Tỷ giá là quan hệ so sánh về mặt giá cả giữa hai đồng tiền của các quốc gia khác
nhau. Tỷ giá có tác động đến hoạt động kinh tế xã hội trong và ngoài nước của các
quốc gia. Nó là một phương tiện quan trọng trong hoạt động thương mại và đầu tư
quốc tế. Vì vậy đối với bất kì quốc gia nào thì tỷ giá đều giữ một vai trò vô cùng quan
trọng. Việc hoạch định chính sách tỷ giá nhằm vào hai mục tiêu là cân bằng nội và cân
bằng ngoại, tức là đảm bảo tăng trưởng kinh tế và ổn định tiền tệ. Sự lựa chọn tỷ giá
nào để phù hợp với nền kinh tế và cách thức điều chỉnh tỷ giá như thế nào khi sự mất
cân bằng xảy ra luôn là sự quan tâm của các nước. Việt Nam đã lựa chọn chế độ tỷ giá
hối đoái cố định vào trước những năm 1990, và sau đó đã từng bước điều chỉnh tỷ giá
hối đoái theo chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi có sự quản lý của nhà nước. Chính sách tỷ
giá ở Việt Nam ngày càng được hoàn thiện sao cho phù hợp với nền kinh tế.
29 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2937 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Chính sách tỷ giá hối đoái ở Việt Nam - Những đánh giá và kiến nghị, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Chính sách tỷ giá hối đoái ở Việt
Nam - Những đánh giá và kiến nghị
Lời mở đầu
Mỗi quốc gia trên thế giới đều có đồng tiền của riêng mình. Đồng tiền này chỉ có giá
trị thanh toán trong phạm vi quốc gia trừ một số đồng tiền có khả năng thanh toán
quốc tế. Cũng nhờ vào đồng tiền của nước mình mà mỗi quốc gia có thể kiểm soát
được tình hình tài chính, kinh tế. Trên thực tế, không có một quốc gia nào tồn tại mà
không có mối liên hệ với thế giới bên ngoài. Đặc biệt hiện nay, trong xu thế toàn cầu
hóa nền kinh tế thế giới. Nó làm nảy sinh các mối quan hệ về thương mại, đầu tư, tài
chính tiền tệ và quan hệ thanh toán. Tỷ giá hối đoái là giá cả một đơn vị tiền tệ của
quốc gia này tính bằng tiền tệ của một quốc gia khác. Đây chính là phương tiện trong
thanh toán quốc tế.
Tỷ giá hối đoái giữ vai trò và chức năng quan trọng đối với nền kinh tế quốc gia và
trong mối quan hệ kinh tế quốc tế. Vì vậy việc đề ra, lựa chọn chính sách tỷ giá hối
đoái thực sự phù hợp với nền kinh tế quốc gia là vô cùng quan trọng. Trước đây, Việt
Nam đã từng áp dụng chế độ tỷ giá hối đoái cố định. Còn hiện nay sử dụng chế độ tỷ
giá hối đoái thả nổi có sự kiểm soát của nhà nước. Chế độ tỷ giá này đã mang lai nhiều
lợi ích nhưng việc hoàn thiện chính sách tỷ giá để nó hoàn chỉnh, linh hoạt hơn luôn
luôn cần thiết.
Để đáp ứng nhu cầu trên, tôi nghiên cứu đề tài :” Chính sách tỷ giá hối đoái ở Việt
Nam. Những đánh giá và kiến nghị”. Nội dung đề tài gồm có ba phần chính :
Phần I: Tổng quan về chính sách tỷ giá hối đoái.
Phần II: Thực trạng và tác động của chính sách tỷ giá hối đoái ở Việt Nam.
Phần III: Một số kiến nghị về chính sách tỷ giá hối đóai ở Việt Nam.
B. Nội dung:
I. Tổng quan về chính sách tỷ giá hối đoái:
1. Các khái niệm:
1.1. Khái niệm tỷ giá hối đoái:
Trong điều kiện hiện nay, các nước ngày càng có nhiều mối quan hệ với nhau trên
các mặt kinh tế, chính trị, du lịch… Vì vậy những quan hệ thanh toán quốc tế nảy
sinh. Mặt khác đồng tiền của một nước có giá trị lưu thông trên nước đó. Do vậy để
thực hiện các thanh toán trên thì cần đổi tiền nước này ra tiền nước khác. Từ đó tỷ giá
hối đoái là cần thiết và quan trọng. Có rất nhiều nhà kinh tế đưa ra những khái niệm
khác nhau về tỷ giá hối đoái. Các khái niệm phản ánh một số khía cạnh khác nhau của
tỷ giá:
- Samuelson: Nhà kinh tế học người Mỹ cho rằng tỷ giá hối đoái là tỷ giá để đổi
tiền của một nước này lấy tiền của một nước khác.
- Stayer: Nhà kinh tế học người Australia cho rằng Một đồng tiền của một nước
nào đó thì bằng giá trị của một số lượng đồng tiền khác.
- Chistopher Pass và Bryan Lowes: Người Anh cho rằng tỷ giá hối đoái là giá của
một loại tiền được biểu hiện bằng giá của một loại tiền khác.
Tuy nhiên, ta có khái niệm tổng quát như sau: Tỷ giá hối đoái là quan hệ so sánh về
mặt giá cả giữa các đồng tiền của các quốc gia khác nhau.
1.2. Khái niệm chính sách tỷ giá hối đoái:
Chính sách tỷ giá hối đoái là một hệ thống các nguyên tắc, công cụ và biện pháp mà
Nhà nước sử dụng để điều chỉnh mức tỷ giá hối đoái giữa các đồng nội tệ và các đồng
ngoại tệ. Đồng thời tiến hành điều chỉnh các hoạt động giao dịch diễn ra trên thị
trường ngoại hối nhằm phục vụ cho các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của quốc gia
trong một thời gian nhất định.
2. Cách biểu hiện tỷ giá:
Tỷ giá hối đoái thường được yết giá theo hai phương pháp như sau:
-Phương pháp yết giá trực tiếp: theo cách này, tại một nước nào đó, ngưới ta lấy ngoại
tệ làm đơn vị so sánh với đồng tiền trong nước.
Ví dụ: Tại Việt Nam, 1 USD = 15000 VND
- Phương pháp yết giá gián tiếp: Theo cách này, tại một nước nào đó, người ta lấy nội
tệ so sánh với ngoại tệ.
Ví dụ: Tại Anh, 1 GBP = 1,6959 USD
3. Phân loại tỷ giá hối đoái:
Tỷ giá hối đoái được phân theo nhiều loại khác nhau để giúp cho việc nhận biết được
tỷ giá hối đoái đối với hoạt động của nền kinh tế.
3.1. Phân loại theo đối tượng xác định:
- Tỷ giá chính thức: Tỷ giá này do ngân hàng trung ương của một nước xác định. Các
ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng sẽ ấn định tỷ giá mua bán ngoại tệ giao
ngay, có kỳ hạn, hoán đổi theo mức tỷ giá này.
- Tỷ giá thị trường: Đây là tỷ giá được xác định theo quan hệ cung cầu trên thị trường
ngoại hối.
3.2. Phân loại theo phương tiện chuyển ngoại hối:
- Tỷ giá điện hối: Đây là loại tỷ giá chuyển ngoại hối bằng điện. Các loại tỷ giá khác
được xác định trên cơ sở tỷ giá này.
- Tỷ giá thư hối: Đây là tỷ giá chuyển ngoại hối bằng thư.
3.3. Phân theo thời điểm mua bán ngoại hối:
- Tỷ giá mở cửa: Là tỷ giá được công bố vào đầu giờ của đầu ngày giao dịch.
- Tỷ giá đóng cửa: Là tỷ giá được công bố vào cuối ngày của ngày giao dịch.
- Tỷ giá giao nhận ngay: Là tỷ giá mà việc giao nhận ngoại hối sẽ được thực hiện
chậm nhất sau hai ngày làm việc.
- Tỷ giá giao nhận có kỳ hạn: Là tỷ giá mà việc giao nhận ngoại hối sẽ được thực hiện
theo thời hạn nhất định ghi trong hợp đồng.
3.4. Phân theo nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối:
- Tỷ giá mua: Là tỷ giá của ngân hàng mua ngoại hối vào.
- Tỷ giá bán : Là tỷ giá của ngân hàng bán ngoại hối ra.
4. Tác động của tỷ giá hối đoái đến các quan hệ kinh tế quốc tế
Tỷ giá hối đoái được coi là công cụ mà dựa vào đó để chuyển đổi giá trị giữa các đồng
tiền. Vì vậy, trong quan hệ kinh tế quốc tế, nhất là trong thanh toán quốc tế, tỷ giá hối
đoái giữ vai trò quan trọng. Cụ thể tỷ giá hối đoái có các tác động như sau:
4.1. Tác động đến thương mại quốc tế:
Để thanh toán được các hoạt động nảy sinh trong thương mại quốc tế, các chủ thể
thường phải dựa vào tỷ giá hối đoái. Khi tỷ giá thay đổi sẽ có tác động đến thương mại
quốc tế.
