Lãi suất chỉ là phương tiện chứ không phải là mục đích, do đó chính sách lãi
suất phải gắn liền với các chính sách kinh tế mà trực tiếp là chính sách tiền tệ, chính
sách kinh tế đối ngoại. Vì vậy chính sách lãi suất trong nền kinh tế thị trường phải
thay đổi tuỳ theo thị trường, tuy theo giai đoạn phát triển và yêu cầu phát triển kinh tế
đặt ra trong m ỗi thời kỳ của từng quốc gia.
Xây dựng và tổ chức thực hiện chính sách lãi suất đáp ứng được các yêu cầu
phát triển kinh tế xã hội, trước tiên là nhiệm vụ trực tiếp của ngân hàng nhà nước, cơ
quan đại diện cho nhà nước trong lĩnh vực tài chính tiền tệ. Tuy nhiên để có được sự
thành công trọn vẹn, cần thiết và đòi hỏi có sự liên kết giữa các Bộ, Ban ngành từ
trung ương đến địa phương, trách tình trạng qui định chồng chéo, mâu thuẫn với
nhau, dẫn đến sự trông chờ, đùn đẩy trách nhiệm hay lợi dụng kẽ hở pháp luật để
tham nhũng.
30 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3031 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Chính sách lãi suất của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hợp cần phải hạn chế khả năng mở rộng tín dụng của hệ thống
ngân hàng nhằm kiềm chế đẩy lùi lạm phát hoặc phạt các ngân hàng thương mại
trong trường hợp vi phạm các yêu cầu thanh toán, ngân hàng trung ương có thể ấn
định lãi suất tái chiết khấu bằng hoặc thậm chí cao hơn lãi suất chiết khấu.
+ Lãi suất thị trường tiền tệ liên ngân hàng là lãi suất mà các ngân hàng áp
dụng khi cho vay trên thị trường liên ngân hàng. Lãi suất liên ngân hàng thường
được ấn định hàng ngày vào mỗi buổi sáng. Nó được hình thành bởi quan hệ cung
cầu tiền của các tổ chức tín dụng và chịu sự chi phối bởi lãi suất tái cấp vốn của
ngân hàng trung ương. Mức độ chi phối này phụ thuộc vào sự phát triển của hoạt
động thị trường mở và tỷ trọng sử dụng vốn vay ngân hàng trung ương của các tổ
chức tín dụng.
+ Lãi suất cơ bản là lãi suất do ngân hàng Nhà nước công bố làm cơ sở
cho các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất kinh doanh. Việc xác định lãi suất cơ bản
là do ngân hàng Nhà nước căn cứ trên cung cầu về vốn trên thị trường.
c) Lãi suất tín dụng Nhà nước
áp dụng khi Nhà nước đi vay của các chủ thể khác nhau trong xã hội dưới
hình thức phát hành trái phiếu hoặc tín phiếu. Loại lãi suất này có thể do ngân hàng
Nhà nước ấn định căn cứ vào lãi suất tiền gửi tiết kiệm của các ngân hàng, vào các
yếu tố: lạm phát, nhu cầu cấp thiết về vốn,… hoặc được hình thành thông qua hoạt
động đấu thầu tín phiếu, trái phiếu Nhà nước.
d) Lãi suất tín dụng tiêu dùng
áp dụng khi doanh nghiệp cho người lao động vay phục vụ nhu cầu
tiêu dùng cá nhân. Mức lãi suất tín dụng tiêu dùng thường cao hơn lãi suất tín dụng
ngân hàng và lãi suất tín dụng Nhà nước.
2.3. Căn cứ vào giá trị lãi suất
Từ lâu chúng ta đã quên mất tác dụng của lạm phát đối với chi phí vay
mượn. Cái mà chúng ta gọi là lãi suất không kể đến lạm phát cần gọi một cách
chính xác hơn là lãi suất danh nghĩa để phân biệt với lãi suất thực.
Lãi suất danh nghĩa là lãi suất cho ta biết sẽ thu được bao nhiêu đồng hiện
hành về tiền lãi nếu cho vay 100 đồng trong một đơn vị thời gian (năm, tháng,…).
Như vậy sau khoảng thời gian đó ta sẽ thu được một khoản tiền gồm gốc và lãi. Tuy
nhiên giá cả hàng hoá không ngừng biến động do lạm phát, điều chúng ta quan tâm
là lúc đó số tiền gốc và lãi sẽ mua được bao nhiêu hàng hoá.
Lãi suất thực là lãi suất danh nghĩa được chỉnh lại cho đúng theo đúng
những thay đổi dự tính về mức giá, thể hiện mức giá theo số lượng hàng hoá và dịch
vụ.
Mối quan hệ giữa lãi suất danh nghĩa và lãi suất thựcđã được Fisher phát
biểu thông qua phương trình mang tên ông như sau:
Lãi suất thực = Lãi suất danh nghĩa – Tỷ lệ lạm phát dự tính
2.4. Căn cứ theo các định chế lãi suất
a) Lãi suất cố định
Nhà nước quản lý trực tiếp lãi suất bằng cách công bố tất cả các loại lãi
suất. Các ngân hàng và các tổ chức tín dụng phải tuân thủ một cách tuyệt đối. Đó
chính là cơ chế ấn định lãi suất. Cơ chế này đã tồn tại ở Việt Nam trong suốt thời kỳ
kế hoạch hoá tập trung.
b) Lãi suất khống chế
Đây là hình thức, Nhà nước không ấn định các mức lãi suất mà chỉ quy
định các mức lãi suất tối đa (gọi là lãi suất trần – interest rate caps), mức lãi suất tối
thiểu (gọi là lãi suất sàn - interest rate floor) tạo thành khung giới hạn để từ đó các
ngân hàng, các tổ chức tín dụng xác định lãi suất kinh doanh. Phương pháp này
không hoàn toàn cứng nhắc như ấn định lãi suất và vẫn giữ được vai trò điều hành
của Nhà nước.
c) Lãi suất thả nổi
Lúc này Nhà nước không ấn định các mức lãi suất, đồng thời cũng
không khống chế lãi suất mà để cho lãi suất tự hình thành theo cơ chế thị trường,
các ngân hàng được quyền xác định và công bố lãi suất kinh doanh để đem áp dụng
trong việc huy động vốn và cho vay.
2.5. Căn cứ theo phương pháp tính lãi suất
- Lãi đơn: là lãi suất tính một lần theo số vốn gốc trong suốt thời hạn cho
vay. Loại tín dụng kiểu này người vay tiền sẽ trả một lần cho người vay vào ngày
đến hạn trả nợ cả vốn và một khoản tiền tính phụ thêm chính là tiền lãi. Có thể thấy
rằng vay đơn và việc tính toán đối với lãi suất thật đơn giản. Thông thường nó được
sử dụng cho các khoan vay ngắn hơn một năm hay là thời hạn cho vay trung khít
với chu kỳ tính lãi.
- Lãi suất tích họp: là lãi suất tính đến giá trị đầu tư lại của lợi tức thu
được trong thời han cho vay. Chính vì lẽ đó mà lãi suất tích họp được coi là công
bằng và chính xác hơn trong việc đo lường và tính toán cho các khoản vay dài hạn.
Trên thực tế lãi suất tích họp vẫn được tính toán dựa trên cơ sở lãi suất đơn, nhưng
do từ năm thứ hai của thời hạn tín dụng, số vốn tín dụng thực tế đã lớn hơn, do đó
ảnh hưởng đến lãi suất. Hay nói cách khác chính là “ Lãi mẹ đẻ lãi con”.
II - Các nhân tố ảnh hưởng đến lãi suất:
1. Cung - cầu về vốn
- Cầu về vốn là nhu cầu cho vay vốn phục vụ sản xuất kinh doanh hoặc tiêu
dùng của các chủ thể kinh tế khác nhau trong nền kinh tế. Cầu về vốn được cấu
thành chủ yếu từ các bộ phân:
+ Nhu cầu vay của các doanh nghiệp và các hộ gia đình nhăm hình thành
vốn đầu tư và trang trải các chi phí liên quan đến quá trình sản xuất và tiêu dùng.
Trong điều kiện các yếu tố khác không thay đổi như: lạm phát dự tính, khả năng
sinh lời dự tính của các cơ hội đầu tư... nhu cầu vốn của doanh nghiệp và hộ gia
đình biến động ngược chiều với sự biến động của lãi suất.
+ Nhu cầu vốn của Chính phủ nhằm đáp ứng thiếu hụt của ngân sách Nhà
nước. Nhu cầu này biệt lập với sự biến động của lãi suất.
