Thị trường KH&CN là loại thị trường đặc biệt, có tính đặc thù cao từ hàng hóa đến
giá cả và phương thức giao dịch mua bán. Tuy nhiên, hệ thống các cơ chế, chính sách hỗ
trợ, ưu đãi đối với các chủ thể tham gia thị trường KH&CN còn nhiều bất cập, nhiều chính
sách không phù hợp với thực tế, thậm chí tạo kẽ hở cho một số chủ thể trục lợi, việc thực
thi chính sách trong thực tế còn gặp nhiều trở ngại về thủ tục hồ sơ, hành chính nên chưa
phát huy được hiệu lực và hiệu quả, nhiều chính sách tuy đã được ban hành nhưng không
được thực hiện. Về phía cung hàng hóa cho thị trường KH&CN, hàng hóa là công nghệ và
thiết bị máy móc từ nguồn trong nước đa số còn ở trình độ thấp, khả năng cạnh tranh với
công nghệ và máy móc thiết bị cùng loại so với các nước còn yếu. Hàng hóa công nghệ nhập
từ nước ngoài về không được kiểm soát chặt chẽ, dẫn đến tình trạng công nghệ nhập về
không phải là công nghệ tiên tiến ở nước ngoài, nhiều công nghệ thâm chí đã lạc hậu. Về
phía cầu công nghệ, đối tượng trung tâm của phía cầu là doanh nghiệp sản xuất, nhưng đa số
là doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ chiếm trên 90%, do đó năng lực quản trị công nghệ,
tiếp thu, làm chủ và đổi mới công nghệ của doanh nghiệp còn ở mức thấp. Đầu tư cho
KH&CN của doanh nghiệp còn nhiều hạn chế, chủ yếu do thiếu vốn. Về phía dịch vụ trung
gian, lực lượng này đến nay chưa phát triển theo kịp với yêu cầu của thị trường.
Nhằm khắc phục những hạn chế trên, luận văn đã khuyến khích một số vấn đề sau:
Định hướng trong việc hoàn thiện chính sách phát triển thị trường KH&CN trong thời gian
tới, cụ thể: Hoàn thiện chính sách phát triển thị trường KH&CN phải nhằm mục tiêu gắn
kết KH&CN với hoạt động sản xuất; Hoàn thiện chính sách phát triển thị trường KH&CN
phải nhằm hướng tới việc tạo ra sự đồng bộ các yếu tố thị trường để đảm bảo cho thị
trường này được phát triển ổn định và bền vững; Một số giải pháp cụ thể cho ba nhóm
chính sách cơ bản trong phát triển thị trường KH&CN, gồm: Nhóm chính sách phát triển
cung hàng hóa KH&CN; Nhóm chính sách phát triển cầu hàng hóa KH&CN; và nhóm
chính sách phát triển tổ chức trung gian hỗ trợ thị trường KH&CN Việt Nam trong thời
gian tới./.
103 trang |
Chia sẻ: yenxoi77 | Lượt xem: 671 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Chính sách phát triển thị trường khoa học và công nghệ từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
học; mở rộng phạm vi bảo hộ đối với kiểu
dáng sản phẩm hàng hóa; quy định phạm vi rộng hơn những dấu hiệu có khả năng được
bảo hộ là nhãn hiệu hàng hoá như: không gian ba chiều, âm thanh, các dấu hiệu mùi, vị.
Hai là, hoàn thiện các quy định về thực thi quyền SHTT trong pháp luật hành chính.
Nhiều vụ xâm phạm SHTT được lực lượng quản lý thị trường xử lý nhưng rất ít vụ
việc bị xử lý bằng pháp luật hình sự. Điều này lý giải vì sao trên thực tế hành vi xâm phạm
nhãn hiệu ngày càng phổ biến, lan rộng. Nhưng các biện pháp xử lý vi phạm về SHTT của
cơ quan chức năng còn nhiều bất cập, bởi theo quy định hiện hành, mức phạt cao nhất đối
với vi phạm SHTT của doanh nghiệp 500 triệu đồng, cá nhân 250 triệu đồng. Do mức phạt
được “khống chế” theo mức trần, nên tác dụng ngăn ngừa vi phạm rất thấp. Ngoài ra, hiện
cũng có nhiều cơ quan tham gia xử lý vi phạm quyền SHTT: Hải quan, quản lý thị trường,
công an, tòa án...Mặc dù, thẩm quyền của mỗi cơ quan đã được quy định rõ nhưng vẫn có
75
hiện tượng chồng chéo trong khâu xử lý vi phạm SHTT. Điều này khiến doanh nghiệp lúng
túng, ngần ngại khi liên hệ để bảo vệ quyền SHTT. Để đấu tranh ngăn chặn vi phạm SHTT,
trong bối cảnh nền kinh tế mở như hiện nay, doanh nghiệp phải tự xác lập uy tín, thương
hiệu của mình mới cạnh tranh được trên thị trường. Trong đó, đăng ký quyền SHTT là giải
pháp tối ưu giúp doanh nghiệp tự bảo vệ mình trước vấn nạn hàng giả, hàng nhái đang tràn
lan như hiện nay
Về phía cơ quan chức năng cần có biện pháp “mạnh tay” hơn với vấn nạn này, quy
định thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực SHTT theo hướng giảm bớt
đầu mối và tăng cường công tác quản lý, chỉ đạo; quy định rõ ràng thẩm quyền của từng cơ
quan và phạm vi cũng như cách thức phối hợp giữa những cơ quan này khi xử lý vi phạm
hành chính trong lĩnh vực SHTT. Sửa đổi quy định về mức phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực SHTT theo hướng: tăng mức phạt tối đa; mức phạt phải cao hơn lợi nhuận mà
người vi phạm có thể thu được từ hành vi vi phạm và tăng theo mức độ nghiêm trọng của
hành vi vi phạm như vi phạm có tổ chức, tái phạm, vi phạm liên quan đến các sản phẩm có
ảnh hưởng trực tiếp đến tính mạng và sức kho của cộng đồng. Cần thiết loại bỏ quy định
xử phạt cảnh cáo đối với hành vi vi phạm SHTT nói chung và nhãn hiệu nói riêng
Ba là, ban hành những quy định cụ thể về thủ tục tố tụng hành chính trong lĩnh vực
SHTT, theo đó: (i) Mở rộng thẩm quyền giải quyết các khiếu kiện hành chính trong lĩnh
vực SHTT cho phù hợp với Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ và Hiệp định về các
khía cạnh thương mại của quyền SHTT (TRIPs); (ii) Xây dựng và ban hành văn bản pháp
luật hướng dẫn cụ thể hoạt động kiểm soát biên giới nhằm chống lại việc vi phạm quyền
SHTT gắn liền với hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu.
Thứ hai, sửa đổi, bổ sung một số quy định của pháp luật về phát triển doanh nghiệp
KH&CN:
Một là, với quy định doanh nghiệp KH&CN phải đáp ứng điều kiện: “Doanh thu từ
việc sản xuất, kinh doanh sản phẩm, hàng hoá hình thành từ kết quả nghiên cứu và triển khai
đạt tỷ lệ theo quy định” [5, Đ.58] sẽ hình thành rào cản đối với các doanh nghiệp mong muốn
trở thành doanh nghiệp KH&CN, nhất là các doanh nghiệp thành lập mới, được hình thành
từ kết quả nghiên cứu và triển khai. Theo quan điểm của chúng tôi, không nên đưa điều kiện
“doanh thu kết quả nghiên cứu và triển khai đạt tỷ lệ theo quy định” vào điều kiện cấp giấy
76
chứng nhận doanh nghiệp KH&CN, thay vào đó nên đưa điều khoản này vào quy định để
hưởng ưu đãi thuế sẽ hợp lý hơn. Bởi trong quá trình kinh doanh, không phải bao giờ doanh
nghiệp cũng đảm bảo doanh thu như mong muốn, nhất là sản phẩm mới hình thành bao giờ
cũng tiềm ẩn rủi ro, phải mất một thời gian, mới được thị trường đón nhận rộng rãi. Một số
sản phẩm mới, phải được cơ quan quản lý chức năng ban hành tiêu chuẩn, quy chuẩn chuyên
ngành phù hợp mới được phép lưu hành.
Hai là, sớm sửa đổi và ban hành văn bản quy phạm pháp luật về doanh nghiệp
KH&CN, theo hướng đơn giản thủ tục, đảm bảo tính khả thi và kế thừa được các bài học
kinh nghiệm từ các quốc gia tiên tiến trên thế giới về doanh nghiệp KH&CN.