Khi tỷ giá hối đoái tăng lên, có nghĩa là đồng nội tệ có giá trị giảm xuống so với đồng
ngoại tệ. Việc này sẽ có tác động thúc đẩy xuất khẩu nhưng lại hạn chế nhập khẩu. Vì
cùng một lượng nội tệ sẽ đổi được ít ngoại tệ hơn nên hàng xuất khẩu rẻ hơn, dễ cạnh
tranh hơn trên thị trường quốc tế. Trong khi đó, cùng một lượng ngoại tệ lại đổi ra
được nhiều nội tệ hơn nên hàng xuất khẩu đắt hơn.
Ngược lại, khi tỷ giá hối đoái giảm xuống sẽ có tác động hạn chế xuất khẩu và thúc
đẩy nhập khẩu. Từ đó gây nên tình trạng mất cân đối cán cân thanh toán.
4.2. Tác động đến hoạt động đầu tư quốc tế:
Hoạt động đầu tư quốc tế cũng liên quan đến việc chuyển đổi giá trị giữa các đồng tiền
nên nó cũng chịu ảnh hưởng của sự biến động tỷ giá hối đoái.
Khi tỷ giá hối đoái tăng lên (đồng nội tệ giảm giá trị so với đồng ngoại tệ ), nó có tác
động thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài và hạn chế sự đầu tư ra nước ngoài của các
nhà đầu tư trong nước. Vì các nhà đầu tư nước ngoài với cùng một lượng ngoại tệ sẽ
đổi được nhiều nội tệ hơn để phục vụ cho hoạt động đầu tư.
Ngược lại khi tỷ giá hối đoái giảm xuống sẽ hạn chế thu hút đầu tư trực tiếp nước
ngoài và thúc đẩy các nhà đầu tư trong nước đầu tư ra nước ngoài.
5. Các nhân tố tác động đến tỷ giá hối đoái:
Trong nền kinh tế mở như hiện nay, tỷ giá biến động rất thường xuyên và thất thường.
Có rất nhiều yếu tố tác động đến sự biến động này, trong đó có thể nhắc đến các yếu
tố sau:
- Mức chênh lệch lạm phát của hai nước ảnh hưởng đến tỷ giá:
Tỷ giá biến động do lạm phát là do mức chênh lệch lạm phát của hai nước. Nếu không
tính đến các nhân tố khác, lạm phát làm cho giá cả ở hai nước có mức biến động khác
nhau. Ngang giá sức mua của hai đồng tiền bị phá vỡ, dẫn đến tỷ giá thay đổi. Nước
nào có mức độ lạm phát lớn hơn nước kia thì đồng tiền nước đó có sức mua thấp hơn
đồng tiền nước kia.
- Mức chênh lệch lãi xuất giữa các nước:
Bất kì một yếu tố nào tác động đến cung hoặc cầu ngoại hối đều có tác động trực tiếp
đến tỷ giá hối đoái. Trong trường hợp này, khi lãi xuất ngắn hạn của một nước cao
hơn nước khác, việc này sẽ có tác dụng thu hút nguồn vốn ngắn hạn từ nước ngoài vào
nước đó. Dẫn đến cung ngoại hối tăng lên, cầu ngoại hối giảm đi, do đó tỷ giá hối đoái
sẽ thay đổi.
- Sự can thiệp, điều chỉnh của Nhà nước:
Vì tỷ giá hối đoái có vai trò vô cùng quan trọng đối với nền kinh tế của bất kì quốc
gia nào. Chính vì vậy nhà nước có những biện pháp cần thiết để điều chỉnh tỷ giá hối
đoái theo hướng có lợi cho quốc gia mình. Nhà nước thường sử dụng các công cụ như
sau: các biện pháp hành chính, chính sách chiết khấu, chính sách hối đoái, nâng giá
hoặc phá giá tiền tệ.
- Ngoài các yếu tố trên còn có nhiều yếu tố khác ảnh hưởng đến tỷ giá hối đoái như:
nhân tố mang tính tâm lý, các cú sốc kinh tế, chính trị, xã hội, hoạt động của thị
trường ngoại hối, các hoạt động đầu cơ…
6. Các chế độ tỷ giá hối đoái:
* Khái niệm: Chế độ tỷ giá hối đoái là những quy định về chế độ tỷ giá hối đoái.
Ở mỗi nước khác nhau thì chế độ tỷ giá hối đoái cũng khác nhau. Điều này phụ
thuộc vào nhận thức và bối cảnh phát triển kinh tế xã hội của mỗi nước.
Nhìn chung tỷ giá hối đoái gồm ba loại chính: Chế độ tỷ giá hối đoái cố định,
chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi tự do, chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi có sự quản lý của
Nhà nước.
6.1. Chế độ tỷ giá hối đoái cố định:
* Khái niệm:
Chế độ tỷ giá hối đoái cố định là một chế độ tỷ giá hối đoái, trong đó Nhà nước, mà cụ
thể là ngân hàng trung ương tuyên bố sẽ duy trì tỷ giá hối đoái giữa đồng tiền của
quốc gia mình với đồng tiền nào đó hoặc theo một rổ các đồng tiền nào đó ở một mức
cố định không đổi bằng cách thường xuyên can thiệp vào thị trường ngoại tệ để thực
hiện các hoạt động mua hay bán lượng dư cung hay cầu ngoại tệ với mức tỷ giá hối
đoái cố định mới công bố.
* Đặc trưng của chế độ tỷ giá hối đoái cố định :
- Tỷ giá hối đoái là cố định, những dự báo về sự thay đổi tỷ giá trên thị trường là
không có, trừ khi thị trường dự báo Chính phủ sẽ thay đổi mức tỷ giá cố định.
- Ngân hàng trung ương sẽ cam kết duy trì tỷ giá hối đoái ở một mức cố định nào đó.
Cung và cầu ngoại tệ vẫn tồn tại trên thị trường nhưng chúng sẽ bị chi phối. Nếu cung
trên thị trường lớn hơn cầu ở mức tỷ giá cố định thì ngân hàng trung ương sẽ đảm bảo
mua hết lượng dư cầu. Còn trong trường hợp ngược lại, nếu cung nhỏ hơn cầu ở mức
tỷ giá cố định thì ngân hàng trung ương sẽ đảm bảo cung cấp một lượng ngaọi tệ bằng
với lượng dư cầu. Ngân hàng trung ương sẽ thực hiện hoạt động mua bán lượng dư
cung hay dư cầu đó với tư cách là người mua bán cuối cùng, người điều phối.
* Ưu điểm của chế độ tỷ giá hối đoái cố định:
- Do tỷ giá hối đoái là cố định nên hiện tượg đầu cơ không tồn tại, không gây bất ổn
đối với nền kinh tế.
- Cùng với việc cam kết cố định tỷ giá, Chính phủ sẽ phải đề ra những chính sách vĩ
mô hợp lý nhằm duy trì sự ổn định của tỷ giá hối đoái. Việc này sẽ giúp tránh được
tình trạng phá giá cạnh tranh, đồng thời tạo một môi trường kinh doanh ổn định cho
thương mại và đầu tư quốc tế.
- Việc cố định tỷ giá hối đoái còn giúp cho các nhà đầu tư và kinh doanh quốc tế
tránh được những rủi ro về sự thay đổi tỷ giá. Do đó hiệu quả kinh doanh sẽ tăng lên,
góp phần thúc đẩy thương mại và đầu tư quốc tế.
* Nhược điểm của chế độ tỷ giá hối đoái cố định:
- Chính sách tiền tệ bị vô hiệu hóa vì phải kìm giữ tỷ giá ở mức cam kết.
- Trong chế độ tỷ giá hối đoái cố định, nếu đồng tiền nội địa được định giá quá thấp
thì sức ép về tăng giá sẽ làm cho dự trữ ngoại tệ xụt giảm. Nếu đồng nội địa được định
giá quá cao, sức ép giảm giá sẽ khiến cho dự trữ ngoại tệ tăng.
6.2. Chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi tự do:
* Khái niệm:
Chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi tự do là chế độ tỷ giá hối đoái sẽ được vận dụng và xác
định một cách tự do theo quy luật thị trường ( quy luật cung và cầu trên thị trường
ngoại tệ).
* Đặc trưng cơ bản của chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi tự do:
- Tỷ giá hối đoái hoàn toàn phụ thuộc vào sự biến động của cung và cầu ngoại tệ trên
thị trường.
