian sắp đến, khi mà niềm tin trở lại với chứng chỉ quỹ VF1 thì VFM
cũng có giải pháp cho thị trường hiện nay. Thứ nhất, VF1 sẽ tăng số vốn điều lệ lên bằng
cách phát hành thêm các chứng chỉ quỹ ra công chúng. Quy mô của đợt tăng vốn này phụ
thuộc vào cách đánh giá thị trường của VFM và mức độ hưởng ứng của nhà đầu tư. Quy
mô vốn gấp đôi, tức là 600 tỷ đồng cũng là một trong những con số có thể nghĩ tới. Thứ
2, VFM sẽ xúc tiến thành lập các quỹ mới như quỹ địa ốc, quỹ hạ tầng nhằm tạo kênh thu
hút vốn từ các nhà đầu tư. Mỗi quỹ có một mục tiêu và những hạn chế nhất định trong
hoạt động đầu tư nhằm tạo nên nhiều cơ hội lựa chọn cho các nhà đầu tư. Việc ra đời các
quỹ mới sẽ giúp nhà đầu tư so sánh hoạt động của các quỹ với VF1 và có sự lựa chọn
đúng đắn.
Tóm lại, hiện nay có rất nhiều việc cần phải làm để VF1 đi vào ổn định và khẳng
định được vị thế của mình, một định chế tài chính mới. Chăm sóc nhà đầu tư và hoạt
động đầu tư là 2 việc quan trọng nhất cần phải làm. Chăm sóc nhà đầu tư tốt sẽ tạo được
niềm tin của nhà đầu tư với VF1, giúp VF1 yên tâm trong hoạt động đầu tư cũng như
việc kêu gọi thêm vốn cho hoạt động đầu tư. Hoạt động đầu tư tốt, mang lại hiệu quả cho
danh mục đầu tư cũng sẽ tạo được niềm tin của nhà đầu tư vào VF1. Như vậy, với tiến
trình thực hiện chiến lược trên, VF1 sẽ đạt được hiệu quả mong muốn trên khía cạnh nhà
đầu tư, công ty quản lý quỹ cũng như trên khía cạnh cả nền kinh tế.
Kết luận.
Quỹ đầu tư là một định chế tài chính khá mới mẻ đối với thị trường Việt Nam.
Hoạt động của một quỹ đầu tư mới mẻ như VF1 sẽ gắn liền với những cơ hội phát triển
và đồng thời với đó là những thách thức không nhỏ.
Nền kinh tế Việt Nam đang trong đà tăng trưởng hàng năm khá cao, nhiều cơ hội
được mở ra với các nhà đầu tư khi Việt Nam được gia nhập WTO. Đứng trước áp lực hội
nhập ngày càng mạnh mẽ, tất cả các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế ráo riết
tìm vốn, mở rộng sản xuất kinh doanh, tăng cường tính cạnh tranh trên thị trường ngày
một được mở rộng. Về phía nhà nước, chủ trương cổ phần hóa các công ty nhà nước đảm
bảo tính tự chủ trong kinh doanh được đẩy mạnh, các văn bản pháp luật ngày càng giảm
tính chất bảo hộ với nền kinh tế. Đây là cơ hội phát triển tốt của ngành quỹ đầu tư nói
chung.
Tuy nhiên, đi liền với các cơ hội là các thách thức từ sự cạnh tranh trong ngành, từ
các sản phẩm tài chính khác… Ngoài ra VF1 còn phải chấp nhận đương đầu với những
rủi ro xảy đến với một nền kinh tế đang lên như Việt Nam.
Trong phạm vi luận văn của mình tôi đã làm rõ được hoạt động cũng như quy
trình đầu tư của quỹ. Từ hiện trạng hoạt động của quỹ, tôi đã đưa ra các chiến lược chính
nhằm khẳng định vị thế của một mô hình đầu tư mới, một phương thức tài trợ cho hoạt
động của các doanh nghiệp trong điều kiện hội nhập hiện nay. Trên đây là những ý kiến
đề xuất, lộ trình thực hiện nhằm đạt được mục đích cuối cùng của một quỹ đầu tư là nâng
cao vị thế của mình trong giới đầu tư, mở đường cho một ngành còn rất mới mẻ nhưng
đầy tiềm năng, ngành quỹ đầu tư.