+ Nhu cầu vay vốn của các chủ thể nước ngoài bao gồm các loại chủ thể
như doanh nghiệp, Chính phủ, các tổ chức tài chính trung gian. Nhu cầu về vốn của
các chủ thể này biến động ngược chiều với sự biến động của lãi suất.
Tựu chung lại, ba bộ phận trên tạo nên cầu về vốn trong nền kinh tế. Vì thế
cầu về vốn biến động ngược chiều với sự biến động của lãi suất. Do đó, đường cầu
biểu diễn mối quan hệ giữa lãi suất và cầu về vốn là đường dốc xuống, độ dốc phản
ánh sự nhạy cảm của cầu về vốn với lãi suất.
- Cung về vốn là khối lượng vốn dùng để cho vay kiếm lời của các chủ thể
khác nhau trong xã hội. Được cấu thành từ các nguồn sau:
+ Tiền gửi tiết kiệm của các hộ gia đình, đây là bộ phận chủ yếu của cung
về vốn. Trong điều kiện bình thường, tiền gửi tiết kiệm phụ thuộc nhiều vào lãi suất,
nếu lãi suất tăng sẽ kích thích nhu cầu tiết kiệm của công chúng và ngược lại. Tuy
nhiên mức độ nhạy cảm này còn phụ thuộc vào tình trạng của nền kinh tế cũng như
thói quen tiết kiệm và tiêu dùng caủ công chúng.
+ Nguồn vốn tạm thời của các doanh nghiệp dưới hình thức quĩ khấu hao
cơ bản, lợi nhuận chưa chia, các quĩ chưa sử dụng,... Nguồn này cũng biến động
cùng chiều với lãi suất tuy không nhạy cảm nhiều như tiền gửi tiết kiệm.
+ Các khoản thu chưa sử dụng của ngân sách Nhà nước. Bộ phận này
không chịu ảnh hưởng của lãi suất.
+ Nguồn vốn từ phía nước ngoài, đây cũng là biến số cùng chiều với lãi
suất.
Mặc dù có những bộ phận không chịu ảnh hưởng của lãi suất nhưng tổng hợp
lại đường cung về vốn biến động cùng chiều với lãi suất. Trên đồ thị biểu diễn mối
quan hệ giữa lãi suất và vốn thì cung về vốn là đường dốc lên.
- Cung và cầu về vốn cắt nhau tại điểm cân bằng làm hình thành lên lãi suất
thị trường. Đó là mức lãi suất thoả mãn cả cung và cầu về vốn.
2. Lạm phát
Như ta đã biết, lạm phát là kẻ thù của lãi suất, lạm phát sẽ làm bay hơi lãi
suất một cách vô hình. Do đó một lãi suất cho trước, khi lạm phát dự tính tăng lên,
chi phí thực hiên việc vay tiền giảm xuống, nhu cầu về vốn tăng lên. Mặt khác, khi
lạm phát dự tính tăng lên thì lợi tức dự tính của các khoản tiền gửi giảm xuống.
Những người cho vay lập tức chuyển vốn vào thị trường khác như thị trường bất
động sản hay dự trữ hàng hoá, vàng bạc,... Kết quả là lượng cung về vốn giảm đối
với bất kỳ lãi suất nào cho trước.
Như vậy, một sự thay đổi về lạm phát dự tính sẽ tác động đến cung cầu tư
bản cho vay. Cụ thể là, tăng lạm phát dự tính sẽ làm tăng lãi suất do giảm lượng
cung ứng và tăng cầu về tư bản.
3. Bội chi ngân sách
Một cách đơn giản nhất, bội chi ngân sách trung ương và địa phương trực
tiếp làm cho cầu của quĩ cho vay tăng, làm tăng lãi suất. Sau nữa, bội chi ngân sách
sẽ tác động đến tâm lý công chúng về gia tăng mức lạm phát và do vậy sẽ gây áp
lực taưng lãi suất. Trên một giác độ khác, thông thường khi bội chi ngân sách tăng
Chính phủ thường gia tăng việc phát hành trái phiếu. Lượng cung trái phiếu trên thị
trường tăng lên làm cho giá trái phiếu giảm, lãi suất thị trường vì lẽ đó mà tăng lên.
Hơn nữa, tài sản của các ngân hàng thương mại cũng gia tăng ở khoản mục trái
phiếu chính phủ, dự trữ vượt quá giảm, lãi suất ngân hàng cũng sẽ tăng.
4. Thuế
Khi irving Fisher đưa ra phương trình:
Lãi suất thực = Lãi suất danh nghĩa - Tỷ lệ lạm phát dự tính
thì ông đã quên mất rằng tổng lãi thu được phải chịu thuế thu nhập. Nếu tính đến
yếu tố thuế thì:
Lãi suất thực = Lãi suất danh nghĩa - Thuế thu nhập - Tỷ lệ lạm phát dự tính
Như vậy khi mức thuế tăng sẽ làm giảm lãi suất thực, tức là thu nhập của
người cho vay sẽ bị giảm dẫn tới cung về tiền sẽ giảm. Từ đó sẽ tác động ngược lại
đến lãi suất danh nghiã.
5. Rủi ro
Rủi ro là nhân tố được tính vào lãi suất, nhưng được tính như thế nào đó là
điều quan trọng. Một doanh nghiệp không chỉ bị chi phối bởi môi trường bên trong,
mà còn bị chi phối bởi các yếu tố môi trương bên ngoài, chúng không dễ dàng kiểm
soát được. Rủi ro môi trương bên ngoài không thể bị loại trừ bởi việc đa dạng hoá
nên còn gọi chung là “ rủi ro không thể đa dạng”. Các rủi ro này thường tạo ra các
tác động khác nhau đến hoạt động doanh nghiệp và trường hợp xấu nhất chúng có
thể dẫn đến phá sản. Trên thị trường tài chính “ rủi ro không thể đa dạng” được định
giá trong cơ cấu lãi suất và được gọi là “ lệ phí rủi ro thị trường”.
Trong hoạt động tín dụng ngân hàng, sự thay đổi tương quan giữa lãi suất
tiền gửi với lãi suất tiền vay gọi là “ rủi ro lãi suất”. Trường hợp kỳ hạn tiền gửi
không đổi, vốn huy động không đổi, nhưng cho vay thấp hơn trước hoặc trường hợp
lãi suất không đổi, vốn huy động không đổi nhưng tiền vay với thời hạn dài hơn
trước đều dẫn đến rủi ro vỡ nợ hoặc rủi ro thiếu vốn khả dụng cao. Do vậy rủi ro thị
trường đều được định giá trong cơ cấu lãi suất đưa ra.
Tóm lại, nhân tố thời gian, nhân tố rủi ro là hai nhân tố chủ yếu tác động đến
quyết định lãi suất của mỗi ngân hàng. Khi ngân hàng cho vay, ngân hàng chịu cả
hai thiệt thòi: thiệt thòi về mặt thời gian do nhường quyền sử dụng tiền trong thời
gian nhất định và thiệt thòi do chấp nhân rủi ro trong thời gian đó. Do đó phần lãi
suất phải bao gồm giá trị thời gian và lệ phí rui ro.
6. Thị trường vốn quốc tế
Trong xu thế toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới hiện nay, vốn được luân
chuyển trên phạm vi quốc tế. Vì vậy lãi suất trên thị trường tiền tệ của mỗi quốc gia
cũng chịu tác động của thị trường khu vực và thế giới. Trước hết thị trường vốn
quốc tế quyết định lãi suất thực quốc tế. Sau đó lãi suất thực quốc tế lại ảnh hưởng
gián tiếp đến lãi suất thực tại các nước theo từng qui mô của nền kinh tế mở.
- Dưới nền kinh tế nhỏ: lãi suất thực nội địa phải cao hơn lãi suất thực thế
giới nếu mốn thu hút đầu tư quốc tế và ngăn cản người gửi tiết kiệm trong nước đầu
tư vốn ra nước ngoài.
- Dưới nền kinh tế hùng mạnh: mức độ ảnh hưởng lãi suất quốc tế đến lãi
suất thực trong nước đôi khi không lớn bằng tác động ngược lại của sự thay đổi lãi
suất do tiết kiệm và đầu tư nước đó biến động đến lãi suất thực của thế giới.