- Ngân hàng trung ương không có bất kì sự can thiệp trực tiếp vào thị trường ngoại tệ.
Tuy nhiên ngân hàng trung ương vẫn có thể can thiệp gián tiếp vào thị trường ngaọi tệ
bằng cách tham gia mua bán ngoại tệ trên thị trường theo giá cả do thị trường quyết
định với tư cách là một nhà kinh doanh giao dịch bình thường.
* Ưu điểm của chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi:
- Dưới chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi, cán cân thanh toán sẽ tự cân bằng.Trong trường
hợp tài khoản vãng lai thâm hụt, đồng nội tệ giảm giá làm cho xuất khẩu tăng lên và
nhập khẩu giảm xuống cho tới khi cán cân thanh toán trở về vị trí cân bằng. Còn trong
trường hợp ngược lại, khi tài khoản vãng lai thặng dư, đồng nội địa sẽ lên giá làm cho
nhập khẩu tăng và xuất khẩu giảm xuống cho tới khi cán cân thanh toán trở về trạng
thái cân bằng.
- Nền kinh tế có thể chống lại những cú sốc giá cả từ bên ngoài. Sự gia tăng của lạm
phát nước ngoài sẽ khiến cho tỷ giá hối đoái thay đổi phù hợp với quy luật ngang giá
sức mua.
* Nhược điểm của chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi tự do:
- Tỷ giá hối đoái thả nổi phụ thuộc vào sự biến động của cung và cầu ngoại tệ. Do đó
trên thị trường này có rất nhiều rủi ro. Các nhà kinh doanh cũng như đầu tư sẽ gặp rủi
ro do sự thay đổi tỷ giá. Chính vì vậy nó gây ra tâm lý e ngại khi tiến hành kinh doanh
cũng như đầu tư ở những nước áp dụng chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi tự do.
- Tỷ giá hối đoái còn phụ thuộc vào dự đoán của các nhà đầu cơ về mức tỷ giá trong
tương lai. Đôi khi những dự tính của họ không phù hợp với viễn cảnh tương lai. Vì
vậy việc đầu cơ một cách ồ ạt có thể làm cho tỷ giá hối đoái biến động mạnh, gây ảnh
hưởng đến việc thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô cũng như sự ổn định của nền
kinh tế.
6.3. Chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi có sự quản lý của Nhà nước:
* Khái niệm:
Chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi có sự quản lý của Nhà nước là chế độ, trong đó, tỷ giá
hối đoái sẽ tự xác định trên thị trường cung cầu, chính phủ chỉ can thiệp vào thị trường
khi tỷ giá có những biến động mạnh.
* Đặc trưng của chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi có sự quản lý của Nhà nước:
- Cung và cầu ngoại tệ trên thị trường ngoại tệ sẽ xác định tỷ giá hối đoái.
- Trong chế độ tỷ giá hối đoái này, Ngân hàng trung ương sẽ tuyên bố một mức tỷ giá
hối đoái chính thức và một biên độ dao động cho phép. Nếu tỷ giá trên thị trường vượt
quá biên độ cho phép này, thì Ngân hàng trung ương sẽ dùng những công cụ cần thiết
và phù hợp để duy trì sự dao dộng của tỷ giá hối đoái chỉ nằm trong biên độ cho phép.
- Tuy nhiên trong những điều kiện đặc biệt như khi tình hình kinh tế có những thay
đổi lớn thì Nhà nước sẽ xác định và công bố lại mức tỷ giá hối đoái cũng như biên độ
dao động cho phép.
* Ưu điểm của chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi có sự quản lý của Nhà nước:
- Khi tỷ giá hối đoái biến động bất thường sẽ gây ra ảnh hưởng nghiêm trọng đến nền
kinh tế. Để tránh những cú sốc và tổn thất do tỷ giá hối đoái đem lại thì Ngân hàng
trung ương cần can thiệp điều tiết tỷ giá hối đoái. Ngân hàng trung ương có thể can
thiệp trực tiếp hoặc gián tiếp vào thị trường ngoại hối. Tức là có thể tham gia vào thị
trường ngoại hối, mua bán ngoại tệ hoặc là sử dụng các công cụ cung cấp thông tin
cần thiết và chuẩn xác cho thị trường.
- Sự can thiệp tỷ giá hối đoái của Chính phủ giúp điều chỉnh nền kinh tế. Ví dụ như
trong trường hợp cán cân thanh toán do khu vực sản xuất hàng hóa thương mại liên
tục có thặng dư quá lớn so với khu vực sản xuất hàng hóa phi thương mại, sẽ khiến
cho đồng nội tệ tăng giá. Việc này dẫn đến lao động di chuyển từ khu vực sản xuất
thương mại sang khu vực sản xuất hàng hóa phi thương mại, làm cho thất nghiệp tạm
thời sẽ tăng lên. Trong tình hình này, Nhà nước có thể can thiệp làm giảm bớt sự lên
giá của đồng nội tệ.
* Nhược điểm của chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi có sự quản lý của Nhà nước:
- Để việc can thiệp của Nhà nước vào thị trường có hiệu quả thì bản thân nhà nước
phải có uy tín đối với thi trường vầ phải có lượng dự trữ ngoại tệ đủ mạnh để có thể
can thiệp, bình ổn tỷ giá một cách kịp thời.
- Sự can thiệp của Nhà nước chỉ hợp lý và hiệu quả khi sự can thiệp này không ngăn
cản xu hướng tiến tới vị trí can bằng dài hạn của tỷ giá.
II. Thực trạng và tác động của chính sách tỷ giá hối đoái của Việt Nam:
1. Chính sách tỷ giá hối đoái ở Việt Nam:
Trước những năm 1990:
Thời gian này, nước ta duy trì chế độ tỷ giá hối đoái cố định. Nền kinh tế nước ta
vào thời điểm này là nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung. Lúc này, sự điều hành và
quản lý kinh tế còn sơ khai, kinh nghiệm và kiến thức quản lý kinh tế còn chưa nhiều.
Tỷ giá hối đoái trong thời gian này là tỷ giá hối đoái cố định nên thấp hơn nhiều so với
mức tỷ giá hối đoái thực tế trên thị trường. Chính sách tỷ giá hối đoái cố định này đã
để lại hậu quả nghiêm trọng cho nền kinh tế. Chính vì vậy mong muốn của nước ta lúc
này là ổn định và phát triển nền kinh tế. Có rất nhiều chuyên gia với các quan điểm
khác nhau về chế độ tỷ giá hối đoái.
- Nhiều chuyên gia cho rằng cần áp dụng chế độ tỷ giá hối đoái cố định. Bởi với cơ
chế tỷ gía cố định sẽ tránh được những rủi ro kinh tế do sự biến động của tỷ giá gây ra,
cũng như tạo tâm lý an tâm cho các nhà đầu tư, kể cả các nàh đầu tư nước ngoài. Việc
áp dụng tỷ giá hối đoái cố định trong giai đoạn này là hợp lý. Tuy nhiên, do chúng ta
đã áp dụng chế độ này quá lâu làm cho nền kinh tế Việt Nam gặp nhiều khó khăn.
Hơn nữa, chế độ tỷ giá hối đoái cố định làm cho đồng Việt Nam lên giá một cách giả
tạo, làm giảm sức cạnh tranh của hàng hóa nước ta và triệt tiêu lợi thế so sánh của nền
kinh tế.
- Trong quá trình đổi mới cơ chế quản lý, cũng có nhiều chuyên gia cho rằng Việt
nam nên áp dụng chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi. Bởi theo họ, chế độ tỷ giá hối đoái
mới này sẽ tạo ra một cú húych lớn cho nền kinh tế, khuyến khích xuất khẩu và sản
xuất hàng hóa xuất khẩu. Từ đó sẽ tạo ra nhiều công ăn việc làm và thúc đẩy phát triển
nền kinh tế. Tuy nhiên, trong điều kiện nền kinh tế nước ta lúc này đang chuyển sang
nền kinh tế thị trường. Mọi cơ chế chính sách còn chưa đồng bộ, đặc biệt là cơ chế
chính sách về tài chính tiền tệ. Chính vì vậy nếu áp dụng chính sách tỷ giá hối đoái thả
nổi sẽ dẫn đến rối loạn hoặc khủng hoảng nền kinh tế.
