Luận văn Cơ sở lí luận về việc cổ phân hoá một bộ phận doanh nghiệp nhà nước ở nước ta

Đổi mới, sắp xếp và phát triển Doanh nghiệp nhà nước là yêu cầu tất yếu và cần thiết. Thấy được vấn đề đó, Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương triển khai thực hiện trong gần 20 năm. Mặc dù có những thăng trầm nhưng cũng đã đem lại những kết quả đáng ghi nhận. Việc sắp xếp Doanh nghiệp nhà nước được thực hiện bằng các giải pháp sáp nhập, hợp nhất, cổ phần hoá, giao, khoán, bán, cho thuê doanh nghiệp, tổ chức lại các Tổng công ty và thành lập Tập đoàn kinh tế. Trong tất cả những giải pháp này cổ phần hoá được xem là giải pháp cơ bản và quan trọng nhất để cơ cấu lại Doanh nghiệp nhà nước.

pdf37 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2315 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Cơ sở lí luận về việc cổ phân hoá một bộ phận doanh nghiệp nhà nước ở nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ì nó giải quyết được căn nguyên của những yếu kém trong tổ chức quản lý và hoạt động của Doanh nghiệp nhà nước – đó là vấn đề sở hữu. Những giải pháp cải cách Doanh nghiệp nhà nước khác chỉ động chạm đến cơ chế quản lý theo hướng tăng cường quyền tự chủ của của Doanh nghiệp nhà nước trong một hoặc một số lĩnh vực cụ thể. Cổ phần hoá doanh nghiệp chấp nhận sự dung hoà của nhiều thành phần kinh tế khác nhau trong bản thân các thực thể kinh tế vĩ mô mà trước hết là trong các doanh nghiệp. Cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước là giải pháp làm thay đổi kết cấu sở hữu của chúng, điều mà trước đổi mới ít ai dám nghĩ đến chứ chưa nói là triển khai nó. 2. Đối tượng của cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước ở nước ta. Cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước là biện pháp cải cách Doanh nghiệp nhà nước tối ưu của nước ta. Tuy nhiên, không phải tất cả các doanh §Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ SV: Hoµng ThÞ Trang nghiệp đều có thể đổi mới bằng phương thức này. Có những doanh nghiệp mà Nhà nước cần duy trì 100% vốn Nhà nước. Đó là khu vực kinh tế quốc doanh đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế trên các lĩnh vực sau: - Các doanh nghiệp hoạt động nhằm phục vụ cho công tác an ninh và quốc phòng : sản xuất vũ khí, đạn dược, sản xuất thuốc nổ, sản xuất phương tiện phát sóng, truyền tin… - Các doanh nghiệp đóng vai trò then chốt của nền kinh tế quốc dân, bao gồm các doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực : năng lượng, dầu khí, khai thác vàng và đá quý, xây dựng sân bay, bến cảng, đường sắt… - Các doanh nghiệp thuộc hạ tầng cơ sở như : giao thông, bưu chính, viễn thông, điện, thuỷ nông… - Các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực thường bị thua lỗ, lãi ít hoặc gặp rất nhiều khó khăn. Theo nguyên tác hạch toán thương mại thì các thành phần kinh tế tập thể, tư nhân không đầu tư vào các lĩnh vực như : vận tải đường sắt, vận tải hàng hoá lên miền núi, ra biên giới, hải đảo, đến vùng kinh tế mới, sản xuất phương tiện cho người tàn tật, đồ chơi cho trẻ em… Để khắc phục nhược điểm đó của cơ chế thị trường, Nhà nước phải tổ chức các Doanh nghiệp nhà nước để duy trì và phát triển các hoạt động này. Có thể làm việc đó nhờ vào việc tài trợ của Ngân sách Nhà nước cho các doanh nghiệp thua lỗ. Trong trường hợp này, sự tài trợ cho doanh nghiệp là cần thiết, nên không thể coi đó là bao cấp. Tóm lại, trong nền kinh tế thị trường, không chỉ ở Việt Nam mà dù ở bất kỳ nước nào, sự tồn tại của Doanh nghiệp nhà nước là một tất yếu khách quan. Như vậy, không phải tất cả các Doanh nghiệp nhà nước cần phải đổi mới bằng giải pháp cổ phần hoá, mà chỉ có một bộ phận doanh nghiệp. Bộ phận doanh nghiệp ấy là gì? Căn cứ vào tình hình thực tế ở Việt Nam, Doanh nghiệp nhà nước được chọn lựa cổ phần hoá phải có đủ ba điều kiện sau đây: §Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ SV: Hoµng ThÞ Trang - Là những doanh nghiệp vừa và nhỏ - Không thuộc diện những doanh nghiệp cần thiết giữ 100% vốn đầu tư Nhà nước. - Có phương án kinh doanh hiệu quả. Ngoài ra, đối với các doanh nghiệp lớn (Tổng công ty Nhà nước) cũng có thể thực hiện cổ phần hoá theo phương thức phát hành cổ phiếu theo quy định nhằm thu hút thêm vốn để phát triển sản xuất trong khi vẫn giữ nguyên giá trị tài sản hiện có của doanh nghiệp. Theo tinh thần nghị quyết 28/CP các doanh nghiệp vừa và nhỏ là những doanh nghiệp có tổng số vốn từ 300 tỷ đồng trở xuống và có số lao động dưới 1000 người, không kể số lao động làm hợp đồng theo thời vụ. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ không chỉ dễ xác định giá trị tài sản hơn các doanh nghiệp có quy mô lớn mà còn phù hợp với sức mua của cán bộ công nhân viên tại nhiệm sở và trong ngành. 3. Mục tiêu cổ phần hoá một bộ phận Doanh nghiệp nhà nước Đại hội Đảng lần thứ VIII (1986) đã khẳng định “Triển khai tích cực và vững chắc việc cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước để huy động vốn, tạo thêm động lực thúc đẩy doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả làm cho tài sản Nhà nước ngày càng tăng lên chứ không phải tư nhân hoá” Nghị định 44/1998/NĐ-CP ngày 29/6/1998 của Chính Phủ về việc chuyển một số Doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần đã nêu rõ: chuyển Doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần nhằm các mục tiêu: - Huy động vốn của toàn xã hội, bao gồm cá nhân, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội trong nước và nước ngoài để đầu tư đổi mới công nghệ tạo thêm việc làm, phát triển doanh nghiệp, nâng cao sức cạnh tranh, thay đổi cơ cấu Doanh nghiệp nhà nước. - Tạo điều kiện để người lao động trong doanh nghiệp có cổ phần và những người đã góp vốn được làm chủ thực sự; thay đổi phương thức quản lý tạo động lực thúc đẩy doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả, tăng cường phát §Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ SV: Hoµng ThÞ Trang triển đất nước, nâng cao thu nhập của