Đổi mới, sắp xếp và phát triển Doanh nghiệp nhà nước là yêu cầu tất yếu
và cần thiết. Thấy được vấn đề đó, Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương triển
khai thực hiện trong gần 20 năm. Mặc dù có những thăng trầm nhưng cũng đã
đem lại những kết quả đáng ghi nhận. Việc sắp xếp Doanh nghiệp nhà nước
được thực hiện bằng các giải pháp sáp nhập, hợp nhất, cổ phần hoá, giao,
khoán, bán, cho thuê doanh nghiệp, tổ chức lại các Tổng công ty và thành lập
Tập đoàn kinh tế. Trong tất cả những giải pháp này cổ phần hoá được xem là
giải pháp cơ bản và quan trọng nhất để cơ cấu lại Doanh nghiệp nhà nước.
37 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2315 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Cơ sở lí luận về việc cổ phân hoá một bộ phận doanh nghiệp nhà nước ở nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ì nó giải quyết được căn nguyên của những yếu kém trong tổ chức
quản lý và hoạt động của Doanh nghiệp nhà nước – đó là vấn đề sở hữu.
Những giải pháp cải cách Doanh nghiệp nhà nước khác chỉ động chạm đến cơ
chế quản lý theo hướng tăng cường quyền tự chủ của của Doanh nghiệp nhà
nước trong một hoặc một số lĩnh vực cụ thể. Cổ phần hoá doanh nghiệp chấp
nhận sự dung hoà của nhiều thành phần kinh tế khác nhau trong bản thân các
thực thể kinh tế vĩ mô mà trước hết là trong các doanh nghiệp. Cổ phần hoá
Doanh nghiệp nhà nước là giải pháp làm thay đổi kết cấu sở hữu của chúng,
điều mà trước đổi mới ít ai dám nghĩ đến chứ chưa nói là triển khai nó.
2. Đối tượng của cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước ở nước ta.
Cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước là biện pháp cải cách Doanh
nghiệp nhà nước tối ưu của nước ta. Tuy nhiên, không phải tất cả các doanh
§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
SV: Hoµng ThÞ Trang
nghiệp đều có thể đổi mới bằng phương thức này. Có những doanh nghiệp mà
Nhà nước cần duy trì 100% vốn Nhà nước. Đó là khu vực kinh tế quốc doanh
đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế trên các lĩnh vực sau:
- Các doanh nghiệp hoạt động nhằm phục vụ cho công tác an ninh và
quốc phòng : sản xuất vũ khí, đạn dược, sản xuất thuốc nổ, sản xuất phương
tiện phát sóng, truyền tin…
- Các doanh nghiệp đóng vai trò then chốt của nền kinh tế quốc dân,
bao gồm các doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực : năng lượng, dầu
khí, khai thác vàng và đá quý, xây dựng sân bay, bến cảng, đường sắt…
- Các doanh nghiệp thuộc hạ tầng cơ sở như : giao thông, bưu chính,
viễn thông, điện, thuỷ nông…
- Các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực thường bị thua lỗ, lãi ít
hoặc gặp rất nhiều khó khăn.
Theo nguyên tác hạch toán thương mại thì các thành phần kinh tế tập
thể, tư nhân không đầu tư vào các lĩnh vực như : vận tải đường sắt, vận tải
hàng hoá lên miền núi, ra biên giới, hải đảo, đến vùng kinh tế mới, sản xuất
phương tiện cho người tàn tật, đồ chơi cho trẻ em…
Để khắc phục nhược điểm đó của cơ chế thị trường, Nhà nước phải tổ
chức các Doanh nghiệp nhà nước để duy trì và phát triển các hoạt động này.
Có thể làm việc đó nhờ vào việc tài trợ của Ngân sách Nhà nước cho các
doanh nghiệp thua lỗ. Trong trường hợp này, sự tài trợ cho doanh nghiệp là
cần thiết, nên không thể coi đó là bao cấp.
Tóm lại, trong nền kinh tế thị trường, không chỉ ở Việt Nam mà dù ở bất
kỳ nước nào, sự tồn tại của Doanh nghiệp nhà nước là một tất yếu khách
quan.
Như vậy, không phải tất cả các Doanh nghiệp nhà nước cần phải đổi mới
bằng giải pháp cổ phần hoá, mà chỉ có một bộ phận doanh nghiệp. Bộ phận
doanh nghiệp ấy là gì? Căn cứ vào tình hình thực tế ở Việt Nam, Doanh
nghiệp nhà nước được chọn lựa cổ phần hoá phải có đủ ba điều kiện sau đây:
§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
SV: Hoµng ThÞ Trang
- Là những doanh nghiệp vừa và nhỏ
- Không thuộc diện những doanh nghiệp cần thiết giữ 100% vốn đầu
tư Nhà nước.
- Có phương án kinh doanh hiệu quả.
Ngoài ra, đối với các doanh nghiệp lớn (Tổng công ty Nhà nước) cũng
có thể thực hiện cổ phần hoá theo phương thức phát hành cổ phiếu theo quy
định nhằm thu hút thêm vốn để phát triển sản xuất trong khi vẫn giữ nguyên
giá trị tài sản hiện có của doanh nghiệp. Theo tinh thần nghị quyết 28/CP các
doanh nghiệp vừa và nhỏ là những doanh nghiệp có tổng số vốn từ 300 tỷ
đồng trở xuống và có số lao động dưới 1000 người, không kể số lao động làm
hợp đồng theo thời vụ. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ không chỉ dễ xác định
giá trị tài sản hơn các doanh nghiệp có quy mô lớn mà còn phù hợp với sức
mua của cán bộ công nhân viên tại nhiệm sở và trong ngành.
3. Mục tiêu cổ phần hoá một bộ phận Doanh nghiệp nhà nước
Đại hội Đảng lần thứ VIII (1986) đã khẳng định “Triển khai tích cực và
vững chắc việc cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước để huy động vốn, tạo
thêm động lực thúc đẩy doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả làm cho tài sản Nhà
nước ngày càng tăng lên chứ không phải tư nhân hoá”
Nghị định 44/1998/NĐ-CP ngày 29/6/1998 của Chính Phủ về việc
chuyển một số Doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần đã nêu rõ:
chuyển Doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần nhằm các mục tiêu:
- Huy động vốn của toàn xã hội, bao gồm cá nhân, các tổ chức kinh
tế, tổ chức xã hội trong nước và nước ngoài để đầu tư đổi mới công nghệ tạo
thêm việc làm, phát triển doanh nghiệp, nâng cao sức cạnh tranh, thay đổi cơ
cấu Doanh nghiệp nhà nước.
- Tạo điều kiện để người lao động trong doanh nghiệp có cổ phần và
những người đã góp vốn được làm chủ thực sự; thay đổi phương thức quản lý
tạo động lực thúc đẩy doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả, tăng cường phát
§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
SV: Hoµng ThÞ Trang
triển đất nước, nâng cao thu nhập của người lao động, góp phần tăng trưởng
kinh tế của đất nước.
Qua những văn bản cơ bản đó có thể khẳng định các mục tiêu của cổ
phần hoá đã được xác định một cách rõ ràng và nhất quán. Song phải chăng
huy động vốn để phát triển doanh nghiệp là mục tiêu hàng đầu, nâng cao vai
trò làm chủ thực sự, tạo động lực thúc đẩy kinh doanh có hiệu quả là mục tiêu
hàng thứ, hay hai mục tiêu ở vị trí ngang nhau.
Huy động vốn và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn là một trong
những điều kiện quan trọng hàng đầu để thúc đẩy nhanh công cuộc công
nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước, đó cũng là điều kiện tối quan trọng để
nâng cao khả năng cạnh tranh, mở rộng sản xuất kinh doanh của các doanh
nghiệp. Hiện nay vốn kinh doanh là một trong những vấn đề nan giải của các
doanh nghiệp. Để huy động vốn, doanh nghiệp phải đảm bảo nhiều điều kiện,
trong đó khả năng kinh doanh có hiệu quả được coi là diều kiện tiên quyết.