III- Vai trò của lãi suất trong nền kinh tế
1. Lãi suất với quá trình huy động vốn
Lý thuyết và thực tiễn đều cho thấy để phát triển kinh tế cần phải có vốn và
thời gian. Các nước tư bản phát triển phải mất hàng trăm năm phát triển công
nghiệp và quá trình lâu dài tích tụ vốn từ sản xuất, tiêu dùng. Đối với Việt Nam trên
con đường phát triển kinh tế thì vấn đề tích luỹ và sử dụng vốn có tầm quan trọng
đặc biệt cả về phương pháp nhận thức và chỉ đạo thực tiễn. Vì vậy chính sách lãi
suất có vai trò hết sức quan trọng trong việc huy động vốn nhàn rỗi trong xã hội và
các tổ chức kinh tế đảm bảo đúng định hướng vốn trong nước là quyết định, vốn
nước ngoài là quan trọng trọng chiến lược CNH – HĐH đất nước.
Việc áp dụng một chính sách lãi suất hợp lý bảo đảm nguyên tắc quy định: lãi
suất phải bảo tồn được giá trị vốn vay, bảo đảm tích luỹ cho cả người cho vay và
người đi vay. Cụ thể:
+ Tỷ lệ lạm phát < Lãi suất tiền gửi < Lãi suất tiền vay < Tỷ suất lợi nhuận bình
quân
+ Lãi suất ngắn hạn < Lãi suất dài hạn (đối với cả tiền gửi và tiền vay).
2. Lãi suất với quá trình đầu tư
Quá trình đầu tư của các doanh nghiệp vào tài sản cố định được thực hiện khi
mà họ dự tính lợi nhuận thu được từ tài sản cố định này nhiều hơn số lãi phải trả
cho các khoản đi vay để đầu tư và ngược lại. Trong môi trường kinh tế hoàn chỉnh,
ngay cả khi một doanh nghiệp thừa vốn thì chỉ tiêu đầu tư có kế hoạch vẫn bị ảnh
hưởng bởi lãi suất bởi vì ngoài đầu tư vào mở rộng sản xuất, doanh nghiệp có thể
mua chứng khoán hay gửi vào ngân hàng nếu lãi suất cao.
Đặc biệt trong thời kỳ nền kinh tế đình trệ, hàng hoá ứ đọng và xuống giá, có
dấu hiệu thừa vốn và áp lực lạm phát thấp cần phải hạ lãi suất vì nguyên tắc là: lãi
suất phải nhỏ hơn lợi nhuận bình quân của đầu tư, sự chênh lệch này sẽ tạo động lực
cho các doanh nghiệp mở rộng quy mô đầu tư.
3. Lãi suất – vai trò của nó đối với hoạt động ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại với hai hoạt động chính trong hoạt động kinh doanh
cảu mình là huy động vốn và sử dụng vốn đã phản ánh qui mô hoạt động của các
ngân hàng thương mại. Với phương châm đi vay để cho vay, ngân hàng huy động
vốn tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế để cho vay. Để huy động vốn và cho vay có
hiệu quả, ngân hàng thương mại phải xác định mức lãi suất tiền và lãi suất tiền vay
một cách hợp lý. Có như vậy mới thu hút được nguồn vốn to lớn trong nước đáp
ứng nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh và đời sống. Lãi suất ngân hàng là nhân
tố quan trọng quyết định kết quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại
và khách hàng.
Lãi suất ngân hàng là một phạm trù kinh tế có tính hai mặt. Nếu xác định lãi
suất hợp lý sẽ là đòn bẩy quan trọng thúc đẩy sản xuất, lưu thông hàng hoá phát
triển và ngược lại. Bởi vậy lãi suất ngân hàng vừa là công cụ quản lý vĩ mô của nhà
nước, vừa là công cụ điều hành vi mô của các ngân hàng thương mại.
Trong hoạt động kinh doanh tiền tệ - tín dụng, ngân hàng vừa là chủ nợ, vừa
là khách nợ. Khi cho vay vốn ngân hàng thương mại đóng vai trò chủ nợ đối với
khách hàng vay vốn, còn khi nhận tiền gửi thì ngân hàng lại là khách nợ. Nếu lãi
suất huy động tiền gửi quá thấp không hấp dẫn thi không khuyến khích các doanh
nghiệp và dân cư gửi tiền, dẫn đến tình trạng thiếu vốn cho vay. Ngược lại, nếu lãi
suất cho vay cao, các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh không còn lãi hoặc lãi quá
thấp thì họ sẽ thu hẹp sản xuất để gủi tiết kiểm hưởng lãi suất cao. Lúc đó trong
ngân hàng sẽ gặp tình trạng dư tiết kiệm, không cho vay được và trở thành con nợ
thực sự của các chủ sở hữu, vì vậy có nguy cơ phá sản.
Vì nhưng yếu tố quan trọng đó mà ngân hàng trung ương phải xác định hay
kiểm soát lãi suất của các ngân hàng thương mại. Nhằm bảo vệ chính ngân hàng
thương mại và lợi ích của người gửi tiền. Lãi suất ngân hàng hợp lý thực sự là đòn
bẩy mạnh mẽ cho nền kinh tế phát triển.
Chương II : Thực trạng điều hành lãi suất Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay
Có thể nói trước năm 1986 ở nước ta chưa tồn tại một chính sách lãi suất theo
đúng nghĩa của nó. Một biểu lãi suất được qui định rất chi tiết đối với tiền gửi tiết
kiệm, tiền gửi của các tổ chức kinh tế, tiền cho vay, ban hành kèm theo quyết định
85/QĐ-NH ngày 26/10/1982 được áp dụng trong suốt giai đoạn này. Chính sách lãi
suất là việc áp dụng gần như nguyên mẫu mô hình của Liên Xô (cũ). Nhiều mức lãi
suất của ta tồn tại ổn định qua nhiều năm, điều này dường như rất phi lý, nhưng lại
rất logic trong điều kiện kinh tế-xã hội bấy giờ. Trong một nền kinh tế kế hoạch hoá
tập trung cao độ, Nhà nước bao cấp toàn bộ thông qua ngân sách, giá cả các mặt
hàng không biến động qua hàng chục năm, không công nhận lạm phát. Vậy dựa vào
cơ sở nào để điều chỉnh lãi suất?
Từ khi đất nước ta thực hiện đổi mới kinh tế, quan điểm về tài chính, tín dụng,
giá cả, lãi suất đã có nhiều đổi thay. Hàng loạt các chính sách lãi suất được đưa ra ở
các thời điểm nhất định và có tác động tích cực đối với nền kinh tế, để có thể thấy
và đánh giá được sự đổi mới trong chính sách lãi suất, ta sẽ nghiên cứu tình hình
diễn biến lãi suất nước ta từ 1988 đến nay.
I- Diễn biến lãi suất từ 1988 đến 1992
Nghị định 53/HĐBT ngày 26/3/1988 của hội đồng Bộ trưởng đã đánh dấu một
điểm mốc quan trọng trong lịch sử phát triển của hệ thống ngân hàng. Từ đây hệ
thống ngân hàng từng bước đổi mới cơ cấu tổ chức của mình: từ hệ thống ngân
hàng một cấp sang hệ thống ngân hàng hai cấp. Trong giai đoạn này xuất hiện mối
quan hệ mới, quan hệ giữa ngân hàng Nhà nước và ngân hàng thương mại. Nhiều
người đã lầm tưởng mối quan hệ này là mối quan hệ cấp trên cấp dưới, xét về mặt
hình thức thì đúng là như vậy, ngân hàng Nhà nước được quyền cấp phát giấy phép
hoạt động cho các ngân hàng thương mại, soạn thảo luật ngân hàng,... nhưng thực
chất đây là mối quan hệ bạn hàng, ngân hàng Nhà nước khó có thể điều hành được
nếu như không được sự ủng hộ của các ngân hàng thương mại và ngược lại các
ngân hàng thương mại dễ bị đổ vỡ nếu ngân hàng Nhà nước không giúp đỡ.
+ Lãi suất tiết kiệm:
Ngày 16/3/1989, ngân hàng Nhà nước quyết định nâng mức lãi suất tiền gửi
tiết kiệm để thực hiện mục tiêu chống lạm phát, ổn định sức mua của đồng tiền. Tỉ
lệ lạm phát 2 tháng đầu năm 1989 là 8,5%/tháng. Mức lãi suất được công bố là
9%/tháng đối với tiết kiệm không kỳ hạn và 12%/tháng với tiết kiệm có kỳ hạn 3
tháng. Chính yếu tố này đã giúp cho ngân hàng nhanh chóng thu hút được lượng
tiền mặt khá lớn trong lưu thông, làm lạm phát giảm xuống còn 4,3%/tháng vào
tháng 4/1989. Sau khi lạm phát được đẩy lui, ngân hàng Nhà nước đồng thời ra các
quyết định để giảm dần mức lãi suất tiền gửi tiết kiệm.
