Luận văn Chính sách an sinh xã hội đối với người cao tuổi tại Việt Nam

Luận văn đã khái quát được những vấn đề lý thuyết cơ bản về chính sách ASXH, già hóa dân số, những tổng quan chung về chính sách HXH, HYT, TXH và đồng thời đã phân tích được sự tác động qua lại giữa già hóa dân số và chính sách trên. Già hóa dân số đang diễn ra trên tất cả các khu vực và các quốc gia trên thế giới với tốc độ khác nhau.Mỗi quốc gia cần có sự chuẩn bị chu đáo về mọi mặt và cần lộ trình phù hợp để thích ứng với vấn đề già hóa dân số. Đề tài đưa ra số liệu của một số quốc gia có tỷ lệ người già chiếm tỷ lệ cao trong dân số để khái quát những vấn đề, thách thức khi già hóa diễn ra cũng như những kinh nghiệm để đối phó hiệu quả với vấn đề này, những quốc gia được lựa chọn cũng nằm ở những khu vực khác nhau và đại diện cho những quốc gia có điều kiện kinh tế xã hội tương tự. Một số giải pháp hiệu quả được các quốc gia áp dụng có thể kể đến như tăng tuổi nghỉ hưu, khuyến khích người cao tuổi tiếp tục làm việc sau khi hưởng chế độ hưu trí, cải cách hệ thống y tế,. Các kinh nghiệm này rất hữu ích đối với Việt Nam trong việc chuẩn bị, thích ứng và giải quyết những thách thức do già hóa dân số mang lại. Đề tài cũng đã nêu và phân tích được thực trạng dân số và vấn đề già hóa dân số tại Việt Nam, nêu được quy mô, mật độ cũng như cơ cấu dân số nước ta, đồng thời đưa ra những dự báo, đánh giá về dân số Việt Nam đến năm 2049. Đối với vấn đề già hóa dân số ở Việt Nam, đề tài cũng đã khái quát được những đặc điểm về nhân khẩu học, đặc điểm đời sống văn hóa tinh thần của người già, đặc điểm về sức khỏe, hoạt động kinh tế, thu nhập của người cao tuổi. Qua phân tích, nghiên cứu có cơ sở để đưa ra những khuyến nghị về các giải pháp xây dựng chính sách ASXH ổn định, bền vững trong xu hướng già hóa dân số./.

pdf108 trang | Chia sẻ: yenxoi77 | Lượt xem: 1101 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Chính sách an sinh xã hội đối với người cao tuổi tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tỷ lệ hỗ trợ tiềm năng giảm nhanh chóng cho thấy trách nhiệm đáp ứng nhu cầu của người già phụ thuộc ngày càng đè nặng lên dân số ở độ tuổi lao 71 động. Làm cho lực lượng lao động thu nhỏ và số lượng người cao tuổi phụ thuộc tăng lên sẽ có nghĩa là giảm sút về thu nhập bình quân đầu người, tỷ lệ tiết kiệm, đầu tư và năng suất cũng như việc tăng chi tiêu công cho an sinh xã hội, chăm sóc sức khoẻ và phúc lợi của người cao tuổi. Không những thế, tỷ lệ hỗ trợ tiềm năng giảm còn dẫn đến nguy cơ vỡ quỹ Bảo hiểm xã hội, đặc biệt đối với các hệ thống trả lương hưu như ở Việt Nam theo hình thức trả lương trong đó những người lao động hiện tại chi trả cho những người đang nghỉ hưu. Biểu 8: Dự báo tuổi thọ trung bình Việt Nam (2005 – 2030) Năm Chung Nam Nữ 2005 – 2010 74.3 72.4 76.2 2010 – 2015 75.4 73.3 77.4 2015 – 2020 76.4 74.2 78.4 2020 – 2025 77.2 75.1 79.3 2025 – 2030 78.0 75.8 80.0 (Nguồn: United Nations (2008) Tháp tuổi dân số nước ta vào qua các năm của thời kỳ dự báo 2009 - 2049, đã cho thấy rõ sự thay đổi cơ cấu tuổi theo hướng lão hoá. Hình 3: Tháp dân số 2019, 2029, 2039, 2049 72 73 3.2. Hoàn thiện c ín sác AS H đối với Người cao tuổi 3.2.1. Quan điểm, địn ướng về hoàn thiện chính sách Ngay từ khi thành lập và thống nhất đất nước, Đảng và Nhà nước ta đặt quyết tâm phát triển hệ thống an sinh xã hội bảo đảm thực hiện ngày càng tốt hơn các quyền cơ bản của người dân, phù hợp với trình độ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và tiếp cận dần với chuẩn mức quốc tế. Hệ thống chính sách ASXH dành cho NCT tại Việt Nam nhằm bảo đảm cho mọi người cao tuổi ít nhất có được mức tối thiểu về thu nhập, có cơ hội tiếp cận ở mức tối thiểu về các dịch vụ xã hội cơ bản, thiết yếu thông qua việc nâng cao năng lực tự an sinh của người dân và sự trợ giúp của Nhà nước. Trên quan điểm hướng tới xây dựng hệ thống an sinh xã hội dành cho NCT đa dạng, toàn diện, từng bước mở rộng diện bao phủ, có tính chia sẻ giữa Nhà nước, xã hội và người dân, giữa các nhóm dân cư trong một thế hệ và giữa các thế hệ đang là đích đến của việc học tập các quốc gia trên thế giới. Theo đó, chính sách an sinh xã hội dành cho NCT cần tập trung vào một số nội dung chính như sau: Đầu tiên chúng ta nên tập trung vào những chính sách có thể tạo ra thu nhập cho NCT. Việt Nam ta là nước “già trước khi giàu”. Nhật Bạn bước vào giai đoạn già hóa dân số khi họ đã là đất nước phát triển, có nền kinh tế ổn định và họ cũng đã trải qua rất nhiều khó khăn để thay đổi và thích ứng. Trong khi Việt Nam chúng ta vẫn còn là nước đang phát triển, khả năng đối mặt với già hóa dân sẽ khó khăn hơn Nhật Bản gấp nhiều lần. Theo tính toán, hiện nay số người đóng HXH để hưởng chế độ hưu trí ước là 30%, vậy 70% còn lại không có nguồn tài chính ổn định, như vậy Nhà nước nên tăng cường chính sách tạo ra cơ hội có việc làm, bảo đảm thu nhập tối thiểu và giảm nghèo bền vững cho nhóm người không có lương hưu hay những trợ cấp xã hội khác. Thứ hai là mở rộng cơ hội cho người lao động tham gia hệ thống chính sách bảo hiểm xã hội để mỗi cá nhân có thể chủ động đối phó khi thu nhập bị suy giảm hoặc bị mất do các rủi ro, ốm đau, tai nạn lao động, tuổi già; đồng thời tạo nguồn thu để đảm bảo cân bằng quỹ hưu trí. 74 Tiếp theo là cần nghiên cứu tăng hỗ trợ thường xuyên đối với người cao tuổi có hoàn cảnh đặc thù. Các chính sách cũng cần tăng cường tiếp cận với những tiến bộ của khoa học kỹ thuật, công nghệ thông tin trong việc hoạch định và thực thi chính sách. Với sự hỗ trợ của khoa học thì việc quản lý cũng như thực hiện chính sách sẽ tích cực hơn rất nhiều. Hơn nữa, khi người dân được tiếp cận đầy đủ với thông tin thì sẽ có những chuyển biến rõ rệt trong việc hưởng ứng hay đóng góp cho chính sách. Sự tương tác, qua lại giữa đối tượng thụ hưởng cũng như người làm chính sách sẽ giúp chính sách ngày càng hoàn thiện hơn. 3.2.2. Yêu cầu hoàn thiện chính sách ASXH Với tình hình già hóa dân số hiện nay, số lượng NCT gia tăng với tốc độ nhanh. Bản thân NCT mặc dù là những người nằm ngoài độ tuổi lao động nhưng lại là những người có kinh nghiệm hơn hẳn những độ tuổi khác. Những NCT trong tương lai cũng có thể là một lực lượng lao động ổn định, góp phần vào phát triển kinh tế, văn hoa, xã hội. Những chính sách dành cho NCT ngày càng phải hoàn thiện vừa là để đáp ứng được số lượng lớn đối tượng gia tăng, đồng thời có những phương án để tận dụng những thành quả về