Đặt việc huy động vốn cho phát triển doanh nghiệp như một mục tiêu hàng
đầu sẽ gây cảm nhận việc cổ phần hoá xuất phát từ yêu cầu giải quyết khó
khăn của Nhà nước trong việc đảm bảo vốn doanh nghiệp. Điều đó đến lượt
mình, có thể gây trở ngại cho việc thực hiện chính mục tiêu ấy, người lao
động không thấy được động lực kinh tế trực tiếp trong việc góp vốn của mình.
Trong cơ chế thị trường, để thúc đẩy nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp nằm ở sự gắn bó mật thiết giữa quyền sở hữu với quyền
quản lý và sử dụng tài sản của doanh nghiệp, xác định rõ người chủ đích thực
của các tài sản đó. Việc huy động thêm vốn từ cổ phần hoá là điều kiện xác
lập người chủ một bộ phận tài sản của doanh nghiệp, người chủ ấy cùng với
người đại diện Nhà nước ở doanh nghiệp quản lý điều hành hoạt động kinh
doanh một cách có hiệu quả nhất. Hơn nữa, việc huy động thêm vốn chỉ là
phương tiện thiết yếu để đạt tới mục tiêu nâng cao hiệu quả kinh tế mà thôi.
Nếu không được quản lý sử dụng tốt số vốn được huy động đó cũng không
thể mang lại hiệu quả mong đợi.
§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
SV: Hoµng ThÞ Trang
Theo những lập luận trên, mục tiêu hàng đầu có là thúc đẩy nâng cao
hiệu quả sản xuất kinh doanh trên cơ sở đảm bảo vai trò làm chủ thực sự của
những người sở hữu tài sản. Huy động thêm vốn bằng cổ phần và phát hành
cổ phần là điều kiện cần thiết để tạo thành những người chủ đích thực của
doanh nghiệp phụ thuộc chủ yếu vào sử dụng vốn hiện có và huy động vốn
thêm.
Cổ phần hoá một bộ phận Doanh nghiệp nhà nước chỉ là một chủ trương
lớn của Đảng va Nhà nước. Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành
Trung ương khoá VII đã nêu rõ: “Chuyển một số doanh nghiệp quốc doanh có
điều kiện thành công ty cổ phần và thành lập một số công ty quốc doanh cổ
phần mới”.
Nghị quyết 10-NQ/TW ngày 17/3/1995 của Bộ chính trị đã nêu “thực
hiện từng bước vững chắc việc cổ phần hoá một bộ phần doanh nghiệp không
cần Nhà nước đầu tư 100% vốn. Tuỳ tính chất, loại hình doanh nghiệp mà
tiến hành bán một tỉ lệ cổ phần cho công nhân viên chức làm việc tại doanh
nghiệp để tạo động lực bên trong trực tiếp thúc đẩy phát triển và bán cổ phần
cho tổ chức hay cá nhân ngoài quốc doanh để thu hút vốn, mở rộng quy mô
kinh doanh”. Như vậy, Nghị quyết của Đảng chỉ ra mục tiêu, đồng thời cũng
nêu khái quát hình thức, mức độ cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước.
4. Tiền đề để cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước.
- Điều kiện và môi trường pháp lý về cơ bản đã được xác lập đặt tất
cả các doanh nghiệp hoạt động theo cơ chế thị trường. Việc thực hiện “thương
mại hoá” các hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong nền
kinh tế là tiền đề cơ bản và cần thiết để từng bước thực hiện cổ phần hoá các
Doanh nghiệp nhà nước.
- Chính Phủ đã nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề cổ phần
hoá các Doanh nghiệp nhà nước và quyết tâm thực hiện. Điều này thể hiện ở
việc ban hành các văn bản luật và dưới luật nhăm thực hiện chương trình cổ
phần hoá Doanh nghiệp nhà nước như luật công ty, quyết định 315 và 330 về
§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
SV: Hoµng ThÞ Trang
sắp xếp lại sản xuất trong khu vực kinh tế Nhà nước. Chỉ thị 84-TTg của Thủ
tướng Chính phủ về thí điểm cổ phần hoá một số Doanh nghiệp nhà nước…
Ngoài ra còn có các quyết định, thông tư của các Bộ và các liên Bộ để cụ thể
hoá việc thực hiện vấn đề này. Điều này góp phần xác định rõ quan điểm và
phương hướng chỉ đạo thống nhất ở mọi cấp, mọi ngành cho đến từng doanh
nghiệp triển khai thực hiện.
- Tình hình kinh tế đất nước đã có nhiều biến đổi theo hướng tích
cực: giá cả thị trường đã được duy trì tương đối ổn định, mức lạm phát đã
được kiềm chế, đồng tiền Việt Nam đã giữ được giá, lãi suất đã ở mức khuyến
khích các hoạt động đầu tư sản xuất kinh doanh… Điều này đã tạo điều kiện
thuận lợi về tâm lý cho mọi người muốn đầu tư thông qua hình thức mua cổ
phiếu trong các Doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hoá.
- Nhờ những đổi mới trong chính sách phát triển kinh tế nhiều thành
phần của Nhà nước mấy năm qua, thu nhập của dân cư được nâng cao. Số
người khá giả ở thành thị và nông thôn ngày càng nhiều. Đây là lượng cầu
tiềm năng có thể đáp ứng cho các chứng khoán phát hành ở những doanh
nghiệp được cổ phần hoá.
- Hoạt động trong cơ chế thị trường mới được hai chục năm nhưng đã
xuất hiện đội ngũ các nhà quản lý doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh lớn;
người lao động trong các doanh nghiệp đã thích ứng được về ý thức, tác
phong và hiệu quả của công việc trong điều kiện cạnh tranh về năng suất, chất
lượng và hiệu quả. Điều này sẽ làm cho người đầu tư yên tâm bỏ vốn, góp
phần thuận lợi cho việc thực hiện cổ phần hoá các Doanh nghiệp nhà nước.
- Với luật đầu tư nước ngoài cà sự xuất hiện của nhiều nhánh ngân
hàng kinh doanh của nước ngoài tại Việt Nam góp phần tạo môi trường và
điều kiện thuận lợi để các nhà đầu tư bằng cổ phiếu vào các Doanh nghiệp
nhà nước sẽ được tiến hành cổ phần hoá.
- Ngoài ra với những kinh nghiệm thực tiễn phong phú của các nước
trên thế giới trong quá trình cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước sẽ là những
§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
SV: Hoµng ThÞ Trang
bài học bổ ích và quý giá để Nhà nước tiến hành hoạch định chính sách và tổ
chức thực hiện công việc cổ phần hoá các Doanh nghiệp nhà nước ở Việt
Nam.
- Ngoài ra, ngày nay chúng ta còn có những điều kiện thuận lợi để
đẩy mạnh cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước. Đó là những khó khăn gặp
phải trong thời gian đầu thực hiện thí điểm cổ phần hoá đã dần được khắc
phục, có thể kể đến như chúng ta đã có một thị trường chứng khoán thực sự,
tuy chưa phát triển sôi động như các nước phát triển và khu vực, nhưng đó
cũng là môi trường để thực hiện cổ phần hoá. Các Doanh nghiệp nhà nước
hiện nay hầu hết đều trang bị máy móc, công nghệ hiện đại, khả năng cạnh
tranh cao… do đó có thể tiến hành cổ phần hoá các doanh nghiệp này. Bên
cạnh đó tình hình chính trị quốc gia ổn định tạo niềm tin thu hút các nhà đầu
tư nước ngoài…
Với những tiền đề như thế thì quá trình cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà
nước của chúng ta đã diễn ra như thế nào? Chúng ta đã làm được những gì và
còn hạn chế gì? Để từ đó có biện pháp thích hợp thúc đẩy nhanh hơn nữa quá
trình cổ phần hoá.