+ Lãi suất tiền gửi và cho vay của các tổ chức tín dụng đối với các tổ chức kinh
tế:
Chỉ thị 39/CT đã đưa ra nguyên tắc điều chỉnh lãi suất ngân hàng: lãi suất bảo
đảm tồn vốn cho người gửi và cho người vay, kịp thời điều chỉnh cho phù hợp với
sự biến động của chỉ số giá cả thị trường, lãi suất cho vay phải lấy việc phục vụ sản
xuất kinh doanh có hiệu quả là chính, đồng thời đảm bảo chi phí và hạch toán ngân
hàng, có ưu tiên đối với một số ngành. Việc điều chỉnh lãi suất được tiến hành theo
từng bước theo hướng thu hẹp dần khoảng cách giữa lãi suất tiền tiết kiệm và lãi
suất tiền gửi của các tổ chức kinh tế để tiến tới một lãi suất hợp lý. Ngày
11/07/1991, ngân hàng Nhà nước quy định lãi xuất cho vay tối đa của các ngân
hàng thương mại là 6%/tháng và lãi suất huy động vốn tối đa là 2%/tháng.
Trong giai đoạn này chính sách lãi suất dần thể hiện được vai trò của mình trong
công cuộc kiềm chế lạm phát, đã hình thành nhiều loại lãi suất phù hợp với yêu cầu
thị trường như lãi suất giữa các ngân hàng.... Tuy nhiên, có sự khác biệt giữa lãi
suất tiền gửi của các tổ chức kinh tế và lãi suất tiết kiệm, lãi suất huy động cao hơn
lãi suất cho vay, hơn nữa có sự phân biệt lãi suất cho vay giữa khu vực quốc doanh
và ngoài quốc doanh gây ra tình trạng bất bình đẳng trong nền kinh tế.
Về phía doanh nghiệp do được vay với lãi suất thấp dẫn đến đầu tư tràn lan
không hiệu quả. Các doanh nghiệp không trả được nợ, dẫn đến sự đổ bể hàng loạt
các tổ chức tín dụng.
II- Diễn biến lãi suất từ năm 1992-1996
Bước sang giai đoạn này, hoạt động kinh doanh ngoại tệ trở nên rất phổ biến.
Ngân hàng Nhà nước lần lượt cho phép các ngân hàng thương mại cổ phần được
tham gia vào hoạt động ngoại hối. Hiện tượng các doanh nghiệp có ngoại tệ gửi
ngân hàng và doanh nghiệp cần vay ngoại tệ của ngân hàng ngày càng phổ biến.
Bởi vậy ngoài việc quản lý lãi suất nội tệ, ngân hàng Nhà nước bắt đầu tiến hành
việc hoạch định và điều chỉnh lãi suất ngoại tệ trong giai đoạn này.
- Đối với nội tệ ngân hàng Nhà nước quyết định điều hành chính sách lãi suất
theo phương hướng:
+ Đảm bảo lãi suất thực tế dương, lãi suất tín dụng ngân hàng không thấp hơn
lãi suất tiền gửi.
+ Ngân hàng Nhà nước chỉ quy định mức lãi suất cho vay tối đa và mức lãi
suất tiền gửi tối thiểu cụ thể đối với từng đối tượng vay vốn, còn mức lãi suất cụ thể
sẽ do các ngân hàng thương mại tự quyết định trên cơ sở cung cầu về vốn tín dụng.
+ Thực hiện chính sách lãi suất bình đẳng đối với tất cả các thành phần kinh
tế
+ Ngày 04/01/1994 ngân hàng Nhà nước quyết định chấm dứt cho vay bổ
xung nguồn vốn ngắn hạn, thay vào đó là hình thức cho vay tái cấp vốn (vay tái
chiết khấu), với mức lãi suất do ngân hàng Nhà nước quy định qua từng lần vay.
+ Với sự xuất hiện thị trường liên ngân hàng, lãi suất vay mượn lẫn nhau của
các tổ chức tín dụng được ngân hàng Nhà nước quy định: Các thành viên trên thị
trường cho vay lẫn nhau theo lãi suất thoả thuận, lãi suất cho vay tối đa là
2,3%/tháng. Nếu đó là vốn từ nguồn kỳ phiếu thì lãi suất bằng lãi suất huy động kỳ
phiếu cộng tỉ lệ phí ngân hàng 0,3%/tháng. Ngày 30/09/1993, ngân hàng Nhà nước
điều chỉnh lãi suất tối đa xuống còn 2,1%/ tháng.
+ Tháng 12/1995 Quốc hội ra quyết định thực hiện chính sách trần lãi suất áp
dụng cho 1 số lĩnh vực vay cụ thể, ngoài ra còn qui định chênh lệch giữa lãi suất
cho vay và lãi suất huy động vốn là 0,35%/tháng.
- Đối với lãi suất ngoại tệ:
Trước đây việc nhận tiền gửi và cho vay ngoại tệ (chủ yếu là đôla Mỹ) đối
với các tổ chức kinh tế được ngân hàng ngoại thương độc quyền đảm nhận. Các quy
định về lãi suất đều do ngân hàng ngoại thương quyết định. Tuy nhiên, từ khi ngân
hàng thương mại được phép kinh doanh ngoại tệ thì xuất hiện nhu cầu quản lý lãi
suất tiền gửi và cho vay ngoại tệ của các tổ chức tín dụng từ phía ngân hàng Nhà
nước.
Trong giai đoạn này ngân hàng Nhà nước đã ban hành nhiều quyết định, quy
định và điều chỉnh mức lãi suất tiền gửi và cho vay đôla Mỹ. Tháng 12/1993, ngân
hàng Nhà nước bãi bỏ việc quy định lãi suất tiền gửi ngoại tệ. Nghĩa là ngân hàng
Nhà nước chỉ khống chế mức lãi xuất cho vay ngoại tệ tối đa của các tổ chức tín
dụng đối với nền kinh tế. Ngoài ra, mức lãi xuất cho vay tối đa ngày càng được điều
chỉnh tăng lên để thực hiện chủ trương thu hẹp khoảng cách giữa lãi suất nội tệ và
lãi suất ngoại tệ.
Việc chuyển đổi từ cơ chế lãi suất thực âm sang lãi suất thực dương có tác dụng
quan trọng trong việc tạo điều kiện cho các ngân hàng thực hiện chuyển đổi sang
kinh doanh, góp phần tăng khối lượng tín dụng phục vụ cho sự phát triển kinh tế.
Chính sách lãi suất phù hợp hơn đã góp phần tập trung được nguồn vốn nhàn rỗi
trong dân cư cho đầu tư phát triển, kiểm soát lạm phát ở mức vừa phải, ổn định kích
thích tăng trưởng. Kết quả giảm lạm phát 1991 là 67,6% xuống còn 14,55% năm
1992. Mức lãi suất mới đã khắc phục tình trạng chiếm dụng vốn của ngân hàng để
đầu cơ, buộc các doanh nghiệp phải tính toán thu hồi vốn nhanh.
Việc quản lý lãi suất trần tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng được tự do hơn
trong việc ấn định các mức lãi suất cho vay và tiền gửi cụ thể, phù hợp với điều kiện
kinh doanh, thực hiện cạnh tranh lành mạnh. Nhưng bên cạnh đó, một số tổ chức tín
dụng có xu hướng cho vay hết trần lãi suất nhằm thu được lợi nhuận tối đa, dẫn tới
một số vùng kinh tế khó khăn chưa được ưu tiên về lãi suất như định hướng của
Nhà nước.
III- Diễn biến lãi suất từ năm 1996 trở lại đây
Trong hơn 10 năm đổi mới, cơ chế điều hành lãi suất đã ngày càng trở nên linh
hoạt hơn, bám sát cung cầu về vốn trên thị trường, quyền chủ động ấn định lãi suất
kinh doanh của các tổ chức tín dụng được mở rộng, từ đó đã góp phần làm phát
triển thị trường tài chính trong nước, đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế. Để thúc đẩy hội
nhập kinh tế, ngân hàng Nhà nước phải tiếp tục đổi mới cơ chế điều hành lãi suất,
đã và đang từng bước áp dụng lãi suất cơ bản thay dần cho việc ấn định lãi suất trần
đi đôi với việc sử dụng công cụ điều tiết lưu thông tiền tệ phù hợp với cơ chế thị
trường.