- Đa số các chuyên gia cho rằng, Việt Nam nên áp dụng chính sách tỷ giá hối đoái thả
nổi có sự quản lý của nhà nước. Việc áp dụng cơ chế tỷ giá hối đoái này, vừa phản ánh
đúng đòi hỏi của cơ chế thị trường vùa đảm bảo tính chủ động nhờ có bàn tay của nhà
nước can thiệp để giữ sự ổn định và phát triển vững chắc của nền kinh tế. Vì vậy, từ
tháng 3 năm 1989 nước ta đã thiết lập một hệ thống tỷ giá hối đoái theo tín hiệu thị
trường có sự can thiệp của chính phủ. Chính sách tỷ giá hối đoái của Việt Nam đã có
những chuyển biến rất căn bản. Đồng nội tệ phá giá rất mạnh, hệ thống tỷ giá cũ bị
xóa bỏ và được nhanh chóng thay bằng hệ thống tỷ giá mới.
Từ năm 1990 đến nay:
- Trong giai đoạn từ năm 1990 đến 1997, chính phủ đã áp dụng tỷ giá hối đoái linh
hoạt có sự quản lý của nhà nước, chủ yếu là neo giữ và quy đổi VND qua một số
ngoại tệ trong đó USD chiếm một tỷ trọng lớn. Tuy nhiên, trong một thời gian dài chế
độ này cũng bộc lộ một số nhược điểm là đã không khuyến khích được xuất khẩu và
sản xuất hàng xuất khẩu.
- Để thích ứng hơn với thị trường và đặc biệt là hạn chế những tác động của cuộc
khủng hoảng tài chính Đông Nam A’ ( 02/7/1997), Ngân hàng trung ương đã liên tục
thay đổi tỷ giá hối đoái:
+ Ngày 13/10/1997, mở rộng biên độ giao dịch lên mức +(-) 10%
+ Ngày 01/2/1998, nâng tỷ giá chính thức từ 1 USD = 111175 VND lên mức 1 USD
= 11800; tăng 5,6%.
+ Ngày 7/8/1998, thu hẹp biên độ giao dịch xuống còn +(-) 7%, đồng thời nâng tỷ
giá chính thức lên 1 USD = 12998 VND.
+ Từ ngày 6/11/1998 đến 15/1/1999 là một chuỗi những điều chỉnh giảm liên tục
trong tỷ giá chính thức cùng biên độ.
- Từ ngày 26/2/1999 tỷ giá chính thức được công bố hàng ngày. Tỷ giá này được xác
định trên cơ sở tỷ giá bình quân mua bán thực tế trên thị trường ngoại tệ liên ngân
hàng của thị trường giao dịch gần nhất trước đó. Đây chính là sự thay đổi cơ chế quản
lý, sao cho việc điều hành tỷ giá phù hợp với cơ chế thị trường. Đồng thời biên độ
giao dịch cũng được rút xuống +(-) 0,1%.
- Trong giai đoạn đầu tỷ giá mua của ngân hàng thấp hơn tỷ giá chính thức, còn tỷ giá
bán thì cao hơn tỷ giá chính thức. Nhưng chỉ gần một tháng sau khi thay đổi tỷ giá
chính thức, tỷ giá mua và bán của ngân hàng luôn cao hơn tỷ giá chính thức.
- Từ đầu năm 1999 đến tháng 11/ 2003, chúng ta đã áp dụng chế độ biên độ dao động
của tỷ giá hối đoái ở mức thấp 10,1%. Quan sát thực tế cho thấy, đồng Việt Nam hàng
năm mất giá khoảng 2% so với năm 2002. Đến cuối tháng 11/2003, trong khi đồng
USD mất giá kỷ lục so với hầu hết các loại ngoại tệ trên thị trường tài chính quốc tế
nhưng đồng USD lại lên giá so với đồng VND.
- Năm 2004, thị trường ngoại hối và thị trường tiền tệ trong nước chịu ảnh hưởng của
những biến động phức tạp trên thị trường thế giới. Đồng USD mất giá kỷ lục so với
Euro, JNP và một số ngoại tệ khác. Gía xăng dầu tăng cao, giá sắt thép, hóa chất,
nguyên liệu nhựa, gạo,…cũng tăng giá. Trong nước, dịch cúm xảy ra trên diện rộng,
giá thuốc chữa bệnh tăng cao…Tình hình trên dẫn đến chỉ số giá tăng cao, gây sức ép
điều hành chính sách tiền tệ. Để phù hợp với diễn biến của thị trường ngoại hối, cơ
chế điều hành tỷ giá có những chuyển biến quan trọng. Ngày 8/12/2004, Thống đốc
ngân hàng nhà nước ra quyết định số 1452/2004/ QĐ-NHNH về điều chỉnh giao dịch
hối đoái của tổ chức tín dụng đối với khách hàng thay thế quy định được ban hành
năm 1998. Quy chế mới thông thoáng hơn, nới lỏng những quy định về kiểm soát,
đồng thời cung cấp thêm cho thị trường hối đoái một công cụ phòng ngừa rủi ro về lãi
suất, về tỷ giá cho doanh nghiệp và các thành viên của thị trường ngoại hối.
Tính từ đầu tháng 1/2004 đến cuối tháng 12/ 2004, đồng Việt Nam mất giá gần 0,8%
so với USD; 5,51% so với JPI; 8,98% so với Euro…Theo số liệu ngân hàng nhà nước
Việt Nam, tỷ giá bình quân trên thị trường liên ngân hàng chỉ tăng khoảng 0,63% so
với mức tăng tương tự là 1,52% của năm 2003. Nhưng nhìn chung trong năm 2004, tỷ
giá VND/ USD khá ổn định. Đó là do USD mất giá trên thị trường thế giới, do nguồn
cung USD trong nước dồi dào và do chính sách điều hành tỷ giá và quản lý ngoại hối
được đổi mới linh hoạt, tôn trọng tính thị trường, ngân hàng nhà nước hầu như chỉ can
thiệp gián tiếp.
Nhìn chung trong giai đoạn qua, chúng ta đã có những chuyển biến đáng kể. Từ một
chính sách tỷ giá mang nặng tính bao cấp đã chuyển sang một chính sách tỷ giá vận
hành dựa trên cơ chế thị trường. Đặc biệt với cơ chế tỷ giá hối đoái thả nổi có sự quản
lý của nhà nước, ngân hàng nhà nước góp phần điều tiết được thị
trường, hạn chế được những ảnh hưởng tiêu cực của sự biến động tỷ giá hối đoái với
nền kinh tế.
2. Tác động của tỷ giá hối đoái tới nền kinh tế Việt Nam:
Tỷ giá hối đoái có tác động rất lớn đến nhiều khía cạnh của nền kinh tế. Chính vì vậy
tỷ giá hối đoái có vai trò quan trọng ttrong nền kinh tế. Nó có các tác động sau:
2.1. Tỷ giá hối đoái tác động tới xuất nhập khẩu Việt nam:
Có thể nói tỷ giá hối đoái tác động trực tiếp đến hoạt động xuất nhập khẩu. Bất kì sự
thay đổi nào của tỷ giá hối đoái cũng đều ảnh hưởng đến tình hình xuất nhập khẩu.
Trong trường hợp, nếu VND giảm giá. Điều này sẽ làm cho hàng hóa Việt Nam tại
thị trường nước ngoài rẻ hơn. Còn hàng hóa nước ngoài tại thị trường Việt nam trở
nên đắt hơn. Điều này làm tăng hoạt động xuất khẩu hàng hóa Việt Nam ra nước
ngoài, đồng thời hạn chế nhập khẩu hàng hóa nước ngoài vào Việt nam.
Trong trường hợp đồng VND lên giá. Thì ngược lại, việc này sẽ khuyến khích nhập
khẩu và hạn chế xuất khẩu hàng hóa.
Như vậy cùng với sự biến động của tỷ giá thì lượng nhập khẩu và xuất khẩu cũng biến
động tương ứng.
Bảng 2: Tình hình xuất nhập khẩu máy móc và tư liệu sản xuất ( Triệu USD theo thời
giá) :
1990 1995 2000 2001 2002 2003 2004 2005*
Xuất khẩu
2404 5449 14483 15029 16705 20176 25000 29000
Nhập khẩu 2752 7256 15636 16218 19745 25246 32000
Nhập siêu -348 -1807 -1153 -1189 -3040 -5070 -7000
Máy, thiết
bị, phụ tùng
2096 4781 4949 5890 8175
Nguyên
nhiên vật
liệu
4821 9887 9981 12312 15437
Hàng tiêu
dùng
1237 968 1287 1553 1614
Nguồn: Niên giám thống kê Việt Nam 2003, Báo cáo tạm ước của Chính phủ tại quốc
hội tháng 10/ 2004, số liệu 2005* là số dự báo.
Từ năm 1995 đến năm 2004, số nhập khẩu máy, thiết bị, phụ tùng tăng từ 2 tỷ USD
lên đến 8,1 tỷ USD, còn số nhập khẩu vật tư đã tăng từ 4,8 tỷ USD lên đến 15 tỷ USD.
Đây chính là nguồn đầu vào quan trọng, là nguyên nhân chính giúp cho sự phát triển
công nghiệp luôn vượt trên 10- 11% hàng năm.
2.2. Tỷ giá hối đoái tác động đến đầu tư, công ăn việc làm:
Tỷ giá là một nhân tố quan trọng tác động đến hoạt động đầu tư, và do đó cũng tác động
đến công ăn việc làm. Trong trường hợp đồng VND sụt giá ( tức là một ngoại tệ ăn nhiều
VND hơn) thì sẽ thu hút các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Việt Nam. Việc này sẽ dẫn
đến mở rộng quy mô sản xuất và do đó góp phần tăng số lượng việc làm, làm giảm tỷ lệ
thất nghiệp ở trong nước. Còn trong truờng hợp đồng VND lên giá, thì sẽ có tác động
ngược lại. Giảm lượng đầu tư nước ngoài vào Việt nam, từ đó làm giảm quy mô sản
xuất, tỷ lệ thất nghiệp gia tăng.
Việc thu hút các nhà đầu tư nước ngoài còn gây ảnh hưởng đến tình hình nhập khẩu máy
móc thiết bị của Việt Nam. Bởi vì đầu tư trực tiếp nước ngoài đi đôi với việc chuyển giao
công nghệ. Các nhà đầu tư nước ngoài khi đầu tư vào Việt Nam thường mang theo máy
móc, thiết bị, công nghệ hiện đại. Đây được coi như một phần trong tỷ lệ vốn góp của các
nhà đầu tư nước ngoài. Máy móc tăng lên tạo điều kiện mở rộng quy mô sản xuất , tạo
nhiều công ăn việc làm cho người lao động, làm giảm tỷ lệ thất nghiệp. Ta có thể thấy tác
động của tỷ giá tới đầu tư như sau
Bảng 2: Tỷ lệ đầu tư giá thực tế năm 2004 và GDP trong nước qua các năm:
1995 2000 2001 2002 2003 2004 2005*
GDP năm 1994(
tỷ đồng)
228.892 441.
649
481.295 535.762 605.583 651.607 703.736
GDP năm 1994
(tỷ USD)
20,7 39,9 43,5 48,5 54,8 58,9 63,6
Dân số ( triệu
người)
71,5 77,6 78,6 79,7 80,0 82,1 83,2
GDP đầu người
theo giá USD
1994
289 514 553 607 684 717 764
Tổng đầu tư % 27,14 29,61 31,17 33,22 35,09 35,4 36,5
A, tài sản cố
định mới %
25,42 27,65 29,15 31,14 32,97 33,28 34,38
B, Gia tăng tồn
kho%
1,72 1,96 2,02 2,08 2,12 2,12 2,12
Tiêu dung % 81,8 72,88 71,18 71,33 71,79 64,6
A, Nhà nước %
8,19 8,48 8,33 8,23 8,9
B, Tư nhân % 73,61 64,46 62,85 63,1 62,89
Nhập siêu( tỷ
đồng)
-20.819 -
10.87
8
-10.982 -27.684 -45.725
Sai biệt thống kê
(%)
0,18 0,02 0,08 0,62 0,68
Nguồn: Niên giám thống kê Việt Nam 2003, Báo cáo tạm ước của Chính phủ tại Quốc
hội tháng 10/ 2004, số liệu 205* là số dự báo.
Theo bảng trên ta thấy, mức tổng đầu tư liên tục tăng. Năm 1995 là 27,1%, năm 2000
là 29,6%; năm 2001 là 31,1%; năm 2002 là 33,2%; năm 2003 là 35%, đến năm 2004
là 35,4%; năm 2005 dự đoán đầu tư sẽ tăng lên 36,5%. Bảng thống kê cho thấy chính
sách tiền tệ ngân hàng là tập trung vốn cho việc tăng liên tục tổng đầu tư. Năm 2005
cần cố gắng giảm nạn thất thoát trong xây dựng cơ bản, giảm nợ tồn đọng và tăng hiệu
quả đầu tư.
2.3. Tỷ giá tác động đến cán cân thương mại:
Có thể nói cán cân thương mại là chênh lệch giữa doanh số xuất khẩu và doanh số
nhập khẩu trong một thời kỳ nhất định. Mà tỷ giá tác động trực tiếp đến hoạt động
xuất nhập khẩu hàng hóa, cho nên nó ảnh hưởng đến cán cân thương mại. Cán cân
thương mại thặng dư khi doanh số xuất khẩu lớn hơn nhập khẩu và ngược lại là cán
cân thương mại thâm hụt. Cán cân thưong mại tác động đến nhiều mặt của nền kinh tế.
Can cân thương mại thặng dư sẽ góp phần tăng trưởng kinh tế, tạo nhiều công ăn việc
làm, tăng tích lũy quốc gia dưới dạng dự trữ ngoại hối, đồng thời tạo uy tín và tiền đồ
để đồng nội tệ được tự do chuyển đổi.
Khi tỷ giá thực danh nghĩa tăng có tác dụng kích thích xuất khẩu và hạn chế nhật
khẩu. Trong trường hợp ngược lại, khi tỷ gía thực danh nghĩa giảm, nó sẽ làm cho cán
cân thương mại trở nên xấu hơn. Cán cân vãng lai không đổi khi tỷ giá thực không
đổi.
Trong ngắn hạn, giá cả hàng hóa ít thay đổi. Việc phá giá đồng nội tệ làm cho tỷ giá
thực tăng. Khi tỷ giá thực tăng sẽ giúp cải thiện cán cân thương mại như đã nói ở trên.
Tỷ giá danh nghĩa đa biên NEER phản ánh sự thay đổi giá trị của một đồng tiền với tất
cả các đồng ( hoặc là một rổ các đồng tiền đặc trưng). Tỷ giá NEER này được biểu
diễn dưới dạng chỉ số, và nó được xác định trên cơ sở NEER đã được điều chỉnh bởi
tỷ lệ lạm phát trong nước và ở các nước còn lại.
2.4. Tỷ giá hối đoái với vấn đề lạm phát:
Khi nói nền kinh tế một nước đang có lạm phát, tức là đồng tiền nước đó bị mất giá.
Điều này có nghĩa là, giờ đây ta phải mất nhiều tiền hơn để mua được cùng một loại
hàng hóa so với trước khi xảy ra lạm phát.
Thời gian qua, nước ta xảy ra lạm phát cao. Ta có thể thấy qua bảng 3
Bảng 3: GDP trong bình quân đầu người tháng và chỉ số tăng giá hàng tiêu dung cuối
năm so với năm trước + chỉ số tăng giá hàng tiêu dùng lũy tiến từ năm 1994 (=100):
1995 2000 2001 2002 2003 2004 2005
GDP năm
1994( tỷ
đồng)
228.89
2
441.64
9
481.295 535.762 605.583 651.607 703.736
GDP năm
1994 ( tỷ
USD)
20,7 39,9 43,5 48,5 54,8 58,9 63,6
Dân số trung
bình ( ngàn
người)
70.824 71.995 77.635 78.685 79.727 80.902 82.100
GDP đầu
người/ tháng
theo giá
USD 1994
289 514 553 607 684 717 764
GDP đầu
người tháng
( ngàn đồng)
265 474 510 560 624 661
Chỉ số giá
hàng tiêu
dung cuối
năm so với
năm trước
112,7 99,4 100,8 104,0 103,0 109,5 107
Chỉ số giá
hàng tiêu
dung cuối
năm so với
112,7 129,5 130,3 130,7 131,0 140,5
năm 1994 (=
100)
Nguồn: Niên giám thồng kê Việt Nam 2003. Báo cáo tạm ước của Chính phủ tại Quốc
hội tháng 10/ 2004.
Qua các số liệu thống kê, GDP đầu người Việt Nam năm 2000 là 265 nghìn đồng/
tháng lên đến 717 nghìn đồng/ tháng năm 2004 theo giá so sánh năm 1994. Tuy nhiên
so với các năm trước, năm 2004 giá cả hàng hóa tăng mạnh. Tháng 8/2004 là 8,65,
đến cuối năm 2004 lên tới 9,5%. Đến 8 tháng đầu năm 2005, lạm phát còn 6,8%.Tuy
nhiên, sự tăng giá 9,5% năm 2004 xảy ra không do nguyên nhân tiền tệ ngân hàng mà
do nạn cúm gia cầm , hạn hán nghiêm trọng trong nước, ngoài ra giá xăng dầu tăng
mạnh cũng kéo theo sự tăng giá của các mặt hàng nhập khẩu.