§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
SV: Hoµng ThÞ Trang
II. Thực trạng cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam.
1. Quá trình cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước ở nước ta.
Từ đầu thập kỷ 90, cùng với đổi mới các chính sách kinh tế - xã hội,
Đảng ta đã có chủ trương chuyển một bộ phận Doanh nghiệp nhà nước thành
công ty cổ phần. Khởi đầu là Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai của Ban chấp
hành TW khoá VII tháng 11/1991. Nghị quyết này đã chỉ ra : “chuyển một số
doanh nghiệp quốc doanh có điều kiện thành công ty cổ phần và thành lập
một số công ty cổ phần mới, phải làm thí điểm, chỉ đạo chặt chẽ, rút kinh
nghiệm chu đáo trước khi mở rộng phạm vi thích hợp”. Trải qua 15 năm thực
hiện đến hết năm 2005, chúng ta đã thành lập được 2987 công ty cổ phần trên
cơ sở cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước và bộ phần Doanh nghiệp nhà
nước. Kết quả thực hiện qua từng năm như sau:
Năm Số Doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hoá
1990-1992
1993
1994
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
2003
2004
2005
Không
02
01
03
05
07
100
250
212
204
164
532
753
754
Tổng 2987
Qua những con số trên thấy rõ tiến trình cổ phần hoá đã trải qua những
bước thăng trầm, nhưng nói chúng là theo xu hướng mỗi ngày càng được đẩy
§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
SV: Hoµng ThÞ Trang
mạnh. Từ chỗ thực hiện chậm chạp trong những năm đầu (mỗi năm vài ba
doanh nghiệp đến vài trăm) và cho đến ba năm gần đây tiến trình cổ phần hoá
được đẩy mạnh hơn, do đó số lượng doanh nghiệp được cổ phần hoá tương
đối nhiều.
Theo báo cáo của Ban chỉ đạo đổi mới và phát triển doanh nghiệp, hình
thức cổ phần hoá phổ biến nhất là bán một phần vốn nhà nước có tại doanh
nghiệp kết hợp phát hành thêm cổ phiếu (chiếm 43,4%) tiếp đó là bán một
phần vốn Nhà nước hiện có tại doanh nghiệp (26%) còn lại là bán toàn bộ vốn
Nhà nước tại doanh nghiệp (15,5%) và giữ nguyên vốn Nhà nước và phát
hành thêm cổ phiếu (15,1%). Trong số các doanh nghiệp đã cổ phần hoá,
ngành công nghiệp giao thông vận tải và xây dựng chiếm tỷ trọng 65,5%,
thương mại dịch vụ chiếm 28,7% và ngành nông - lâm - ngư ngiệp chiếm
5,8%. Nếu phân chia theo địa phương thì tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương chiếm 65,7%, bộ ngành TW chiếm 25,8%, tổng công ty 91 chiếm 8,5%.
Năm 2005 đã xuất hiện một điểm sáng mới cần được nhấn mạnh là trong
số doanh nghiệp cổ phần hoá đã có nhiều doanh nghiệp làm ăn khá, quy mô
lớn, hấp dẫn các nhà đầu tư. Có thể kể đến các công ty như: Công ty khoan và
dịch vụ dầu khí, các nhà máy thuỷ điện sông Hinh (Vĩnh Sơn), Thác Bà, Phả
Lại, Điện lực Khánh Hoà, công ty giấy Phương Mai, công ty vận tải xăng dầu
đường thuỷ I, Vinamilk, công ty Kinh Đô. Giá trị của Vinamilk lên tới 2500
tỷ đồng. Nhà máy thuỷ điện sông Hinh có giá trị 2114 tỷ đồng trong đó vốn
Nhà nước là 1253 tỷ đồng. Một điểm khác biệt nữa, đó là việc xác định giá trị
cổ phần được thực hiện thông qua đấu giá công khai trên thị trường. Ngay
trong ngày đầu tiên bán đấu giá Vinamilk, bán hết hơn 166 triiêụ cổ phiếu với
giá trung bình cao gấp 4,89 lần mệnh giá. tính minh bạch và công khai đấu giá
cổ phiếu của công ty sữa Việt Nam đã thu hút các nhà đầu tư chiến lược,
trong đó có các nhà đầu tư nước ngoài. Đáng chú ý là các nhà mới chiếm tỷ lệ
thắng thầu tới 78,4% trên tổng số cổ phần bán ra, các quỹ đầu tư nước ngoài
hoạt động ở Việt Nam chỉ chiếm 21,6% và số vốn thu hút được từ các tổ chức
§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
SV: Hoµng ThÞ Trang
đầu tư mới lên tới 450 tỷ đồng. Sau ba năm chuẩn bị, Vinamilk đã hoàn toàn
chuyển đổi từ một Doanh nghiệp nhà nước lớn thành tổng công ty cổ phần đại
chúng.
Sau 15 năm cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước, có thể nhận thấy các
chuyển biến sau:
Thứ nhất, sự chuyển hướng từ cổ phần hoá các Doanh nghiệp nhà nước
trong một số lĩnh vực sang cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước ở hầu hết
ngành, lĩnh vực, trong cả kinh tế, dịch vụ và văn hoá, kể cả ngân hàng thương
mại, chỉ trừ loại Doanh nghiệp nhà nước trong lĩnh vực dầu khí và an ninh
quốc phòng. Thành phố Hồ Chí Minh còn kiến nghị Chính Phủ cho phép cổ
phần hoá một số bệnh viện công.
Thứ hai, chuyển biến từ việc chỉ cổ phần hoá các Doanh nghiệp nhà
nước quy mô nhỏ về vốn và lao động làm ăn thua lỗ, nay sang cả những
doanh nghiệp lam ăn có lãi với quy mô lớn trong các ngành trọng yếu của nền
kinh tế (như điện lực, xi măng, viễn thông, hàng không) với kết quả hoạt động
sau ngày một tiến bộ. Tiến hành cổ phần hoá không chỉ được thực hiện đối
với từng doanh nghiệp thành viên mà còn triển khai đối với toàn tổng công ty.
Đến nay đã có Nghị quyết phê duyệt cổ phần hoá 5 tổng công ty, trong đó có
các Tổng công ty thương mại - Xây dựng, Điện tử - Tin học, Vinaconex và
Bảo Việt.
Thứ ba, việc cổ phần hoá không chỉ nhằm thu hút vốn của các nhà đầu
tư, của những người trong doanh nghiệp mà còn thu hút vốn của những người
nông dân cung cấp nguyên liệu cho sản xuất công nghiệp, chuyển họ thành
những cổ đông, gắn bó họ với sự phát triển của doanh nghiệp.Công ty mía
đường lam Sơn và công ty mía đường La Ngã đã thực hiện cổ phần hoá theo
hướng đó. ở Tổng công ty mía đường Lam Sơn, Nhà nước giữ 46%, nông dân
trong mía và cổ đông ngoài doanh nghiệp mua 26% (trong đó có 40.000 cổ
phần ưu đãi cho người trồng mía), người lao động trong doanh nghiệp mua
24% cổ phần. ở Tổng công ty mí đường La Ngã Nhà nước giữ 35%, nông dân
§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
SV: Hoµng ThÞ Trang
tròng mía và cổ đông ngoài doanh nghiệp mua 25% (trong đó có 15.000 cổ
phần ưu đãi cho người trồng mía), người lao động trong doanh nghiệp 40% cổ
phần. Sau 5 năm cổ phần hoá (từ năm 2000 đến năm 2005) nộp ngân sách
tăng từ 10 tỷ lên 38 tỷ đồng và lợi nhuận đạt tới 77,5 tỷ đồng và cổ tức là
20%/năm.
Thứ tư, là việc chuyển từ cổ phần hoá thưo hướng cơ bản khép kín, nội
bộ sang hình thức đấu giá công khai, bán cổ phần ra bên ngoài để thu hút nhà
đầu tư trong và ngoài nước. Đây được coi là sự chuyển biến “có chất” nhất
thể hiện sự thay đổi căn bản quan điểm và chủ trương về cổ phần hoá, góp
phần tạo ra sức bật mạnh mẽ để đẩy nhanh, mạnh tiến trình cải cách hệ thống
Doanh nghiệp nhà nước một cách công khai, minh bạch và tạo điều kiện cho
các thành phần kinh tế trong và ngoài nước cùng tham gia. Trong đợt đấu giá
cổ phiếu đầu tiên của công ty sữa Việt Nam đã thu hút được các nhà đầu tư
chiến lược nước ngoài và họ đã mua tới gần 80% tổng số cổ phần bán ra.