chất xám mà sự già hóa dân số đang mang lại. Chính sách ASXH dành cho người cao tuổi cũng là sự thể hiện bản chất của chế độ xã hội. Nhà nước Việt Nam là Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Vì vậy, luôn luôn có sự trao đổi, tương tác giữa những đối tượng NCT vì Nhà nước muốn nghe, muốn biết người dân họ cần gì, những chính sách đã và đang ban hành còn có những bất cập và thiếu sót gì. Do đó, cần nhanh chóng hoàn thiện chính sách, pháp luật về BHXH, HYT trong điều kiện già hóa dân số ở nước ta, hoàn thiện các cơ chế, chính sách trợ cấp, chăm sóc, nuôi dưỡng NCT; hoàn thiện các chính sách theo hướng mở rộng đối tượng thuộc diện hưởng trợ cấp xã hội và điều chỉnh mức trợ cấp hằng tháng đối với NCT phù hợp tình hình kinh tế - xã hội của đất nước... 75 3.2.3. N i dung c ín sác cần o n t iện 3.2.3.1. Đối với chính sách BHXH - Mở rộng ối t ợng tham gia ể tăng số l ợng NCT ợc nhận trợ cấp h u tr Hiện nay, mới chỉ những người lao động thuộc diện đóng HXH bắt buộc và những người đóng HXH tự nguyện từ đủ 20 trở lên tới tuổi nghỉ hưu mới đủ điều kiện hưởng chế độ hưu trí. Với ưu điểm đảm bảo về mặt tài chính cho NCT khi quá độ tuổi lao động thì việc mở rộng đối tượng tham gia đóng HXH, tăng số đối tượng được hưởng chế độ hưu trí sẽ góp phần đảm bảo cuộc sống cho một bộ phận không nhỏ NCT sau này. Bên cạnh đó, việc mở rộng đối tượng tham gia cũng để đảm bảo, duy trì quỹ BHXH trong dài hạn. Đ mạnh h nh s h hỗ trợ việ l m Tất cả các yếu tố đều chỉ ra rằng, già hóa dân số sẽ làm giảm quy mô nguồn lao động và thông qua đó, tác động âm tới tăng trưởng kinh tế. Đặc biệt hơn, với tốc độ già hóa nằm trong nhóm cao nhất thế giới như Việt Nam, tác động của nó tới nền kinh tế còn lớn hơn nhiều. Bên cạnh đó, đẩy mạnh chính sách hỗ trợ việc làm, tạo ra thu nhập giúp NCT có thể ổn định hơn trong cuộc sống. Để sử dụng tối đa nguồn nhân lực trong điều kiện tỷ lệ tham gia lao động giảm dần như hiện nay và giảm bớt gánh nặng cho ngân sách nhà nước trong việc hỗ trợ sinh hoạt cho NCT, chúng ta cần phải có những chính sách hỗ trợ việc làm đối với người cao tuổi hiệu quả, cụ thể: - Thứ nhất, đẩy mạnh các cơ hội việc làm linh hoạt, phù hợp, thúc đẩy người cao tuổi vừa duy trì được sức khỏe, vừa có thu nhập, thay đổi quan niệm và thái độ xã hội về già hóa, nhìn nhận người cao tuổi không phải từ góc độ những người nhận trợ cấp xã hội mà là những thành viên có đóng góp tích cực cho xã hội. 76 Việc tỷ lệ người cao tuổi có học vấn và chuyên môn ngày càng tăng là cơ hội để khuyến khích những người cao tuổi có kĩ năng, kinh nghiệm nghề nghiệp cùng tham gia đào tạo thế hệ trẻ sẽ tạo được hiệu ứng tích cực cả và mặt kinh tế, xã hội, đặc biệt trong các ngành mà học qua thực hành là chủ yếu thì việc này vừa tạo điều kiện cho người cao tuổi tham gia lao động, vừa là hình thức đào tạo tiêt kiệm có hiệu quả. Ngoài đối tượng người cao tuổi có học vấn, đối với người già có khả năng và có mong muốn lao động, cần có chính sách tạo điều kiện và giải quyết việc làm. Để xây dựng được các chính sách về việc làm phù hợp phải đặc biệt chú trọng đến đặc điểm về giới tính của nhóm người cao tuổi, đó là: các cụ bà nhiều hơn cụ ông. Do tính trung bình, phụ nữ sống lâu hơn nam giới nên dân số già chủ yếu là nữ, đặc biệt là nữ trên 80 tuổi, nhiều người trong số họ là goá chồng và dễ bị rơi vào hoàn cảnh nghèo và mù chữ hơn nam giới. Mặc dù về mặt thể lực ốm yếu hơn nam giới nhưng phụ nữ vẫn tiếp tục là người phải quán xuyến việc nhà và tiếp tục kiếm kế sinh nhai mà không hề được bảo vệ về mặt xã hội và pháp luật. Vị thế xã hội thấp, quyền sở hữu tài sản yếu hơn nam giới và sự tiếp cận hạn chế hơn đối với các tài sản thừa kế, dễ tổn thương hơn với các cú sốc kinh tế và xã hội đã ảnh hưởng lớn đến việc bảo đảm kinh tế cho họ đặc biệt ở vào tuổi già. Đây chính là biểu hiện của “nữ hóa dân số cao tuổi ở Việt Nam”. Theo đó cần tiếp tục phát huy vai trò, kinh nghiệm và tạo điều kiện để người cao tuổi tham gia có hiệu quả các hoạt động văn hóa, xã hội, giáo dục, kinh tế, chính trị phù họp với nguyện vọng, nhu cầu, khả năng; Thực hiện đầy đủ các quyền lợi và nghĩa vụ của người cao tuổi. Tạo môi trường và điều kiện tốt để người cao tuổi được phát huy trí tuệ, khả năng và kinh nghiệm, tham gia các hoạt động kinh tế như: Công nghiệp, nông nghiệp, ngư nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, khôi phục nghề và dạy nghề ừuyền 77 thống; tạo điều kiện để người cao tuổi là nhà khoa học, nghệ nhân và những người cao tuổi có kỹ năng, kinh nghiệm đặc biệt có nguyện vọng được tiếp tục cống hiến, truyền thụ những kiến thức văn hóa, xã hội, khoa học và công nghệ, kỹ năng nghề nghiệp cho thế hệ trẻ; Thực hiện hỗ trợ phương tiện sản xuất, chuyển giao công nghệ, tiêu thụ sản phẩm và vốn đầu tư phát triển sản xuất đối với người cao tuổi trực tiếp sản xuất, kinh doanh; Người cao tuổi gương mẫu đi đầu và làm nòng cốt trong phong trào xây dựng xã hội học tập, xây dựng gia đình, dòng họ hiếu học; tạo điều kiện để người cao tuổi tham gia tư vấn về chuyên môn kỹ thuật, ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất và đời sống; Tổ chức các hoạt động để người cao tuổi bày tỏ ý kiến, nguyện vọng, kiến nghị với cơ quan, tố chức về những vấn đề mà ngựời cao tuổi quan tâm; tham gia đóng góp xây dựng chính sách, pháp luật, xây dựng chính quyền các cấp thông qua các tổ chức thành viên của Mặt trận Tổ quốc các cấp và chính tổ chức hội của người cao tuổi. - Thứ hai, đa dạng hóa ngành nghề, đặc biệt là ở khu vực nông thôn và thúc đẩy chất lượng các ngành sử dụng nhiều lao động để nâng cao đóng góp cho nền kinh tế. - Thứ ba, cần có các chính sách phát triển đô thị lớn, nhỏ để đón dòng di cư, phân bố dân số và lao động phù hợp theo yêu cầu từng vùng vì di cư cũng là một yếu tố dịch chuyển lao động rất quan trọng. Trên thực tế báo cáo của BHXH Việt Nam giải trình Quốc hội tháng 6/2017, quỹ Bảo hiểm thất nghiệp trong nhiều năm trở lại đây luôn kết dư, kết dư lớn. Nội dung chi của Quỹ Bảo hiểm thất nghiệp trong đó có trợ cấp thất nghiệp, hỗ trợ tìm kiếm việc làm, Với nguồn kinh phí này, hoàn toàn có thể để xuất, xem xét việc đẩy mạnh những chính sách tìm kiếm, hỗ trợ việc làm cho NCT tại Việt Nam. 78 - C i h hệ thống quỹ h u tr , trợ ấp Để bảo đảm cuộc sống khi về già không còn khả năng lao động, người cao tuổi có thể dựa vào nguồn thu nhập từ lương hưu nhà nước (tham gia HXH , lương hưu tư nhân bảo hiểm nhân thọ và lương hưu xã