Nguyên nhân của việc tăng giá năm 2004 là do những nguyên nhân phi tiền tệ. Chính
vì vậy không cần thay đổi nhiều chính sách tỷ giá, lãi xuất, dự trữ bắt buộc. Mặt khác
chính phủ cần sử dụng các biện pháp phi tiền tệ để ổn định giá cả như bù giá cho việc
nhập khẩu xăng dầu, phục hồi đàn gia cầm, tiết kiệm xăng dầu…
Tỷ giá hối đoái chịu tác dụng của nhiều nhân tố trong đó có hai nhân tố quan trọng
nhất là sức mua của đồng tiền và tương quan giữa cung và cầu tiền tệ. Khi lạm phát
xảy ra, sức mua của đồng nội tệ giảm. Điều này dẫn đến tình trạng người dân chuyển
hướng từ tiết kiệm VND sang tiết kiệm các ngoại tệ khác. Cầu ngoại tệ tăng lên, khiến
cho tỷ giá hối đoái giữa ngoại tệ so với nội tệ tăng lên. Khi đó tỷ giá hối đoái cao sẽ có
tác dụng kích thích hoạt động xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu, góp phần tăng thu ngoại
tệ, cải thiện cán cân thanh toán.
Ở Việt Nam, ngân hàng nhà nước đang thực hiện chế độ tỷ giá linh hoạt. Trong những
trường hợp cần thiết, ngân hàng nhà nước có thể dùng cả những công cụ trực tiếp hoặc
gián tiếp để sức mua đối ngoại của VND không bị biến động. Để ổn định tỷ giá hối
đoái, kìm chế sự gia tăng của chỉ số giá tiêu dùng thì phải chú ý đến tích lũy ngoại tệ.
2.5. Tỷ giá hối đoái tác động tới ổn định tiền tệ:
Bất kỳ sự biến động nào của tỷ giá hối đoái đều tác động tới sự ổn định của tiền tệ, của
nền kinh tế.
Trong tình trạng nghiêm trọng của khủng hoảng ngoại hối khi mà sức mua của tiền tệ
giảm mạnh hoặc khi tỷ giá hối đoái biến động mạnh trong một thời gian dài thì việc
xác định lại tỷ giá là vô cùng cần thiết. Nhà nước co thể phá giá tiền tệ. Phá giá tiền tệ
là việc đánh tụt sức mua danh nghĩa của tiền tệ nước mình so với ngoại tệ. Kết quả là
nó tác động trực tiếp đến tỷ giá hối đoái.
Khi một nước phá giá tiền tệ sẽ làm tăng giá của hàng xuất khẩu và hàng nhập khẩu.
Do vậy phần thuế xuất nhập khẩu sẽ tăng lên. Ngân sách nhà nước nhờ đó mà cũng
tăng lên. Tuy nhiên, độ lớn của tác động này phụ thuộc vào quy mô của thuế xuất
nhập khẩu trong tổng nguồn thu, độ co giãn về thuế.
Trong trường hợp, nếu chính phủ có nợ nước ngoài thì việc phá giá nội tệ sẽ làm cho
khoản nợ lớn hơn. Do chính phủ phải dùng nhiều nội tệ hơn để trả nợ. Điều này sẽ tạo
ra vòng luẩn quẩn, nợ nần chồng chất khiến cho nền kinh tế phải chịu một gánh nặng
không lường hết được.
3. Một số đánh giá về việc áp dụng chính sách tỷ giá hối đoái ở Việt Nam:
Thành công đạt được:
Chính sách tỷ giá hối đoái là một hệ thống các công cụ dùng để tác động vào cung cầu
ngoại tệ trên thị trường. Về cỏ bản chính sách tỷ giá hối đoái tập trung vào hai vấn đề
là lựa chọn chế độ tỷ giá hối đoái và vấn đề điều chỉnh tỷ giá hối đoái. Việt Nam lựa
chọn chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi có sự quản lý của nàh nước. Việc điều chỉnh tỷ giá
hối đoái nhằm vào hai mục tiêu cân bằng nội và cân bằng ngoại.
Qúa trình cải cách chính sách tỷ giá của Việt Nam trong thời gian qua là phù hợp với
quá trình cải cách kinh tế nói chung. Từ một chính sách tỷ giá mang nặng tính bao cấp
đã chuyển sang một chính sách tỷ giá vận hành trên cơ sở thị trường. Đặc biệt với cơ
chế tỷ giá hối đoái hiện nay. Ngân hàng nhà nước đã điều tiết được thị trường , hạn
chế được cú sốc, hạn chế được những ảnh hưởng tiêu cực của tỷ giá khi nền kinh tế
đang trong quá trình chuyển đổi.
Trong thời gian qua, các công cụ điều hành chính sách tỷ giá đã phát huy được vai trò
to lớn. Đặc biệt là nghiệp vụ thị trường mở đã góp phần điều tiết vốn của các tổ chức
tín dụng, đảm bảo khả năng thanh toán và ổn đinh thị trường tiền tệ. Khi tỷ lệ lạm phát
tăng có thể tăng các phiên giao dịch, doanh số mua bán, ngân hàng nhà nước tăng
lượng phát hành tín phiếu và giấy tờ có giá ngắn hạn nhằm thu lượng tiền dư thừa
trong lưu thông. Lạm phát tăng cũng có thể tăng lãi suất. Nó góp phần thu hút nguồn
vốn, hạn chế cho vay. Từ đó lượng cung ứng tiền tệ sẽ giảm đi tương ứng. Ngân hàng
nhà nước thực hiện kiểm soát lãi suất thông qua việc điều chỉnh lãi suất tái cấp vốn và
lãi suất tái chiết khấu. Tuy nhiên ngân hàng nhà nước sử dụng linh hoạt tiền cung ứng
để đảm bảo thanh khoản trong nền kinh tế. Đồng thời mở rộng quy mô và mức độ hoạt
động của thị trường liên ngân hàng để giữ cho lãi suất huy động và lãi suất cho vay
không có sự biến động lớn. Nhờ đó mà năm 2004- 2005, tỷ giá hối đoái khá ổn định.
Một số hạn chế:
Bên cạnh những thành công đã đạt được, chính sách tỷ giá hối đoái ở Việt Nam còn
tồn tại một số hạn chế cần phải khắc phục.
Đồng VND định giá thực cao làm giảm sức cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam trên thị
trường quốc tế. Vấn đề đặt ra là cần phải xác định giá trị thực của đồng VND và xác
định mức tỷ giá hiện nay. Điều đặc biệt quan trọng hiện nay là cần hoàn chỉnh hơn thị
trường ngoại hối, thị trường liên ngân hàng và cả cơ chế diều chỉnh tỷ giá, quản lý
ngoại hối. Điều này sẽ giúp nước ta linh hoạt hơn trước những biến động của nền kinh
tế nà giúp nân g cao mức dự trữ ngoại hối. Hiện nay, mức dự trữ ngoại hối của Việt
Nam vẫn còn ở mức thấp so với mức tiêu chuẩn của WB. Vì vậy Việt Nam cần có các
biệ pháp để có dự trữ ngoại tệ đủ mạnh để đối phó với những khoản nợ ngắn hạn phải
trả và có thể can thiệp vào cung ứng tiền tệ, giúp giữ ổn định tỷ giá.
III. Một số kiến nghị về chính sách tỷ giá hối đoái ở Việt Nam:
Để tỷ giá hối đoái thực sự linhhoạt và phù hợp với điều kiện thực tế. Tôi xin đưa ra
một số kiến nghị như sau:
1. Xác định mức tỷ giá hiện nay:
Tỷ giá chính thức được công bố hàn ngày trên cơ sở tỷ giá bình quân mua bán thực tế
trên thị trường liên ngân hàng của ngày giao dịch gần nhất trong đó và khống chế tỷ
giá giao dịch trên thị trường chính thức quá hẹp( tức là không vượt quá biên độ +(-)
0,1% so với mức tỷ giá chính thức). Ngân hàng nhà nước còn quy định quá chi tiết về
mức độ biên độ dao động. Phạm vi tỷ giá lệch khỏi ngang giá trung tâm càng lớn, tức
là khung càng rộng thì mức độ tự chủ của chính sách tiền tệ ngân hàng nhà nước trung
ương càng cao. Sự hữu ích của một chính sách tiền tệ tự chủ trong việc giảm thiểu tính
biến động lại tùy thuộc vào các công cụ ổn định khác, chẳng hạn như một chính sách
tài khóa linh hoạt và phụ thuộc vào nguồn gốc của cú sốc đó. Chính ngân hàng nhà
nước phải được chính phủ trao quyền hành rộng rãi hơn để thực thi một chính sách
tiền tệ linh hoạt.
Cơ sở cho nhận định trên là chính sách tài khóa nước ta bị giới hạn nghiêm ngặt, bằng
mọi giá không được vượt quá thâm hụt 3% trên GDP.