Thứ năm, cổ phần hoá là một xu hướng tất yếu, là giải pháp mang tính
đột phá nhằm chuyển đổi Doanh nghiệp nhà nước đơn sở hữu sang đa sở hữu.
Các doanh nghiệp quân đội cũng không nằm ngoài xu hướng đó. Khi triển
khai thực hiện cổ phần hoá các doanh nghiệp đã gặp rất nhiều khó khăn bởi vì
các doanh nghiệp quân đội vốn chưa thích nghi hoàn toàn với cơ chế thị
trường, bản thân người lao động cũng chưa sẵn sàng cho việc này, nhưng tính
đến thời điểm này, đã có 16 doanh nghiệp quân đội triển khai thực hiện cổ
phần hoá, trong đó có 9 công ty, xí nghiệp phụ thuộc hoàn thành xong (đạt
56% kế hoạch).
2. Tình hình hoạt động của các doanh nghiệp sau cổ phần hoá.
Sau 15 năm thực hiện chủ trương cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước,
cho đến nay đã có gần 3000 doanh nghiệp được cổ phần hoá. Nhìn chung các
doanh nghiệp cổ phần hoá đều phát triển ổn định và hoạt động có hiệu quả
hơn. Tuy nhiên thực tiễn cũng chỉ ra nhiều trở ngại gây khó khăn cho các
doanh nghiệp sau cổ phần hoá. Việc nhận dạng đúng thực trạng và tìm biện
§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
SV: Hoµng ThÞ Trang
pháp tháo gỡ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp sau cổ phần hoá phát triển
tốt hơn đang là vấn đề bức xúc hịên nay.
Cổ phần hoá các Doanh nghiệp nhà nước đã nâng cao rõ rệt hiệu quả sản
xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trên tất cả các chỉ tiêu chủ yếu: về vốn,
doanh thu, lợi nhuận, nộp ngân sách, số lượng lao động, cổ tức. Kết quả của
các cuộc điều tra cho thấy:
Thứ nhất, ngay trong năm đầu tiên cổ phần hoá, doanh thu bình quân
của doanh nghiệp tăng 13%, lợi nhuận sau thuế tăng 48,8%... và cho đến nay
có tới 92,5% số doanh nghiệp được điều tra rừng có lãi, lợi nhuận trước thuế
tăng bình quân 149,7%, lợi nhuận sau thuế tăng bình quân 182,3%. Điều này
cho thấy việc chuyển đổi đã có tác động mạnh đến hiệu quả hoạt động của
doanh nghiệp.
Thứ hai, đối với những doanh nghiệp cổ phần hoá nhiều năm đã đi vào
hoạt động ổn định, tốc độ tăng trưởng của doanh nghiệp được duy trì, doanh
thu bình quân tăng 23,6%, lợi nhuận trước thuế tăng 9,4%, lợi nhuận sau thuế
tăng tới 54,4%. Một số doanh nghiệp có doanh thu tăng cao như công ty cổ
phần đại lý liên hiệp vận chuyển: 30 lần, công ty cổ phần cơ điện lạnh: 13 lần,
công ty cổ phần Kim Đan: 11,2 lần…
Thứ ba, một số chỉ tiêu phản ánh kết quả hoạt động kinh doanh của các
doanh nghiệp sau cổ phần hoá đều tăng; năng suất lao động tăng bình quân
63,9%; mức nộp ngân sách tăng bình quân 26,53%; thu nhập bình quân tháng
của lao động tăng 34,5% so với trước khi cổ phần hoá. Điều đó khẳng định
hiệu quả của việc chuyển đổi các Doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ
phần.
Thứ tư, sau cổ phần hoá các doanh nghiệp phát triển sản xuất kinh
doanh, tạo thêm công ăn việc làm, thu hút thêm lao động, số lao động trong
các doanh nghiệp cổ phần hoá phát triển bình quân tăng 6,6%. Cổ tức bình
quân của các doanh nghiệp đạt 17,11% cao hơn nhiều so với lãi suất.
§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
SV: Hoµng ThÞ Trang
Thứ năm, vốn huy động được từ việc bán cổ phiếu cũng tăng đáng kể.
Vốn bình quân một doanh nghiệp tăng từ 24 tỷ đồng (năm 2001) lên 63,6 tỷ
đồng (năm 2004). Đây là yếu tố đầu vào rất quan trọng để mở rộng sản xuất
kinh doanh mang lại lợi nhuận cao hơn nữa cho doanh nghiệp, tạo thêm nhiều
công ăn việc làm cho người lao động, góp phần giải quyết vấn đề thất nghiệp
trong xã hội hiện nay.
Qua nghiên cứu, khảo sát các doanh nghiệp sau cổ phần hoá của Bộ Kế
hoạch và Đầu tư cho thấy việc thay đổi mô hình hoạt động của cán bộ quản lý
và người lao động đã có tác động tích cực đến hoạt động kinh doanh của các
doanh nghiệp. Cán bộ quản lý và người lao động đã thật sự gắn bó với doanh
nghiệp, nhờ vậy mà hiệu quả kinh doanh tăng lên. Có 96% số doanh nghiệp
cho rằng cán bộ quản lý đã quan tâm nhiều hơn đến hiệu quả sản xuất kinh
doanh, 88% số doanh nghiệp khẳng định kết quả sản xuất của người lao động
đã tăng lên khi tiền lương của họ được tính toán trên cơ sở kết quả việc làm.
Thực tế có 85% doanh nghiệp cho rằng sau cổ phần hoá cơ sở vật chất kỹ
thuật, năng lực sản xuất của doanh nghiệp được khai thác triệt để hơn, sử
dụng tốt hơn, tiết kiện hơn trước.
3. Những mặt hạn chế của cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước và
nguyên nhân của chúng.
Những mặt hạn chế của cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước.
Bên cạnh những thành công như đã nêu trên, việc thực hiện chủ trương
cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước ở nước ta cũng đã bộc lộ nhiều hạn chế:
- Hạn chế rõ nhất trong việc thực hiện chủ trương cổ phần hoá là tiến
độ cổ phần hoá còn chậm. Vốn Nhà nước trong các Doanh nghiệp nhà nước
đã cổ phần hoá còn nhỏ và việc huy động vốn trong quá trình chưa được
nhiều, thời gian tiến hành cổ phần hoá một doanh nghiệp còn quá dài. So với
đề án được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt thì số Doanh nghiệp nhà nước
được cổ phần hoá chưa đạt 80%, số lượng Doanh nghiệp nhà nước được cổ
phần hoá trong năm 2005 tuy đạt con số 754 đơn vị, nhưng nếu so với yêu cầu
§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
SV: Hoµng ThÞ Trang
của Nghị quyết Hội nghị lần thứ 9 Ban chấp hành TW Đảng khoá IX là phải
hoàn thành về cơ bản việc cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước vào năm 2005
là chưa đạt.
Theo báo cáo kết quả khảo sát của Dự án hỗ trợ kỹ thuật giám sát
chuyển đổi sở hữu Doanh nghiệp nhà nước tại 934 doanh nghiệp đã cổ phần
hoá cho thấy, thời gian cổ phần hoá doanh nghiệp tuy đã giảm được 512 ngày
(năm 2001) xuống còn 437 ngày (năm 2004) nhưng vẫn còn dài. Trong đó
chia theo các giai đoạn sau:
STT Nội dung công việc Số ngày thực hiện
1
Thành lập ban đổi mới doanh nghiệp – bắt
đầu định giá
135 ngày
2
Bắt đầu định giá - quyết định giá trị doanh
nghiệp
135 ngày
3
Quyết định giá trị doanh nghiệp – phê
duyệt phương án cổ phần hoá
66 ngày
4
Phê duyệt phương án cổ phần hoá - bắt
đầu bán cổ phần
24 ngày
5
Bắt đầu bán cổ phần – hoàn thành bán cổ
phần
38 ngày
6 Hoàn thành bán cổ phần - đại hội cổ đông 15 ngày
7 Đại hội cổ đông - đăng ký kinh doanh 24 ngày
8 Tổng cộng 437 ngày
Việc cổ phần hoá các Tổng công ty diễn ra rất ì ạch. Đã có chủ trương
cổ phần hoá Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) và Ngân
hàng Phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long từ 2 năm nay nhưng nay mới
nhỉ dừng lại ở mức chuẩn bị : vạch lộ trình và cách thức cổ phần hoá và dự
kiến đến hết năm 2007 mới có thể tiến hành Đại hội cổ đông. Cổ phần hoá
Tổng công ty Xuất khẩu xây dựng (VINACONEX) cũng nằm trong tình trạng
tương tự.