Thứ ba, hoàn thiện khung pháp lý cho hoạt động định giá công nghệ:
Để hoàn thiện hoạt động định giá công nghệ Nhà nước đã ban hành một số văn bản
quy phạm pháp luật nhằm điều chỉnh vấn đề này. Gần đây nhất Bộ KH&CN phối hợp với
Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 39/2014/TTLT-BKHCN-BTC ngày 17/12/2014 quy
định việc định giá kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, tài sản trí tuệ sử
dụng ngân sách nhà nước. Tuy nhiên, những quy định tại thông tư này chỉ áp dụng trong
phạm vi quản lý trực tiếp của Bộ KH&CN (áp dụng đối với các giá kết quả nghiên cứu
khoa học và phát triển công nghệ, tài sản trí tuệ sử dụng ngân sách nhà nước). Ngoài các
thuộc tính chung như các hàng hóa thông thường khác (giá trị, giá trị sử dụng), hàng hóa
công nghệ còn có các thuộc tính riêng (tính khác biệt, tính khan hiếm) mà tiêu chuẩn Thẩm
định giá số 13 chưa quy định hết. Để hoàn thiện khung pháp lý cho hoạt động định giá
công nghệ, cần có thêm các quy định cụ thể dành cho đối tượng công nghệ.
Thứ tư, sửa đổi, bổ sung một số quy định về định giá tài sản là quyền SHTT khi góp
vốn thành lập doanh nghiệp.
Khi góp vốn bằng quyền SHTT nói chung và quyền sở hữu công nghiệp nói riêng,
việc cần làm trước nhất là phải tiến hành định giá giá trị quyền tài sản góp vào doanh
nghiệp. Người góp vốn thường có khuynh hướng định giá cao hơn giá trị thật sự của tài
sản, điều này rất nguy hiểm vì hành vi sai trái này không chỉ ảnh hưởng đến mối quan hệ
giữa các thành viên hoặc cổ đông khi thỏa thuận cho phép thành viên hoặc cổ đông góp
vốn bằng quyền SHTT nắm giữ nhiều quyền hơn số vốn thực tế họ đã góp vào công ty, mà
còn tạo nên hình ảnh sai lệch về khả năng thanh toán của công ty đối với người thứ ba. Do
77
đó, quy định về định giá tài sản góp vốn là quyền SHTT cần được quy định chặt chẽ để hạn
chế tình trạng đánh giá vượt giá trị thật của quyền tài sản được góp vốn.
Hiện nay, pháp luật Việt Nam chưa quy định chặt chẽ về vấn đề định giá tài sản góp
vốn là quyền tài sản nói chung và tài sản là quyền SHTT nói riêng. Do đó, cần có một số
quy định mới về vấn đề này như sau:
Một là, quy định về tổ chức định giá chuyên nghiệp cần được thay thế bằng Hội đồng
về góp vốn. Hội đồng về góp vốn do các thành viên sáng lập thống nhất chỉ định, nếu
không chỉ định được hoặc không chỉ định, thì theo quyết định của Tòa kinh tế thuộc Tòa án
nhân dân nơi doanh nghiệp đăng ký kinh doanh. Thành viên hội đồng về góp vốn phải
được chọn trong danh sách các chuyên gia đã đăng ký tại tòa án.
Hai là, quy định trách nhiệm khi định giá không chính xác giá trị của tài sản góp vốn.
Về vấn đề này, luật nên quy định cả trách nhiệm dân sự và hình sự đối với những chủ thể
có hành vi định giá không chính xác giá trị của tài sản góp vốn. Cụ thể, cần nêu rõ trách
nhiệm của thành viên hoặc cổ đông sáng lập hoặc thành viên hoặc cổ đông tiến hành định
giá đối với các thành viên hoặc cổ đông còn lại của công ty và trách nhiệm đối với công ty
khi có hành vi định giá sai. Trách nhiệm này có thể là trách nhiệm dân sự và/hoặc trách
nhiệm kỷ luật. Trách nhiệm hình sự cũng nên được áp dụng cho trường hợp định giá sai giá
trị thật sự của tài sản góp vốn là tài sản SHTT. Trách nhiệm hình sự nên theo hướng tính
toán đến giá trị chênh lệch so với giá trị thật của tài sản. Nếu giá trị định giá bằng hoặc lớn
hơn hai lần giá trị thật sự của tài sản SHTT thì thành viên hoặc cổ đông định giá phải chịu
trách nhiệm hình sự.
Ba là, quy định về định giá khi công ty đang hoạt động. Về vấn đề này, pháp luật nên
quy định về thỏa thuận định giá giữa công ty và người góp vốn hoặc một tổ chức định giá
chuyên nghiệp. Khi tổ chức chuyên nghiệp định giá thì giá trị của tài sản góp vốn do tổ
chức này xác định phải được Chủ tịch Hội đồng quản trị hoặc Chủ tịch Hội đồng thành
viên đồng ý dưới sự cho phép của Hội đồng quản trị hoặc Hội đồng thành viên và được sự
phê chuẩn của Đại hội đồng cổ đông. Nếu giá trị đó cao hơn giá trị thực tế của tài sản góp
vốn tại thời điểm góp vốn, người góp vốn hoặc tổ chức định giá chuyên nghiệp và người
đại diện hợp pháp của doanh nghiệp chịu trách nhiệm liên đới về giá trị được định giá trong
thời hạn năm năm kể từ ngày định giá.
78
3.2.2. Nhóm giải pháp về phát triển thị trƣờng
3.2.1.1. Tăng cường công tác thực thi pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ
Thứ nhất, trong thời gian tới cần tăng cường năng lực của các tổ chức thực thi pháp luật
về SHTT. Trước hết cần khắc phục tình trạng chồng chéo hiện nay giữa các tổ chức, phân
công quyền hạn cụ thể của từng cơ quan thực thi pháp luật về SHTT. Phân công một cơ quan
làm đầu mối để tiếp nhận các đơn yêu cầu về xử lý hành chính, xử lý các đơn trên từng địa
bàn và đối với từng lĩnh vực, từ đó đề xuất các biện pháp xử lý và cơ quan thực hiện biện
pháp đó. Tiếp theo cần nâng cao hiệu quả công tác xử lý tranh chấp về quyền SHTT. Theo
đó, cần đào tạo, bồi dưỡng nhân lực trong lĩnh vực SHTT, đào tạo cán bộ chuyên ngành về
SHTT cho các cơ quan: Tòa án, quản lý thị trường, cảnh sát kinh tế, thanh tra KH&CN, hải
quan... Xây dựng chương trình đào tạo cho cán bộ của tòa án, các cơ quan quản lý liên quan
đến SHTT... Đầu tư, cải cách và hiện đại hóa hệ thống thông tin về SHTT để phục vụ nhu
cầu tra cứu, xét đơn để tránh trùng lặp trong việc cấp văn bằng bảo hộ SHTT.
Thứ hai, cần tăng cường và thay đổi phương thức tuyên truyền, phổ biến kiến thức và
pháp luật về SHTT để các cá nhân, tổ chức có ý thức đầy đủ đối với quyền SHTT. Việc
tuyên truyền, phổ biến kiến thức phải hướng tới việc nâng cao nhận thức về quyền của họ
có thể khởi kiện, yêu cầu các cơ quan chức năng bảo vệ khi bị các chủ thể khác xâm phạm
đến quyền và lợi ích hợp pháp của mình trong lĩnh vực SHTT. Đồng thời, cũng giúp họ
biết được các hậu quả pháp lý bất lợi mà họ sẽ phải gánh chịu nếu không tuân thủ các quy
định của pháp luật về SHTT.
3.2.1.2. Chuyển đổi các tổ chức khoa học và công nghệ công lập sang hoạt động theo
cơ chế doanh nghiệp
Đối với các tổ chức KH&CN công lập (ngoại trừ các tổ chức nghiên cứu cơ bản) cần
nghiêm túc thực hiện các quy định có liên quan đến việc chuyển các tổ chức nghiên cứu
ứng dụng và phát triển công nghệ sang hoạt động theo cơ chế doanh nghiệp. Thực hiện
chính sách này, ngày 28/9/2004 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số
171/2004/QĐ-TTg về đổi mới cơ chế quản lý KH&CN đã quy định việc chuyển các tổ
chức nghiên cứu ứng dụng và phát triển công nghệ có sản phẩn gắn với thị trường sang
hoạt động theo một trong các hình thức sau: Doanh nghiệp KH&CN, doanh nghiệp, tổ
chức KH&CN tự trang trải kinh phí. Sau đó, vào ngày 05/9/2005 Chính phủ đã ban hành
79
Nghị định số 115/2005/NĐ-CP quy định cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của tổ chức
KH&CN công lập. Trong năm 2012, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số
592/QĐ-TTg ngày 22/5/2012 về việc phê duyệt Chương trình hỗ trợ phát triển doanh
nghiệp KH&CN và tổ chức KH&CN công lập thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm
cho phù hợp với nhu cầu và tình hình phát triển các Vườn ươm doanh nghiệp KH&CN.