Giai đoạn đầu năm 1996, trên cơ sở Nghị quyết của Quốc hội về bãi bỏ thuế
doanh thu của các hoạt động tín dụng nhằm mục đích giảm chi phí cho vay, ngân
hàng Nhà nước đã quyết định điều hành chính sách lãi suất theo trần lãi suất, khống
chế lãi suất cho vay tối đa và các ngân hàng thương mại chỉ được hưởng chênh lệch
0,35%/tháng gồm cả chi phí và lợi nhuận. Có ý kiến cho rằng thực chất chính sách
này vừa quy định trần, vừa quy định sàn lãi suất.
Trần lãi suất được quy định nhiều mức do có nhiều loại hình tổ chức tín dụng
hoạt động trên các địa bàn khác nhau, lúc đầu có 4 loại trần lãi suất như sau:
+ Trần lãi suất cho vay ngắn hạn, áp dụng cho khu vực thành thị.
+ Trần lãi suất cho vay trung và dài hạn.
+ Trần lãi suất cho vay áp dụng cho các tổ chức tín dụng trên địa bàn nông
thôn.
+ Trần lãi suất cho vay của quỹ tín dụng nhân dân cơ sở đối với thành viên.
Giữa các mức lãi suất này, lúc đầu có sự chênh lệch nhau khá lớn nhưng sau mỗi
lần điều chỉnh khoảng cách này đã dần được rút ngắn. Một thực tế khách quan cho
thấy nơi có chi phí hoạt động cao, rủi ro cao là khu vực nông thôn nhưng lại luôn có
nhu cầu vốn lớn nên ngân hàng Nhà nước quy định trần lãi suất cho vay ở nông
thôn cao hơn ở thành thị nhằm thu hút vốn về nông thôn. Nhưng có nhiều quan
điểm cho rằng: cho vay ở nông thôn phải có mức lãi suất thấp hơn hoặc bằng mức
lãi suất ở thành thị thì mới ưu đãi và kích thích nông nghiệp phát triển. Chính vì lẽ
đó, ngày 21/01/1998, thống đốc ngân hàng Nhà nước ra quyết định số
39/1998/QĐ/NHNN1, xoá bỏ sự cách biệt về lãi suất cho vay giữa thành thị và nông
thôn, rút từ bốn trần lãi suất xuống còn ba, thu hẹp khoảng cách giữa các trần lãi
suất và không quy định chênh lệch 0,35%/tháng. Quyết định này đã giảm sự chênh
lệch về lãi suất cho vay ở hai khu vực thành thị và nông thôn, nhưng bên cạnh đó đã
đẩy khu vực nông thôn lâm vào tình trạng thiếu vốn, điều này không đảm bảo an
toàn cho hệ thống tín dụng ở nông thôn.
Đối với lãi suất cho vay ngoại tệ, ngân hàng Nhà nước cũng đã khống chế trần
lãi suất cho vay và khi có sự biến động tỷ giá đã phối hợp chặt chẽ giữa công cụ lãi
suất và chính sách tỷ giá dể tăng cường quản lý ngoại tệ. Liên tục thực hiện thu hẹp
khoảng cách giữa lãi suất cho vay nội tệ và lãi suất cho vay ngoại tệ phù hợp với
chính sách quản lý ngoại hối, quản lý lãi suất trên thị trường quốc tế.
IV- Định hướng điều hành lãi suất ở Việt Nam
Luật ngân hàng Nhà nước được Quốc hội thông qua ngày 12/12/1997 và có hiệu
lực từ ngày 01/10/1998. Tại điều 18 luật này đã quy định: “ngân hàng Nhà nước
công bố lãi suất cơ bản và lãi suất tái cấp vốn” nhưng mãi đến ngày 02/08/2000
ngân hàng Nhà nước mới công bố và điều hành lãi suất bằng lãi suất cơ bản. Vậy lãi
suất cơ bản là gì, nó có thích hợp với nước ta hay không và việc điều hành nó như
thế nào? Nội dung này ta có thể xem xét cụ thể dựa trên một số khía cạnh sau:
1. Lãi xuất cơ bản
1.1. Nội dung và yêu cầu của lãi xuất cơ bản
Tại khoản 12 điều 9 luật ngân hàng Nhà nước có viết: “ lãi xuất cơ bản là
lãi suất do ngân hàng Nhà nước công bố làm cơ sở cho các tổ chức tín dụng ấn định
lãi suất kinh doanh”. Theo quy định này, lãi xuất cơ bản là một khái niệm rộng
nhưng có thể khái quát nó bao gồm: Lãi suất thực, tỉ lệ lạm phát, tỉ lệ chi phí bình
quân cho hoạt động ngân hàng.
Lãi xuất cơ bản phải phản ánh được cung cầu tín dụng trong toàn bộ nền
kinh tế, phải phân biệt được đâu là nhu cầu thực, đâu là nhu cầu đầu cơ để có khả
năng chống đầu cơ ở thị trường tài chính, đầu cơ trên thị trường tài chính hiện đang
là nguy cơ gây ra khủng hoảng tiền tệ và kéo theo là khủng hoảng kinh tế. Phải thể
hiện được chính sách của Nhà nước, thông qua lãi suất để tác động đến tình hình
kinh tế nói chung và tình hình tiền tệ nói riêng. Phải có sự hợp lý với lãi suất của
các nước trong khu vực và trên thế giới để thu hút vốn đầu tư nước ngoài, nhưng
không rơi vào sai lầm trong chính sách như một số nước dẫn đến khủng hoảng kinh
tế.
1.2. Lựa chọn lãi suất làm lãi xuất cơ bản
Có nhiều loại lãi suất có thể dùng để làm lãi xuất cơ bản bao gồm:
- Lãi suất tái cấp vốn .
- Lãi suất tiền gửi tối đa.
- Lãi suất cho vay tối đa.
- Lãi suất cho vay trên thị trường liên ngân hàng.
a) Lựa chọn lãi xuất tái cấp vốn làm lãi suất cơ bản
Đây là sự lựa chọn chủ yếu của các nước có nền kinh tế thị trường phát
triển. Tuy nhiên, với Việt Nam hiện nay chưa nên áp dụng bởi vì:
- Không phù hợp với quy định của luật: “ .....ngân hàng Nhà nước xác
định, công bố lãi xuất cơ bản và lãi suất tái cấp vốn.....”
- Nghiệp vụ tái chiết khấu của ngân hàng Nhà nước chưa thực sự đủ mạnh
để làm lãi suất cơ bản, mà chủ yếu sử dụng cho những mục tiêu của chính phủ.
- Chưa có sự phối hợp đồng bộ với các công cụ chính sách tiền tệ khác.
- Quy định hiện hành về dự trữ bắt buộc là thiếu hợp lý, chưa phối hợp với
lý thuyết tạo tiền của các ngân hàng thương mại. Hơn nữa việc tạo tiền của các ngân
hàng thương mại Việt Nam có sự khác biệt lớn với các ngân hàng thương mại của
các nước phát triển. Do đó tạo sự bất bình đẳng trong quy định về dự trữ bắt buộc.
b) Chọn lãi suất tiền gửi tối đa làm lãi suất cơ bản
Các tổ chức tín dụng ấn định các mức lãi suất tiền gửi trong phạm vi
khống chế lãi suất tiền gửi tối đa và ấn định các mức lãi suất tiền vay cụ thể với
cung-cầu về vốn. Thực chất của lãi suất cơ bản loại này là ngân hàng Nhà nước chỉ
công bố và kiểm soát lãi suất tiền gửi tối đa còn tự do hoá lãi suất cho vay, việc điều
hành lãi suất cho vay thông qua điều hành lãi suất tiền gửi tối đa và các công cụ của
chính sách tiền tệ.
Lãi suất cơ bản theo cách hiểu này có ưu điểm là tạo ra một bước tiến mới
trong chính sách lãi suất, tiến sát tới tự do hoá lãi suất hoàn toàn (đã tự do hoá lãi
suất cho vay và tự do hoá lãi suất tiền gửi dưới mức tối đa). Đây là cơ chế lãi suất
linh hoạt theo quan hệ cung cầu về vốn phù hợp với cơ chế thị trường, tạo khả năng
cạnh tranh lớn giữa các tổ chức tín dụng. Khống chế lãi suất tiền gửi tối đa sẽ không
cho phép các tổ chức tín dụng huy động vốn với bất kỳ lãi suất nào, chạy đua về lãi
suất để huy động vốn nhằm đảm bảo an toàn cho hệ thống ngân hàng và lợi ích của
người gửi tiền.