người lao động, góp phần tăng trưởng kinh tế của đất nước. Qua những văn bản cơ bản đó có thể khẳng định các mục tiêu của cổ phần hoá đã được xác định một cách rõ ràng và nhất quán. Song phải chăng huy động vốn để phát triển doanh nghiệp là mục tiêu hàng đầu, nâng cao vai trò làm chủ thực sự, tạo động lực thúc đẩy kinh doanh có hiệu quả là mục tiêu hàng thứ, hay hai mục tiêu ở vị trí ngang nhau. Huy động vốn và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn là một trong những điều kiện quan trọng hàng đầu để thúc đẩy nhanh công cuộc công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước, đó cũng là điều kiện tối quan trọng để nâng cao khả năng cạnh tranh, mở rộng sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Hiện nay vốn kinh doanh là một trong những vấn đề nan giải của các doanh nghiệp. Để huy động vốn, doanh nghiệp phải đảm bảo nhiều điều kiện, trong đó khả năng kinh doanh có hiệu quả được coi là diều kiện tiên quyết. Đặt việc huy động vốn cho phát triển doanh nghiệp như một mục tiêu hàng đầu sẽ gây cảm nhận việc cổ phần hoá xuất phát từ yêu cầu giải quyết khó khăn của Nhà nước trong việc đảm bảo vốn doanh nghiệp. Điều đó đến lượt mình, có thể gây trở ngại cho việc thực hiện chính mục tiêu ấy, người lao động không thấy được động lực kinh tế trực tiếp trong việc góp vốn của mình. Trong cơ chế thị trường, để thúc đẩy nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nằm ở sự gắn bó mật thiết giữa quyền sở hữu với quyền quản lý và sử dụng tài sản của doanh nghiệp, xác định rõ người chủ đích thực của các tài sản đó. Việc huy động thêm vốn từ cổ phần hoá là điều kiện xác lập người chủ một bộ phận tài sản của doanh nghiệp, người chủ ấy cùng với người đại diện Nhà nước ở doanh nghiệp quản lý điều hành hoạt động kinh doanh một cách có hiệu quả nhất. Hơn nữa, việc huy động thêm vốn chỉ là phương tiện thiết yếu để đạt tới mục tiêu nâng cao hiệu quả kinh tế mà thôi. Nếu không được quản lý sử dụng tốt số vốn được huy động đó cũng không thể mang lại hiệu quả mong đợi. §Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ SV: Hoµng ThÞ Trang Theo những lập luận trên, mục tiêu hàng đầu có là thúc đẩy nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh trên cơ sở đảm bảo vai trò làm chủ thực sự của những người sở hữu tài sản. Huy động thêm vốn bằng cổ phần và phát hành cổ phần là điều kiện cần thiết để tạo thành những người chủ đích thực của doanh nghiệp phụ thuộc chủ yếu vào sử dụng vốn hiện có và huy động vốn thêm. Cổ phần hoá một bộ phận Doanh nghiệp nhà nước chỉ là một chủ trương lớn của Đảng va Nhà nước. Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành Trung ương khoá VII đã nêu rõ: “Chuyển một số doanh nghiệp quốc doanh có điều kiện thành công ty cổ phần và thành lập một số công ty quốc doanh cổ phần mới”. Nghị quyết 10-NQ/TW ngày 17/3/1995 của Bộ chính trị đã nêu “thực hiện từng bước vững chắc việc cổ phần hoá một bộ phần doanh nghiệp không cần Nhà nước đầu tư 100% vốn. Tuỳ tính chất, loại hình doanh nghiệp mà tiến hành bán một tỉ lệ cổ phần cho công nhân viên chức làm việc tại doanh nghiệp để tạo động lực bên trong trực tiếp thúc đẩy phát triển và bán cổ phần cho tổ chức hay cá nhân ngoài quốc doanh để thu hút vốn, mở rộng quy mô kinh doanh”. Như vậy, Nghị quyết của Đảng chỉ ra mục tiêu, đồng thời cũng nêu khái quát hình thức, mức độ cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước. 4. Tiền đề để cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước. - Điều kiện và môi trường pháp lý về cơ bản đã được xác lập đặt tất cả các doanh nghiệp hoạt động theo cơ chế thị trường. Việc thực hiện “thương mại hoá” các hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong nền kinh tế là tiền đề cơ bản và cần thiết để từng bước thực hiện cổ phần hoá các Doanh nghiệp nhà nước. - Chính Phủ đã nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề cổ phần hoá các Doanh nghiệp nhà nước và quyết tâm thực hiện. Điều này thể hiện ở việc ban hành các văn bản luật và dưới luật nhăm thực hiện chương trình cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước như luật công ty, quyết định 315 và 330 về §Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ SV: Hoµng ThÞ Trang sắp xếp lại sản xuất trong khu vực kinh tế Nhà nước. Chỉ thị 84-TTg của Thủ tướng Chính phủ về thí điểm cổ phần hoá một số Doanh nghiệp nhà nước… Ngoài ra còn có các quyết định, thông tư của các Bộ và các liên Bộ để cụ thể hoá việc thực hiện vấn đề này. Điều này góp phần xác định rõ quan điểm và phương hướng chỉ đạo thống nhất ở mọi cấp, mọi ngành cho đến từng doanh nghiệp triển khai thực hiện. - Tình hình kinh tế đất nước đã có nhiều biến đổi theo hướng tích cực: giá cả thị trường đã được duy trì tương đối ổn định, mức lạm phát đã được kiềm chế, đồng tiền Việt Nam đã giữ được giá, lãi suất đã ở mức khuyến khích các hoạt động đầu tư sản xuất kinh doanh… Điều này đã tạo điều kiện thuận lợi về tâm lý cho mọi người muốn đầu tư thông qua hình thức mua cổ phiếu trong các Doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hoá. - Nhờ những đổi mới trong chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần của Nhà nước mấy năm qua, thu nhập của dân cư được nâng cao. Số người khá giả ở thành thị và nông thôn ngày càng nhiều. Đây là lượng cầu tiềm năng có thể đáp ứng cho các chứng khoán phát hành ở những doanh nghiệp được cổ phần hoá. - Hoạt động trong cơ chế thị trường mới được hai chục năm nhưng đã xuất hiện đội ngũ các nhà quản lý doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh lớn; người lao động trong các doanh nghiệp đã thích ứng được về ý thức, tác phong và hiệu quả của công việc trong điều kiện cạnh tranh về năng suất, chất lượng và hiệu quả. Điều này sẽ làm cho người đầu tư yên tâm bỏ vốn, góp phần thuận lợi cho việc thực hiện cổ phần hoá các Doanh nghiệp nhà nước. - Với luật đầu tư nước ngoài cà sự xuất hiện của nhiều nhánh ngân hàng kinh doanh của nước ngoài tại Việt Nam góp phần tạo môi trường và điều