Như vậy, về cơ bản chính sách và cơ sở pháp lý cho việc chuyển đổi mô hình hoạt động
đối với các tổ chức KH&CN có hoạt động nghiên cứu ứng dụng và phát triển công nghệ
sang mô hình doanh nghiệp tự chủ về kinh phí đã được xác định tương đối rõ ràng, vấn đề
cơ bản hiện nay nằm ở chỗ triển khai thực thi các quy định này trong thực tế.
3.2.1.3. Đẩy mạnh việc hỗ trợ các doanh nghiệp khoa học và công nghệ phát triển
Thứ nhất, rà soát và tổ chức lại hệ thống cơ quan QLNN về doanh nghiệp KH&CN
tại Bộ KH&CN, phân định chức năng nhiệm vụ rõ ràng và phù hợp. Đồng thời, thiết lập tổ
chức đầu mối ở trung ương và địa phương với các chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, đảm
bảo đủ điều kiện và năng lực giải quyết kịp thời những khó khăn, vướng mắc cho các
doanh nghiệp KH&CN. Tổ chức đầu mối cần đẩy nhanh tiến độ thực hiện chuyển đổi các
tổ chức KH&CN công lập sang cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm, hoặc chuyển sang thành
lập các doanh nghiệp KH&CN theo quy định của Thủ tướng Chính phủ. Ngoài ra, tổ chức
đầu mối này còn giữ vai trò tích cực trong việc tạo ra các kết nối giữa doanh nghiệp, viện
nghiên cứu, trường đại học để hỗ trợ cho quá trình đổi mới công nghệ của các doanh
nghiệp. Mặt khác, cần thiết phải có những nhìn nhận, đánh giá chính xác, khách quan về số
lượng doanh nghiệp KH&CN hiện có để có giải pháp phát triển doanh nghiệp KH&CN
đúng và phù hợp.
Thứ hai, sớm hình thành Quỹ đầu tư mạo hiểm theo Luật CNC, khuyến khích, thu hút
các Quỹ đầu tư mạo hiểm nước ngoài hoạt động tại Việt Nam nhằm hỗ trợ kịp thời cho quá
trình đổi mới. Triển khai nghiên cứu thí điểm về loại hình cổ phiếu công nghệ, sớm đưa
loại hình cổ phiếu này trở thành hàng hóa giao dịch trên thị trường, giúp hình thành nguồn
vốn mới, tạo động lực cho sự phát triển.
Thứ ba, nghiên cứu, xây dựng mô hình ươm tạo doanh nghiệp KH&CN phù hợp với
điều kiện của địa phương. Một trong những mô hình cần được xem xét là thiết lập vườn
ươm doanh nghiệp KH&CN trong từng vùng để hỗ trợ cho doanh nghiệp đầu tư phát triển
80
công nghệ mới trong vùng. Cải tiến những quy định tại Quyết định số 592/QĐ-TTg ngày
22/5/2012 về việc phê duyệt Chương trình hỗ trợ phát triển doanh nghiệp KH&CN và tổ
chức KH&CN công lập thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho phù hợp với nhu
cầu và tình hình phát triển các Vườn ươm doanh nghiệp KH&CN.
Thứ tư, tăng cường thực hiện việc tuyên truyền các cơ chế, chính sách về doanh
nghiệp KH&CN, SHTT bằng nhiều hình thức và biện pháp, như thông qua các hội nghị tập
huấn của các cơ quan QLNN về KH&CN, thông qua sách báo, các phương tiện truyền
thông, kiểm tra giám sát chặt chẽ và xử phạt nghiêm minh các trường hợp vi phạm quyền
SHTT, từ đó tạo niềm tin cho các tổ chức, cá nhân thực hiện đầu tư vào hoạt động
KH&CN.
Thứ năm, nghiên cứu xây dựng chuyên ngành kinh tế và quản lý về KH&CN trong
các trường đại học, đặc biệt là tại các trường đại học kỹ thuật, công nghệ nhằm hình thành
và phát triển đội ngũ chuyên gia chuyên ngành phù hợp liên quan đến ươm tạo công nghệ,
đánh giá, định giá công nghệ, xúc tiến chuyển giao công nghệ, tư vấn, môi giới chuyển
giao công nghệ, Đảm bảo trang bị cho đội ngũ chuyên gia này các kiến thức và kỹ năng
cần thiết về kỹ thuật - công nghệ, pháp luật (đặc biệt về SHTT) và kinh tế để thực hiện
hoạch định các chính sách KH&CN, tham gia điều hành, quản lý, tổ chức triển khai thực
hiện các nhiệm vụ tại các tổ chức KH&CN, doanh nghiệp KH&CN phù hợp với cơ chế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam hiện nay.
3.2.1.4. Thành lập và hỗ trợ các quỹ đầu tư cho khoa học và công nghệ
Thứ nhất, đẩy mạnh hoạt động của Quỹ phát triển KH&CN quốc gia (NAFOSTED)
và nhanh chóng thành lập và đưa vào hoạt động các quỹ phát triển KH&CN của bộ ngành,
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh. Mặc dù quy định thành lập quỹ phát triển KH&CN của các bộ
ngành, địa phương đã được quy định từ lâu (từ khi có Luật KH&CN 2000), nhưng cho đến
nay ngoài cấp quốc gia, có rất ít quỹ phát triển KH&CN của các bộ ngành, địa phương
được thành lập và đi vào hoạt động (chẳng hạn TP.HCM đã có thành lập quỹ, nhưng quỹ
này hầu như không hoạt động). Điều này cản trở rất lớn đến việc triển khai chính sách hỗ
trợ hoạt động NCKH của các cá nhân, tổ chức có nhu cầu về vốn đối với hoạt động này.
Ngoài ra, điều này cũng làm hạn chế khả năng đa dạng hóa nguồn vốn cho KH&CN. Có
điều này là vì, theo quy định của Luật KH&CN thì quỹ phát triển KH&CN hỗ trợ cho
81
những hoạt động sau: Các đơn vị, tổ chức có dự án khả thi, mong muốn tiến hành sản xuất
thử sản phẩm hoàn toàn mới, quỹ sẽ hỗ trợ vốn để sản xuất thử, có thể chi thu hồi một phần
vốn và chi phí môi giới. Có chế này giúp thương mại hóa các sản phẩm nghiên cứu; Hỗ trợ
cho việc thực hiện những nhiệm vụ KH&CN do các tổ chức, cá nhân mới đề xuất mới phát
sinh nhằm phát triển tiềm lực KH&CN. Như vậy, trong điều kiện thị trường vốn, nhất là
vốn đầu tư mạo hiểm chưa phát triển thì quỹ phát triển KH&CN là kênh cung cấp vốn rất
kịp thời cho hoạt động KH&CN, đặc biệt đối với hoạt động khởi nghiệp của doanh nghiệp
KH&CN trong lĩnh vực CNC.
Thứ hai, tạo điều kiện thuận lợi cho sự ra đời và hoạt động của các quỹ đầu tư mạo
hiểm ở Việt Nam. Đầu tư mạo hiểm là loại hình đầu tư liên quan đến phát triển công nghệ,
nhất là CNC. Đầu tư mạo hiểm thường được thực hiện thông qua quỹ đầu tư mạo hiểm.