Muốn điều hành được lãi suất cho vay có hiệu quả thông qua việc khống
chế lãi suất tiền gửi tối đa thì ngân hàng Nhà nước phải kết hợp tốt cả hai phương
pháp điều hành trực tiếp và gián tiếp :
+ Điều chỉnh lãi suất cho vay bằng việc trực tiếp quyết định nâng hoặc
hạ lãi suất tiền gửi tối đa: muốn hạ lãi suất cho vay thì hạ lãi suất tiền gửi tối đa và
ngược lại. Theo nguyên tắc giá mua tỷ lệ thuận với giá bán.
+ Điều hành gián tiếp bằng việc dùng các công cụ gián tiếp của chính
sách tiền tệ tác động vào khối lượng vốn trên thị trường như: nghiệp vụ thị trường
mở (OMO), tái chiết khấu và thực hiện chức năng là người cho vay cuối cùng trong
nền kinh tế.
Muốn điều hành khối lượng tiền tệ bằng các công cụ gián tiếp một cách có
hiệu quả thì việc sử dụng thanh toán không dùng tiền mặt phải chiếm tỉ lệ cao trong
nền kinh tế vì khi đó ngân hàng Nhà nước có thể kiểm soát được lượng thanh toán ở
mức độ cao. Tuy nhiên, hiện nay các điều kiện này ở nước ta chưa hội tụ đủ, do vậy
khả năng kiểm soát và quản lý lãi suất cho vay sẽ rất hạn chế vì chỉ còn mỗi công cụ
trực tiếp mà ngân hàng Nhà nước có thể thực hiện được đó là nâng lên hoặc hạ
xuống mức lãi suất tiền gửi tối đa để theo đó nâng hoặc hạ lãi suất cho vay. Nhưng
xét giác độ cung cầu về vốn thì việc này nâng hay hạ lãi suất tiền gửi tối đa trong
điều kiện không có các công cụ gián tiếp phối hợp đôi khi lại tác động theo chiều
nghịch. Hạ lãi suất tiền gửi sẽ làm cho vốn huy động trở nên khan hiếm và lãi suất
cho vay sẽ “đắt lên” và ngược lại.
Trong điều kiện nước ta, nếu sử dụng lãi xuất cơ bản là lãi suất tiền gửi tối
đa là hơi mạo hiểm, vì khi đó chạy theo lợi nhuận , các ngân hàng thương mại có
thể nâng cao lãi suất cho vay (dự đoán là 2,5%/ tháng hoặc cao hơn), ngân hàng
Nhà nước chỉ còn trong tay một công cụ yếu kếm là hạ lãi suất tiền gửi, khó có thể
kéo lãi suất xuống. Lãi suất cao nhưng các doanh nghiệp và các hộ sản xuất vẫn
phải vay vì thiếu vốn, khi làm ăn thua lỗ, không có khả năng trả nợ, từ đó có thể dẫn
đến phá sản hàng loạt doanh nghiệp và kéo theo là sự đổ bể của hàng loạt ngân hàng
thương mại, hơn thế nữa nền kinh tế có thể phải đối mặt với các cuộc khủng hoảng.
Do vậy, một khi chưa đủ các công cụ để phục vụ cho việc điều hành lãi
xuất cơ bản bằng lãi suất tiền gửi tối đa thì chúng ta chưa nên áp dụng ở Việt Nam
vì hậu quả của nó là không lường trước được.
c) Chọn lãi suất cho vay tối đa làm lãi xuất cơ bản
Khi chọn lãi suất cho vay làm lãi xuất cơ bản thì trần lãi suất vẫn là loại
lãi suất có tính ưu việt hơn cả, các loai lãi suất cộng hoặc trừ một biên độ nhất định
thực chất là khống chế lãi suất cho vay tối đa, nhưng lại kém linh hoạt hơn do bị
khống chế sàn lãi suất, giống như khống chế chênh lệch lãi suất cho vay và tiền gửi
bằng 0,35%/tháng trước đây. Khi thực hiện lãi suất cho vay tối đa làm lãi xuất cơ
bản thì sẽ đem lại nhiều thuận lợi.
Đối với các tổ chức tín dụng được tự do hoá lãi suất tiền gửi, chủ động
trong việc huy động vốn và tránh được tình trạng dư tiết kiệm. Được tự do trong
phạm vi trần tối đa, tuỳ theo đặc điểm, chi phí của từng tổ chức tín dụng và tuỳ theo
từng đối tượng khách hàng sẽ có nhiều mức lãi suất cụ thể phù hợp.
Đối với Nhà nước, việc kiểm soát lãi suất cho vay của các tổ chức tín
dụng, bảo vệ được lợi ích của người vay, nhất là các doanh nghiệp Nhà nước và hộ
gia đình nông thôn, hai thành phần chiếm 70% tổng dư nợ vay ngân hàng, không
phải vay với lãi suất quá cao, đồng thời điều hoà lợi nhuận giữa người vay và ngân
hàng một cách hợp lý.
Tạo môi trường cạnh tranh mạnh mẽ giữa tổ chức tín dụng, trong khôn
khổ của trần lãi suất tín dụng, tránh được tình trạng chạy đua theo lợi nhuận tối đa,
bảo đảm an toàn cho các tổ chức tín dụng và nền kinh tế.
Mặc dù vậy, lãi suất cơ bản theo trần lãi suất phải là một trần đủ rộng để
đáp ứng được quan hệ cung cầu vốn tín dụng và cạnh tranh lành mạnh giữa các tổ
chức tín dụng. Phải đảm bảo cho mọi tổ chức tín dụng, mọi khách hàng, những nơi
có nhu cầu vốn lớn chi phí cho vay cao thì cho vay sát trần còn nhưng nơi thuân lợi
hơn thì cho vay lãi suất thấp để cạnh tranh lẫn nhau. Và vì vậy nên có một trần
chung nhất mà không nên tồn tại nhiều trần khác nhau.
Khi cung thấp hơn cầu về vốn do các yếu tố tỷ giá, lạm phát tăng làm cho
trần bị “ chật chội”, thì trần lãi suất phải được nâng lên. Còn khi cầu thấp hơn cung
về vốn thì trần lãi suất không nên hạ xuống vì khi đó các tổ chức tín dụng sẽ hạ lãi
suất xuống dưới trần mà ngân hàng Nhà nước lại hạ thấp trần xuống theo thì sẽ làm
mất ý nghĩa của trần lãi suất, không còn là cơ chế lãi suất linh hoạt nữa, mất tính
cạnh tranh, không phản ánh đúng mối quan hệ cung cầu vốn trên thị trường và trở
thành cơ chế lãi suất gò bó, thiếu linh hoạt như yếu cầu đặt ra.
d) Chọn lãi suất trên thị trường liên ngân hàng làm lãi suất cơ bản
Lãi suất trên thị trường liên ngân hàng là lãi suất mà các ngân hàng
thương mại cho nhau vay vốn. Có thẻ hiểu một cách đơn giản đây là lãi suất trên thị
trường bán buôn, từ lãi suất này các ngân hàng thương mại tự điều chỉnh lãi suất
cho vay phụ thuộc vào chi phí hoạt động ngân hàng.
Nếu lựa chọn lãi suất cơ bản theo hướng này thì lãi suất sẽ tự điều chỉnh
theo cung cầu về vốn trên thị trường, luôn bán chắc thị trường, thay đổi kịp thời phù
hợp với biến động của thị trường. Với một số nước có nền kinh tế lớn họ đều sử
dụng lãi suất này để định hướng cho chính sách lãi suất. Nhưng với Việt Nam ta
hiện nay, thị trường tiền tệ liên ngân hàng chưa thực sự phát triển, bị thao túng bởi
một số ngân hàng lớn, nên có thể xảy ra tình trạng một số ngân hàng lớn liên kết với
nhau tạo ra lãi suất có lợi nhất cho các ngân hàng này, buộc các tổ chức tín dụng
khác cũng phải tuân theo. Hơn nữa các công cụ của chính sách tiền tệ chưa đủ mạnh
để điều chỉnh thị trường nay. Do vậy, hiện cần phải cân nhắc khi sử dụng phương
pháp này.
2. Kinh nghiêm áp dụng lãi suất cơ bản của một số nước
2.1. Kinh nghiệm của Pháp
Pháp dùng lãi suất của thị trường liên ngân hàng làm lãi suất chỉ đạo với
cái tên TIOP, do Pháp là mộy nước có lượng vốn vay ngân hàng nhiều hơn vốn vay
qua thị trường tài chính. Pháp dùng lãi suất cho vay được chào mời vào lúc 11h
hàng ngày của tám ngân hàng lớn (nay là 12 ngân hàng) để tính theo số trung bình
ra lãi suất chỉ đạo. Do vậy, các ngân hàng thương mại Pháp phàn nàn là ngân hàng
lớn áp đặt lãi suất buộc các ngân hàng nhỏ phải tuân theo.