Các tài liệu tham khảo
1. Những vấn đề cơ bản về chứng khoán và thị trường chứng khoán
Ủy ban chứng khoán nhà nước
2. Hình thành và phát triển Quỹ đầu tư chứng khoán và công ty quản lý quỹ tại
Việt Nam – Đề tài khoa học cấp bộ của Ủy ban chứng khoán Nhà nước
3. Quỹ đầu tư chứng khoán tại Việt Nam – Global Financial Market Research.
4. Giáo trình Thị trường chứng khoán – ĐH Kinh tế Quốc dân
5. Trang web www.vinafund.com
6. Báo đầu tư chứng khoán số 281, 282, 283.
7. Và các tài liệu tham khảo khác
Mục lục
Lời mở đầu. 6
Chương I: Hoạt động của quỹ đầu tư chứng khoán. 8
1. Quỹ đầu tư chứng khoán: 8
1.1. Các khái niệm liên quan 8
1.1.1. Quỹ đầu tư chứng khoán 8
1.1.2. Công ty quản lý quỹ 8
1.1.3. Đại hội người đầu tư 8
1.1.4. Ban đại diện quỹ 9
1.1.5. Ngân hàng giám sát 9
1.1.6. Công ty tư vấn luật 9
1.2. Các loại quỹ tại Việt Nam 10
1.2.1. Quỹ mở và quỹ đóng 10
1.2.2. Quỹ công chúng và quỹ thành viên 11
1.2.3. Quỹ công ty và quỹ hợp đồng 11
1.3. Lợi thế của quỹ đầu tư chứng khoán 11
1.4. Vai trò của quỹ đầu tư chứng khoán trên thị trường chứng khoán 13
2. Hoạt động của quỹ đầu tư chứng khoán 15
2.1. Mục tiêu và chính sách đầu tư 15
2.1.1. Mục tiêu đầu tư 15
2.1.2. Chính sách đầu tư 15
2.2. Huy động vốn và cấu trúc vốn 16
2.2.1 Huy động vốn 16
2.2.2 Cấu trúc vận động vốn 17
2.2.3. Cơ cấu vốn 19
2.3. Hoạt động đầu tư 20
2.3.1. Phân tích đầu tư 20
2.3.2. Thông qua mục tiêu đầu tư 21
2.3.3. Phân bổ tài sản 21
2.3.4. Lựa chọn chứng khoán 23
2.4. Các hạn chế trong đầu tư 24
2.5. Quản trị quỹ và vấn đề xung đột quyền lợi 25
2.5.1. Quản trị quỹ 25
2.5.2. Các hình thức xung đột có thể xảy ra 26
2.6. Công bố thông tin và giám sát 27
2.6.1. Công bố thông tin 27
2.6.2. Giám sát 27
3. Đánh giá hoạt động của quỹ đầu tư chứng khoán 27
3.1. Các tiêu chí đánh giá 27
3.1.1. Tổng thu nhập của quỹ, tỷ lệ thu nhập 27
3.1.2. Tỷ lệ chi phí 28
3.1.3. Tỷ lệ doanh thu 28
3.1.4. Chất lượng hoạt động của công ty quản lý quỹ 29
3.2. Quy trình xác định tài sản ròng 29
3.2.1. Thời gian xác định việc định giá 29
3.2.2. Nguyên tắc thực hiện việc định giá NAV 29
3.2.3. Kế hoạch phân chia lợi nhuận 29
3.3. Phí, lệ phí và thưởng hoạt động 29
3.3.1. Phí thường niên 30
3.3.2. Thưởng hoạt động 30
4. Phương pháp xây dựng chiến lược 30
4.1. Các phương pháp để xây dựng chiến lược 30
4.2. Giới thiệu về mô hình phân tích SWOT 30
Chương II: Hoạt động của Quỹ đầu tư chứng khoán Việt Nam VF1. 36
1. Tổng quan về quỹ đầu tư chứng khoán Việt Nam VF1 36
1.1. Các định nghĩa 36
1.2. Ban đại diện quỹ đầu tư VF1, Công ty quản lý quỹ, Ngân hàng giám sát và
các bên có liên quan.