hội (trợ cấp xã hội từ Nhà nước). Hiện nay, đời sống kinh tế của người cao tuổi ở Việt Nam đã thay đổi, cải thiện nhiều hơn so với 20 năm trước. Tuy nhiên, so với mặt bằng chung, đời sống người cao tuổi vẫn chưa cao. Ở Việt Nam hiện nay, khi bảo hiểm nhân thọ tư nhân chưa phát triển mạnh thì lương hưu nhà nước và lương hưu xã hội đóng vai trò quan trọng trong việc bảo đảm đời sống của người cao tuổi. Tuy nhiên, trong thực tế, chỉ 20% người cao tuổi tiếp cận hệ thống hưu trí. Với hệ thống an sinh xã hội, cùng với những biến động về dân số và kinh tế như hiện nay, Việt Nam cần xây dựng lộ trình phù hợp để chuyển đổi hệ thống hưu trí về thiết kế và cơ chế tài chính gắn liền với các thông số: tuổi, mức đóng, mức hưởng thì mới có thể duy trì bền vững tài chính và công bằng. Chính vì vậy, việc đổi mới chính sách lương hưu xã hội là cấp thiết. Một số đề xuất đối với lĩnh vực này là: - Đa dạng các loại hình, hình thức tham gia nhằm tăng cường khả năng tiếp cận của các nhóm dân số, đặc biệt chú trọng đến mở rộng hệ thống bảo hiểm tự nguyện với thiết kế linh hoạt, phù hợp với khả năng đóng góp và chi trả của đối tượng và có khả năng liên thông với các loại hình bảo hiểm khác, trong đó đặc biệt chú trọng đến nhóm người cao tuổi thuộc các gia đình nghèo và cận nghèo. - Điều chỉnh để tạo sự cân đối giữa mức đóng và mức hưởng. - Nghiên cứu, hoàn thiện hình thức bảo hiểm hưu trí bổ sung để mở rộng diện bao phủ lương hưu cho người cao tuổi, khuyến khích các hình thức tự tiết kiệm, tham gia quỹ hưu trí, mua sản phẩm bảo hiểm nhân thọ. 79 Trước những bất cập và thách thức của hệ thống hưu trí hiện nay, Việt Nam cần có những cải cách toàn diện mang tính hệ thống phù hợp với những biến đổi dân số và điều kiện kinh tế của Việt Nam. Đồng thời chính sách phải thể hiện sự công bằng, không phân biệt khu vực kinh tế, bình đẳng giới, quan tâm và bao phủ đến quyền lợi của mọi tầng lớp xã hội, nhất là trong điều kiện hiện nay khi nông dân hiện vẫn chiếm tỷ lệ cao trong dân số song chưa có điều kiện tham gia vào hệ thống BHXH hiện hành. - Đa ạng loại hình BHXH, hình thứ tham gia BHXH nhằm tăng ờng kh năng tiếp ận h nh s h BHXH ủa nh m ân số Nhiều nhóm dân số nhất là dân số thuộc đối tượng lao động phi chính thức vẫn chưa tiếp cận, chưa hiểu hết vai trò của BHXH. Do vậy để tăng cường tính xã hội hóa, tăng khả năng bao phủ của BHXH cần đa dạng hơn nữa các loại hình, hình thức tham gia HXH, đặc biệt chú trọng đến mở rộng hệ thống BHXH tự nguyện với thiết kế linh hoạt, phù hợp với khả năng đóng góp và chi trả của đối tượng và có khả năng liên thông với các loại hình bảo hiểm khác. Vừa qua Nhà nước đã cho phép đối tượng tham gia BHXH tự nguyện được đóng HXH một lần cho những năm còn thiếu để đủ điều kiện hưởng lương hưu, cụ thể từ 4/4/2016, Thông tư 01/2016/TT- LĐT XH Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật BHXH về BHXH tự nguyện do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội ban hành chính thức có hiệu lực. Các chế độ quy định được áp dụng từ ngày 01/01/2016. Theo đó, những người tham gia HXH đã đủ điều kiện về tuổi để hưởng lương hưu nhưng thời gian đóng HXH còn thiếu không quá 10 năm thì được đóng một lần cho đủ 20 năm để hưởng lương hưu, đây là một trong những giải pháp linh hoạt của Nhà nước nhằm khuyến khích và tạo điều kiện cho người dân tiếp cận và sử dụng những ưu việt từ chính sách BHXH, thời gian tới cần có những giải pháp để khuyến khích hơn nữa người dân tham gia. 80 - C ph ng n i u hỉnh tuổi nghỉ h u Trên thực tế hiện nay có rất nhiều nguyên nhân để có phương án điều chỉnh tuổi nghỉ hưu: Thứ nhất, đời sống vật chất, công tác chăm sóc sức khỏe của người dân càng ngày càng được cải thiện, vì thế tuổi thọ bình quân của người dân mỗi năm một tăng hiện nay tuổi thọ bình quân của người dân là trên 73,2 tuổi). Thứ hai, Việt Nam sắp qua giai đoạn dân số vàng và bước vào thời kỳ già hóa dân số, nếu không có bước chuẩn bị sẽ dẫn tới thiếu hụt nguồn nhân lực. Thứ ba, hiện tại, chúng ta có nguồn nhân lực dồi dào, nhưng lại rất thiếu nguồn nhân lực chất lượng cao, có năng lực, kinh nghiệm, trình độ, nếu không điều chỉnh tuổi nghỉ hưu sẽ dẫn tới lãng phí nguồn nhân lực chất lượng cao. Thứ tư, khi điều chỉnh tuổi nghỉ hưu, một bộ phận người dân có cơ hội kéo dài thời gian tham gia đóng BHXH, nên khi nghỉ hưu, họ có mức thu nhập cao hơn, tránh tình trạng như hiện nay, đại bộ phận người làm công ăn lương sau khi nghỉ hưu vô cùng khó khăn về tài chính do mức lương hưu thấp hơn nhiều so với thu nhập khi còn đi làm. Thứ năm, tuổi thọ bình quân của người dân mỗi năm một tăng, thời gian hưởng lương hưu ngày càng kéo dài, cộng với việc điều chỉnh lương tối thiểu theo lộ trình cải cách tiền lương thì Quỹ BHXH sẽ mất cân bằng và có khả năng bị vỡ nếu không có các chính sách khác để tăng thu, giảm chi. Vì vậy cần, việc tăng tuổi nghỉ hưu là điều tất yếu, tuy nhiên cần kiến nghị để có lộ trình điều chỉnh tuổi nghỉ hưu phù hợp trên cơ sở nghiên cứu điều kiện xã hội, việc làm để đưa ra lộ trình thực hiện đối với từng đối tượng,có đối tượng kéo dài tuổi nghỉ hưu, có đối tượng giữ nguyên và có đối tượng được rút ngắn tuổi nghỉ hưu. Người lao động bảo đảm điều kiện về thời gian đóng bảo hiểm xã hội, được hưởng lương hưu khi đủ 60 tuổi. Người lao động bị suy giảm khả năng lao động; làm công việc nặng nhọc, độc hại, nguy 81 hiểm; làm việc ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, người làm công việc đặc thù như giáo viên mầm non chẳng hạn, có thể nghỉ hưu ở tuổi thấp hơn từ 1 đến 5 năm so với quy định, nhưng cho phép họ lựa chọn có nghỉ hưu trước hay không, nghỉ hưu trước bao nhiêu năm. Còn người lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao, có năng lực, kinh nghiệm, trình độ, làm công tác quản lý và một số trường hợp khác có thể nghỉ hưu ở tuổi cao hơn, nhưng không quá 5 năm so với quy định. 3.2.3.2. Đối với chính sách y t - Tăng ờng h nh s h hăm s sứ khỏe Hiện nay, đời sống vật chất của người cao tuổi nhiều nơi vẫn còn khó khăn, thiếu thốn, nhất là ở vùng sâu, vùng xa. Vì vậy, cần thiết phải có nhiều giải pháp nhằm nâng cao sức khỏe cả về thể chất và tinh thần của người cao tuổi, để người cao tuổi sống vui, sống khỏe, phát huy được vai trò của mình trong gia đình và xã hội. Thứ nhất, để nâng cao thể chất cho người cao tuổi, cần nâng cao chất lượng mạng lưới y tế chăm sóc sức khỏe, phòng bệnh, khám, chữa bệnh và quản lý các bệnh mãn tính cho người cao tuổi; xây