Về mặt lý thuyết lãi suất chỉ đạo này có thể coi là do cung cầu tín dụng
quyết định. Lý do là tám ngân hàng lớn đều có cung cầu vốn riêng là mối quan hệ
nguồn vốn và sử dụng vốn tín dụng của họ. Sự gặp gỡ giữa cung và cầu của tám
ngân hang đó phản ánh cung cầu tín dụng của nền kinh tế. Với vai trò là người cho
vay cuối cung của nền kinh tế ngân hàng Nhà nước co thể điều chỉnh lãi suất bằng
cách chủ động tác động vào cung cầu của tín dụng. Có thể nói đây là công cụ thị
trường để ngân hàng Nhà nước tác động bằng vốn của mình để hình thành lãi suất
chỉ đạo.
2.2. Kinh nghiệm của Nhật Bản
Vào giai đoạn phát triển thần kỳ, thị trường tiền tệ của Nhật Bản chỉ dành
riêng cho các ngân hàng và một số định chế tài chính được chính thức công nhận.
Sau này, khi mở rộng thị trường tiền tệ cho các thành phần khác tham gia, thị
trường liên ngân hàng gồm hai bộ phân: thị trường mua tiền tệ và thị trường thương
phiếu. Trước tháng 5/1971, chỉ có thị trường mua tiền tệ dành cho những giao dịch
cực ngắn. Từ tháng 5/1971 thị trường giao dịch đôla dài hạn yếu ớt đổi sang thị
trường thương phiếu mới thành lập. Thị trường mua tiền tệ trở lại với chức năng
phục vụ cho hoạt động thương mại. Hai thị trường này có người cho vay và người
đi vay, các nhà trung gian về buôn tiền. Vì giao dịch không có ký gửi nên người
buôn tiền chỉ hoạt động như người môi giới. Ngân hàng Nhật cũng tham gia vào thị
trường thương phiếu.
Thị trường tiền tệ liên ngân hàng cung cấp một lãi suất tham chiếu cho
mọi chế định tài chính. Lãi suất này được kiểm soát chặt chẽ bởi sự điều chỉnh của
Nhà nước bằng chính sách lãi suất thấp nhân đạo tạo điều kiện cho đầu tư. Cho đến
nay Nhân vẫn theo đuổi chính sách lãi suất kiềm chế.
2.3. Kinh nghiệm của Singapore
Thị trường liên ngân hàng Singapore được tách ra làm hai phần: thị
trường liên ngân hàng thực sự và thị trường chiết khấu. Thông thường ngân hàng
bản địa với lượng vốn huy động to lớn là người cho vay thực còn ngân hàng nước
ngoài là người đi vay. Hoạt động của thị trường liên ngân hàng ảnh hưởng lớn đến
lãi suất ngắn hạn, đến giữa năm 1975 lãi suất này do Cácten ngân hàng quyết định.
Và cũng từ năm 1975, khi các chứng chỉ tiền gửi khả nhượng ra đời thì lãi suất cũng
được tự do hoá.
3) Thực trạng điều hành lãi suất cơ bản ở nước ta
Ngày 2/8/2000, thống đốc ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã ban hành quyết
định số 241/2000/QĐ-NHNN 1 về việc thay đổi cơ chế điều hành lãi suất cho vay
của các tổ chức tín dụng đối với khách hàng.
Theo quyết định này từ ngày 5/8/2000 các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất
cho vay bằng đồng Việt Nam đối với khách hàng phải dựa trên lãi suất cơ bản do
ngân hàng Nhà nước công bố, theo nguyên tắc lãi suất cho vay không vượt quá lãi
suất cơ bản và biên dộ giao động do thống đốc ngân hàng Nhà nước quy định theo
từng thời kỳ. Ngân hàng Nhà nước công bố lãi suất cơ bản dựa trên lãi suất cho vay
thương mại đối với khách hàng tốt nhất của nhóm các tổ chức tín dụng được lựa
chọn theo quyết định của thống đốc ngân hàng Nhà nước. Lãi suất cơ bản và biên
độ được công bố định kỳ hàng tháng và khi cần thiết có thể điều chỉnh kịp thời.
Các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất cho vay bằng đồng đôla Mỹ theo
nguyên tắc lãi suất cho vay không vượt quá lãi suất đôla Mỹ trên thị trường liên
ngân hàng Singapore (lãi suất SIBOR) kỳ hạn 3 tháng với cho vay ngắn hạn, 6
tháng với trung hạn và dài hạn là tại thời điểm cho vay với một biên độ do thống
đốc ngân hàng Nhà nước quy định.
Tại quyết định số 242,243 ngày 2/8/2000 thống đốc ngân hàng Nhà nước đã
công bố mức lãi suất cơ bản là 0.75 %/tháng đối với cho vay bằng đồng Việt Nam.
Theo đó các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất cho vay bằng đồng Việt Nam đối với
khách hàng thấp hơn mức lãi suất cơ bản,với biên độ là 0,3%/tháng đối với cho vay
ngắn hạn, 0,5%/tháng đối với cho vay trung và dài hạn.
Lãi suất cho vay bằng đôla Mỹ được ấn định như sau: không vượt qua lãi suất
SIBOR kỳ hạn 3 tháng, biên độ 1% /năm đối với vay ngắn hạn, không vượt quá lãi
suất SIBOR 6 tháng, biên độ 2,5 %/ năm đối với vay trung hạn.
Như vậy giữa cơ chế điều hành lãi suất cơ bản và cơ chế điều hành lãi suất
trần đã có bước tiến đáng kể. Cơ chế điều hành lãi suất trần mang tính chủ quan của
ngân hàng Nhà nước còn cơ chế điều hành lãi suất cơ bản dựa trên cơ sở thị trường.
Lãi suất cơ bản được hình thành trên thị trường liên ngân hàng nhưng trước mắt do
thị trường liên ngân hàng chưa phát triển nên ngan hàng Nhà nước lấy mức lãi suất
cho vay khách hàng tốt nhất của các tổ chức tín dụng làm cơ sở tham khảo đẻ xây
dựng lãi suất cơ bản. Như vậy bứoc đầu lãi suất cơ bản đảm bảo phản ánh quan hệ
cung cầu về vốn trên thị trường cho vay của các ngân hàng thương mại đối với
khách hàng. Sau này khi thị trường liên ngân hàng phát tiển lãi suất cơ bản sẽ được
hình thành trên cơ sở lãi suất của thị trường tiền tệ liên ngân hàng.
Lãi suất cơ bản thực sự là lãi suất linh động và mang lại hiệu quả cao đối với
các nứoc có nền kinh tế phát triển. Xét trên giác độ nền kinh tế Việt Nam mới đang
ở giai đoạn đầu tiên bứoc sang cơ chế thị trường, có thể khẳng định rằng chưa cho
phép tự do háo lãi suất, hay là xác định lãi suất theo các lực lượng thị trường, nhưng
trên một giác đọ khác muốn phát triển nền kinh tế thị trường, muốn hình thành và
phát triển thị trường tài chính nói chung và thị trường chứng khoán nói riêng ở Việt
Nam, đòi hỏi chúng ta phải cho phép tự do hoá lãi suất. Và lãi suất cơ bản là một
bước tiến trong công cuộc tự do hoá lãi suất.
Chương III : Giải pháp và kiến nghị
I – Các mục tiêu cần hướng tới
Trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay, cơ chế lãi suất mới không làm tăng
mặt bằng lãi suất thị trường, tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng huy động vốn ở
mức cao, bảo đảm chất lượng tín dụng, đáp ứng yêu cầu thúc đẩy tăng trượng kinh
tế, ổn định giá trị tiền tệ.
Tạo điều kiện cho tổ chức tín dụng và khách hàng có thể thoả thuận để lựa chọn
một mức lãi suất phù hợp, có lợi cho các bên. Khuyến khích tổ chức tín dụng mở
rộng huy động vốn và cho vay trung dài hạn. Riêng lãi suất ngoại tệ còn phải phù
hợp hơn nữa đối với thông lệ quốc tế, tạo điều kiện cho ngân hàng thương mại mở
rộng cho vay vốn băng ngoại tế và hạn chế gửi vốn ngoại tệ ra nước ngoài.