kiện thuận lợi để các nhà đầu tư bằng cổ phiếu vào các Doanh nghiệp nhà nước sẽ được tiến hành cổ phần hoá. - Ngoài ra với những kinh nghiệm thực tiễn phong phú của các nước trên thế giới trong quá trình cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước sẽ là những §Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ SV: Hoµng ThÞ Trang bài học bổ ích và quý giá để Nhà nước tiến hành hoạch định chính sách và tổ chức thực hiện công việc cổ phần hoá các Doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam. - Ngoài ra, ngày nay chúng ta còn có những điều kiện thuận lợi để đẩy mạnh cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước. Đó là những khó khăn gặp phải trong thời gian đầu thực hiện thí điểm cổ phần hoá đã dần được khắc phục, có thể kể đến như chúng ta đã có một thị trường chứng khoán thực sự, tuy chưa phát triển sôi động như các nước phát triển và khu vực, nhưng đó cũng là môi trường để thực hiện cổ phần hoá. Các Doanh nghiệp nhà nước hiện nay hầu hết đều trang bị máy móc, công nghệ hiện đại, khả năng cạnh tranh cao… do đó có thể tiến hành cổ phần hoá các doanh nghiệp này. Bên cạnh đó tình hình chính trị quốc gia ổn định tạo niềm tin thu hút các nhà đầu tư nước ngoài… Với những tiền đề như thế thì quá trình cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước của chúng ta đã diễn ra như thế nào? Chúng ta đã làm được những gì và còn hạn chế gì? Để từ đó có biện pháp thích hợp thúc đẩy nhanh hơn nữa quá trình cổ phần hoá. §Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ SV: Hoµng ThÞ Trang II. Thực trạng cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam. 1. Quá trình cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước ở nước ta. Từ đầu thập kỷ 90, cùng với đổi mới các chính sách kinh tế - xã hội, Đảng ta đã có chủ trương chuyển một bộ phận Doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần. Khởi đầu là Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai của Ban chấp hành TW khoá VII tháng 11/1991. Nghị quyết này đã chỉ ra : “chuyển một số doanh nghiệp quốc doanh có điều kiện thành công ty cổ phần và thành lập một số công ty cổ phần mới, phải làm thí điểm, chỉ đạo chặt chẽ, rút kinh nghiệm chu đáo trước khi mở rộng phạm vi thích hợp”. Trải qua 15 năm thực hiện đến hết năm 2005, chúng ta đã thành lập được 2987 công ty cổ phần trên cơ sở cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước và bộ phần Doanh nghiệp nhà nước. Kết quả thực hiện qua từng năm như sau: Năm Số Doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hoá 1990-1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 Không 02 01 03 05 07 100 250 212 204 164 532 753 754 Tổng 2987 Qua những con số trên thấy rõ tiến trình cổ phần hoá đã trải qua những bước thăng trầm, nhưng nói chúng là theo xu hướng mỗi ngày càng được đẩy §Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ SV: Hoµng ThÞ Trang mạnh. Từ chỗ thực hiện chậm chạp trong những năm đầu (mỗi năm vài ba doanh nghiệp đến vài trăm) và cho đến ba năm gần đây tiến trình cổ phần hoá được đẩy mạnh hơn, do đó số lượng doanh nghiệp được cổ phần hoá tương đối nhiều. Theo báo cáo của Ban chỉ đạo đổi mới và phát triển doanh nghiệp, hình thức cổ phần hoá phổ biến nhất là bán một phần vốn nhà nước có tại doanh nghiệp kết hợp phát hành thêm cổ phiếu (chiếm 43,4%) tiếp đó là bán một phần vốn Nhà nước hiện có tại doanh nghiệp (26%) còn lại là bán toàn bộ vốn Nhà nước tại doanh nghiệp (15,5%) và giữ nguyên vốn Nhà nước và phát hành thêm cổ phiếu (15,1%). Trong số các doanh nghiệp đã cổ phần hoá, ngành công nghiệp giao thông vận tải và xây dựng chiếm tỷ trọng 65,5%, thương mại dịch vụ chiếm 28,7% và ngành nông - lâm - ngư ngiệp chiếm 5,8%. Nếu phân chia theo địa phương thì tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chiếm 65,7%, bộ ngành TW chiếm 25,8%, tổng công ty 91 chiếm 8,5%. Năm 2005 đã xuất hiện một điểm sáng mới cần được nhấn mạnh là trong số doanh nghiệp cổ phần hoá đã có nhiều doanh nghiệp làm ăn khá, quy mô lớn, hấp dẫn các nhà đầu tư. Có thể kể đến các công ty như: Công ty khoan và dịch vụ dầu khí, các nhà máy thuỷ điện sông Hinh (Vĩnh Sơn), Thác Bà, Phả Lại, Điện lực Khánh Hoà, công ty giấy Phương Mai, công ty vận tải xăng dầu đường thuỷ I, Vinamilk, công ty Kinh Đô. Giá trị của Vinamilk lên tới 2500 tỷ đồng. Nhà máy thuỷ điện sông Hinh có giá trị 2114 tỷ đồng trong đó vốn Nhà nước là 1253 tỷ đồng. Một điểm khác biệt nữa, đó là việc xác định giá trị cổ phần được thực hiện thông qua đấu giá công khai trên thị trường. Ngay trong ngày đầu tiên bán đấu giá Vinamilk, bán hết hơn 166 triiêụ cổ phiếu với giá trung bình cao gấp 4,89 lần mệnh giá. tính minh bạch và công khai đấu giá cổ phiếu của công ty sữa Việt Nam đã thu hút các nhà đầu tư chiến lược, trong đó có các nhà đầu tư nước ngoài. Đáng chú ý là các nhà mới chiếm tỷ lệ thắng thầu tới 78,4% trên tổng số cổ phần bán ra, các quỹ đầu tư nước ngoài hoạt động ở Việt Nam chỉ chiếm 21,6% và số vốn thu hút được từ các tổ chức §Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ SV: Hoµng ThÞ Trang đầu tư mới lên tới 450 tỷ đồng. Sau ba năm chuẩn bị, Vinamilk đã hoàn toàn chuyển đổi từ một Doanh nghiệp nhà nước lớn thành tổng công ty cổ phần đại chúng. Sau 15 năm cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước, có thể nhận thấy các chuyển biến sau: Thứ nhất, sự chuyển hướng từ cổ phần hoá các Doanh nghiệp nhà nước trong một số lĩnh vực sang cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước ở hầu hết ngành, lĩnh vực, trong cả kinh tế, dịch vụ và văn hoá, kể cả ngân hàng thương mại, chỉ trừ loại Doanh nghiệp nhà nước trong lĩnh vực dầu khí và an ninh quốc phòng. Thành phố Hồ Chí Minh còn kiến nghị Chính Phủ cho phép cổ phần hoá một số bệnh viện công. Thứ hai, chuyển biến từ việc chỉ cổ phần hoá các Doanh nghiệp nhà nước quy mô nhỏ về vốn và lao động làm ăn thua lỗ, nay sang cả những doanh nghiệp lam ăn có lãi với quy mô lớn trong các ngành trọng yếu của nền kinh tế (như điện lực, xi măng, viễn thông, hàng không) với kết quả hoạt động sau ngày một tiến bộ. Tiến hành cổ phần hoá không chỉ được thực hiện đối với từng doanh nghiệp thành viên mà còn triển khai đối với toàn tổng công ty. Đến nay đã có Nghị quyết phê duyệt cổ phần hoá 5 tổng công ty, trong đó có các Tổng công ty thương mại - Xây dựng, Điện tử - Tin học, Vinaconex và Bảo Việt. Thứ ba, việc cổ phần hoá không chỉ nhằm thu hút vốn của các nhà đầu tư, của những người trong doanh nghiệp mà còn thu hút vốn của những người nông dân cung cấp nguyên liệu cho sản xuất công nghiệp, chuyển họ thành những cổ đông, gắn bó họ với sự phát triển của doanh nghiệp.Công ty mía đường lam Sơn và công ty mía đường La Ngã đã thực hiện cổ phần hoá theo hướng đó. ở Tổng công ty mía đường Lam Sơn, Nhà nước giữ 46%, nông dân trong mía và cổ đông ngoài doanh nghiệp mua 26% (trong đó có 40.000 cổ phần ưu đãi cho người trồng mía), người lao động trong doanh nghiệp mua 24% cổ phần. ở Tổng công ty mí đường La Ngã Nhà nước giữ 35%, nông dân §Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ SV: Hoµng ThÞ Trang tròng mía và cổ đông ngoài doanh nghiệp mua 25% (trong đó có 15.000 cổ phần ưu đãi cho người trồng mía), người lao động trong doanh nghiệp 40% cổ phần. Sau 5 năm cổ phần hoá (từ năm 2000 đến năm 2005) nộp ngân sách tăng từ 10 tỷ lên 38 tỷ đồng và lợi nhuận đạt tới 77,5 tỷ đồng và cổ tức là 20%/năm. Thứ tư, là việc chuyển từ cổ phần hoá thưo hướng cơ bản khép kín, nội bộ sang hình thức đấu giá công khai, bán cổ phần ra bên ngoài để thu hút nhà đầu tư trong và ngoài nước. Đây được coi là sự chuyển biến “có chất” nhất thể hiện sự thay đổi căn bản quan điểm và chủ trương về cổ phần hoá, góp phần tạo ra sức bật mạnh mẽ để đẩy nhanh, mạnh tiến trình cải cách hệ thống Doanh nghiệp nhà nước một cách công khai, minh bạch và tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế trong và ngoài nước cùng tham gia. Trong đợt đấu giá cổ phiếu đầu tiên của công ty sữa Việt Nam đã thu hút được các nhà đầu tư chiến lược nước ngoài và họ đã mua tới gần 80% tổng số cổ phần bán ra. Thứ năm, cổ phần hoá là một xu hướng tất yếu, là giải pháp mang tính đột phá nhằm chuyển đổi Doanh nghiệp nhà nước đơn sở hữu sang đa sở hữu. Các doanh nghiệp quân đội cũng không nằm ngoài xu hướng đó. Khi triển khai thực hiện cổ phần hoá các doanh nghiệp đã gặp rất nhiều khó khăn bởi vì các doanh nghiệp quân đội vốn chưa thích nghi hoàn toàn với cơ chế thị trường, bản thân người lao động cũng chưa sẵn sàng cho việc này, nhưng tính đến thời điểm này, đã có 16 doanh nghiệp quân đội triển khai thực hiện cổ phần hoá, trong đó có 9 công ty, xí nghiệp phụ thuộc hoàn thành xong (đạt 56% kế hoạch). 2. Tình hình hoạt động của các doanh nghiệp sau cổ phần hoá. Sau 15 năm thực hiện chủ trương cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước, cho đến nay đã có gần 3000 doanh nghiệp được cổ phần hoá. Nhìn chung các doanh nghiệp cổ phần hoá đều phát triển ổn định và hoạt động có hiệu quả hơn. Tuy nhiên thực tiễn cũng chỉ ra nhiều trở ngại gây khó khăn cho các doanh nghiệp sau cổ phần hoá. Việc nhận dạng đúng thực trạng và tìm biện §Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ SV: Hoµng ThÞ Trang pháp tháo gỡ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp sau cổ phần hoá phát triển tốt hơn đang là vấn đề bức xúc hịên nay. Cổ phần hoá các Doanh nghiệp nhà nước đã nâng cao rõ rệt hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trên tất cả các chỉ tiêu chủ yếu: về vốn, doanh thu, lợi nhuận, nộp ngân sách, số lượng lao động, cổ tức. Kết quả của các cuộc điều tra cho thấy: Thứ nhất, ngay trong năm đầu tiên cổ phần hoá, doanh thu bình quân của doanh nghiệp tăng 13%, lợi nhuận sau thuế tăng 48,8%... và cho đến nay có tới 92,5% số doanh nghiệp được điều tra rừng có lãi, lợi nhuận trước thuế tăng bình quân 149,7%, lợi nhuận sau thuế tăng bình quân 182,3%. Điều này cho thấy việc chuyển đổi đã có tác động mạnh đến hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Thứ hai, đối với những doanh nghiệp cổ phần hoá nhiều năm đã đi vào hoạt động ổn định, tốc độ tăng trưởng của doanh nghiệp được duy trì, doanh thu bình quân tăng 23,6%, lợi nhuận trước thuế tăng 9,4%, lợi nhuận sau thuế tăng tới 54,4%. Một số doanh nghiệp có doanh thu tăng cao như công ty cổ phần đại lý liên hiệp vận chuyển: 30 lần, công ty cổ phần cơ điện lạnh: 13 lần, công ty cổ phần Kim Đan: 11,2 lần… Thứ ba, một số chỉ tiêu phản ánh kết quả hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp sau cổ phần hoá đều tăng; năng suất lao động tăng bình quân 63,9%; mức nộp ngân sách tăng bình quân 26,53%; thu nhập bình quân tháng của lao động tăng 34,5% so với trước khi cổ phần hoá. Điều đó khẳng định hiệu quả của việc chuyển đổi các Doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần. Thứ tư, sau cổ phần hoá các doanh nghiệp phát triển sản xuất kinh doanh, tạo thêm công ăn việc làm, thu hút thêm lao động, số lao động trong các doanh nghiệp cổ phần hoá phát triển bình quân tăng 6,6%. Cổ tức bình quân của các doanh nghiệp đạt 17,11% cao hơn nhiều so với lãi suất. §Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ SV: Hoµng ThÞ Trang Thứ năm, vốn huy động được từ việc bán cổ phiếu cũng tăng đáng kể. Vốn bình quân một doanh nghiệp tăng từ 24 tỷ đồng (năm 2001) lên 63,6 tỷ đồng (năm 2004). Đây là yếu tố đầu vào rất quan trọng để mở rộng sản xuất kinh doanh mang lại lợi nhuận cao hơn nữa cho doanh nghiệp, tạo thêm nhiều công ăn việc làm cho người lao động, góp phần giải quyết vấn đề thất nghiệp trong xã hội hiện nay. Qua nghiên cứu, khảo sát các doanh nghiệp sau cổ phần hoá của Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho thấy việc thay đổi mô hình hoạt động của cán bộ quản lý và người lao động đã có tác động tích cực đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp. Cán bộ quản lý và người lao động đã thật sự gắn bó với doanh nghiệp, nhờ vậy mà hiệu quả kinh doanh tăng lên. Có 96% số doanh nghiệp cho rằng cán bộ quản lý đã quan tâm nhiều hơn đến hiệu quả sản xuất kinh doanh, 88% số doanh nghiệp khẳng định kết quả sản xuất của người lao động đã tăng lên khi tiền lương của họ được tính toán trên cơ sở kết quả việc làm. Thực tế có 85% doanh nghiệp cho rằng sau cổ phần hoá cơ sở vật chất kỹ thuật, năng lực sản xuất của doanh nghiệp được khai thác triệt để hơn, sử dụng tốt hơn, tiết kiện hơn trước. 