dựng môi trường thuận lợi đê người cao tuổi tham gia các hoạt động văn hóa, thể thao, du lịch, vui chơi, giải trí. Thứ hai, nâng cao chất lượng đời sống vật chất của người cao tuổi, thực hiện đầy đủ các chính sách trợ giúp và bảo trợ xã hội hướng tới đảm bảo mức sống tối thiểu cho người cao tuổi, đặc biệt quan tâm người cao tuổi neo đơn, khuyết tật, gia đình thuộc diện nghèo, người từ 80 tuổi trở lên; phát triển, nâng cao chất lượng hệ thống dịch vụ và cơ sở chăm sóc người cao tuổi, cần đặc biệt chú trọng quan tâm, chăm sóc người cao tuổi khuyết tật, người cao tuổi thuộc diện nghèo không có người phụng dưỡng, người cao tuổi dân tộc thiếu số. 82 Thứ ba, đẩy mạnh các hoạt động chăm sóc sức khỏe như sau: Tăng cường các hoạt động tư vấn về nguyên nhân phát sinh và phương pháp phòng và chữa bệnh thường mắc phải ở người cao tuổi và gia đình người cao tuổi như: bệnh cao huyết áp, đái tháo đường, tim mạch ... Tổ chức hướng dẫn, bồi dưỡng và tập huấn kiến thức về tập luyện, tự chăm sóc, nâng cao sức khỏe, phòng, chống bệnh tật; tư vấn về chế độ dinh dưỡng, chuyền môn kỹ thuật, phương pháp chăm sóc sức khoẻ cho người cao tuổi và gia đình người cao tuối. Phát triển các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ, phục hồi chức năng và khuyến khích hoạt động khám, chữa bệnh miễn phí cho người cao tuổi; Xây dựng và phát triển mạrig lưới chăm sóc sức khoẻ, phục hồi chức năng cho người cao tuổi dựa vào cộng đồng; Tổ chữc khám sức khoẻ đinh kỳ, lập sổ theo dõi, tư vấn điều trị bệnh thông thường cho người cao tuổi từ 60 tuổi trở lên tại phường, xã, thị trấn; đặc biệt quan tâm chăm sóc sức khỏe người cao tuổi thuộc diện neo đơn, nghèo, sống ở khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng đặc biệt khó khăn, bị tàn tật, không có lương hưu, không có BHYT. Thực hiện đầu tư phát triển cơ sở vật chất - kỹ thuật của hệ thống dịch vụ y tế; xây dựng, nâng cấp các khoa Lão khoa tại bệnh viện đa khoa cấp tỉnh, thành phố và tại các Bệnh viện quận-huyện, khu vực; Lồng ghép việc chăm sóc sức khỏe người cao tuổi vào các chương trình phòng ngừa, phát hiện và điều trị sớm các bệnh liên quan người cao tuổi; chương trình nghiên cứu các bệnh liên quan tới tuổi già; chương trình đào tạo, tập huấn, nâng cao năng lực cho đội ngũ nhân viên xã hội, cộng tác viên, tĩnh nguyện viên làm công việc tư vấn, chăm sóc người cao tuổi; Thứ tư, chăm sóc đời sống văn hóa, tinh thần: Xây dựng nếp sống, môi trường ứng xử văn hoá phù hợp đối với người cao tuổi ở nơi công cộng. Khuyên khích dòng họ, cộng đồng trong việc chăm sóc và phát huy vai trò người cao tuổi; Kịp thời biểu dương, tôn vinh các điển hình tiên tiến của 83 người cao tuổi trong phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá", "Ông bà cha mẹ mẫu mực, con cháu hỉếu.thảo, vận động con cháu thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, tang, lễ hội"; định kỳ tổ chức tốt các hoạt động chúc thọ, mừng thọ người cao tuổi; Phát triển và nâng cao chất lượng phong trào rèn luyện thể dục, thể thao cho người cao tuổi có sức khoẻ để tham gia các hoạt động xã hội ngày một tốt hơn; tổ chức các mô hình, câu lạc bộ, hội thi thở ca, thể dục thể thao dưỡng sinh ... phù họp với người cao tuổi tại phường - xã, thị trấn, khu phố, tổ dân phố, ấp; định kỳ tổ chức Hội thi thể thao, liên hoan văn nghệ trong các đợt mừng kỷ niệm ngày người cao tuổi. Để mở rộng nguồn tài chính dành cho công tác chăm sóc sức khỏe cho NCT, có thể xã hội hóa công tác chăm sóc người cao tuổi, tạo điều kiện thuận lợi cho các nhóm người cao tuổi, đặc biệt là nhóm thiệt thòi hoặc bất lợi như người cao tuổi ở nông thôn, phụ nữ cao tuổi hoặc người cao tuổi ở dân tộc ít ngườicần có những giải pháp sau: - Có chính sách ưu đãi thiết thực nhằm khuyến khích khu vực tư nhân đầu tư vào lĩnh vực này như: các chính sách ưu đãi về thuế, về đầu tư, định hướng phát triển nguồn nhân lực, tạo điều kiện thuận lợi về thủ tục hành chính, quy hoạch đất đainhằm tạo điều kiện cho các tổ chức xây dựng các trung tâm chăm sóc người cao tuổi. - Đối với người cao tuổi sống cùng gia đình, cộng đồng: phổ biến cho những người thân trong gia đình, cộng đồng các kiến thức cũng như cách phòng, chữa các các bệnh liên quan đến người cao tuổi; ngoài ra, mở rộng dịch vụ chăm sóc người cao tuổi tại nhà, tạo điều kiện thuận lợi cho người cao tuổi tiếp cận các dịch vụ y tế ngay tại nơi sinh sống, giảm bớt và tránh tình trạng phải di chuyển đến những trung tâm y tế hoặc bệnh viện để khám bệnh đối với người cao tuổi có sức khỏe kém. 84 Tăng cường và cải cách toàn diện các dịch vụ y tế; Tăng cường công tác phòng bệnh cho người già; Đảm bảo nguồn tài chính ổn định cho trợ cấp xã hội căn bản, áp dụng cơ chế quản lý vĩ mô để giảm bớt gánh nặng chi trả cho quỹ. - Đ mạnh việ ồng ộ tổ hứ triển khai th hiện tốt h nh s h BHYT ho ng ời ao tuổi - Cần nâng cao hiểu biết về chính sách, pháp luật về BHYT trên các phương diện, bảo đảm các đối tượng của truyền thông tiếp cận đầy đủ với thông tin về chính sách BHYT và cách thức tham gia BHYT. Mặt khác, nâng cao chất lượng công tác truyền thông giáo dục sức khỏe và nâng cao nhận thức, ý thức về sức khỏe cho mọi lứa tuổi để chuẩn bị cho một tuổi già khỏe mạnh, tránh bệnh tật, thương tật và tàn phế. - Tổng kết thực hiện Luật Người cao tuổi, điều chỉnh nhóm đối tượng được hưởng trợ cấp xã hội theo hướng tập trung cho người cao tuổi có thu nhập thấp, hạ độ tuổi hưởng trợ cấp xã hội phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế- xã hội của đất nước. Tăng cường hoạt động của Hội Người cao tuổi trong việc phấn đấu 100% người cao tuổi có thẻ BHYT. - Tăng cường sự phối hợp giữa các Sở ban ngành tại địa phương trong quy trình lập danh sách cấp thẻ HYT cho các đối tượng đặc biệt là đối tượng người cao tuổi, làm cơ sở, tiền đề cho việc đề xuất hỗ trợ thẻ BHYT cho NCT tại Việt Nam. - Tập trung nghiên cứu xây dựng và hoàn thiện hệ thống các văn bản pháp quy về hoạt động của bác sĩ gia đình trong đó có thông tư hướng dẫn cách thức thanh toán HYT đối với dịch vụ y tế do bác sĩ gia đình cung cấp để tổ chức thực hiện tốt Quyết định 1568/QĐ-BYT ngày 27/4/2016 về kế hoạch nhân rộng và phát triển mô hình phòng khám bác sĩ gia đình tại Việt Nam, giai đoạn 2016-2020. Từ đó, nâng cao sức khỏe của người dân trong đó người cao tuổi chiếm tỷ trọng lớn. 85 - Đẩy mạnh cải cách, đơn giản thủ tục hành chính, tạo thuận lợi cho người dân tham gia HYT; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, hiện