Kinh nghiệm của các nước cho thấy, để phát triển KH&CN không thể thiếu hoạt động đầu
tư mạo hiểm. Có điều này là vì một trong những đặc trưng của hoạt động NCKH và phát
triển công nghệ là hoạt động chứa đựng rất nhiều rủi ro. Đầu tư mạo hiểm tạo ra một cách
cấp vốn cho việc thực hiện các ý tưởng công nghệ mà hệ thống ngân hàng không thực hiện
vì quá rủi ro. Ngoài ra quỹ đầu tư mạo hiểm còn cung cấp các dịch vụ tư vấn và quản lý
công nghệ nhờ vào kinh nghiệm của các nhà đầu tư mạo hiểm. Vào đầu những năm 90 của
thế kỷ XX, hình thức đầu tư mạo hiểm đã xuất hiện ở nước ta, nhưng các quỹ này không
đầu tư vào những ngành công nghệ cao mà tập trung vào những ngành sản xuất thay thế
nhập khẩu có khả năng cạnh tranh trên thị trường nội địa. Năm 1998, sau khi xảy ra cuộc
khủng hoảng tiền tệ tại các nước châu Á thì 08 trong số 12 quỹ đầu tư mạo hiểm đã rút lui
khỏi thị trường Việt Nam. Năm 2002, Tập đoàn dữ liệu quốc tế (IDG) của Hòa Kỳ đã
chính thức lập quỹ đầu tư mạo hiểm ở nước ta và hiện tổng số vốn đầu tư đã đạt 100 triệu
đô la Mỹ. Quỹ này hoạt động dưới dạng công ty cổ phần. Năm 2002, Bộ KH&CN và khu
CNC Hòa Lạc đã có đề án trình Chính phủ về việc thành lập quỹ đầu tư mạo hiểm để đầu
tư cho các dự án CNC ở khu công nghệ Hòa Lạc. Hiệp hội doanh nghiệp và khu CNC
TP.HCM cũng có đề án phát triển dưới hình thức đầu tư mạo hiểm. Tuy nhiên, đáng tiếc
cho đến thời điểm hiện tại (2017) vẫn chưa có quỹ đầu tư mạo hiểm nào của Việt Nam
được thành lập. Do đó, trong thời gian tới các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần nghiêm
túc nghiên cứu để triển khai thành lập quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam.
82
3.2.1.5. Hoàn thiện chi ngân sách nhà nước cho khoa học và công nghệ
Thứ nhất, nâng cao hiệu quả huy động và đa dạng hoá nguồn lực đầu tư cho KH&CN,
trong đó tiếp tục bố trí đủ nguồn lực và nâng cao hiệu quả đầu tư từ NSNN cho hoạt động
KH&CN. Với mục tiêu phát triển KH&CN đến năm 2020 đã xác định và thực trạng phát
triển KH&CN ở Việt Nam hiện nay cho thấy nhu cầu nguồn lực cho phát triển KH&CN là
rất lớn. Chiến lược phát triển KH&CN giai đoạn 2011-2020 tại Quyết định số 418/QĐ-TTg
ngày 11/4/2012 xác định: “Phấn đấu tăng tổng đầu tư xã hội cho KH&CN đạt 1,5% GDP
vào năm 2015 và trên 2% GDP vào năm 2020. Bảo đảm mức đầu tư từ NSNN cho
KH&CN không dưới 2% tổng chi NSNN hàng năm”.
Chính sách chi NSNN đối với KH&CN phải được xây dựng trên quan điểm coi chi
cho KH&CN là khoản chi cho đầu tư phát triển, tác động đến mọi lĩnh vực kinh tế trong
quá trình phát triển của đất nước. Đồng thời, hình thành các cơ chế phù hợp để nâng cao
tính định hướng của nguồn lực đầu tư từ NSNN trong việc thu hút các nguồn lực đầu tư
ngoài nhà nước để phát triển KH&CN. Đẩy mạnh xã hội hóa hoạt động đầu tư cho
KH&CN, thu hút các thành phần xã hội tham gia hoạt động KH&CN, qua đó tăng cường
sự gắn kết chặt chẽ giữa KH&CN với sản xuất, thúc đẩy phát huy sáng tạo cải tiến kỹ thuật
để nâng cao năng lực sản xuất và sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Hoàn thiện chính sách khuyến khích tài chính của nhà nước đối với sự phát triển
KH&CN (chính sách tín dụng ưu đãi, chính sách ưu đãi thuế; khấu hao...), khuyến khích
việc huy động các nguồn lực trong xã hội cho việc phát triển KH&CN. Tiếp tục hỗ trợ các
doanh nghiệp phát triển KH&CN theo hướng nhà nước và doanh nghiệp cùng đầu tư thông
qua mô hình hợp tác PPP, sử dụng hiệu quả Quỹ phát triển KH&CN quốc gia, Quỹ đổi mới
công nghệ quốc gia, Quỹ phát triển KH&CN tại doanh nghiệp. Hình thành các cơ chế phù
hợp để có sự gắn kết tương hỗ giữa các loại hình quỹ KH&CN để nâng cao hiệu quả hoạt
động. Thúc đẩy sự hợp tác, liên kết giữa các cơ sở KH&CN với địa phương, doanh nghiệp,
cá nhân trong việc thực hiện nhiệm vụ KH&CN. Tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh,
bình đẳng trong việc cung cấp dịch vụ KH&CN giữa các tổ chức thuộc thành phần kinh tế
khác nhau, bao gồm cả việc tiếp cận nguồn kinh phí dành cho phát triển KH&CN từ
NSNN. Phát triển các hình thức như đấu thầu, thuê hoặc ký hợp đồng với các tổ chức tư
nhân cung ứng hoạt động KH&CN.
83
Thứ hai, đổi mới cơ chế phân bổ và sử dụng nguồn NSNN cho phát triển KH&CN.
Thực hiện đổi mới đồng bộ tổ cơ chế tài chính đối với lĩnh vực KH&CN, đảm bảo sử dụng
có hiệu quả nguồn lực NSNN cho KH&CN. Có thể cân nhắc đến việc không cân đối chi
KH&CN theo tỷ lệ chi NSNN, mà cân đối theo dự toán, gắn với nhu cầu, nhiệm vụ cụ thể
hàng năm, có thể ở mức hơn 2% tổng chi NSNN, khắc phục tình trạng phân bổ không căn
cứ vào sự cần thiết, tính ưu tiên và khả năng thực hiện của các cơ sở KH&CN. Cùng với
việc sửa đổi, bổ sung Luật Ngân sách nhà nước, nghiên cứu áp dụng cơ chế phân bổ ngân
sách trên cơ sở thực hiện kế hoạch tài chính trung hạn và kế hoạch chi tiêu trung hạn trong
lĩnh vực KH&CN. Điều này sẽ giúp cho việc phân bổ ngân sách được hiệu quả cũng như
tăng cường tính dự đoán được của việc quản lý và hiệu quả chi NSNN cho lĩnh vực
KH&CN.
Đồng thời, thực hiện cơ cấu lại chi NSNN cho KH&CN, trong đó ưu tiên đầu tư vào
các lĩnh vực trọng điểm được xác định trong Chiến lược phát triển KH&CN, các lĩnh vực
nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu chiến lược. Tập trung đầu tư đồng bộ giữa hạ tầng cơ sở,
trang thiết bị với đào tạo cán bộ KH&CN. Đồng thời, xác định rõ ràng mục tiêu của các đề
tài, dự án nghiên cứu để thực hiện việc bố trí kinh phí cho phù hợp với cơ chế phân cấp
ngân sách hiện hành. Những đề tài phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của địa
phương sẽ thuộc phạm vi bố trí của địa phương. Các địa phương sẽ tiến hành việc đặt hàng
để thực hiện những đề tài này. Đối với những đề tài do ngân sách trung ương tài trợ phải có
mức độ tác động rộng, có độ lan tỏa cao. Ngoài ra, cần khắc phục những vấn đề còn tồn tại
như cùng một nguồn lực đầu tư từ NSNN nhưng được triển khai theo các kênh khác nhau,
dẫn đến hiện tượng chồng chéo, trùng lắp, có thể một vấn đề nghiên cứu được triển khai ở
nhiều nơi, kết quả nghiên cứu không được đối chứng với những công trình nghiên cứu
trước đây hoặc những công trình nghiên cứu khác.
Nâng cao tính công khai, minh bạch, dân chủ trong quản lý tài chính đối với các đơn
vị sự nghiệp KH&CN, tăng cường kiểm tra, giám sát đối với kết quả nghiên cứu KH&CN,
qua đó nâng cao trách nhiệm giải trình. Hình thành hệ thống chỉ tiêu đánh giá mức độ hoàn
thành và chất lượng thực hiện nhiệm vụ được giao của các đơn vị KH&CN gắn với việc sử
dụng kinh phí NSNN trên cơ sở gắn với các tổ chức kiểm định, đánh giá độc lập. Hoàn
84
thiện chế độ thông tin báo cáo, công tác tài chính kế toán và trách nhiệm giải trình về kết
quả của các đơn vị cung ứng dịch vụ của các tổ chức KH&CN công lập.