3. Những mặt hạn chế của cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước và nguyên nhân của chúng. Những mặt hạn chế của cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước. Bên cạnh những thành công như đã nêu trên, việc thực hiện chủ trương cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước ở nước ta cũng đã bộc lộ nhiều hạn chế: - Hạn chế rõ nhất trong việc thực hiện chủ trương cổ phần hoá là tiến độ cổ phần hoá còn chậm. Vốn Nhà nước trong các Doanh nghiệp nhà nước đã cổ phần hoá còn nhỏ và việc huy động vốn trong quá trình chưa được nhiều, thời gian tiến hành cổ phần hoá một doanh nghiệp còn quá dài. So với đề án được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt thì số Doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hoá chưa đạt 80%, số lượng Doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hoá trong năm 2005 tuy đạt con số 754 đơn vị, nhưng nếu so với yêu cầu §Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ SV: Hoµng ThÞ Trang của Nghị quyết Hội nghị lần thứ 9 Ban chấp hành TW Đảng khoá IX là phải hoàn thành về cơ bản việc cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước vào năm 2005 là chưa đạt. Theo báo cáo kết quả khảo sát của Dự án hỗ trợ kỹ thuật giám sát chuyển đổi sở hữu Doanh nghiệp nhà nước tại 934 doanh nghiệp đã cổ phần hoá cho thấy, thời gian cổ phần hoá doanh nghiệp tuy đã giảm được 512 ngày (năm 2001) xuống còn 437 ngày (năm 2004) nhưng vẫn còn dài. Trong đó chia theo các giai đoạn sau: STT Nội dung công việc Số ngày thực hiện 1 Thành lập ban đổi mới doanh nghiệp – bắt đầu định giá 135 ngày 2 Bắt đầu định giá - quyết định giá trị doanh nghiệp 135 ngày 3 Quyết định giá trị doanh nghiệp – phê duyệt phương án cổ phần hoá 66 ngày 4 Phê duyệt phương án cổ phần hoá - bắt đầu bán cổ phần 24 ngày 5 Bắt đầu bán cổ phần – hoàn thành bán cổ phần 38 ngày 6 Hoàn thành bán cổ phần - đại hội cổ đông 15 ngày 7 Đại hội cổ đông - đăng ký kinh doanh 24 ngày 8 Tổng cộng 437 ngày Việc cổ phần hoá các Tổng công ty diễn ra rất ì ạch. Đã có chủ trương cổ phần hoá Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) và Ngân hàng Phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long từ 2 năm nay nhưng nay mới nhỉ dừng lại ở mức chuẩn bị : vạch lộ trình và cách thức cổ phần hoá và dự kiến đến hết năm 2007 mới có thể tiến hành Đại hội cổ đông. Cổ phần hoá Tổng công ty Xuất khẩu xây dựng (VINACONEX) cũng nằm trong tình trạng tương tự. §Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ SV: Hoµng ThÞ Trang - Chuyển sang công ty cổ phần doanh nghiệp trở thành đa sở hữu về vốn. Nhưng thực tế trong số gần 3000 doanh nghiệp đã cổ phần hoá thì chỉ có 30%, Nhà nước không giữ đồng vốn nào: 29%, Nhà nước giữ cổ phàn chi phối trên 51%. Cũng trong số gần 3000 doanh nghiệp thì Nhà nước cũng nắm lại 46,5% vốn điều lệ. Điều này cho thấy mặc dù đã cổ phần hoá nhưng Nhà nước vẫn là cổ đông lớn nhất, đồng thời phần lớn các công ty cổ phần được thành lập theo cách này đang được Nhà nước nắm cổ phần chi phối. Điều đáng nói là tỷ lệ vốn điều lệ mà Nhà nước còn nắm tại các công ty cổ phần không giảm mà ngày càng tăng. Nếu thời kỳ đầu (1992-1998) tỷ lệ cổ phần mà Nhà nước nắm trong các công ty cổ phần là 28%, thì đến thời kỳ 2001- 2004 tỷ lệ này lên tới 49,8% và hiện nay bình quân là 46,5%. Một thực tế khác, cổ đông là người lao động chỉ chiếm 15%. Cũng trong gần 3000 doanh nghiệp nói trên, chỉ có 25 doanh nghiệp có Nhà nước đầu tư nước ngoài. Theo đánh giá của nhiều chuyên gia kinh tế thì đây là cơ chế không thoả đáng. - Mặc dù có chuyển biến trong năm 2005 là đã có những doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, có quy mô vốn lớn và một số tổng công ty đang cổ phần hoá, nhưng nhìn chung đại đa số các doanh nghiệp đã cổ phần hoá đều có vốn Nhà nước quá nhỏ. Số lượng các doanh nghiệp cổ phần hoá có quy mô vốn Nhà nước dưới 5 tỷ đồng chiếm tới gần 60%, chỉ có 18,5% số doanh nghiệp cổ phần hoá có quy mô vốn Nhà nước trên 10 tỷ đồng. Điều đó dẫn đến tình trạng về mặt số lượng Doanh nghiệp nhà nước đã cổ phần hoá chiếm tới 53% tổng số Doanh nghiệp nhà nước có tại thời điểm đầu năm 2001, nhưng về vốn mới chỉ chiếm hơn 10%. Như vậy là số vốn chưa được cổ phần hoá còn rất lớn (khoảng 270 tỷ đồng), nhưng đa số không phát huy được hiệu quả. Số vốn này tập trung chủ yếu tại các công ty 91 (riêng 3 tổng công ty Dỗu khí, Điện lực, Bưu chính Viễn thông nắm giữ 113 ngàn tỷ đồng). - Nhiều công ty cổ phần chưa có sự đổi mới mạnh trong quản trị công ty, phương pháp quản lý, lề lối làm việc tư duy quản lý vẫn còn như Doanh nghiệp nhà nước nên hiệu quả thấp. Đa số lãnh đạo các công ty cổ phần đều là §Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ SV: Hoµng ThÞ Trang cán bộ cũ của Doanh nghiệp nhà nước chuyển sang, không có thêm những khuôn mặt mới với tư cách tư duy theo lối mới để đem lại sức sống mới cho công ty cổ phần. Việc Nhà nước nắm giữ 51% vốn diều lệ tại khá nhiều công ty cổ phần là một cái cớ để các cơ quan quản lý Nhà nước tiếp tục can thiệp vào hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Hội đồng quản trị không thực hiện hết chức năng của công ty cổ phần theo luật định mà chủ yếu tập trung theo sự chỉ đạo của Nhà nước. Lãnh đạo công ty không đại diện cho cổ đông có sở hữu vốn lớn mà chủ yếu Nhà nước định hướng tham gia quản lý. Những điều đó dẫn đến tình trạng là doanh nghiệp cổ phần hoá nào mà Nhà nước nắm cổ phần chi phối thì hoạt động khó khăn hơn trước. - Việc thực hiện chính sách đối với người lao động có những bất cập. Thực tế là nhiều doanh