đại hóa hệ thống quản lý BHYT, nâng cao chất lượng phục vụ. - Cần có sự quan tâm tới nhóm đối tượng NCT không có lương hưu và không có trợ cấp xã hội. Nhóm đối tượng NCT có lương hưu và có trợ cấp xã hội đều là nhóm đã có hỗ trợ BHYT từ Ngân sách Nhà nước. Trong số những NCT còn lại không được hỗ trợ thẻ BHYT, còn rất nhiều đối tượng không có khả năng chi trả hoặc khả năng chi trả kém cho các dịch vụ chăm sóc sức khỏe, nhưng lại không thuộc diện được Nhà nước bao cấp. Vì vậy, cần nghiên cứu điều kiện, mở rộng nhóm đối tượng để NCT tại Việt Nam được chăm sóc sức khỏe một cách đầy đủ. 3.2.3.3. Đối với chính sách Bảo trợ xã h i - Quan tâm t i nh m ối t ợng ng ời có công v i cách mạng và thân nhân: Nước ta đã trải qua nhiều cuộc chiến tranh kéo dài với rất nhiều thế hệ người lính phải sống và chiến đấu ở những vùng ác liệt, nhiều nơi bị nhiễm chất độc màu da cam, nhiều thế hệ phụ nữ có chồng, con là thương binh, liệt sĩ hoặc nhiễm di chứng nặng nề của chất độc. Đến nay, đa phần họ thuộc nhóm người cao tuổi. Đối với những người lính, ngoài những bệnh của người già, không ít trong số họ mắc những bệnh đặc trưng của chiến tranh, trong khi đó, đa phần họ về quê lao động nông nghiệp sau chiến tranh, không có lương hưu. Đối với phụ nữ, đa phần họ sống cô đơn, không nơi nương tựa hoặc sống trong các trung tâm bảo trợ xã hội với điều kiện vật chất vô cùng thiếu thốn. Do vậy đòi hỏi cần phải có những chính sách an sinh đặc thù cho nhóm người này, đó là: ưu đãi đối với người cao tuổi có công (cán bộ lão thành cách mạng, Bà mẹ Việt Nam Anh hùng, thương bệnh binh, các cựu chiến binh, thanh niên xung phong ; Thực hiện kịp thời, đầy đủ các chính sách về trợ 86 cấp xã hội, cấp thẻ HYT cho người cao tuổi. Từng bước điều chỉnh nâng mức trợ cấp xã hội hàng tháng cho người cao tuổi phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội; Nâng cao chất lượng chăm sóc, nuôi dưỡng người cao tuổi tại các cơ sở bảo trợ xã hội. - Mở rộng ộ bao phủ của chính sách t i nh m ối t ợng NCT i 80 tuổi: Hiện nay, những nội dung của chính sách bảo trợ xã hội dành cho NCT đang tập trung chủ yếu vào nhóm NCT có độ tuổi từ 80 tuổi trở lên. Trên thực tế, hiện nay nước ta còn rất nhiều đối tượng là NCT chưa đến 80 tuổi có hoàn cảnh cần được sự trợ giúp của xã hội. Theo quy định NCT từ 60 tuổi trở lên, do đó số lượng NCT từ 60 tuổi đến dưới 80 tuổi chiếm đại đa số. Vì vậy nếu chính sách BTXH chỉ tập trung vào nhóm tuổi trên 80 là thực sự rất thiếu sót. - Triển khai ồng bộ các nội dung nâng cao hiệu qu chính sách: Để chế độ TXH thực sự có tác động mạnh hơn đến đời sống NCT cần kiến nghị những hoàn thiện chính sách như sau: - Chuyển biến mạnh mẽ về quan điểm coi trợ giúp xã hội từ hoạt động nhân đạo sang quan điểm bảo đảm thực hiện quyền cho đối tượng hưởng trợ giúp xã hội. Chính sách trợ giúp xã hội là biện pháp, công cụ, tác động để thực hiện mục tiêu bảo đảm an toàn cuộc sống cho bộ phận dân cư không may gặp phải hoàn cảnh khó khăn - Từng bước nâng cao chất lượng chính sách, bảo đảm sự tương quan với các chính sách xã hội khác. - Quá trình phát triển của chính sách trợ giúp xã hội phải gắn liền với quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Trợ giúp xã hội là một bộ phận của chính sách kinh tế - xã hội, do vậy quá trình hoàn thiện và phát triển phải dựa trên cơ sở của quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. 87 - Quy hoạch phát triển mạng lưới cơ sở cung cấp dịch vụ trợ giúp xã hội với mục tiêu phát triển mạng lưới cơ sở trợ giúp xã hội phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế-xã hội của đất nước, nâng cao chất lượng dịch vụ trợ giúp xã hội tiếp cận các nước tiên tiến trong khu vực, đáp ứng nhu cầu trợ giúp của người dân, hướng tới mục tiêu phát triển xã hội công bằng và hiệu quả. - Từng bước hiện đại hóa, ứng dụng công nghệ thông tin trong giải quyết chính sách về an sinh xã hội, đáp ứng nhu cầu thông tin cho các cấp quản lý nhanh nhạy, kịp thời, chính xác, góp phần cải cách hành chính trong trợ giúp xã hội - Hỗ trợ, nâng mức trợ cấp hàng tháng cho NCT. Hiện nay mức trợ cấp 270.000 đồng/tháng vẫn chưa đủ đáp ứng với sự thay đổi của giá sinh hoạt. NCT vẫn còn gặp nhiều khó khăn trong chi trả hàng ngày - Thủ tục nhận NCT vào trung tâm TXH cần nhanh gọn, đơn giản - Hạ độ tuổi được hưởng trợ cấp xuống 75 tuổi - Tăng đầu tư mở rộng cơ sở TXH - Nâng mức hỗ trợ cho NCT và người làm công tác bảo trợ - Nâng cao ý thức trách nhiệm cộng động và người làm công tác bảo trợ. 3.3. M t số giải p áp n ằm o n t iện các c ín sác AS H đối với NCT ở Việt Nam 3.3.1. Tu n tru n, nâng ao nhận thứ ủa to n hội v t nh tất ếu ủa gi h a ân số Già hóa phải được hiểu là một thành tựu và là điều tất yếu sẽ xảy ra, do vậy việc tuyên truyền về già hóa dân số cần mạnh mẽ hơn nữa để nâng cao nhận thức của xã hội, người dân chủ động hơn trong việc chuẩn bị cho tuổi già. Nhà nước, các cơ quan, các cấp, các ngành, Mặt trận và nhân dân cần có sự chuẩn bị đầy đủ để chủ động thích ứng với vấn đề già hóa. 88 Thực tế cho thấy, muốn thay đổi bất kỳ chính sách nào thì trước hết cần nâng cao nhận thức và hiểu biết của toàn xã hội về vấn đề đó. Do vậy nếu vấn đề già hóa dân số và thực trạng dân số cao tuổi không được quan tâm sâu sắc thì sẽ không có sự thay đổi các chính sách hiện có. Vì vậy, công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức của toàn xã hội đối với già hóa dân số rất quan trọng. Cần đẩy mạnh công tác tuyền thông, giáo dục sức khỏe, nâng cao nhận thức, ý thức về sức khỏe không chỉ cho người cao tuổi mà cho toàn xã hội để chuẩn bị cho một tuổi già khỏe mạnh, tránh bệnh tật, thương tật và tàn phế. Cần thực hiện tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng; phát hành các loại ấn phẩm, tổ chức truyền thông trực tiếp, thông qua hệ thống văn bản, cuộc họp, hội nghị về đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về hoạt động chăm sóc và phát huy vai trò người cao tuổi; Tuyên truyền về quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm và vai trò của người cao tuổi trong sự nghiệp đổi mới vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng; văn minh; Xây dựng các chuyên trang, chuyên mục và nâng cao chất lượng tin bài, phát sóng các chuyên mục về người cao tuổi của Đài Truyền hình, Đài Tiếng nói cấp tỉnh, thành phố và các đài phát thanh cấp quận - huyện, cấp phường - xã - thị trấn, hệ thống truyền thông khu phố, tổ dân phố, ấp; Phổ biến, truyền đạt những thông tin, kiến thức khoa học nhằm hạn chế các nguy cơ gây bệnh ở người cao tuổi, tăng cường an toàn trong sử dụng thuốc, chống lạm dụng thuốc chữa bệnh đối với người cao tuổi; Đẩy mạnh các hoạt động phối hợp giữa cộng đồng, nhà trường và gia đình nhằm tuyên truyền giáo dục truyền thống "kinh lão đắc thọ", biết ơn và giúp đỡ người cao tuổi, chung tay chăm sóc người cao tuổi cô đơn không nơi nương tựa tại cộng đồng. Đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền để chủ động chuẩn bị cho tuổi già, già hóa ,“Già hóa chủ động” hiểu một cách đơn giản là sự chủ động chuẩn bị 89 cho giai đoạn già hóa dân số. Bên cạnh những nỗ lực của Chính phủ về mặt chính sách thì điều quan trọng, quyết định nhất chính là việc mỗi cá nhân đều có ý thức lo cho tuổi già của mình từ khi còn trẻ, bởi lo cho chính mình cũng là lo cho gia đình, cộng đồng và các thế hệ tương lai. Để có sự chủ động trong hành động, phải bắt đầu từ nhận thức, do vậy, cần tuyên truyền, vận động mọi người dân chủ động tham gia BHXH, bảo hiểm nhân thọ, BHYT; tiết kiệm chi tiêu, tích lũy cho tuổi già; Tuyên truyền, vận động các thành viên trong gia đình có người cao tuổi cần chủ động tìm hiểu về tâm lý và những nguyện vọng chính đáng của người cao tuổi; học hỏi phương pháp, kỹ năng chăm sóc sức khoẻ và tinh thần đối với người cao tuổi. Khuyến khích con cháu lập sổ tiết kiệm phụng dưỡng ông bà, cha mẹ; Hoàn thiện cơ chế, chính sách trợ cấp, nuôi dưỡng, chăm sóc sức khoẻ ban đầu và BHYT. 3.3.2. Tăng ờng vai trò ủa tổ hứ h nh trị, hội, ngh nghiệp trong việ â ng, vận ộng v th hiện h nh s h ho gi h a ân số v ng ời ao tuổi - Ủy ban quốc gia về người cao tuổi và Hội người cao tuổi Việt Nam cần chủ động, tích cực trong việc tham gia xây dựng, góp ý các chính sách kinh tế, xã hội, y tếcho các ộ, ngành chuyên môn để xây dựng được các chính sách nhất quán, thiết thực trong việc chuẩn bị và giải quyết các vấn đề của một dân số già hóa, cũng như cải thiện đời sống của người cao tuổi về mọi mặt. Các hoạt động vận động gia đình, cộng đồng và toàn xã hội tham gia chăm sóc người cao tuổi cần được thúc đẩy và nhân rộng. - Ngành Lao động Thương binh và Xã hội: Tăng cường quản lý nhà nước về các hoạt động của người cao tuổi; chủ trì điều phối các hoạt động của kế hoạch tổ chức thực hiện "Chương trình hành động quốc gia về người cao tuổi Việt Nam giai đoạn 2013 - 2020" ; Định kỳ điều tra khảo sát, thống kê tình hình người cao tuổi; Phối hợp với các Sở, ngành và đơn vị liên quan tổ 90 chức tập huấn, bồi dưỡng, đào tạo nâng cao năng lực cán bộ, công chức, viên chức làm công tác người cao tuổi thuộc các cấp; Chỉ đạo ủy ban nhân dân các quận huyện tăng cường công tác chăm sóc người cao tuổi gắn với chương trình mục tiêu giảm nghèo, trợ cấp xã hội, cấp thẻ BHYT, cứu trợ xã hội; rà soát, lập danh sách chúc thọ, mừng thọ người cao tuổi theo quy định; Tổ chức diễn đàn đối thoại giữạ lãnh đạo các cấp, ban ngành, cơ quan chức năng với người cao tuổi (ít nhất 01 lần/năm , lấy ý kiến người cao tuổi nhằm phát huy vai trò người cao tuổi cũng như phát huy hiệu quả quản lý nhà nước trong vấn đề thực hiện Luật người cao tuổi và các chính sách khác có liên quan đến người cao tuổi. - Các an đại diện Người cao tuổi: phối hợp với các Sở, ngành liên quan đề xuất các chủ trương, chính sách, chương trình thực hiện trong hoạt động phát huy vai trò người cao tuổi. Phối hợp với các Sở, ngành có liên quan thực hiện hoạt động chăm sóc sức khỏe, chăm sóc đời sống văn hóa, tinh thần, nâng cao đời sống vật chất, hoạt động xây dựng và nhân rộng mô hình chăm sóc và phát huy vai trò người cao tuổi dựa vào cộng đồng, hoạt động chuẩn bị cho tuổi già và các hoạt động hỗ trợ khác như xã hội hoá công tác chăm sóc Người cao tuổi, mở rộng và nâng cao chất lượng hoạt động của các cấp Hội người cao tuổi. - Ngành Y tế: Chủ trì, phối hợp với các Sở, ngành có liên quan và Ban Đại diện Hội người cao tuổi triển khai thực hiện hoạt động chăm sóc sức khỏe cho người cao tuổi theo kế hoạch; Chỉ đạo thành lập các khoa Lão khoa đối với bệnh viện đa khoa, chuyên khoa hạng II trở lên, ưu tiên bố trí khám riêng cho người cao tuổi tại các bệnh viện, cơ sở y tế trực thuộc (trừ bệnh nhân cấp cứu, người khuyết tật, trẻ dưới 6 tuổi) và bố trí giường nằm điều trị nội trú cho người cao tuổi từ 80 tuổi trở lên; Tổ chức thực hiện các hình thức giáo dục, phổ biến kiến thức về tập luyện, tự chăm sóc, nâng cao sức khỏe, phòng, 91 chống bệnh tật; tư vấn về chế độ dinh dưỡng, chuyên môn kỹ thuật, phương pháp chăm sóc sức khoẻ cho người cao tuổi và gia đình người cao tuổi; phát triển các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ, phục hồi chức năng cho người cao tuổi. - Ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch: Chủ trì, phối hợp với các Sở, ngành có liên quan và an Đại diện Hội người cao tuổi để triển khai thực hiện hoạt động chăm sóc đời sống văn hóa, tinh thần cho người cao tuổi theo kế hoạch; phối hợp các ngành, đoàn thể liên quan tổ chức các hoạt động tuyên truyền giáo dục ở cộng đông cho người cao tuổi vê các nội đung liên quan đến chế độ chính sách, kiến thức chăm sóc sức khỏe thể chất, tinh thần, phúc lợi xã hội, nội dung khác có liên quan. Động viên, tạo điều kiện để người cao tuổi tham gia các hoạt động văn hóa, nghệ thuật, thể dục thể thao, tham quan du lịch, tham gia xây dựng gia đình no ấm, tiên bộ, hạnh phúc; hướng dẫn hoạt động của các Câu lạc bộ văn hóa, thể dục - thể thao của người cao tuổi; phối hợp với các tổ chức đoàn thể tổ chức các hoạt động văn hóa, nghệ thuật, thể dục - thể thao của người cao tuổi; hướng dẫn và mở các lớp tập huấn, bồi dưỡng cán bộ thể dục - thể thao cho các câu lạc bộ sức khoẻ người cao tuổi; hướng dẫn và tổ chức các cuộc hội thao dành cho người cao tuổi; hướng dẫn thực hiện và kiểm tra giám sát việc thực hiện Các quy định của Nhà nước về giảm giá vé, phí dịch vụ cho người cao tuổi khi tham gia các di tích văn hóa, lịch sử, danh lam thắng cảnh, các bảo tàng, sinh hoạt tại các cơ sở thể dục thể thao của nhà nước; tuyên truyền vận động các doanh nghiệp hoạt động văn hóa, thể thao, du lịch thực hiện đúng các quy định này. - Ngành Giao thông vận tải: Chỉ đạo và tổ chức kiểm tra, giám sát các đơn vị trực thuộc, các doanh nghiệp kinh doanh vận tải hành khách trong việc thực hiện hỗ trợ giúp đỡ, miễn, giảm giá vé, phí dịch vụ cho người cao tuổi theo quy định của pháp luật. 92 - Ngành Xây dựng: Chủ trì, phối