Thứ ba, tiếp tục đẩy mạnh việc đổi mới cơ chế quản lý tài chính đối với đơn vị sự
nghiệp khoa học công lập, trên cơ sở tăng cường tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm và trách
nhiệm giải trình của các tổ chức KH&CN. Tiếp tục sắp xếp, chuyển đổi các tổ chức nghiên
cứu khoa học sang đơn vị sự nghiệp tự trang trải kinh phí. NSNN không cấp kinh phí hoạt
động quản lý bộ máy thường xuyên mà cân đối qua các nhiệm vụ đặt hàng, giao cho tổ
chức KH&CN thực hiện. Nhà nước là một khách hàng, ngoài nhà nước, có cơ chế để các tổ
chức KH&CN đẩy mạnh việc cung cấp sản phẩm KH&CN cho doanh nghiệp, cho các tổ chức,
cá nhân trong xã hội.
3.2.1.6. Tăng cường hỗ trợ doanh nghiệp trong việc đổi mới công nghệ
Thứ nhất, cần xây dựng và triển khai chính sách hỗ trợ giảm bớt các chi phí giao dịch
trong hoạt động CGCN cho doanh nghiệp. Hiện nay, Việt Nam chưa có các cơ chế chính
sách cụ thể để hỗ trợ về giảm thiểu chi phí giao dịch. Khi ký kết các giao dịch về
KH&CNcác doanh nghiệp Việt Nam thường là bên nhận công nghệ, trong khi đó, quá trình
này còn nhiều rủi ro có thể dẫn đến việc bên nhận công nghệ thường bị động, dẫn đến việc
không ký kết được hợp đồng, khi đó sẽ bị tổn thất lớn các chi phí liên quan đến giao dịch.
Ngoài ra, trên thực tế có thể có nhiều yếu tố làm phát sinh chi phí giao dịch gắn với mua
bán công nghệ như các quá trình thu thập thông tin, quy trình xin cấp phép, phê duyệt, bị
nhà nước can thiệp, tất cả đều làm tăng chi phí cho giao dịch.
Những rào càn xuất phát từ chi phí giao dịch là một trong trong những nguyên nhân
quan trọng cản trở việc thu nạp công nghệ tiên tiến của các nước đang phát triển. Trong
trường hợp này giao dịch về công nghệ được giải quyết bằng biện pháp phi thị trường. Luật
KH&CN 2013 và Luật CGCN 2006 cũng đã tập trung giải quyết vấn đề này, tuy nhiên,
mới chỉ ở các quy định chung, chưa có các chế định cụ thể để triển khai thực hiện. Nghị
định số 133/2008/NĐ-CP; Nghị định 103/2011/NĐ-CP; Nghị định 120/2014/NĐ-CP cũng
đã tập trung hướng dẫn các nội dung liên quan tuy nhiên chưa có nội dung nào cụ thể về
việc hỗ trợ doanh nghiệp trong việc giảm bớt chi phí trong giao dịch. Chi phí giao dịch
trong mua bán công nghệ quá cao thì giao dịch có thể sẽ không được thực hiện. Việc bên
nào phải gánh chi phí giao dịch còn tuỳ thuộc vào đối tượng, hay loại công nghệ được mua
85
bán, cũng như những điều kiện khác. Mua bán công nghệ, hay CGCN giữa các doanh
nghiệp cũng thường bị tác động bởi chi phí giao dịch cao.
Để hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong việc giảm bớt các chi phí giao dịch liên quan
đến hoạt động CGCN cần thực hiện các hoạt động sau: Bổ sung cơ chế chính sách hỗ trợ
thông tin cho các doanh nghiệp phục vụ việc thực hiện các giao dịch trong thị trường
KH&CN, giảm thiểu các chi phí do rủi ro khi hợp đồng ký kết không thành công; Bổ sung
cơ chế hỗ trợ trực tiếp cho các doanh nghiệp phần kinh phí giao dịch trong việc nhận
chuyển giao các công nghệ nguồn, công nghệ lõi mà Việt Nam chưa tự nghiên cứu; Bổ sung
cơ chế hỗ trợ kinh phí cho doanh nghiệp trong việc tìm kiếm thông tin hỗ trợ việc giao dịch,
chuyển giao các công nghệ cao, công nghệ khuyến khích đầu tư; Thành lập Quỹ hỗ trợ giao
dịch trong thị trường KH&CN để hỗ trợ các doanh nghiệp trong chi phí giao dịch; Đơn giản
và minh bạch hóa các thủ tục hành chính để cắt giảm chi phí giao dịch gắn với mua bán công
nghệ như các quá trình xin cấp phép, phê duyệt.
Thứ hai, cần xây dựng và triển khai thêm chính sách hỗ trợ doanh nghiệp về thông tin
công nghệ, thông tin thị trường KH&CN. Việc thiếu thông tin công nghệ và thông tin thị
trường KH&CN là trở ngại lớn với doanh nghiệp trong việc đổi mới công nghệ. Trong một
số ngành, trong đó có dệt may, nhà nước đã có những hỗ trợ về thông tin cho các doanh
nghiệp thông qua các hiệp hội ngành nghề, tạp chí, sách báo chuyên ngành... Tuy nhiên, theo
các chuyên gia, những hỗ trợ này chưa thực sự chú trọng đến công nghệ. Để có các hoạt
động đổi mới công nghệ thành công thì các thông tin mang tính định hướng chiến lược về
công nghệ và thị trường KH&CN là vô cùng cần thiết. Tuy nhiên, hiện nay, hầu hết doanh
nghiệp đang phải mày mò tự tìm hiểu về thông tin để thực hiện đổi mới công nghệ. Điều này
đã dẫn đến những bất cập lớn về hiệu quả của các hoạt động đổi mới công nghệ.
Kết quả khảo sát của Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương cho thấy, trình độ
công nghệ cũng như mức độ làm chủ công nghệ của các doanh nghiệp công nghiệp Việt
Nam thuộc hàng thấp và chậm so với khu vực. Một số chuyên gia kinh tế cho rằng, trong
những năm qua, nhiều doanh nghiệp đã chú ý hơn tới đầu tư cho đổi mới công nghệ. Tuy
nhiên, điều đáng nói qua kết quả điều tra, đầu tư của các doanh nghiệp cho đổi mới công
nghệ tập trung chủ yếu để mua sắm, cải tiến máy móc thiết bị phần cứng (thông qua nhập
khẩu thiết bị hoặc mua thiết bị trong nước) hơn là đầu tư cho phần mềm công nghệ (như
86
đầu tư cho nghiên cứu cải tiến qui trình sản xuất hay sản phẩm hiện có hoặc thiết kế các
sản phẩm mới). Thông thường, đầu tư cho công nghệ phần cứng tốn kém hơn nhiều so với
đầu tư cho phần mềm công nghệ và do vậy sẽ làm tăng giá thành sản phẩm làm ra do giá trị
khấu hao lớn. Việc nhận thức và đề ra các chiến lược lâu dài đầu tư cho phần mềm công
nghệ là rất cần thiết, nó có thể góp phần cho các sản phẩm của Việt Nam thâm nhập thị
trường quốc tế dễ dàng hơn.
Mặc dù việc đầu tư từ nước ngoài vào Việt Nam được đánh giá sẽ tạo ra làn sóng
CGCN mạnh mẽ trong các doanh nghiệp nhưng việc CGCN hầu như chỉ diễn ra giữa các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Các doanh nghiệp tư nhân quy mô còn nhỏ bé,
thiếu thông tin nên mối liên kết và hợp tác trong sản xuất kinh doanh giữa doanh nghiệp
trong nước và doanh nghiệp nước ngoài còn rất yếu. Kết quả điều tra cũng cho thấy 56%
doanh nghiệp thực hiện đổi mới công nghệ qua con đường nhập khẩu công nghệ từ nước
ngoài; chỉ có 23% thông qua liên kết với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Tuy
nhiên, kết quả rà soát cơ chế chính sách hiện hành cho thấy hiện nay khâu tư vấn, thông tin
KH&CN, đặc biệt là những thông tin kinh tế - kỹ thuật của các công nghệ cụ thể chưa thực
sự đáp ứng được nhu cầu của doanh nghiệp trong tình hình hội nhập và cạnh tranh tăng cao
như hiện nay.
Để giải quyết vấn đề cung cấp thông tin công nghệ và thị trường cho doanh nghiệp
trong thời gian tới theo chúng tôi cần: Bổ sung quy định cụ thể cho việc thực hiện dịch vụ
thẩm định công nghệ; Bổ sung quy định về cơ quan có chức năng định giá công nghệ,
phương pháp định giá công nghệ, thông tin phục vụ định giá công nghệ; Xây dựng và phát
triển hệ thống kiểm tra, giám sát để có được những cơ quan thẩm định có uy tín, được cả
bên mua và bên bán tin tưởng trong các nghị định hướng dẫn thi hành Luật CGCN; Xây
dựng các tiêu chí cụ thể hơn để xác định danh mục công nghệ cấm chuyển giao, công nghệ
hạn chế chuyển giao và công nghệ khuyến khích chuyển giao.