Bài học ở các nước khác chỉ ra rằng, trong điều kiện không tự chủ được chính sách tài
khóa thì chỉ còn một biện pháp duy nhất là tăng tính linh hoạt của chính sách tiền tệ
bằng cách mở rộng dải băng tỷ giá lên +(-) 0,3%, lên đến 0,5% và dần dần lên đến 1%.
Điều này cho phép ngân hàng trung ương niêm yết tỷ giá cạnh tranh hơn và đảm bảo
mức độ khách quan của tỷ giá. Chính phủ có thể sử dụng các biện pháp trực tiếp hoặc
gián tiếp tác động vào dải băng bằng việc sử dụng dự trữ quốc gia tác động lên thị
trường ngoại hối hoặc thông qua các chính sách lãi suất, thuế và một số biện pháp
kiểm soát khác.
Bên cạnh đó, biện pháp này phải có cách hạn chế xu thế đẩy tỷ giá lên kích trần biên
độ của ngân hàng trung ương.
Cần giám sát và theo dõi chặt chẽ sau khi nới rộng biên độ tỷ giá nếu thị trường không
sử dụng hết biên độ cho phép. Điều này hàm ý, tỷ giá hiện tại đã phản ánh tương đối
khách quan quan hệ cung cầu trên thị trường ngoại hối. Và đây được coi như là một
thời điểm tốt để nới rộng biên độ cao hơn. Nếu thị trương sử dụng hết biên độ cho
phép ngay lập tức. Điều này hàm ý tỷ giá hiện tại quá thấp so với tỷ giá cân bằng. Và
để rút khoảng cách, ngân hàng nhà nước tiến hành điều chỉnh tăng dần tỷ giá giao
dịch một cách hợp lý mà không xáo trộn.
Ngoài ra, cần xác định ngang giá trung tâm hướng vào tỷ giá thực tế cân bằng dài hạn.
Việc ấn định ngang giá trung tâm nhằm mục tiêu duy trì tính cạnh tranh của hàng hóa
nội địa trên thị trường thế giới. Ngang giá trung tâm nên xác định theo tỷ giá cân bằng
dài hạn để ngăn chặn các dự kiến về tái sắp xếp lại đi kèm với thâm hụt liên tục cán
cân tài khoản vãng lai. Việc điều chỉnh ngang giá không chỉ theo chênh lệch giữa lạm
phát trong nước và lạm phát nước ngoài, mà còn phải chú ý đến những thay đổi
thường xuyên trong các yếu tố cơ bản của nền kinh tế thay đổi.
2/ Nhà nước phải có dự trữ ngoại tệ đủ mạnh:
Đây là một trong những giải pháp quan trọng và rất cần được quan tâm. Tuy nhiên
mỗi giai đoạn nó mang những ý nghĩa khác nhau.
Trước đây, dưới chế độ tỷ giá hối đoái cố định, tỷ giá hối đoái là do ngân hàng trung
ương quy định. Chính vì vậy mà nó tác động đến cung cầu nội tệ hơn là cung cầu
ngoại tệ. Tỷ giá này không phản ánh được cung cầu ngoại tệ thực tế trên thị trường.
Có những lúc ngoại tệ của ta rất mỏng nhưng tỷ giá hối đoái danh nghĩa vẫn không hề
thay đổi. Tuy nhiên, theo cơ chế điều hành tỷ giá mới thì tỷ giá hối đoái sẽ thay đổi
khi có bất kì sự thay đổi nào của cung và cầu ngoại tệ. Để ổn định tỷ giá thì ngân hàng
nhà nước phải can thiệp bằng các công cụ của mình. Nếu cung ngoại tệ lớn hơn cầu
ngoại tệ, ngân hàng nhà nước phải tung VND để mua lượng ngoại tệ dư đó nhằm cân
bằng cung cầu ngoại tệ. Trong trường hợp ngược lại, khi cầu ngoại tệ lớn hơn cung
ngoại tệ. Lúc này, ngân hàng nhà nước cần tung ngoại tệ ra để bán. Dự trữ ngoại tệ đủ
mạnh còn để sẵn sàng đối phó với hiện tượng đầu cơ trên thị trường. Nếu dự trữ ngaọi
tệ của ngân hàng nhà nước không đủ mạnh để can thiệp, thì có thể dẫn đến việc thả
nổi đồng tiền nước mình.
Quan điểm truyền thống về dự trữ ngoại hối pháp định nhấn mạnh vào tầm ảnh hưởng
của tài khoản vãng lai. Theo ngân hàng thế giới (World bank) thì dự trữ ngoại hối cần
phải có đủ mức tài trợ từ 3 đến 6 tháng nhập khẩu. Theo dự báo mới nhất của quỹ tiền
tệ quốc tế (IMF) thì từ 2001 đến 2006 dự trữ ngoại hối của Việt Nam là 3,9 tỷ USD
vào năm 2002, và sẽ lên đến 6,3 tỷ vào năm 2006. Tuy nhiên dự trữ ngoại hối của
nước ta vẫn thấp hơn so với tiêu chuẩn của IMF. Còn theo những nghiên cứu của
Greenspan và Guiotti ( 1999) thì dự trữ ngoại hối ít nhất phải bằng dòng vốn nước
ngoài đến hạn có khả năng chảy ra nước ngoài trong vòng một năm.
Dự trữ quốc gia phải tính cho việc trả các khoản nợ nứơc ngoài đến hạn không thể
thương lượng được mà còn phải đủ để trang trải các khoản hở trong cán cân thanh
toán do thâm hụt tài khoản vãng lai. Theo Busierre và Mulder cho thấy mức dự trữ
tương đương với nợ ngắn hạn vận hành tốt trong việc hạn chế khủng hoảng nếu thặng
dư trong tài khoản vãng lai khoảng 2% GDP. Nếu tài khoản vãng lai chỉ ở mức cân
bằng, để chống đỡ khủng hoảng thì mức dự trữ ngoại tệ phải cao gấp đôi nợ ngắn hạn.
Còn nếu quốc gia thâm hụt tài khoản vãng lai, thì dự trữ quốc gia phải rất cao, ở mức
cấp số nhân. Cán cân tài khoản vãng lai của Việt Nam thâm hụt khoảng từ 1% đến
3%, như vậy đòi hỏi dự trữ pháp định phải rất cao. Dự trữ của nước ta đến năm 2006
chỉ đủ cho 2,5 tháng nhập khẩu, vẫn thâp hơn so với mức dự trữ ngoại hối mà WB đưa
ra.
Muốn có được nguồn dự trữ ngoại tệ dồi dào thì ngân hàng nhà nước phải sử dụng các
công cụ dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ hoặc khuyến khích bán ngoại tệ lấy VND để gửi
tiết kiệm với mức lãi xuất cao hơn nếu mức chênh lệch lãi xuất VND và ngoại tệ đủ bù
đắp mức lạm phát.
Nhà nước ta cần quản lý chặt chẽ các khoản vay nợ nước ngoài đặc biệt là các khoản
vay ngắn hạn. Cần phải kiểm soát chặt chẽ việc bảo lãnh vay trả chậm của ngân hàng
trung ương cho các doanh nghiệp vay vốn từ nứơc ngoài. Tổ chức hữu hiệu mạng lưới
thu đổi ngoại tệ cho các khách hàng ra vào Việt Nam như ở sân bay, bến cảng, cửa
khẩu, nhà ga, …Ngoài ra, để đảm bảo cho VND thực hiện tốt chức năng của mình cần
tạo thêm nhiều phương tiện chuyển tải làm phương tiện lưu thông và thanh toán để
giảm bớt áp lực nhu cầu tiền mặt trong lưu thông. Đồng thời cần cải cách hệ thống
thanh toán, khuyến khích mở tài khoản các nhân và thanh toán qua hệ thống ngân
hàng.
Tăng cường sự hợp tác tài chính tiền tệ trên thế giới bằng cách hướng kết các thỏa
thuận hoán đổi tiền tệ với ngân hàng trung ương. Tức là thị trường ngoại tệ liên ngân
hàng phải thông suốt và hoạt động liên tục, không bị giới hạn về thời gian và không
gian để giải quyết nhanh chóng nhu cầu thanh toán ngoại tệ. Đồng thời khuyến khích
các công ty xuất nhập khẩu đa dạng hóa cơ cấu tiền tệ trong thương mại quốc tế để
cân bằng cung cầu ngoại tệ.