nghiệp không đủ kinh phí để giải quyết chính sách cho người lao động, không lo được việc làm cho họ. Ngược lại ở một số đơn vị làm ăn có hiệu quả, có phúc lợi để giải quyết chính sách trợ cấp mất việc do sắp xếp lại thì người lao động lại không muốn nghỉ theo chế độ. Chính vì vậy tỷ lệ người lao động được giải quyết nghỉ theo chế độ sau khi Doanh nghiệp nhà nước chuyển sang công ty cổ phần vẫn còn rất thấp so với số lượng cần phải giải quyết. Trong một số Doanh nghiệp nhà nước đã được cổ phần hoá, đặc biệt là trong những doanh nghiệp có những lợi thế về vị trí địa lý đã xuất hiện hiện tượng một số kẻ đầu cơ đã tìm cách mua lại những cổ phiếu mà người lao động trong doanh nghiệp đã được mua với giá ưu đãi. Người lao động do chưa ý thức được ý nghĩa của việc sở hữu cổ phần trong doanh nghiệp, đồng thời cũng không nắm được giá trị thực của cổ phần mà mình sở hữu, nên đã bán cổ phần lại cho những người đầu cơ để hưởng chênh lệch. Điều này không những gây thiệt hại cho Nhà nước, cho bản thân người lao động mà còn ảnh hưởng đến một trong những mục đích quan trọng của cổ phần hoá là tạo động lực quản lý cho doanh nghiệp khi người lao động trong doanh nghiệp thực sự là người chủ. §Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ SV: Hoµng ThÞ Trang Với tư cách là hình thức chuyển đổi sở hữu Doanh nghiệp nhà nước chủ yếu, việc cổ phần hoá còn nhiều hạn chế đã ảnh hưởng đáng kể đến quá trình sắp xếp lại Doanh nghiệp nhà nước ở nước ta. Vậy đâu là nguyên nhân của những hạn chế này? Những nguyên nhân chủ yếu của những hạn chế trong quá trình cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước. Những nguyên nhân chủ yếu của quá trình thực hiện cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước có thể được giải thích bởi những nguyên nhân chính sau đây: Hạn chế về nhận thức - Trong thực tế, nhiều cán bộ quản lý, nhất là lãnh đạo các Doanh nghiệp nhà nước chưa thực sự quyết tâm tiến hành cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước mà mình đang quản lý. Cản trở này đã bắt nguồn từ nhận thức không đúng về cổ phần hoá. Có thể nói rằng, đại bộ phận các cán bộ quản lý doanh nghiệp, người lao động chưa thấy rõ được bản chất, vai trò và ưu thế của cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước đối với ự phát triển nền kinh tế, đối với cải thiện hoàn cảnh của người lao động.Việc tuyên truyền về cổ phần hoá chưa đạt tới mức làm cho cán bộ, đảng viên trong các Doanh nghiệp nhà nước hiểu đúng về cổ phần hoá, về vai trò mới của người lao động. Vì thế, ở nhiều Doanh nghiệp nhà nước, cán bộ công nhân viên đều không muốn doanh nghiệp của mình bị cổ phần hoá, bản thân mình chuyển từ chế độ tuyển dụng sang chế độ hợp đồng. - Cổ phần hoá là giải pháp cải cách Doanh nghiệp nhà nước nên việc tiến hành hoạt động này khá nhạy cảm về chính trị. Những giải pháp cải cách này dễ gây sự phản ứng từ khá nhiều cấn bộ, đảng viên có tư duy trở thành “bất di, bất dịch” là chỉ có Doanh nghiệp nhà nước, kinh tế Nhà nước mới là nền tảng của Chủ nghĩa xã hội. Vì vậy theo họ, cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước là làm “giảm sút” về lượng vai trò của Doanh nghiệp nhà nước. - Lợi ích cá nhân của nhiều cán bộ quản lý Doanh nghiệp nhà nước cũng là một trong những cản trở việc nhận thức đúng về cổ phần hoá. Những §Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ SV: Hoµng ThÞ Trang người này lo lắng khi chuyển sang hình thức công ty cổ phần vị trí quản lý của họ bị thay đổi và không có gì đảm bảo chắc chắn rằng họ sẽ giữ những cương vị đó trong công ty cổ phần được hình thành trên nền tảng doanh nghiệp mà mình đang quản lý. Mối lo này cũng với những lợi ích khác cản trở những cán bộ quản lý hiểu đúng tầm quan trọng của giải pháp cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước. Hạn chế về sự chỉ đạo của Đảng, Nhà nước Việc cổ phần hoá là giải pháp cơ bản, toàn diện trong sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả Doanh nghiệp nhà nước. Do động chạm đến nhiều vấn đề phức tạp nên trong quá trình thực hiện, Đảng và Nhà nước vừa làm vừa rút kinh nghiệm. Thực tế cho thấy nơi nào cấp uỷ Đảng, chính quyền địa phương quan tâm chỉ đạo thì mọi khó khăn lúng túng đều có thể khắc phục được. Khách sạn Sài Gòn ban đầu chỉ có 25% công nhân viên đăng ký mua cổ phần nhưng sau gần hai năm kiên trì giải thích, thuyết phục, khi cổ phần hoá đã có 100% người lao động trong công ty mua cổ phần. Tuy nhiên, đây là vấn đề lớn, phức tạp nên không thể tránh khỏi những hạn chế, bất cập nhất định. Những hạn chế về chỉ đạo thực hiện biểu hiện ở một số khía cạnh sau: - Cơ sở pháp lý cho cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước còn chưa vững chắc. Việc ban hành các Nghị định, các Thông tư điều chỉnh các vấn đề khác nhau của cổ phần hoá không giải quyết được mâu thuẫn giửa các văn bản luật có liên quan đến những vấn đề cụ thể của cổ phần hoá. Đã qua 15 năm thực hiện cổ phần hoá song chúng ta chưa có một văn bản luật có giá trị cao, mang tính hệ thống về cổ phần hoá. Mặc dù số lượng các văn bản về cổ phần hoá được ban hành nhiều, nhất là các thông tư về tinh xung quanh các Nghị định, quyết định, song số vấn đề được giải quyết trong đó không tăng. Hơn nữa, các văn bản pháp luật đã ban hành chưa xác định đúng loại quan hệ đột phá trong cổ phần hoá nên tính dân chủ của các quy định là điều dễ nhận thấy trong đó. §Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ SV: Hoµng ThÞ Trang - Môi trường bình đẳng giữa các thành phần kinh tế chưa được độc lập. Doanh nghiệp nhà nước vẫn được nhiều ưu đãi hơn và một số cán bộ quản lý ở các ngành vẫn coi doanh nghiệp đã cổ phần hoá là doanh nghiệp ngoài quốc doanh nên còn phân biệt đối xử. Mặt khác do luật công ty trước đây là luật Doanh nghiệp nhà nước đều chưa xác định được một cách đầy đủ vai trò quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp đa sở hữu có vốn của Nhà nước gộp trong nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa nên mỗi nơi