Thứ ba, cần có chính sách hỗ trợ tạo nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn, nghiệp
vụ trong lĩnh vực CGCN cho các doanh nghiệp. Thực tế cho thấy, do năng lực chuyên môn
và nghiệp vụ hạn chế, năng lực nghiên cứu triển khai chưa mạnh nên việc tự nghiên cứu để
tạo ra các công nghệ nôi sinh đạt trình độ tiên tiến trên thế giới còn rất hạn chế. Đây là một
trong những rào cản cho quá trình tạo nguồn công nghệ cho hoạt động đổi mới công nghệ
87
của doanh nghiệp. Hầu hết các doanh nghiệp khi triển khai các công nghệ cao, công nghệ
tiên tiến thường phải lựa chọn theo con đường CGCN. Tuy nhiên hạn chế về năng lực và
trình độ đã ảnh hưởng lớn đến hiệu quả triển khai của các hợp đồng này. Hiện nay, các hợp
đồng CGCN thường do bên CGCN soạn thảo với trách nhiệm không rõ ràng. Khi có những
trục trặc thường bên giao không chịu trách nhiệm cho thiệt hại xảy ra, vì vậy, doanh nghiệp
Việt Nam thường phải là bên chịu thiệt hại. Đã có không ít trường hợp công nghệ lạc hậu,
thiết bị cũ, hàng tân trang được nhập vào nước ta (một cuộc khảo sát 700 thiết bị, 3 dây
chuyền tại 42 nhà máy cho thấy: 76% số máy mới nhập thuộc những năm 1950 - 1960 ,
70% số máy đã hết khấu hao, 50% là do tân trang lại). Về giá cả, nhiều dự án đầu tư được
phát hiện bị nâng cao giá, giá bán cao hơn giá trị thực tế, có những dự án bị phía nước
ngoài nâng nên gấp 2 - 2.5 lần (khảo sát 30 dự án FDI phía Việt Nam bị thua thiệt 50 triệu
USD do phía nước ngoài nâng giá thiết bị nên từ 15 - 20 % [10].
Để giải quyết vấn đề về nhân lực KH&CN cho doanh nghiệp, Nhà nước có thể hỗ trợ
thông qua các hình thức sau: (i) Tổ chức các lớp đào tạo miễn phí ngắn ngày cho đội ngũ
quản lý doanh nghiệp, đặc biệt là đội ngũ quản lý công nghệ về các hợp đồng CGCN, nhất là
các hợp đồng li xăng về công nghệ; (ii) Thúc đẩy mối liên kết giữa các tổ chức KH&CN với
doanh nghiệp, có chính sách khuyến khích các tổ chức KH&CN tham gia vào hoạt động của
doanh nghiệp, đồng thời hỗ trợ doanh nghiệp đào tạo, nâng cao trình độ người lao động.
3.2.1.7. Hỗ trợ việc thành lập và hoạt động của các tổ chức định giá công nghệ
Thứ nhất, xây dựng các tổ chức và đào tạo chuyên gia độc lập cho hoạt động định giá
công nghệ: hoạt động CGCN hiện nay hầu như chưa có tổ chức và chuyên gia chuyên biệt
cho công tác định giá công nghệ. Việc định giá thường do các cán bộ quản lý công nghệ hay
cán bộ có kinh nghiệm lâu năm được mời làm tư vấn khi thương thảo hợp đồng mua bán
công nghệ. Trong thực tế, nhiều công nghệ chuyển giao từ nước ngoài vào Việt Nam thông
qua các dự án sử dụng nguồn vốn ODA đối với kết cấu hạ tầng và đầu tư trực tiếp từ nước
ngoài vào Việt Nam đối với sản xuất và dịch vụ, trong khi ta không có chuyên gia sâu về lĩnh
vực định giá công nghệ sẽ dẫn đến những thua thiệt không đáng có hoặc nhận vào những
công nghệ lạc hậu, thải loại của đối tác. Để thúc đẩy hoạt động định giá công nghệ, chúng ta
cần sớm hình thành các tổ chức sự nghiệp chuyên sâu về định giá công nghệ. Những đơn vị
88
này cần có sự quản lý nhà nước thống nhất về hoạt động định giá công nghệ. Điều này có lợi
cho nhà sản xuất, người tiêu dùng và sâu xa hơn là cả nền KH&CN nước nhà.
Trường Quản lý KH&CN của Bộ KH&CN cần xây dựng chuyên đề về định giá tài
sản trí tuệ nói chung và định giá công nghệ nói riêng, đưa nội dung này vào chương trình
tập huấn thường xuyên hàng năm, đồng thời mời các giảng viên am hiểu cả về lý thuyết và
thực tiễn, đặc biệt có kinh nghiệm về việc xử lý tình huống định giá công nghệ để tham gia
tập huấn cho các cán bộ KH&CN. Về lâu dài, cần phối hợp với các đơn vị quản lý của Bộ
KH&CN xây dựng khóa đào tạo cấp chứng chỉ hành nghề định giá công nghệ.
Thứ hai, xây dựng mạng lưới thông tin quốc gia về định giá công nghệ: để hoạt động
CGCN nói chung và định giá công nghệ nói riêng có hiệu quả, cần thiết phải có mạng lưới
thông tin quốc gia về hoạt động định gía công nghệ. Trong bối cảnh công nghệ thông tin
phát triển như hiện nay, đây là biện pháp hữu hiệu nhất cho việc đổi mới công nghệ của các
doanh nghiệp thông qua hoạt động định giá công nghệ. Đồng thời, giúp cho công tác quản
lý nhà nước về hoạt động của thị trường KH&CN tích cực hơn.
3.2.3. Nhóm giải pháp về điều kiện kỹ thuật
3.2.3.1. Phát triển các trung tâm ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ
Các trung tâm ứng dụng tiến bộ KH&CN ở địa phương có nhiệm vụ thực hiện việc
lựa chọn và tổ chức ứng dụng, chuyển giao tiến bộ KH&CN vào sản xuất, đời sống và bảo
vệ môi trường trong tất cả các lĩnh vực kinh tế - xã hội trên địa bàn, thể hiện được vai trò
then chốt đóng góp vào sự phát triển chung của các ngành kinh tế tại địa phương. Trung
tâm là nơi nắm bắt được nhu cầu công nghệ, những công nghệ cần có, phù hợp với tình
hình thực tế của địa phương để những công nghệ đó có thể được áp dụng đạt hiệu quả, góp
phần tích cực cho phát triển kinh tế - xã hội của địa phương mình. Trung tâm còn là đơn vị
đầu mối giúp lãnh đạo Sở KH&CN phối hợp với các nhà khoa học, các tổ chức KH&CN ở
Trung ương để tổ chức nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ KH&CN, tổ chức khảo nghiệm để hoàn
thành quy trình kỹ thuật phù hợp với điều kiện thực tế và áp dụng các thành tựu KH&CN
vào các lĩnh vực sản xuất, đời sống của địa phương. Ðồng thời, còn là nơi tổ chức theo dõi
việc thực hiện các dự án sản xuất thử nghiệm, chuyển giao và nhân rộng các kết quả từ việc
thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ của địa phương.
89
Mặc dù có vị trí, vai trò quan trọng trong hoạt động ứng dụng và chuyển giao
KH&CN ở địa phương, nhưng các trung tâm chưa được đầu tư một cách đồng bộ, đầy đủ
để thực hiện yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra, cụ thể: Cơ sở hạ tầng còn hạn chế, trụ sở làm việc
của các trung tâm còn chật hẹp, chưa đáp ứng được yêu cầu. Thiếu trang thiết bị, hoặc thiết
bị lạc hậu, không đồng bộ, đa phần chưa có nhà xưởng, trạm, trại thực nghiệm; bình quân
mỗi trung tâm có trang thiết bị trị giá khoảng hai tỷ đồng. Thiếu vốn để triển khai thực hiện
các đề tài/dự án có tính ứng dụng cao vào thực tiễn, thí điểm chuyển giao công nghệ; nhất
là việc triển khai thực hiện ứng dụng và chuyển giao công nghệ ở vùng sâu, vùng xa, vùng
có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn. Ðội ngũ cán bộ quản lý và chuyên gia công nghệ ở
các trung tâm chưa được đào tạo nghiệp vụ và nâng cao trình độ một cách có hệ thống và
đầy đủ; thiếu đội ngũ kỹ thuật có kỹ năng và năng lực chuyên môn về công nghệ và chuyển
giao công nghệ.