3. Xử lý mối quan hệ giữa lãi suất và tỷ giá:
Trên thị trường tiền tệ, tỷ giá và lãi suất có mối quan hệ vô cùng chặt chẽ. Hành vi
mua, bán ngoại tệ có liên quan đến tỷ giá, các hoạt động gửi rút ngoại tệ có liên quan
đến lãi suất. Hai loại hành vi này luôn có quan hệ với nhau và nó tạo ra dòng chuyển
đổi giữa VND và USD. Vì vậy quan tâm đến tỷ giá thì không thể không quan tâm đến
lãi suất và ngược lại. Để xử lý mối quan hệ giữa lãi suất và tỷ giá cần xây dựng cơ chế
thông tin, thống kê, hệ thống hóa kịp thời các số liệu về luồng ngoại tệ ra vào trong
nước. Để từ đó có những dự báo về quan hệ cung cầu trên thị trường làm căn cứ điều
hành chính sách tỷ giá và quản lý ngoại hối.
VND là một trong những đồng tiền có mệnh giá thấp trên thế giới, vì vậy ta cần từng
bước tăng mệnh giá VND. Để làm được điều trên cần tiếp tục khép dần chênh lệch
giữa lãi suất đi vay và lãi suất cho vay đồng nội tệ và lãi suất đồng ngoại tệ có sức hấp
dẫn để thu hút vốn của nước ta hiện nay. Theo đó, khi tỷ giá tăng lên, ngân hàng trung
ương có thể tăng lãi suất. Như vậy nhà nước có thể ngăn chặn xu hướng tăng lên của
tỷ giá mà không cần tốn lượng dự trữ ngoại tệ của mình.
4. Nhà nước cần hoàn thiện công tác quản lý ngoại hối, cơ chế điều chỉnh tỷ giá
hối đoái và hoàn chỉnh thị trường:
Nếu như dự trữ ngoại tệ được quản lý tốt thì sẽ làm tăng tích lũy ngoại tệ. Như
ta đã biết, với bất kỳ một quốc gia nào thì một lượng dự trữ ngoại tệ đủ lớn là cần thiết
để đối phó với những biến cố của nền kinh tế. Vì vậy cần tiết kiệm chi ngoại tệ, chỉ
nhập khẩu những hàng hóa thiết yếu và những thiết bị, nguyên liệu đầu vào cần thiết
cho quá trình sản xuất. Đồng thời cần nới lỏng việc quản lý ngoại hối, sử dụng linh
hoạt và hiệu quả các công cụ quản lý tỷ giá .
Cần hoàn thiện thị trường ngoại hối để tạo điều kiện cho việc thực hiện chính
sách ngoại hối có hiệu quả. Việc này có thể thực hiện bằng cách mở rộng thị trường để
các doanh nghiệp, các định chế tài chính phi ngân hàng tham gia thị trường, đặc biệt là
thị trường hoàn chuyển để các đối tượng kinh doanh có liên quan đến ngoại tệ tự bảo
vệ mình.
Còn về thị trường liên ngân hàng. Việc hoàn thiện thị trường này là cần thiết để qua đó
Nhà nước có thể nắm được mối quan hệ cung cầu về ngoại tệ và Nhà nước có thể có
các biện pháp can thiệp khi cần thiết. Trước mắt nên có những biện pháp thúc đẩy các
ngân hàng kinh doanh ngoại tệ tham gia vào thị trường nội tệ liên ngân hàng với đầy
đủ các nghiệp vụ của nó. Từ đó tạo điều kiện cho Ngân hàng nhà nước phối hợp, điều
hòa giữa kai khu vực thị trường ngoại tệ và thị trường nội tệ một cách thông thoáng.
Để đảm bảo tỷ giá phản ánh đúng quan hệ cung cầu trên thị trường. Ngân hàng
nhà nước cần từng bước loại bỏ viẹc quy định khung giá với biên độ quá chặt đối với
các giao dịch của ngân hàng thương mại và các giao dịch quốc tế. Mà ngân hàng nhà
nước chỉ điều chỉnh tỷ giá trên các phiên giao dịch ngoại tệ liên ngân hàng góp phần
kích thích thị trường và tránh việc nắm giữ USD.
5. Đa dạng hóa đồng tiền chủ đạo:
Dự trữ ngoại tệ chính thức của Việt Nam nên được đa dạng hóa bởi các đồng tiền ổn
định, có giá trị như USD, JPI, ERD … và một số đồng tiền trong khu vực. Các đồng
tiền này sẽ tham gia vào rổ ngoại tệ. Chính vì vậy khi trong rổ ngoại tệ này có đồng
tiền tăng giá, đồng tiền giảm giá thì đồng VND vẫn tương đối ổn định.
Vì hiện nay chế độ tỷ giá của nước ta gắn với USD là chủ yếu. Khi tỷ giá tăng lên dẫn
đến USD tăng lên, VND giảm xuống và ngược lại. Với việc đa dạng óa đồng tiền chủ
đạo thì đồng VND sẽ tương đối ổn định.
Ví dụ như trong trường hợp, tỷ giá VND và USD vượt quá biên độ 7%, tỷ giá VND và
JPI thấp hơn 7% thỉ ngân hàng nhà nước vẫn không phải can thiệp vào tỷ giá VND và
USD.
C/ Kết luận:
Tỷ giá là quan hệ so sánh về mặt giá cả giữa hai đồng tiền của các quốc gia khác
nhau. Tỷ giá có tác động đến hoạt động kinh tế xã hội trong và ngoài nước của các
quốc gia. Nó là một phương tiện quan trọng trong hoạt động thương mại và đầu tư
quốc tế. Vì vậy đối với bất kì quốc gia nào thì tỷ giá đều giữ một vai trò vô cùng quan
trọng. Việc hoạch định chính sách tỷ giá nhằm vào hai mục tiêu là cân bằng nội và cân
bằng ngoại, tức là đảm bảo tăng trưởng kinh tế và ổn định tiền tệ. Sự lựa chọn tỷ giá
nào để phù hợp với nền kinh tế và cách thức điều chỉnh tỷ giá như thế nào khi sự mất
cân bằng xảy ra luôn là sự quan tâm của các nước. Việt Nam đã lựa chọn chế độ tỷ giá
hối đoái cố định vào trước những năm 1990, và sau đó đã từng bước điều chỉnh tỷ giá
hối đoái theo chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi có sự quản lý của nhà nước. Chính sách tỷ
giá ở Việt Nam ngày càng được hoàn thiện sao cho phù hợp với nền kinh tế. Chính
sách tỷ giá đã đem lại những kết quả đáng kể, tuy nhiên vẫn còn gặp phải một số hạn
chế nhất định. Chính vì vậy, việc điều chỉnh, hoàn thiện chính sách tỷ giá hối đoái là
cần thiết và quan trọng, đặc biệt là trong thời gian tới Việt Nam sẽ gia nhập WTO.
Chế độ tỷ giá cần linh hoạt để có thể phản ứng lại những cú sốc của nền kinh tế, ổn
định giá cả, cân bằng vĩ mô, từ đó góp phần duy trì và nâng cao sức cạnh tranh của
hàng hóa Việt Nam trên trường quốc tế. Việc hoàn thiện tỷ gía hối đoái đòi hỏi các
chuyên gia, các nhà lãnh đạo luôn khai thác những mặt lợi ích của lĩnh vực này, dần
dần diều chỉnh chính sách tỷ giá phù hợp với tương quan giữa nền kinh tế trên quốc
gia và nền kinh tế trên thế giới.
Danh sách tài liệu tham khảo
1. PGS.TS. Đỗ Đức Bình; TS. Nguyễn Thường Lạng. Giáo trình kinh tế quốc tế.
Nhà xuất bản lao động và xã hội 2004.
2. GS. TS. Nguyễn Hữu Tài. Giáo trình lý thuyết tài chính tiền tệ.
3. TS. Tô Chính Thắng. Đồng tiền ổn định, tỷ giá hối đoái. NXB 2002
4. Trương Văn Phước - Vụ trưởng vụ quản lý ngoại hối. Điều hành tỷ giá thận
trọng, linh hoạt và phù hợp với điều kiện thực tế. Tạp chí ngân hàng số1 năm 2005
5. TS. Lê Khoa. Chính sách tiền tệ năm 2004, dự báo năm 2005. Tạp chí ngân
hàng số1 năm 2005.
6. TS. Nguyễn Đắc Hưng. Một số suy nghĩ về điều hành chính sách tiền tệ và hoạt
động ngân hàng năm 2004, dự báo năm 2005. Tạp chí ngân hàng số1 năm 2005
7. Nguyễn Đắc Hưng. Một năm thành công về chính sách tiền tệ. Kinh tế 2004 –
2005. Thời báo kinh tế Việt Nam.
8. Nguyễn Đức Hoàn. Diễn biến tiền tệ - ngoại hối năm 2004. Kinh tế 2004 –
2005. Thời báo kinh tế Việt Nam.
9. Tạp chí ngân hàng số2, số 3 năm 2005.
C ác trang web:
www.vneconomy.com.vn
www.mof.gov.vn
www.vnexpress.net
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 319_949.pdf