hợp với các Sở ngành liên quan và ủy ban nhân dân quận huyện quan tâm giải quyết nhà xã hội cho người cao tuổi độc thân, người cao tuổi cô đơn không nơi nương tựa và các hoạt động hỗ trợ người cao tuổi xây mới hoặc sửa chữa nhà ở dột nát. - Ngành Giáo dục và Đào tạo: Chủ trì, phối hợp các Sở, ngành liên quan đề xuất cơ chế, chính sách tạo điều kiện để phát huy các nhà giáo lão thành tham gia đóng góp ý kiến về lĩnh vực quản lý, giáo dục - đào tạo; người có khả năng, kinh nghiệm tham gia giảng dạy; có các hình thức tổ chức cho người cao tuổi có khả năng tiếp tục học tập nâng cao hiểu biết trong thực hiện hoạt động phát huy vai trò người cao tuổi. - Ngành Nông nghiệp: Chủ trì, phối hợp với các Sở, ngành có liên quan chỉ đạo, tạo điều kiện để người cao tuổi còn đủ sức khoẻ tham gia các hoạt động tạo việc làm và thu nhập trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn trong thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới. - Nội vụ: Chủ trì, phối hợp với các Sở, ngành có liên quan tham gia xây dựng, tổ chức bộ máy trong hệ thống Hội người cao tuổi các cấp và các chế độ chính sách cho cán bộ làm công tác về người cao tuổi; - Kế hoạch và Đầu tư: Chủ trì, phối hợp với các Sở, ngành, tổ chức có liên quan vận động các nguồn hỗ trợ phát triển chính thức cho việc thực hiện chương trình; Phối hợp ngành Tài chính thẩm định dự toán kinh phí của các ngành, đơn vị được giao nhiệm vụ thực hiện Chương trình theo Kế hoạch được duyệt. Lồng ghép các mục tiêu, chỉ tiêu của Chương trình vào kế hoạch phát triển kinh tế -xã hội hàng năm. - Tài chính: Phối hợp với Bộ phận Kế hoạch và Đầu tư đảm bảo kinh phí thực hiện Chương trình theo Kế hoạch được duyệt trong dự toán kinh phí hoạt động được giao hàng năm của các Sở, ngành, đơn vị, quận - huyện. Thực hiện thanh tra, kiểm tra việc quản lý, sử dụng kinh phí thực hiện chương trình theo quy định. 93 - Cơ quan HXH: Chỉ đạo BHXH các cấp phối hơp với các ngành liên quan cấp thẻ BHYT và phối hợp với ngành Y tế chỉ đạo tổ chức khám chữa bệnh cho người cao tuổi có thẻ BHYT. - Ngành Thống kê: Hàng năm, phối hợp Ngành Lao động - Thương binh và Xã hội và an đại diện Hội người cao tuổi các cấp tổ chức rà soát, thông kê cập nhật tình hình người cao tuổi trên địa bàn. - Thông tin và Truyền thông: Chủ trì, phối hợp với các Sở, ngành, đơn vị có liên quan thực hiện hoạt động tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức về các vân đề liên quan đên người cao tuổi. Chỉ đạo các cơ quan báo, đài tuyên truyên các gương điển hình, gương "người tốt việc tốt", xây dựng chuyên trang, chuyên mục về Chương trình Hành động Quốc gia về người cao tuổi. Hướng dẫn các cơ quan báo chí tuyên truyền, phổ biến đường lối chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước vể các hoạt động chăm sóc và phát huy vai trò người cao tuổi. - Cơ quan truyền thông: Đảm bảo số lượng chuyên mục về người cao tuổi theo từng giai đoạn của kế hoạch. - Ủy ban Mặt trận Tổ quốc và các Hội, Đoàn thể: Phối hợp phát động phong trào hưởng ứng kế hoạch hành động quốc gia về người cao tuổi và vận động người dân, hội viên, đoàn viên tích cực tham gia chăm sóc, phát huy vai trò người cao tuổi. Xem xét, hỗ trợ xây nhà tình thương, xóa nhà tạm, dột nát cho người cao tuổi có hoàn cảnh khó khăn, hộ nghèo, ưu tiên các hộ có người cao tuổi già yếu, ốm đau, khuyết tật, cô đơn. 3.3.3. R so t văn n li n quan ể ăn ứ hoàn thiện chính s h ASXH ối v i NCT ở Việt nam Hiện nay, hệ thống các văn bản về chính sách ASXH dành cho NCT ở Việt Nam còn nhiều chồng chéo dẫn đến mâu thuẫn khi thực hiện. Ví dụ như văn bản hướng dẫn thực hiện Quyết định số 59/2015/QĐ-TTg ngày 94 19/11/2015 của Thủ tướng Chính phủ về chuẩn nghèo đa chiều giai đoạn 2016-2020 nên cơ quan HXH chưa có căn cứ để cấp thẻ HYT; Quy định về danh mục các đơn vị hành chính thuộc vùng khó khăn áp dụng từ năm 2016 để thay thế Quyết định số 1049/QĐ-TTg ngày 26/6/2014 của Thủ tướng Chính phủ ban hành danh mục các đơn vị hành chính thuộc vùng khó khăn 2014-2015;Quyết định phê duyệt danh sách xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang ven biển và hải đảo giai đoạn sau năm 2015 thay thế Quyết định số 539/QĐ-TTg ngày 01/4/2013 Vì vậy cần có bước rà soát lại các văn bản hiện hành, kiểm tra lại hiệu lực, hiệu quả của các văn bản để có thể sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện hệ thống văn bản thực hiện. 3.3.4. Xâ ng hệ thống sở liệu tổng qu t v ng ời ao tuổi Hiện nay, Nhà nước ta đang chú trọng đến việc đẩy mạnh phát triển hệ thống thông tin, dữ liệu chung của cả nước. Vì vậy việc lưu trữ cơ sở dữ liệu tổng quát về người cao tuổi là biện pháp bắt kịp với xu thế, đảm bảo được việc lưu trữ, khai thác và sử dụng thông tin quản lý NCT. Việc hoàn thiện hệ thống cơ sở dữ liệu của NCT mang lại những lợi ích vô cùng thiết thực như: quản lý thông tin cơ bản, về các nguồn trợ cấp, tình trạng sức khỏe, Không có những thông tin chính xác, cập nhật người cao tuổi thì không thể có những đánh giá xác đáng về các vấn đề kinh tế, xã hội và sức khỏe của người cao tuổi. Đây sẽ là đầu vào quan trọng cho việc đề xuất các chính sách, chương trình thiết thực, có trọng tâm và hiệu quả. Báo cáo của UNFPA năm 2011 về “Già hóa dân số và người cao tuổi Việt Nam, thực trạng dự báo và một số khuyến nghị chính sách” đã đánh giá “Sự kết nối lỏng lẻo giữa nghiên cứu và chính sách là điểm yếu nhất khi bàn đến già hóa dân số và dân số cao tuổi ở Việt Nam”. Cho đến nay số lượng nghiên cứu về dân số cao tuổi vẫn còn rất nhỏ so với nhu cầu cần nghiên cứu 95 để phục vụ cho mục đích phân tích và hoạch định chính sách. Đây cũng là một nguyên nhân khiến cho việc bàn luận các chính sách về người cao tuổi vẫn còn hời hợt và hầu hết người cao tuổi được xem là gánh nặng cần phải giải quyết thay vì coi họ là những người có đóng góp lớn cho nền kinh tế và gia đình thông qua các hoạt động kinh tế và xã hội. Hơn nữa, việc chưa có một điều tra có tính đại diện quốc gia về người cao tuổi đang gây khó khăn không nhỏ cho việc khai thác, nghiên cứu chuyên sâu về người cao tuổi. Không có nghiên cứu chuyên sâu có chất lượng thì khó có thể có chính sách can thiệp tốt nhằm đáp ứng nhu cầu của người cao tuổi và xu hướng đang già hóa dân số ngày càng nhanh. Do vậy, cần thiết lập hệ thống cơ sở dữ liệu trong đó có các điều tra, nghiên cứu thực tế và số liệu thống kê từ nhiều nguồn khác nhau về người cao tuổi ở nhiều cấp khác nhau như cấp quốc gia, cấp