Trong thời gia tới các trung tâm cần chủ động xây dựng các đề án nhằm nâng cao
năng lực hoạt động đáp ứng yêu cầu đưa trung tâm trở thành đầu mối ứng dụng tiến bộ
KH&CN vào sản xuất và đời sống của địa phương, có đủ năng lực tư vấn, hỗ trợ chuyển
giao công nghệ trên địa bàn. Nắm bắt nhu cầu công nghệ trên địa bàn từ đó phối hợp với
các viện nghiên cứu, trường đại học và các tổ chức KH&CN để lựa chọn các kết quả
nghiên cứu, công nghệ phù hợp đưa vào thử nghiệm và ứng dụng vào thực tiễn sản xuất
của địa phương. Hoàn thiện và làm chủ công nghệ, chuyển giao công nghệ hoặc ứng dụng
sản xuất các sản phẩm có thế mạnh của địa phương để tạo nguồn thu ổn định, phát triển
thành doanh nghiệp KH&CN. Tăng cường hoạt động dịch vụ chuyển giao công nghệ, kết
nối cung - cầu công nghệ, hỗ trợ các cá nhân, tổ chức xây dựng và thực hiện các dự án
KH&CN.
Các Sở KH&CN giao, đặt hàng trung tâm một số nhiệm vụ KH&CN tập trung vào
hoàn thiện công nghệ, ứng dụng và triển khai thử nghiệm phù hợp với năng lực của trung
tâm. Giao cho trung tâm làm đầu mối tổ chức ứng dụng các kết quả nghiên cứu KH&CN,
nhân rộng kết quả của các đề tài, dự án KH&CN cấp tỉnh có kết quả tốt để thử nghiệm, ứng
dụng và chuyển giao. Xây dựng các chương trình KH&CN của địa phương trình Ủy ban
nhân dân tỉnh phê duyệt, tạo điều kiện để các trung tâm xây dựng và thực hiện các nhiệm
vụ KH&CN có trọng tâm, theo định hướng của địa phương. Tổ chức hoạt động của Quỹ
90
Phát triển KH&CN địa phương để trung tâm khai thác theo hướng hỗ trợ, thúc đẩy ứng
dụng kết quả nghiên cứu KH&CN vào sản xuất; đổi mới, nâng cao trình độ công nghệ, đổi
mới sản phẩm, chuyển đổi cơ cấu sản phẩm, góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh
doanh của doanh nghiệp phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Hỗ trợ đào tạo,
tập huấn các kỹ năng công nghệ, tư vấn chuyển giao công nghệ cho cán bộ của trung tâm;
hỗ trợ trung tâm khai thác thông tin KH&CN.
Cục Ứng dụng và Phát triển Công nghệ thuộc Bộ KH&CN có nhiệm vụ tổng hợp
thông tin, nắm bắt các khó khăn vướng mắc trong hoạt động ứng dụng và chuyển giao công
nghệ ở địa phương thông qua hoạt động của các trung tâm, kịp thời tìm các biện pháp tháo
gỡ, đề xuất các cơ quan quản lý ở trung ương và địa phương ban hành các cơ chế, chính
sách phù hợp với thực tế, tạo môi trường thuận lợi thúc đẩy hoạt động ứng dụng và phát
triển công nghệ. Cục làm đầu mối phối hợp với các bộ, ngành đề xuất, xây dựng các
chương trình KH&CN có mục tiêu hỗ trợ doanh nghiệp, hộ sản xuất đổi mới công nghệ,
ứng dụng tiến bộ KH&CN vào sản xuất, trong đó xác định các trung tâm đóng vai trò nòng
cốt trong công tác tổ chức triển khai tại địa phương. Phối hợp với các đơn vị trong và ngoài
Bộ KH&CN tổ chức các lớp đào tạo, tập huấn nâng cao kỹ năng quản lý và chuyển giao
công nghệ, tham quan học tập kinh nghiệm trong và ngoài nước cho cán bộ chủ chốt của
trung tâm, hướng dẫn trung tâm trong hoạt động ứng dụng và chuyển giao công nghệ.
Cung cấp thông tin công nghệ, chuyên gia công nghệ để hỗ trợ các trung tâm thực hiện các
nhiệm vụ KH&CN trên địa bàn, hướng dẫn các trung tâm xây dựng và đề xuất các nhiệm
vụ KH&CN thuộc các chương trình do Bộ KH&CN quản lý.
3.2.3.2. Bảo đảm các điều kiện cần thiết cho việc triển khai các chính sách phát triển
thị trường khoa học và công nghệ
Thứ nhất, bảo đảm về nguồn lực. Kinh phí thực hiện các chính sách phải được bố trí
từ ngân sách nhà nước dành cho khoa học và công nghệ hằng năm, các quỹ khoa học và
công nghệ, các tổ chức tín dụng và các nguồn hợp pháp khác. Nhà nước cũng phải bố trí
đất đai với cơ chế ưu đãi theo quy định của pháp luật để thực hiện các dự án đầu tư xây
dựng cơ sở hạ tầng phục vụ phát triển thị trường KH&CN.
Thứ hai, bảo đảm nhân lực cho thị trường KH&CN. Bồi dưỡng nâng cao trình độ của
đội ngũ cán bộ làm việc trong lĩnh vực quản lý về thị trường KH&CN. Đào tạo, bồi dưỡng,
91
nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ chuyên gia, kỹ thuật viên trong các
doanh nghiệp, tổ chức KH&CN về các lĩnh vực CGCN, thông tin KH&CN, đánh giá và
định giá công nghệ, giám định công nghệ.
Thứ ba, chủ động và tích cực trong hoạt động hội nhập quốc tế về KH&CN. Tăng
cường hợp tác và trao đổi kinh nghiệm về quản lý, tổ chức và hoạt động phát triển thị
trường KH&CN với các tổ chức dịch vụ KH&CN, các sàn giao dịch KH&CN, các tổ chức
KH&CN của các nước, khu vực và quốc tế. Tích cực tham gia các hội chợ, triển lãm quốc
tế về KH&CN; khuyến khích hợp tác quốc tế song phương và đa phương giữa các tổ chức,
cá nhân tham gia thị trường KH&CN.
92
TIỂU KẾT CHƢƠNG 3
Để có thể phát triển thị trường KH&CN, trong thời gian tới các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền cần nghiên cứu và triển khai đồng bộ các giải pháp nhằm khắc phục nguyên
nhân của những hạn chế, bất cập hiện nay trong việc xây dựng và triển khai các chính sách
phát triển thị trường KH&CN. Theo đó, các giải pháp cần hướng tới phát triển thị trường
KH&CN phải đảm bảo sự gắn kết giữa hoạt động KH&CN với hoạt động sản xuất trong xã
hội, đồng thời, phát triển thị trường KH&CN phải hướng tới việc tạo ra sự đồng bộ của các
yếu tố thị trường trong bối cảnh phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam.
Các giải pháp cụ thể để hoàn thiện và nâng cao hiệu quả việc thực hiện chính sách
phát triển thị trường KH&CN cần tập trung vào ba nhóm vấn đề về thể chế, phát triển thị
trường và đảm bảo về điều kiện kỹ thuật trong việc thực hiện các chính sách phát triển thị
trường KH&CN. Đối với các vấn đề về thể chế, trong thời gian tới các cơ quan nhà nước
có thẩm quyền cần hoàn thiện một số quy định của pháp luật về SHTT; quy định về thu hút
và trọng dụng các cá nhân xuất sắc trong lĩnh vực KH&CN; quy định về phát triển doanh
nghiệp KH&CN; quy định về kiểm soát hoạt động CGCN. Đối với vấn đề về phát triển thị
trường KH&CN, trong thời gian tới các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần tăng cường
thực thi pháp luật về SHTT; phát triển nhân lực có chất lượng cao trong hoạt động
KH&CN; chuyển đổi các tổ chức KH&CN công lập sang hoạt động theo cơ chế doanh
nghiệp; đẩy mạnh việc hỗ trợ các doanh nghiệp KH&CN để chúng có thể phát triển mạnh
trong thời gian tới; thành lập các quỹ đầu tư và hỗ trợ cho hoạt động KH&CN, đặc biệt là
thành lập các quỹ đầu tư mạo hiểm; hoàn thiện cơ chế chi ngân sách nhà nước cho lĩnh vực
KH&CN; kiểm soát hoạt động CGCN, tăng cường hỗ trợ các doanh nghiệp trong nước
trong việc đổi mới công nghệ; ưu đãi và khuyến khích phát triển các tổ chức trung gian,
cung cấp dịch vụ hỗ trợ thị trường KH&CN. Đối với các vấn đề về điều kiện kỹ thuật,
trong thời gian tới các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần bảo đảm các điều kiện về
nguồn lực cho sự phát triển thị trường KH&CN, quan tâm phát triển các trung tâm ứng
dụng tiến bộ KH&CN.