§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
SV: Hoµng ThÞ Trang
- Chuyển sang công ty cổ phần doanh nghiệp trở thành đa sở hữu về
vốn. Nhưng thực tế trong số gần 3000 doanh nghiệp đã cổ phần hoá thì chỉ có
30%, Nhà nước không giữ đồng vốn nào: 29%, Nhà nước giữ cổ phàn chi
phối trên 51%. Cũng trong số gần 3000 doanh nghiệp thì Nhà nước cũng nắm
lại 46,5% vốn điều lệ. Điều này cho thấy mặc dù đã cổ phần hoá nhưng Nhà
nước vẫn là cổ đông lớn nhất, đồng thời phần lớn các công ty cổ phần được
thành lập theo cách này đang được Nhà nước nắm cổ phần chi phối. Điều
đáng nói là tỷ lệ vốn điều lệ mà Nhà nước còn nắm tại các công ty cổ phần
không giảm mà ngày càng tăng. Nếu thời kỳ đầu (1992-1998) tỷ lệ cổ phần
mà Nhà nước nắm trong các công ty cổ phần là 28%, thì đến thời kỳ 2001-
2004 tỷ lệ này lên tới 49,8% và hiện nay bình quân là 46,5%. Một thực tế
khác, cổ đông là người lao động chỉ chiếm 15%. Cũng trong gần 3000 doanh
nghiệp nói trên, chỉ có 25 doanh nghiệp có Nhà nước đầu tư nước ngoài. Theo
đánh giá của nhiều chuyên gia kinh tế thì đây là cơ chế không thoả đáng.
- Mặc dù có chuyển biến trong năm 2005 là đã có những doanh
nghiệp làm ăn có hiệu quả, có quy mô vốn lớn và một số tổng công ty đang cổ
phần hoá, nhưng nhìn chung đại đa số các doanh nghiệp đã cổ phần hoá đều
có vốn Nhà nước quá nhỏ. Số lượng các doanh nghiệp cổ phần hoá có quy mô
vốn Nhà nước dưới 5 tỷ đồng chiếm tới gần 60%, chỉ có 18,5% số doanh
nghiệp cổ phần hoá có quy mô vốn Nhà nước trên 10 tỷ đồng. Điều đó dẫn
đến tình trạng về mặt số lượng Doanh nghiệp nhà nước đã cổ phần hoá chiếm
tới 53% tổng số Doanh nghiệp nhà nước có tại thời điểm đầu năm 2001,
nhưng về vốn mới chỉ chiếm hơn 10%. Như vậy là số vốn chưa được cổ phần
hoá còn rất lớn (khoảng 270 tỷ đồng), nhưng đa số không phát huy được hiệu
quả. Số vốn này tập trung chủ yếu tại các công ty 91 (riêng 3 tổng công ty
Dỗu khí, Điện lực, Bưu chính Viễn thông nắm giữ 113 ngàn tỷ đồng).
- Nhiều công ty cổ phần chưa có sự đổi mới mạnh trong quản trị công
ty, phương pháp quản lý, lề lối làm việc tư duy quản lý vẫn còn như Doanh
nghiệp nhà nước nên hiệu quả thấp. Đa số lãnh đạo các công ty cổ phần đều là
§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
SV: Hoµng ThÞ Trang
cán bộ cũ của Doanh nghiệp nhà nước chuyển sang, không có thêm những
khuôn mặt mới với tư cách tư duy theo lối mới để đem lại sức sống mới cho
công ty cổ phần. Việc Nhà nước nắm giữ 51% vốn diều lệ tại khá nhiều công
ty cổ phần là một cái cớ để các cơ quan quản lý Nhà nước tiếp tục can thiệp
vào hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Hội đồng quản trị
không thực hiện hết chức năng của công ty cổ phần theo luật định mà chủ yếu
tập trung theo sự chỉ đạo của Nhà nước. Lãnh đạo công ty không đại diện cho
cổ đông có sở hữu vốn lớn mà chủ yếu Nhà nước định hướng tham gia quản
lý. Những điều đó dẫn đến tình trạng là doanh nghiệp cổ phần hoá nào mà
Nhà nước nắm cổ phần chi phối thì hoạt động khó khăn hơn trước.
- Việc thực hiện chính sách đối với người lao động có những bất cập.
Thực tế là nhiều doanh nghiệp không đủ kinh phí để giải quyết chính sách cho
người lao động, không lo được việc làm cho họ. Ngược lại ở một số đơn vị
làm ăn có hiệu quả, có phúc lợi để giải quyết chính sách trợ cấp mất việc do
sắp xếp lại thì người lao động lại không muốn nghỉ theo chế độ. Chính vì vậy
tỷ lệ người lao động được giải quyết nghỉ theo chế độ sau khi Doanh nghiệp
nhà nước chuyển sang công ty cổ phần vẫn còn rất thấp so với số lượng cần
phải giải quyết. Trong một số Doanh nghiệp nhà nước đã được cổ phần hoá,
đặc biệt là trong những doanh nghiệp có những lợi thế về vị trí địa lý đã xuất
hiện hiện tượng một số kẻ đầu cơ đã tìm cách mua lại những cổ phiếu mà
người lao động trong doanh nghiệp đã được mua với giá ưu đãi. Người lao
động do chưa ý thức được ý nghĩa của việc sở hữu cổ phần trong doanh
nghiệp, đồng thời cũng không nắm được giá trị thực của cổ phần mà mình sở
hữu, nên đã bán cổ phần lại cho những người đầu cơ để hưởng chênh lệch.
Điều này không những gây thiệt hại cho Nhà nước, cho bản thân người lao
động mà còn ảnh hưởng đến một trong những mục đích quan trọng của cổ
phần hoá là tạo động lực quản lý cho doanh nghiệp khi người lao động trong
doanh nghiệp thực sự là người chủ.
§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
SV: Hoµng ThÞ Trang
Với tư cách là hình thức chuyển đổi sở hữu Doanh nghiệp nhà nước chủ
yếu, việc cổ phần hoá còn nhiều hạn chế đã ảnh hưởng đáng kể đến quá trình
sắp xếp lại Doanh nghiệp nhà nước ở nước ta. Vậy đâu là nguyên nhân của
những hạn chế này?
Những nguyên nhân chủ yếu của những hạn chế trong quá trình cổ
phần hoá Doanh nghiệp nhà nước.
Những nguyên nhân chủ yếu của quá trình thực hiện cổ phần hoá Doanh
nghiệp nhà nước có thể được giải thích bởi những nguyên nhân chính sau đây:
Hạn chế về nhận thức
- Trong thực tế, nhiều cán bộ quản lý, nhất là lãnh đạo các Doanh
nghiệp nhà nước chưa thực sự quyết tâm tiến hành cổ phần hoá Doanh nghiệp
nhà nước mà mình đang quản lý. Cản trở này đã bắt nguồn từ nhận thức
không đúng về cổ phần hoá. Có thể nói rằng, đại bộ phận các cán bộ quản lý
doanh nghiệp, người lao động chưa thấy rõ được bản chất, vai trò và ưu thế
của cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước đối với ự phát triển nền kinh tế, đối
với cải thiện hoàn cảnh của người lao động.Việc tuyên truyền về cổ phần hoá
chưa đạt tới mức làm cho cán bộ, đảng viên trong các Doanh nghiệp nhà nước
hiểu đúng về cổ phần hoá, về vai trò mới của người lao động. Vì thế, ở nhiều
Doanh nghiệp nhà nước, cán bộ công nhân viên đều không muốn doanh
nghiệp của mình bị cổ phần hoá, bản thân mình chuyển từ chế độ tuyển dụng
sang chế độ hợp đồng.