Tạo khuôn khổ linh hoạt cho các tổ chức tín dụng áp dụng lãi suất cho mục đích
cạnh tranh, kiểm soát rủi ro, phân loại khách hàng,... nhưng bên cạnh đó ngân hàng
nhà nước vẫn có thể kiểm soát được mức lãi suất, không để các tổ chức tín dụng áp
đặt lãi suất cho khách hàng, ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư của nền kinh tế.
II – Một số giải pháp trong việc đổi mới chính sách lãi suất của Việt Nam.
1. Quy định tỷ lệ lãi suất hợp lý giữa lãi suất ngắn hạn, trung hạn và dài hạn
Hiện nay sau các quyết định về điều chỉnh lãi suất cho vay của ngân hàng nhà
nước, lãi suất cho vay trung hạn và dài hạn đã tăng tương đối so với lãi suất ngắn
hạn. Song để đạt được mục đích chuyển vốn vay ngắn hạn sang dài hạn và trung
hạn, thì vấn đề xác định mức lãi suất hợp lý cần phải được xem xét cụ thể hơn.
+ Lãi suất trung và dài hạn phải cao hơn lãi suất ngắn hạn vì nó phải chứa
các yếu tố rủi ro và trượt giá nhiều hơn.
+ Quá trình điều chỉnh phải tạo ra sự cân đối trong cơ cấu vay vốn.
2. Xác định chênh lệch tỷ lệ lãi suất cho vay trong nước và lãi suất nước ngoài
hợp lý để thu hút nhiều hơn nữa vốn đầu tư nước ngoài.
Ngoài nguyên tắc bảo đảm cho vay trong nước phải cao hơn lãi suất thế giới
cần đặc biệt chú ý đến tỷ lệ lạm phát và giá trị đồng nội tệ khi điều chỉnh. Thực tế
cho thấy năm 1995 Việt Nam thu hút được vốn đầu tư nước ngoài 6,471 triệu USD
với 311 dự án được cấp giấy phép. Vì vậy để đạt được sự hợp lý trong chính sách
điều chỉnh lãi suất cần đồng thời tiến hành đồng bộ với các giải pháp khác để thúc
đấy qua trình đầu tư, giải toả tình trạng ứ đọng vốn nội tệ trong thời gian qua do các
doanh nghiệp thích vay vốn bằng ngoại tệ hơn nội tệ gây ra tình trạng “ đôla hoá”
trong nền kinh tế.
Nhưng việc lãi suất nội tệ cao hơn lãi suất ngoại tệ lại dẫn đến tình trạng
+ Kém thu các nguồn vốn ngoại tệ từ lưu thông để nhằm mục đích phát
triển nền kinh tế vì lãi suất không hấp dẫn.
+ Gây nên sự mất bình đẳng trong thu nhập giữa người gửi tiền ngoại tệ
và nội tệ. Đồng thời tạo cơ hội trục lợi không chính đáng cho nhưng người vay vốn
ngoại tệ ngân hàng.
Vì vậy mục tiêu của ngành ngân hàng là cần phải điều chỉnh lại tỷ lệ lãi suất
giữa nội tệ và ngoại tệ song bên cạnh đó phải có sự tương đồng trong chính sách tỷ
giá hối đoái trong giai đoạn hiên nay.
3. Hoàn thiên môi trường pháp lý ngân hàng tạo niềm tin và khuyến khích
nhân dân gủi tiết kiệm.
Lý luận thực tiễn cho thấy kinh doanh tiền tệ là loại hình đòi hỏi hết sức khắt
khe về sự hoàn thiên môi trường pháp lý do hai lý do: thứ nhất do tính hấp dẫn bản
thân đồng tiền, thứ hai do tính rủi ro trong hoạt động kinh doanh tiền tệ.
Chuyển sang nền kinh tế thị trường hoàn thiện môi trường pháp lý ngân hàng
là yêu cầu cấp bách. Trước hết là việc sửa đổi và hoàn thiện luật ngân hàng, tăng
cường vai trò kiểm soát của ngân hàng nhà nước, hình thành và hoàn thiên ngân
hàng cổ phần, các công ty tài chính. Từ đó thúc đẩy khả năng sử dụng vốn hợp lý,
tạo mối liên hệ giữa các ngân hàng ngày càng chặt chẽ. Và sau là thúc đẩy nền kinh
tế không dùng tiền mặt, tạo tiền đề cho công cuộc tự do hoá lãi suất.
4. Tiến tới tự do hoá lãi suất ở Việt Nam
+ Hiện nay, xu hướng hội nhập toàn cầu hoá là một xu hướng tất yếu, bên
cạnh nhưng thuận lợi thì vấn đề này đặt ra cho chúng ta không ít những khó khăn,
thách thức. Trong bối cảnh đó, vấn đề tự do hóa tài chính nói chung và tự do hoá lãi
suất nói riêng là điều không tránh khỏi. Tuy nhiên đối với Việt Nam lúc này, tự do
hoá lãi suất chưa phù hợp do một số nguyên nhân sau:
- Việt Nam đang phải đối mặt với thực trạng hệ thống tài chính vấn kém
phát triển và tình trạng thiếu thông tin về thị trường tài chính, đặc biệt khu vực miền
núi và nông thôn.
- Nếu xã hội áp đặt vào hệ thống tài chính quá nhiều các mục tiêu quốc
gia như chính sách lãi suất ưu đãi với đối tượng chính sách, phát triển khu vực nông
nghiệp ... thì việc Chính Phủ can thiệp sẽ là khó khăn. Điều nay làm cho chính sách
lãi suất kém hiệu quả.
- Các công cụ kiểm soát tiền tệ gián tiếp chưa đủ mạnh để chi phối thị
trường.
- Tình trạng tài chính của các ngân hàng thương mại đang xấu đi, do vốn tự
có thấp và tồn tại một số lượng lớn nợ khó đòi. Khi tự do hoá lãi suất, bước sang cạnh
tranh mạnh mẽ có thể làm các ngân hàng này phá sản.
+ Vì vậy để tiến hành tự do hoá lãi suất ở Việt Nam cần phải thực hiện một số
yêu cầu sau:
- ổn định kinh tế vĩ mô về các mặt: tốc độ tăng GDP, kiểm soát lạm phát,
cân đối ngân sách nhà nước.
- Củng cố hệ thống tài chính - ngân hàng từ trung ương đến cơ sở. Tăng
cường thông tin về thị trường tài chính – tiền tệ – chứng khoán, đảm bảo cân bằng
cung cầu về vốn.
- Xác định và phân chia rõ ràng nhiệm vụ, các mục tiêu chính sách quốc gia
về kinh tế – xã hội cho hệ thống tín dụng ngân hàng.
- Đấy mạnh hơn nữa các hàng hoá cho thị trường chứng khoán nhằm mở
rộng phạm vi ảnh hưởng của chính sách tiền tệ.
Kết Luận
Lãi suất chỉ là phương tiện chứ không phải là mục đích, do đó chính sách lãi
suất phải gắn liền với các chính sách kinh tế mà trực tiếp là chính sách tiền tệ, chính
sách kinh tế đối ngoại. Vì vậy chính sách lãi suất trong nền kinh tế thị trường phải
thay đổi tuỳ theo thị trường, tuy theo giai đoạn phát triển và yêu cầu phát triển kinh tế
đặt ra trong mỗi thời kỳ của từng quốc gia.
Xây dựng và tổ chức thực hiện chính sách lãi suất đáp ứng được các yêu cầu
phát triển kinh tế xã hội, trước tiên là nhiệm vụ trực tiếp của ngân hàng nhà nước, cơ
quan đại diện cho nhà nước trong lĩnh vực tài chính tiền tệ. Tuy nhiên để có được sự
thành công trọn vẹn, cần thiết và đòi hỏi có sự liên kết giữa các Bộ, Ban ngành từ
trung ương đến địa phương, trách tình trạng qui định chồng chéo, mâu thuẫn với
nhau, dẫn đến sự trông chờ, đùn đẩy trách nhiệm hay lợi dụng kẽ hở pháp luật để
tham nhũng.
Trong chiến lược phát triển kinh tế của Việt Nam cần phải có một bước tiến
mới trong quá trình điều chỉnh xây dựng và hoàn thiện chính sách lãi suất theo
nguyên tác lãi suất dương, đảm bảo mềm dẻo linh hoạt phù hợp với tình hình thực tế,
nâng dần tính chất gián tiếp và điều tiết cho vay vốn.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 164_4324.pdf