93
KẾT LUẬN
Thị trường KH&CN là loại thị trường đặc biệt, có tính đặc thù cao từ hàng hóa đến
giá cả và phương thức giao dịch mua bán. Tuy nhiên, hệ thống các cơ chế, chính sách hỗ
trợ, ưu đãi đối với các chủ thể tham gia thị trường KH&CN còn nhiều bất cập, nhiều chính
sách không phù hợp với thực tế, thậm chí tạo kẽ hở cho một số chủ thể trục lợi, việc thực
thi chính sách trong thực tế còn gặp nhiều trở ngại về thủ tục hồ sơ, hành chính nên chưa
phát huy được hiệu lực và hiệu quả, nhiều chính sách tuy đã được ban hành nhưng không
được thực hiện. Về phía cung hàng hóa cho thị trường KH&CN, hàng hóa là công nghệ và
thiết bị máy móc từ nguồn trong nước đa số còn ở trình độ thấp, khả năng cạnh tranh với
công nghệ và máy móc thiết bị cùng loại so với các nước còn yếu. Hàng hóa công nghệ nhập
từ nước ngoài về không được kiểm soát chặt chẽ, dẫn đến tình trạng công nghệ nhập về
không phải là công nghệ tiên tiến ở nước ngoài, nhiều công nghệ thâm chí đã lạc hậu. Về
phía cầu công nghệ, đối tượng trung tâm của phía cầu là doanh nghiệp sản xuất, nhưng đa số
là doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ chiếm trên 90%, do đó năng lực quản trị công nghệ,
tiếp thu, làm chủ và đổi mới công nghệ của doanh nghiệp còn ở mức thấp. Đầu tư cho
KH&CN của doanh nghiệp còn nhiều hạn chế, chủ yếu do thiếu vốn. Về phía dịch vụ trung
gian, lực lượng này đến nay chưa phát triển theo kịp với yêu cầu của thị trường.
Nhằm khắc phục những hạn chế trên, luận văn đã khuyến khích một số vấn đề sau:
Định hướng trong việc hoàn thiện chính sách phát triển thị trường KH&CN trong thời gian
tới, cụ thể: Hoàn thiện chính sách phát triển thị trường KH&CN phải nhằm mục tiêu gắn
kết KH&CN với hoạt động sản xuất; Hoàn thiện chính sách phát triển thị trường KH&CN
phải nhằm hướng tới việc tạo ra sự đồng bộ các yếu tố thị trường để đảm bảo cho thị
trường này được phát triển ổn định và bền vững; Một số giải pháp cụ thể cho ba nhóm
chính sách cơ bản trong phát triển thị trường KH&CN, gồm: Nhóm chính sách phát triển
cung hàng hóa KH&CN; Nhóm chính sách phát triển cầu hàng hóa KH&CN; và nhóm
chính sách phát triển tổ chức trung gian hỗ trợ thị trường KH&CN Việt Nam trong thời
gian tới./.
94
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
A. Văn bản quy phạm pháp luật
1. Luật Giáo dục (Luật số 38/2005/QH11) của Quốc hội ban hành ngày 14 tháng 6
năm 2005;
2. Luật Chuyển giao công nghệ (Luật số 80/2006/QH11) của Quốc hội ban hành
ngày 29 tháng 11 năm 2006;
3. Luật Công nghệ cao (Luật số 21/2008/QH12) của Quốc hội ban hành ngày 13
tháng 11 năm 2008;
4. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục (Luật số 44/2009/QH12) của
Quốc hội ban hành ngày 25 tháng 11 năm 2009;
5. Luật Khoa học và Công nghệ (Luật số 29/2013/QH13) của Quốc hội ban hành
ngày 18 tháng 6 năm 2013;
6. Luật Doanh nghiệp (Luật số 68/2014/QH13) của Quốc hội ban hành ngày 26
tháng 11 năm 2014;
B. Tài liệu tham khảo
7. Ban chấp hành trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XI (2012), Nghị quyết
số 20-NQ/TW về phát triển KH&CN phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập
quốc tế,
8. Ben Wilkinson, Laura Chirot (2010 - Phạm Thị Ly dịch), Những nhân tố vô hình
tạo nên sự ưu t : Hệ thống quản trị với cuộc tìm kiếm con đường xây dựng một
trường đại học nghiên cứu đỉnh cao cho Việt Nam, Trường New School thuộc
Havard University,
9. Bộ KH&CN (2016), KH&CN Việt Nam 2015, Nxb. Khoa học và Kỹ thuật, Hà
Nội;
10. CIEM - UNDP (2003), Nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia: “Báo cáo kết quả
khảo sát về đối mới công nghệ tại các doanh nghiệp công nghiệp Việt Nam”, Nxb.
Giao thông vận tải, Hà Nội.
95
11. CIEM (2004), Phát triển thị trường KH&CN ở Việt Nam, Nxb. Khoa học và Kỹ
thuật, Hà Nội;
12. CIEM - GSO - UoC (2014), Năng lực cạnh tranh và công nghệ ở cấp độ doanh
nghiệp tại Việt Nam - Kết quả điều tra năm 2013, Nxb. Tài chính, Hà Nội;
13. Cục Công tác phía Nam - Bộ KH&CN, Sở KH&CN - UBND TP.HCM (2016),
Tài liệu Hội thảo: Phát triển thị trường KH&CN khu vực phía Nam từ thực tiễn
TP.HCM, TP.HCM;
14. Huỳnh Thế Du và các cộng sự (2016), Đánh giá sức cạnh tranh của TP.HCM và
gợi ý định hướng chiến lược phát triển đến năm 2025, tầm nhìn 2045, Chương
trình Fulbright,
15. Vũ Cao Đàm (2006), Phương pháp luận nghiên cứu khoa học (tái bản lần thứ
13), Nxb. Khoa học và kỹ thuật;
16. Trần Văn Hải (2012), Thuật ngữ thị “trường KH&CN”, “thị trường công nghệ”
tiếp cận từ pháp luật về SHTT, Tạp chí Hoạt động khoa học, số 638;
17. Học viện Hành chính (2006), Giáo trình hoạch định và phân tích chính sách
công, Nxb. Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội;
18. Học viện Hành chính (2008), Giáo trình Hành chính công, Nxb. Khoa học và Kỹ
thuật, Hà Nội;
19. Lê Minh Nguyên (2008), “Chỉ 40/2000 sinh viên đủ điều kiện làm việc cho Intel”,
20. Bùi Văn Quyền (2014), Báo cáo tổng hợp kết quả khoa học công nghệ đề tài hợp
tác nghiên cứu với Sàn giao dịch công nghệ Thượng Hải để xây dựng sàn giao
dịch công nghệ tại TP.HCM, TP.HCM;
21. Võ Kim Sơn (2008), Phân tích chính sách trong quy trình chính sách và vai trò
của nó trong quá trình soạn thảo luật, Dự án hỗ trợ thể chế cho Việt Nam, Học
viện Hành chính Quốc gia;
22. Thủ tướng Chính phủ (2012), Quyết định số 592/QĐ-TTg ngày 22/5/2012 về việc
phê duyệt Chương trình hỗ trợ phát triển doanh nghiệp KH&CN và tổ chức
KH&CN công lập thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm;
96
23. Tổng cục Thống kê (2016), Niên Giám thống kê 2015 - Công nghiệp, đầu tư và
xây dựng, Nxb. Thống kê, Hà Nội;
24. Trường Đại học Luật TP.HCM (2010), Tập bài giảng Lý luận về pháp luật, Nxb.
Hồng Đức, TP.HCM;
25. The World Bank (2002), Báo cáo phát triển thế giới 2002, xây dựng thể chế hỗ
trợ thị trường, Nxb. Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội;
26. Viện nghiên cứu chiến lược và chính sách KH&CN (2003), Chính sách đổi mới
của các nước đang phát triển trong thời kỳ tự do hóa kinh tế, Tài liệu dịch,
27. Viện Ngôn ngữ học (2006), Từ điển tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng;
C. Website
28.
29.
30.
31.
32.
33.
34.
35.
36.
37.
38.
39.
40.
41.
42. https://www.most.gov.vn/;
43.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_van_chinh_sach_phat_trien_thi_truong_khoa_hoc_va_cong_n.pdf