- Cổ phần hoá là giải pháp cải cách Doanh nghiệp nhà nước nên việc
tiến hành hoạt động này khá nhạy cảm về chính trị. Những giải pháp cải cách
này dễ gây sự phản ứng từ khá nhiều cấn bộ, đảng viên có tư duy trở thành
“bất di, bất dịch” là chỉ có Doanh nghiệp nhà nước, kinh tế Nhà nước mới là
nền tảng của Chủ nghĩa xã hội. Vì vậy theo họ, cổ phần hoá Doanh nghiệp
nhà nước là làm “giảm sút” về lượng vai trò của Doanh nghiệp nhà nước.
- Lợi ích cá nhân của nhiều cán bộ quản lý Doanh nghiệp nhà nước
cũng là một trong những cản trở việc nhận thức đúng về cổ phần hoá. Những
§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
SV: Hoµng ThÞ Trang
người này lo lắng khi chuyển sang hình thức công ty cổ phần vị trí quản lý
của họ bị thay đổi và không có gì đảm bảo chắc chắn rằng họ sẽ giữ những
cương vị đó trong công ty cổ phần được hình thành trên nền tảng doanh
nghiệp mà mình đang quản lý. Mối lo này cũng với những lợi ích khác cản trở
những cán bộ quản lý hiểu đúng tầm quan trọng của giải pháp cổ phần hoá
Doanh nghiệp nhà nước.
Hạn chế về sự chỉ đạo của Đảng, Nhà nước
Việc cổ phần hoá là giải pháp cơ bản, toàn diện trong sắp xếp, đổi mới,
phát triển và nâng cao hiệu quả Doanh nghiệp nhà nước. Do động chạm đến
nhiều vấn đề phức tạp nên trong quá trình thực hiện, Đảng và Nhà nước vừa
làm vừa rút kinh nghiệm. Thực tế cho thấy nơi nào cấp uỷ Đảng, chính quyền
địa phương quan tâm chỉ đạo thì mọi khó khăn lúng túng đều có thể khắc
phục được. Khách sạn Sài Gòn ban đầu chỉ có 25% công nhân viên đăng ký
mua cổ phần nhưng sau gần hai năm kiên trì giải thích, thuyết phục, khi cổ
phần hoá đã có 100% người lao động trong công ty mua cổ phần. Tuy nhiên,
đây là vấn đề lớn, phức tạp nên không thể tránh khỏi những hạn chế, bất cập
nhất định. Những hạn chế về chỉ đạo thực hiện biểu hiện ở một số khía cạnh
sau:
- Cơ sở pháp lý cho cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước còn chưa
vững chắc. Việc ban hành các Nghị định, các Thông tư điều chỉnh các vấn đề
khác nhau của cổ phần hoá không giải quyết được mâu thuẫn giửa các văn
bản luật có liên quan đến những vấn đề cụ thể của cổ phần hoá. Đã qua 15
năm thực hiện cổ phần hoá song chúng ta chưa có một văn bản luật có giá trị
cao, mang tính hệ thống về cổ phần hoá. Mặc dù số lượng các văn bản về cổ
phần hoá được ban hành nhiều, nhất là các thông tư về tinh xung quanh các
Nghị định, quyết định, song số vấn đề được giải quyết trong đó không tăng.
Hơn nữa, các văn bản pháp luật đã ban hành chưa xác định đúng loại quan hệ
đột phá trong cổ phần hoá nên tính dân chủ của các quy định là điều dễ nhận
thấy trong đó.
§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
SV: Hoµng ThÞ Trang
- Môi trường bình đẳng giữa các thành phần kinh tế chưa được độc
lập. Doanh nghiệp nhà nước vẫn được nhiều ưu đãi hơn và một số cán bộ
quản lý ở các ngành vẫn coi doanh nghiệp đã cổ phần hoá là doanh nghiệp
ngoài quốc doanh nên còn phân biệt đối xử. Mặt khác do luật công ty trước
đây là luật Doanh nghiệp nhà nước đều chưa xác định được một cách đầy đủ
vai trò quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp đa sở hữu có vốn của Nhà
nước gộp trong nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa nên mỗi
nơi vận dụng theo một nhận thức riêng. Các thông tư hướng dẫn đều có lợi
cục bộ cho doanh nghiệp, thậm chí cho một nhóm người nhất định thì thường
được ưu tiên áp dụng hơn so với các quy định pháp luật có hiệu lựa cao hơn.
- Về công tác tổ chức: cổ phần hoá là một chính sách quốc gia của
việc đổi mới, hoàn thiện thành phần kinh tế công. Việc thực hiện cổ phần hoá
cần được tổ chức chặt chẽ. Các vấn đề đã được giải quyết, các phương án
được đưa ra phải được nghiên cứu kỹ lưỡng rút kinh nghiệm và liên tục hoàn
thiện biện pháp triển khai. ở nước ta hiện nay chưa có được một tổ chức đủ
mạnh để thực hiện nhiệm vụ này.
4. Cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước trong giai doạn hiện nay – mục
tiêu và triển vọng.
Những phân tích nêu trên về tác động và thực trạng của cổ phần hoá
Doanh nghiệp nhà nước cho thấy sự cần thiêt phải tiếp tục tiến hành giải pháp
này trong giai đoạn tới. Nếu đặt giải pháp này trong bối cảnh hiện nay sẽ càng
thấy rõ hơn tính cấp bách của vấn đề. Sự cần thiết phải đẩy mạnh hơn nữa
chương trình cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước bắt nguồn chủ yếu từ
những nguyên nhân sau:
- áp lực cải cách Doanh nghiệp nhà nước để tạo ra sự phát triển ổn
định và bền vững hơn đang trở nên nặng nề hơn do nền kinh tế nước ta vẫn
chưa thoát khỏi tình trạng kém phát triển.
- Việc đất nước ta tích cực chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu
vực, ký kết và tham gia các hiệp định thương mại đa phương và song phương.
§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
SV: Hoµng ThÞ Trang
Tất cả những bước tiến sâu vào hội nhập kinh tế để dẫn đến thị trường mở và
chế độ tự do thương mại. Điều này có ý nghia là các doanh nghiệp Việt Nam
phải cạnh tranh để tồn tại. Cạnh tranh ngay cả trên thị trường nội địa và thị
trường quốc tế. Tính cạnh tranh thấp là điểm yếu lớn nhất của doanh nghiệp
Việt Nam, đặc biệt là doanh nghiệp nhà nước.
- Tiến độ cổ phần hoá trong những năm vừa qua tuy có những bước
phát triển, song so với yêu cầu đổi mới kinh tế thì vẫn chưa đáp ứng.
Trong giai đoạn tới, Đảng và Nhà nước ta chủ trương đẩy mạnh hơn nữa
cải cáh Doanh nghiệp nhà nước thông qua cổ phần hoá. Nghị quyết hội nghị
TW Đảng khoá IX đã khẳng định: “Tiếp tục đổi mới, sắp xếp, phát triển và
nâng cao hiệu quả khu vực Doanh nghiệp nhà nước, trọng tâm là cổ phần hoá
mạnh hơn nữa…”, “Đẩy nhanh tiến độ cổ phần hoá, mở rộng diện các Doanh
nghiệp nhà nước cần cổ phần, kể cả một số Tổng công ty và doanh nghiệp lớn
trong các ngành điện lực, luyện kim, cơ khí, hoá chất, phần bón, xi mang, xây
dựng, vận tải đường bộ, đường sông, hàng không, hàng hải, viễn thông, ngân
hàng, bảo hiểm”. Những định hướng cho tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển
và nâng cao hiệu quả Doanh nghiệp nhà nước trong đó chủ yếu là cổ phần hoá
trong giai đoạn trước mắt bao gồm:
- Thị trường hoá giá trị tài sản Doanh nghiệp nhà nước thực hiện cổ
phần hoá, trong đó có giá trị quyền sử dụng đất.