vùng và cấp cơ sở. Những cơ sở dữ liệu này không chỉ tạo điều kiện cho việc xây dựng và hoạch định các chính sách và chương trình quốc gia dành cho người cao tuổi mà còn tạo điều kiện giám sát việc thực hiện Kế hoạch hành động về người cao tuổi. 3.3.5. Xây d ng, nâng cấp mô hình hăm s NCT a vào cộng ồng Hiện nay, cùng với xu hướng phát triển của xã hội, sự gắn kết giữa các thế hệ trong gia đình truyền thống ngày càng lỏng lẻo hơn. Con cái đi làm ăn xa, sự mâu thuẫn giữa các thế hệ ngày càng lớn, NCT dân có xu hướng muốn dựa vào cộng đồng nhiều hơn. Vì vậy, Nhà nước cần chú trọng vào việc xây dựng, thúc đẩy, hoàn thiện những mô hình chăm sóc cho NCT dựa vào cộng động như nhà dưỡng lão, Thực tế hiện nay ở Việt Nam đã và đang có mô hình chăm sóc NCT tại cộng đồng, nhưng mới chỉ dừng lại ở mức độ của những trại bảo trợ đây là mô hình chăm sóc dành cho NCT nhưng kinh phí thấp,được xây dựng ở những địa điểm xa trung tâm, không được đầu tư về trang thiết bị cơ sở vật chất, nguồn thu ít ỏi chủ yếu từ ngân sách Nhà nước và 96 từ những nhà hảo tâm . Mô hình nhà dưỡng lão mà chúng ta đang hướng tới cần xây dựng vừa đảm bảo nhu cầu tiện ích chăm sóc sức khỏe NCT, vừa đầy đủ trang thiết bị vật chất, được nâng cấp để những NCT có thu nhập hoặc những đối tượng sẵn sàng chi trả để được hưởng những tiện ích đó. Trong tương lai, đây sẽ là mô hình tiềm năng cần được khai thác. 3.3.6. Nâng ộ tuổi lao ộng của n bằng ộ tuổi lao ộng của nam Quy định NCT của Việt Nam theo Luật từ 60 tuổi trở lên, nhưng độ tuổi nghỉ hưu của của nữ tại Việt Nam là 55 tuổi. Như vậy, lao động nữ sau khi hết tuổi nghỉ hưu, nghĩa là từ 55 tuổi trở lên vẫn chưa được tính là NCT, và sẽ không được hưởng những chế độ của NCT. Bên cạnh đó, thực tế cho thấy tuổi thọ của nữ giới hiện nay cao hơn nam giới, về sức khỏe cũng ngày càng được đảm bảo. Vì vậy cần nghiên cứu giải pháp nâng độ tuổi lao động nữ bằng của nam để đảm bảo quyền lợi cho nhóm đối tượng này. 97 TIỂU KẾT CHƯƠNG III Từ thực trạng những chính sách ASXH cơ bản dành cho NCT ở Việt Nam và những yêu cầu cấp thiết từ thực tiễn già hóa dân số hiện nay tại Việt Nam nói riêng và trên toàn thế giới nói chung, tác giả đề xuất những quan điểm, định hướng nhằm hoàn thiện, nâng cao hiệu quả thực thi các chính sách ASXH dành cho NCT ở Việt Nam. Các định hướng nhằm hoàn thiện chính sách dựa trên những điểm mạnh, điểm yếu mà những chính sách hiện thời đang có, theo quan điểm của tác giả sẽ có lợi thế hơn trong việc xây dựng và triển khai chính sách. Đối với các giải pháp đề xuất: Tất cả các giải pháp đều có ưu thế riêng nhưng nếu được tiến hành một cách đồng bộ sẽ mang lại hiệu quả tốt. Từ những kinh nghiệm thế giới tại Chương I, những thực trạng chính sách tại Chương II, có thể cho thấy thực tiễn tại Việt Nam là vấn đề không mới, nhưng quy mô và mức độ đã nhanh hơn so với thế giới, vì vậy những giải pháp hoàn thiện chính sách trong thời điểm này sẽ phát huy được tính thời điểm, đạt hiệu quả cao trong việc giải quyết những vấn đề đang đặt ra. 98 KẾT LUẬN Luận văn đã khái quát được những vấn đề lý thuyết cơ bản về chính sách ASXH, già hóa dân số, những tổng quan chung về chính sách HXH, HYT, TXH và đồng thời đã phân tích được sự tác động qua lại giữa già hóa dân số và chính sách trên. Già hóa dân số đang diễn ra trên tất cả các khu vực và các quốc gia trên thế giới với tốc độ khác nhau.Mỗi quốc gia cần có sự chuẩn bị chu đáo về mọi mặt và cần lộ trình phù hợp để thích ứng với vấn đề già hóa dân số. Đề tài đưa ra số liệu của một số quốc gia có tỷ lệ người già chiếm tỷ lệ cao trong dân số để khái quát những vấn đề, thách thức khi già hóa diễn ra cũng như những kinh nghiệm để đối phó hiệu quả với vấn đề này, những quốc gia được lựa chọn cũng nằm ở những khu vực khác nhau và đại diện cho những quốc gia có điều kiện kinh tế xã hội tương tự. Một số giải pháp hiệu quả được các quốc gia áp dụng có thể kể đến như tăng tuổi nghỉ hưu, khuyến khích người cao tuổi tiếp tục làm việc sau khi hưởng chế độ hưu trí, cải cách hệ thống y tế,... Các kinh nghiệm này rất hữu ích đối với Việt Nam trong việc chuẩn bị, thích ứng và giải quyết những thách thức do già hóa dân số mang lại. Đề tài cũng đã nêu và phân tích được thực trạng dân số và vấn đề già hóa dân số tại Việt Nam, nêu được quy mô, mật độ cũng như cơ cấu dân số nước ta, đồng thời đưa ra những dự báo, đánh giá về dân số Việt Nam đến năm 2049. Đối với vấn đề già hóa dân số ở Việt Nam, đề tài cũng đã khái quát được những đặc điểm về nhân khẩu học, đặc điểm đời sống văn hóa tinh thần của người già, đặc điểm về sức khỏe, hoạt động kinh tế, thu nhập của người cao tuổi. Qua phân tích, nghiên cứu có cơ sở để đưa ra những khuyến nghị về các giải pháp xây dựng chính sách ASXH ổn định, bền vững trong xu hướng già hóa dân số./. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. TS M c T T c s s v s - Ng ê cứu g óa dâ s của các qu c g a k ác trê t g ớ . 2. B o hi m xã h i Việt Na ( ) “ á cá Qu T” . 3. B o hi m xã h i Việt Na ( 6) “ á cá Qu T” . 4. B La đ ng – T ươ g b v i ph i hợp Qu dân s liên hợp qu c UNFPA t i Việt Na ( 6) “ á cá đá g á k t qu t c ệ u t N T”. 5. B La đ ng – T ươ g b v ( ) “Báo cáo H i nghị An sinh xã h i qu c t ” 6. PGS.TS. Nguyễ Đì ử ( 7) “Nhữ g u ướng bi đổi dân s ở Việt Nam, Nhà xuất b n Nông nghiệ ”. 7. Học viện Hành chính qu c g a ( 6) g á trì “Đá g á sác cô g” 8. Lu t . 9. Lu t y t 8. 10. Lu t Sửa đổ bổ su g t s đ u Lu t T . 11. Lu t Ngư ca tuổ s 9 9 Q g y t á g 9. 12. Ng ị đị S : 6 NĐ-CP ngày 21 tháng 10 2013 của ủ quy đị chính sách trợ giúp xã đ vớ đ tượ g b trợ xã . 13. Đỗ T ị K Oa ( ) Đ t g ê cứu k a ọc “Vấ đ g óa dâ s v c sác T ở V ệt Na ”. 14. TS.Tr ệu T ị P ượ g (2016) c uyê đ “R s át đá g á ệ t g c t êu v trợ g đ vớ gư ca tuổ tr g 7 c t êu át tr của L ê ợ qu c”. 15. TS P Đì T (2014) đ t g ê cứu k a ọc “T c tr g đ s g gư g ưu ữ g g á v cu g cấ các dịc v ằ c t ệ đ s g v t c ất t t ầ gư g ưu”. 16. Nguyễ Đ g T ( ) T c g s “Đá g á c sác cô g t V ệt Na : Vấ đ v g á ” 17. Nguyễn Ngọc Toàn (2015), T c La đ ng xã h “T c tr ng và m t s đ xuất t g cư ng trợ giúp xã h đ i với gư i từ 75 – 80 tuổ ”. 18. Viện Khoa học La đ ng và Xã h ( ) c uyê đ “Đá g á th c tr g cơ c uy đ ng nguồn l c t c v đ xuất đổi mới cho chính sách trợ giúp xã h t ư ng xuyên ở Việt Nam và k t qu kh o sát t i 4 t ”

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_van_chinh_sach_an_sinh_xa_hoi_doi_voi_nguoi_cao_tuoi_ta.pdf
Luận văn liên quan