vận dụng theo một nhận thức riêng. Các thông tư hướng dẫn đều có lợi cục bộ cho doanh nghiệp, thậm chí cho một nhóm người nhất định thì thường được ưu tiên áp dụng hơn so với các quy định pháp luật có hiệu lựa cao hơn. - Về công tác tổ chức: cổ phần hoá là một chính sách quốc gia của việc đổi mới, hoàn thiện thành phần kinh tế công. Việc thực hiện cổ phần hoá cần được tổ chức chặt chẽ. Các vấn đề đã được giải quyết, các phương án được đưa ra phải được nghiên cứu kỹ lưỡng rút kinh nghiệm và liên tục hoàn thiện biện pháp triển khai. ở nước ta hiện nay chưa có được một tổ chức đủ mạnh để thực hiện nhiệm vụ này. 4. Cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước trong giai doạn hiện nay – mục tiêu và triển vọng. Những phân tích nêu trên về tác động và thực trạng của cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước cho thấy sự cần thiêt phải tiếp tục tiến hành giải pháp này trong giai đoạn tới. Nếu đặt giải pháp này trong bối cảnh hiện nay sẽ càng thấy rõ hơn tính cấp bách của vấn đề. Sự cần thiết phải đẩy mạnh hơn nữa chương trình cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước bắt nguồn chủ yếu từ những nguyên nhân sau: - áp lực cải cách Doanh nghiệp nhà nước để tạo ra sự phát triển ổn định và bền vững hơn đang trở nên nặng nề hơn do nền kinh tế nước ta vẫn chưa thoát khỏi tình trạng kém phát triển. - Việc đất nước ta tích cực chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, ký kết và tham gia các hiệp định thương mại đa phương và song phương. §Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ SV: Hoµng ThÞ Trang Tất cả những bước tiến sâu vào hội nhập kinh tế để dẫn đến thị trường mở và chế độ tự do thương mại. Điều này có ý nghia là các doanh nghiệp Việt Nam phải cạnh tranh để tồn tại. Cạnh tranh ngay cả trên thị trường nội địa và thị trường quốc tế. Tính cạnh tranh thấp là điểm yếu lớn nhất của doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là doanh nghiệp nhà nước. - Tiến độ cổ phần hoá trong những năm vừa qua tuy có những bước phát triển, song so với yêu cầu đổi mới kinh tế thì vẫn chưa đáp ứng. Trong giai đoạn tới, Đảng và Nhà nước ta chủ trương đẩy mạnh hơn nữa cải cáh Doanh nghiệp nhà nước thông qua cổ phần hoá. Nghị quyết hội nghị TW Đảng khoá IX đã khẳng định: “Tiếp tục đổi mới, sắp xếp, phát triển và nâng cao hiệu quả khu vực Doanh nghiệp nhà nước, trọng tâm là cổ phần hoá mạnh hơn nữa…”, “Đẩy nhanh tiến độ cổ phần hoá, mở rộng diện các Doanh nghiệp nhà nước cần cổ phần, kể cả một số Tổng công ty và doanh nghiệp lớn trong các ngành điện lực, luyện kim, cơ khí, hoá chất, phần bón, xi mang, xây dựng, vận tải đường bộ, đường sông, hàng không, hàng hải, viễn thông, ngân hàng, bảo hiểm”. Những định hướng cho tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả Doanh nghiệp nhà nước trong đó chủ yếu là cổ phần hoá trong giai đoạn trước mắt bao gồm: - Thị trường hoá giá trị tài sản Doanh nghiệp nhà nước thực hiện cổ phần hoá, trong đó có giá trị quyền sử dụng đất. - Sử dụng rộng rãi việc phát hành cổ phần ra công chúng, nhất là phải niêm yết trên thị trường chứng khoán, khắc phục tình trạng cổ phần hoá khép kín trong nội bộ doanh nghiệp. - Chuyển các Doanh nghiệp nhà nước 100% vốn của Nhà nước sang hoạt động theo chế độ công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên. - Xoá bỏ các loại bảo hộ bất hợp lý và khắc phục tình trạng bao cấp như khoanh nợ, giãn nợ, xóa nợ, bù lỗ, cấp vốn tín dụng, ưu đãi tràn lan đối với các hoạt động kinh doanh của Doanh nghiệp nhà nước. Thực hiện đầu ta §Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ SV: Hoµng ThÞ Trang vốn cho Doanh nghiệp nhà nước thông quá các công tư đầu tư tài chính Nhà nước. - Khẩn trương xoá bỏ đặc quyền và độc quyền không cần thiết của Doanh nghiệp nhà nước phù hợp với lộ trình chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. - Đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của các Tổng công ty Nhà nước và chuyển sang hoạt động theo mô hình Công ty mẹ - công ty con trên cở sở đó hình thành các Tập đoàn kinh tế mạnh do Tổng công ty Nhà nước làm nòng cốt. Tóm lại, mục tiêu của chúng ta đặt ra là phải đến năm 2010 sẽ hoàn tất quá trình cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước. Vậy để thực hiện mục tiêu lớn này chúng ta cần có những biện pháp gì. §Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ SV: Hoµng ThÞ Trang III. Một số biện pháp góp phần đẩy nhânh tiến trình cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước. Quá trình cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước chắc chắn sẽ tiếp tục diễn ra mạnh mẽ và sâu sắc trong năm 2006. Tuy nhiên tốc độ sẽ không thể như kỳ vọng của Chính Phủ cũng như công chúng đầu tư. Luật Doanh ngiệp nhà nước mới được Quốc hội thông qua vào tháng 11-2005 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/07/2006 đặt ra thời hạn hoàn tất chuyển đổi thống nhất đối với các Doanh nghiệp nhà nước là 4 năm. Đây quả là một thách thức, bởi lẽ 15 năm mới đi được 1/10 chặng đường, vậy thì làm thế nào để có thể chạy nốt 9 phần chặng đường còn lại trong 4 năm. Để có thể thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa quá trình cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước và hoàn tất quá trình này vào năm 2010, theo dự kiến có rất nhiều công việc phải làm. Trước hết Chính phủ cần tiếp tục hoàn thiện các cơ chế chính sách cho cổ phần hoá cũng như chỉ đạo đẩy mạnh hơn, quyết liệt hơn nữa đối với các Tổng công ty, các công ty nhà nước lớn. Bên cạnh đó về phía các Doanh nghiệp nhà nước cũng cần phải quán triệt nhận thức, nỗ lực quyết tâm trong việc vạch ra và thực thi lộ trình cổ phần hoá. Lãnh đạo các Doanh nghiệp nhà nước cũng như các Bộ, ngành chủ quản cần đứng trên quan điểm phát triển để nhận thức rằng cổ phần hoá là con đường tất yếu để có thể tồn tại trong bối cảnh hội nhập đang đến gần. Những đặc quyền, đặc lợi cá nhân hay cục bộ cần phải được từ bỏ. Tuy nhiên bên cạnh đó cũng cần phải lưu ý