- Sử dụng rộng rãi việc phát hành cổ phần ra công chúng, nhất là phải
niêm yết trên thị trường chứng khoán, khắc phục tình trạng cổ phần hoá khép
kín trong nội bộ doanh nghiệp.
- Chuyển các Doanh nghiệp nhà nước 100% vốn của Nhà nước sang
hoạt động theo chế độ công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên.
- Xoá bỏ các loại bảo hộ bất hợp lý và khắc phục tình trạng bao cấp
như khoanh nợ, giãn nợ, xóa nợ, bù lỗ, cấp vốn tín dụng, ưu đãi tràn lan đối
với các hoạt động kinh doanh của Doanh nghiệp nhà nước. Thực hiện đầu ta
§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
SV: Hoµng ThÞ Trang
vốn cho Doanh nghiệp nhà nước thông quá các công tư đầu tư tài chính Nhà
nước.
- Khẩn trương xoá bỏ đặc quyền và độc quyền không cần thiết của
Doanh nghiệp nhà nước phù hợp với lộ trình chủ động hội nhập kinh tế quốc
tế.
- Đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của các Tổng công ty Nhà
nước và chuyển sang hoạt động theo mô hình Công ty mẹ - công ty con trên
cở sở đó hình thành các Tập đoàn kinh tế mạnh do Tổng công ty Nhà nước
làm nòng cốt.
Tóm lại, mục tiêu của chúng ta đặt ra là phải đến năm 2010 sẽ hoàn tất
quá trình cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước. Vậy để thực hiện mục tiêu lớn
này chúng ta cần có những biện pháp gì.
§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
SV: Hoµng ThÞ Trang
III. Một số biện pháp góp phần đẩy nhânh tiến trình cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà
nước.
Quá trình cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước chắc chắn sẽ tiếp tục
diễn ra mạnh mẽ và sâu sắc trong năm 2006. Tuy nhiên tốc độ sẽ không thể
như kỳ vọng của Chính Phủ cũng như công chúng đầu tư. Luật Doanh ngiệp
nhà nước mới được Quốc hội thông qua vào tháng 11-2005 và có hiệu lực thi
hành từ ngày 01/07/2006 đặt ra thời hạn hoàn tất chuyển đổi thống nhất đối
với các Doanh nghiệp nhà nước là 4 năm. Đây quả là một thách thức, bởi lẽ
15 năm mới đi được 1/10 chặng đường, vậy thì làm thế nào để có thể chạy nốt
9 phần chặng đường còn lại trong 4 năm.
Để có thể thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa quá trình cổ phần hoá Doanh
nghiệp nhà nước và hoàn tất quá trình này vào năm 2010, theo dự kiến có rất
nhiều công việc phải làm.
Trước hết Chính phủ cần tiếp tục hoàn thiện các cơ chế chính sách cho
cổ phần hoá cũng như chỉ đạo đẩy mạnh hơn, quyết liệt hơn nữa đối với các
Tổng công ty, các công ty nhà nước lớn. Bên cạnh đó về phía các Doanh
nghiệp nhà nước cũng cần phải quán triệt nhận thức, nỗ lực quyết tâm trong
việc vạch ra và thực thi lộ trình cổ phần hoá. Lãnh đạo các Doanh nghiệp nhà
nước cũng như các Bộ, ngành chủ quản cần đứng trên quan điểm phát triển để
nhận thức rằng cổ phần hoá là con đường tất yếu để có thể tồn tại trong bối
cảnh hội nhập đang đến gần. Những đặc quyền, đặc lợi cá nhân hay cục bộ
cần phải được từ bỏ. Tuy nhiên bên cạnh đó cũng cần phải lưu ý làm nhanh
không có nghĩa là làm ẩu, tránh cổ phần hình thức hoặc “bán rẻ” tài sản Nhà
nước.
Cùng với việc khẩn trương đổi mói một số cơ chế chính sách nhất là cơ
chế tài chính có liên quan đến cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. Chính phủ
đã và đang triển khai các biện pháp sau đây:
Vể tổ chức chỉ đạo, về quyết định phê duyệt danh sách các doanh nghiệp
cổ phần hoá, về tập trung chỉ đạo các doanh ngiệp trong diện. Đồng thời
§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
SV: Hoµng ThÞ Trang
hướng dẫn cổ phần hoá các Bộ, các địa phương khác nhằm triển khai đồng
đều trong cả nước, về việc nghiên cứu chuẩn bị đề án thành lập Quỹ hỗ trợ
sắp xếp Doanh nghiệp nhà nước mà trọng tâm là hỗ trợ sắp xếp việc làm bằng
các nguồn vốn trích từ vốn bán cổ phần, hỗ trợ ngân sách và huy động vốn
của nước ngoài, cụ thể:
Một là, tạo ra sân chơi bình đẳng giữa Doanh nghiệp nhà nước và công
ty cổ phần về những điều kiện hoạt động kinh doanh. Do đó để thúc đẩy tiến
trình cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước cần phải tạo ra sự bình đẳng giữa
các khu vực kinh tế, giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài. Đồng thời
cần xoá bỏ chế độ bao cấp cho khu vực kinh tế quốc doanh.
Hai là, lựa chọn Doanh nghiệp nhà nước và loại hình công ty cổ phần.
Cổ phần hoá là chuyển sở hữu Nhà nước vào tay cổ đông thuộc các
thành phần kinh tế. Quá trình này đụng chạm đến vấn đề mấu chốt trong kinh
tế đó là sở hữu. Từ đó dặt ra hai vấn đề:
- Chuyển toàn bộ hay chỉ chuyển một bộ phận Doanh nghiệp nhà
nước thì là bộ phận nào?
- Tổ chức công ty cổ phần như thế nào để phát huy được ưu thế của
hình thức này, đồng thời nâng cao hiệu quả sản xuất.
Việc lựa chọn Doanh nghiệp nhà nước để cổ phần hoá phụ thuộc vào
quan niệm về vai trò của Doanh nghiệp nhà nước trong sự phát triển kinh tế
xã hội của mỗi quốc gia. Quan niệm bắt nguồn từ mục tiêu kinh tế, chính trị
được lựa chọn trình độ phát triển của nền kinh tế, truyền thống và hoàn cảnh
lịch sử của mỗi quốc gia khi tiến hành cổ phần hoá.
Như vậy, chuyển Doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần không
phải là mục đích tự thân, mà xuất phát từ mục tiêu kinh tế, chính trị, xã hội do
Nhà nước lựa chọn giải pháp chuyển doanh nghiệp sang công ty cổ phần
trong giai đoạn hiện nay để có thể thực hiện ở một số doanh nghiệp mà trước
hết là vì mục tiêu lợi nhuận.
§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
SV: Hoµng ThÞ Trang
Với mục tiêu cổ phần hoá hiện nay, cần chủ trương cổ phần hoá Doanh
nghiệp nhà nước theo hướng chuyển nhượng một phần quyền sở hữu Nhà
nước sang các thành phần kinh tế khác. Trường hợp Nhà nước ít cần can thiệp
đến có thể chuyển sang công ty cổ phần mà trong đó vốn Nhà nước ít hoặc
thậm chí không tham gia.
Ba là, Nhà nước cần có các chính sách hỗ trợ về tài chính như miễn thuế
lợi tức, thuế thu nhập trong thời gian đầu của các doanh nghiệp cổ phần để
kích thích các thành phần kinh tế khác tham gia mua cổ phiếu.