36
1.2.1. Ban đại diện quỹ 37
1.2.2. Công ty liên doanh quản lý quỹ đầu tư chứng khoán Việt Nam VFM 37
1.2.3. Ngân hàng giám sát 37
1.2.4. Công ty kiểm toán 37
1.2.5. Công ty tư vấn luật 38
1.3. Mục tiêu đầu tư 38
1.4. Chính sách đầu tư 39
1.5. Quy trình đầu tư 40
1.5.1. Phân tích vĩ mô 41
1.5.2. Phân tích ngành 41
1.5.3. Phân tích Công ty/ Dự án 42
1.5.4. Thẩm định chi tiết 42
1.5.5. Ra quyết định 43
1.5.6. Theo dõi 43
2. Huy động vốn và cấu trúc vốn 44
2.1 Huy động vốn 44
2.2 Cơ cấu vốn 44
3. Hoạt động đầu tư 45
3.1 Tiến trình phân bổ nguồn vốn Quỹ đầu tư VF1 45
3.2. Kết quả hoạt động của quỹ VF1 trong năm 2004 47
3.3. Sơ lược về các công ty lớn mà VF1 đang đầu tư. 49
4. Các hoạt động sau đầu tư 53
4.1. Công bố thông tin và giám sát 53
4.3.1. Công bố thông tin 53
4.3.2. Giám sát 53
4.2. Quy trình xác định tài sản ròng. 54
4.2.1. Thời gian xác định việc định giá 54
4.2.2. Nguyên tắc thực hiện việc định giá 54
4.3. Phân chia lợi nhuận 55
5. Phân tích SWOT hoạt động của VF1 55
5.1. Điểm mạnh 55
5.2. Điểm yếu 57
5.3. Cơ hội 59
5.4. Thách thức 65
6. Các chiến lược rút ra từ mô hình SWOT 68
6.1. Chiến lược SO (Strengths – Opportunities) 68
6.2. Chiến lược WO (Weaknesses – Opportunities) 71
6.3. Chiến lược ST (Strengths – Threats) 74
6.4. Chiến lược WT (Weaknesses – Threats) 77
6.5. Ma trận SWOT 78
Chương III: Mô hình Quỹ đầu tư tại các nước và một số bài học từ quá trình
hình thành và hoạt động của quỹ đầu tư ở các nước và Việt Nam
80
1. Quỹ đầu tư tại một số thị trường phát triển 80
1.1. Mỹ 80
1.2. Nhật Bản 81
1.3. Anh 83
2. Quỹ đầu tư tại một số thị trường đang lên 84
2.1. Hàn Quốc 84
2.2. Thái Lan 84
2.3. Malaysia 85
2.4. Trung Quốc 86
3. Quỹ đầu tư tại Việt Nam 87
3.1. Vietnam Enterprise Investment Limited 87
3.2. Mekong Enterprise Fund 88
4. Một số bài học rút ra 93
Chương IV: Đề xuất chiến lược hoạt động của Quỹ đầu tư chứng khoán Việt
Nam VF1.
96
1. Tiêu chí lựa chọn chiến lược 96
2. Đề xuất chiến lược 96
3. Giải pháp thực hiện 97
Kết luận 103
Các từ viết tắt được dùng trong luận văn
DCG
VEIL
Sacombank
IFC
VFM
NAV
VF1
WTO
CPH
TTCK
MEF
UBCKNN
NY
Dragon Capital Group
Viet Nam Enterprise Investment Ltd.
Ngân hàng Sài Gòn Thương Tín
International Finance Company
VietFund Management
Net Asset Value, giá trị tài sản ròng
Quỹ đầu tư chứng khoán Việt Nam
World Trade Organization
Cổ phần hóa
Thị trường chứng khoán
Mekong Enterprise Fund
Ủy ban Chứng khoán Nhà nước
Niêm yết
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- Chiến lược hoạt động của quỹ đầu tư chứng khoán Việt Nam VF1.pdf