Trương hợp những doanh nghiệp không đủ điều kiện hưởng ưu đãi theo
quy định của Luật khuyến khích đầu tư trong nước thì được giảm 50% thuế
lợi tức (Thuế thu nhập doanh nghiệp) trong hai năm liên tiếp từ sau khi
chuyển sang hoạt động theo Luật công ty. Để duy trì và phát triển quỹ phúc
lợi dưới dạng hiện vật. Các chương trình văn hoá, câu lạc bộ, nhà điều dưỡng
để đảm bảo phúc lợi cho người lao động trong công ty cổ phần. những tài sản
này thuộc sở hữu tập thể người lao động do công ty cổ phần quản lý với sự
tham gia của tổ chức Công đoàn.
Thực tế tiến hành cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước cho thấy những
ưu tiên trên là hợp lý, là phù hợp với thực tiến của công tác cổ phần hoá và
được sự đồng tình ủng hộ của các doanh nghiệp.
Bốn là, Nhà nước cần có sự giúp đỡ đối với các cán bộ công nhân viên
có đủ khả năng mua cổ phần ở các doanh nghiệp tiến hành cổ phần hoá, như
cho vay tín dụng với lãi suất thấp, thời hạn dài. Tương tự như Nhà nước cho
nông dân vay vốn để sản xuất. Đây là một kinh nghiệm tốt mà nhiều nước
trên thế giới đã thực hiện trong quá trình cổ phần hoá các doanh nghiệp.
Năm là, định giá cổ phiếu và mức độ bán cổ phần, cổ phiếu. Chế độ tài
chính thống nhất ghi mẫu in ấn và cung cấp tờ cổ phiếu chậm nhất trong vọng
30 ngày kể từ khi kết thúc thời hạn phát hành của doanh nghiệp cổ phần hoá.
Các cơ quan tài chính phổ biến hướng dẫn các công ty cổ phần thực hiện.
§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
SV: Hoµng ThÞ Trang
Sáu là, đào tạo bồi dưỡng đội ngũ có trình độ chuyên môn giỏi về cổ
phần hoá. Kinh nghiệm cho thấy muốn kinh tế phát triển năng động có hiệu
quả trước hết phải có chiến lược con người, xây dựng một đội ngũ các nhà
kinh doanh nhất là đối với công ty cổ phần mới hình thành, giám đốc điều
hành giỏi là hết sức cần thiết.
Để thực hiện điều này cần phải:
- Đồng thời với việc thực hiện chủ trương cổ phần hoá Doanh nghiệp
nhà nước cần có chương trình vồi dưỡng kiến thức quản lý công ty cổ phần
cho tất cả các cán bộ quản lý doanh nghiệp nằm trong diện cổ phần hoá.
- Mở các lớp bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng quản lý các công ty cổ
phần hoá cho tất cả các cán bộ quản lý các doanh nghiệp đã cổ phần hoá. Về
kinh phí cho các lớp bồi dưỡng này cần có sự hỗ trợ nhất định của Nhà nước.
đây là vấn đề đặc biệt quan trọng.
Bảy là, có biện pháp tuyên truyền, giải thích cho người lao động nhận
thức đúng đắn, đầy đủ về quyền lợi, trách nhiệm của họ đối với doanh nghiệp
sau cổ phần hoá. Thực tiễn cho thấy rằng việc làm cho người lao động thấy rõ
được lợi ích khi doanh nghiệp cổ phần hoá là rất quan trọng. Người lao động
sẽ tự giác đồng tâm cùng Nhà nước thực hiện tốt chủ trương cổ phần hoá.
Nhưng quan trọng hơn nhiều là làm cho người lao động hiểu được vị trí của
họ trong doanh nghiệp cổ phần, một môi trường mới. Người lao động cần
nhận thức được vai trò làm chủ của họ đối với doanh nghiệp, mức độ làm chủ
đến đâu, những gì họ được phép làm… tránh tình trạng người lao động lạm
dụng quyền làm chủ quá mức tạo nên sự không ổn định trong hoạt động của
doanh nghiệp sau cổ phần hoá.
§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
SV: Hoµng ThÞ Trang
Kết luận
Đổi mới, sắp xếp và phát triển Doanh nghiệp nhà nước là yêu cầu tất yếu
và cần thiết. Thấy được vấn đề đó, Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương triển
khai thực hiện trong gần 20 năm. Mặc dù có những thăng trầm nhưng cũng đã
đem lại những kết quả đáng ghi nhận. Việc sắp xếp Doanh nghiệp nhà nước
được thực hiện bằng các giải pháp sáp nhập, hợp nhất, cổ phần hoá, giao,
khoán, bán, cho thuê doanh nghiệp, tổ chức lại các Tổng công ty và thành lập
Tập đoàn kinh tế. Trong tất cả những giải pháp này cổ phần hoá được xem là
giải pháp cơ bản và quan trọng nhất để cơ cấu lại Doanh nghiệp nhà nước. Cổ
phần hoá Doanh nghiệp nhà nước đã được bắt đầu thí điểm từ năm 1990, từ
đó đến nay đã 15 năm, trong 15 năm qua chúng ta đã sắp xếp được một nửa
số Doanh nghiệp nhà nước. Và mục tiêu đặt ra là phải cổ phần hoá số còn lại
trong 4 năm tới. Đây quả là một thách thức lớn, nếu không làm được thì vai
trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước khó được đảm bảo. Muốn làm được phải
đổi mới tư duy, phải vượt qua chính mình để có cách nhìn mới, có một quan
niệm mới về kinh tế Nhà nước và vai trò chủ đạo của nó, về cổ phần hoá và
cải cách Doanh nghiệp nhà nước, phải dám từ bỏ lợi ích cục bộ để đảm bảo
lợi ích toàn cục, từ bỏ “chiếc mũ bảo hộ” của Nhà nước để tự vượt lên chính
mình. Đó chính là chìa khoá thành công trong cải cách Doanh nghiệp nhà
nước.
§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
SV: Hoµng ThÞ Trang
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước. Cơ sở lý luận và kinh nghiệm thực
tiễn
2. Cổ phần hoá các Doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam
3. Cổ phần hoá các Doanh nghiệp nhà nước. Lý luận và thực tiễn.
4. Nghiên cứu kinh tế số 333, tháng 2/2006.
5. Phát triển kinh tế số 4/2005.
6. Thương mại số 1+2/2005.
7. Kinh tế và dự báo số 6/2005.
8. Tạp chí tài chính số 1/2006.
§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
SV: Hoµng ThÞ Trang
Mục lục
Lời nói đầu ...................................................................................................... 1
Nội dung .......................................................................................................... 3
I. Cơ sở lý luận về việc Cổ phần hoá một bộ phận doanh nghiệp
Nhà nước ở nước ta ...................................................................................... 3
1. Tính tất yếu phải cổ phần hoá một bộ phận doanh nghiệp Nhà nước ở
nước ta ........................................................................................................... 3
1.1. Doanh nghiệp Nhà nước và yêu cầu đổi mới Doanh nghiệp Nhà
nước .............................................................................................................. 3
1.2. Yêu cầu đổi mới Doanh nghiệp Nhà nước ..................................... 3
1.3. Cổ phần hoá - giải pháp cải cách doanh nghiệp Nhà nước tối ưu ... 5
2. Đối tượng của cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước ở nước ta ......... 8
3. Mục tiêu cổ phần hóa một bộ phận doanh nghiệp Nhà nước .......... 10
4. Tiền đề để cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước ........................... 12
II. Thực trạng cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam . 15
1. Quá trình cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước ở nước ta .............. 15
2. Tình hình hoạt động của các doanh nghiệp sau cổ phần hoá ........... 18
3. Những mặt hạn chế của cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước và
nguyên nhân của chúng ................................................................................ 20
3.1. Những mặt hạn chế của cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước .... 20
3.2. Những nguyên nhân chủ yếu của những hạn chế trong quá trình cổ
phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước ................................................................ 23
4. Cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước trong giai đoạn hiện nay - mục
tiêu và triển vọng .......................................................................................... 26
III. Một số biện pháp góp phần đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá
doanh nghiệp Nhà nước ............................................................................ 28
Kết luận ........................................................................................................ 32
§Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ
SV: Hoµng ThÞ Trang
Tài liệu tham khảo .......................................................................................... 33
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 65323oc_7288.pdf