làm nhanh không có nghĩa là làm ẩu, tránh cổ phần hình thức hoặc “bán rẻ” tài sản Nhà nước. Cùng với việc khẩn trương đổi mói một số cơ chế chính sách nhất là cơ chế tài chính có liên quan đến cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. Chính phủ đã và đang triển khai các biện pháp sau đây: Vể tổ chức chỉ đạo, về quyết định phê duyệt danh sách các doanh nghiệp cổ phần hoá, về tập trung chỉ đạo các doanh ngiệp trong diện. Đồng thời §Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ SV: Hoµng ThÞ Trang hướng dẫn cổ phần hoá các Bộ, các địa phương khác nhằm triển khai đồng đều trong cả nước, về việc nghiên cứu chuẩn bị đề án thành lập Quỹ hỗ trợ sắp xếp Doanh nghiệp nhà nước mà trọng tâm là hỗ trợ sắp xếp việc làm bằng các nguồn vốn trích từ vốn bán cổ phần, hỗ trợ ngân sách và huy động vốn của nước ngoài, cụ thể: Một là, tạo ra sân chơi bình đẳng giữa Doanh nghiệp nhà nước và công ty cổ phần về những điều kiện hoạt động kinh doanh. Do đó để thúc đẩy tiến trình cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước cần phải tạo ra sự bình đẳng giữa các khu vực kinh tế, giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài. Đồng thời cần xoá bỏ chế độ bao cấp cho khu vực kinh tế quốc doanh. Hai là, lựa chọn Doanh nghiệp nhà nước và loại hình công ty cổ phần. Cổ phần hoá là chuyển sở hữu Nhà nước vào tay cổ đông thuộc các thành phần kinh tế. Quá trình này đụng chạm đến vấn đề mấu chốt trong kinh tế đó là sở hữu. Từ đó dặt ra hai vấn đề: - Chuyển toàn bộ hay chỉ chuyển một bộ phận Doanh nghiệp nhà nước thì là bộ phận nào? - Tổ chức công ty cổ phần như thế nào để phát huy được ưu thế của hình thức này, đồng thời nâng cao hiệu quả sản xuất. Việc lựa chọn Doanh nghiệp nhà nước để cổ phần hoá phụ thuộc vào quan niệm về vai trò của Doanh nghiệp nhà nước trong sự phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia. Quan niệm bắt nguồn từ mục tiêu kinh tế, chính trị được lựa chọn trình độ phát triển của nền kinh tế, truyền thống và hoàn cảnh lịch sử của mỗi quốc gia khi tiến hành cổ phần hoá. Như vậy, chuyển Doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần không phải là mục đích tự thân, mà xuất phát từ mục tiêu kinh tế, chính trị, xã hội do Nhà nước lựa chọn giải pháp chuyển doanh nghiệp sang công ty cổ phần trong giai đoạn hiện nay để có thể thực hiện ở một số doanh nghiệp mà trước hết là vì mục tiêu lợi nhuận. §Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ SV: Hoµng ThÞ Trang Với mục tiêu cổ phần hoá hiện nay, cần chủ trương cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước theo hướng chuyển nhượng một phần quyền sở hữu Nhà nước sang các thành phần kinh tế khác. Trường hợp Nhà nước ít cần can thiệp đến có thể chuyển sang công ty cổ phần mà trong đó vốn Nhà nước ít hoặc thậm chí không tham gia. Ba là, Nhà nước cần có các chính sách hỗ trợ về tài chính như miễn thuế lợi tức, thuế thu nhập trong thời gian đầu của các doanh nghiệp cổ phần để kích thích các thành phần kinh tế khác tham gia mua cổ phiếu. Trương hợp những doanh nghiệp không đủ điều kiện hưởng ưu đãi theo quy định của Luật khuyến khích đầu tư trong nước thì được giảm 50% thuế lợi tức (Thuế thu nhập doanh nghiệp) trong hai năm liên tiếp từ sau khi chuyển sang hoạt động theo Luật công ty. Để duy trì và phát triển quỹ phúc lợi dưới dạng hiện vật. Các chương trình văn hoá, câu lạc bộ, nhà điều dưỡng để đảm bảo phúc lợi cho người lao động trong công ty cổ phần. những tài sản này thuộc sở hữu tập thể người lao động do công ty cổ phần quản lý với sự tham gia của tổ chức Công đoàn. Thực tế tiến hành cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước cho thấy những ưu tiên trên là hợp lý, là phù hợp với thực tiến của công tác cổ phần hoá và được sự đồng tình ủng hộ của các doanh nghiệp. Bốn là, Nhà nước cần có sự giúp đỡ đối với các cán bộ công nhân viên có đủ khả năng mua cổ phần ở các doanh nghiệp tiến hành cổ phần hoá, như cho vay tín dụng với lãi suất thấp, thời hạn dài. Tương tự như Nhà nước cho nông dân vay vốn để sản xuất. Đây là một kinh nghiệm tốt mà nhiều nước trên thế giới đã thực hiện trong quá trình cổ phần hoá các doanh nghiệp. Năm là, định giá cổ phiếu và mức độ bán cổ phần, cổ phiếu. Chế độ tài chính thống nhất ghi mẫu in ấn và cung cấp tờ cổ phiếu chậm nhất trong vọng 30 ngày kể từ khi kết thúc thời hạn phát hành của doanh nghiệp cổ phần hoá. Các cơ quan tài chính phổ biến hướng dẫn các công ty cổ phần thực hiện. §Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ SV: Hoµng ThÞ Trang Sáu là, đào tạo bồi dưỡng đội ngũ có trình độ chuyên môn giỏi về cổ phần hoá. Kinh nghiệm cho thấy muốn kinh tế phát triển năng động có hiệu quả trước hết phải có chiến lược con người, xây dựng một đội ngũ các nhà kinh doanh nhất là đối với công ty cổ phần mới hình thành, giám đốc điều hành giỏi là hết sức cần thiết. Để thực hiện điều này cần phải: - Đồng thời với việc thực hiện chủ trương cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước cần có chương trình vồi dưỡng kiến thức quản lý công ty cổ phần cho tất cả các cán bộ quản lý doanh nghiệp nằm trong diện cổ phần hoá. - Mở các lớp bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng quản lý các công ty cổ phần hoá cho tất cả các cán bộ quản lý các doanh nghiệp đã cổ phần hoá. Về kinh phí cho các lớp bồi dưỡng này cần có sự hỗ trợ nhất định của Nhà nước. đây là vấn đề đặc biệt quan trọng. Bảy là, có biện pháp tuyên truyền, giải thích cho người lao động nhận thức đúng đắn, đầy đủ về quyền lợi, trách nhiệm của họ đối với doanh nghiệp sau cổ phần hoá. Thực tiễn cho thấy rằng việc làm cho người lao động thấy rõ được lợi ích khi doanh nghiệp cổ phần hoá là rất quan trọng. Người lao động sẽ tự giác đồng tâm cùng Nhà nước thực hiện tốt chủ trương cổ phần hoá. Nhưng quan trọng hơn nhiều là làm cho người lao động hiểu được vị trí của họ trong doanh nghiệp cổ phần, một môi trường mới. Người lao động cần nhận thức được vai trò làm chủ của họ đối với doanh nghiệp, mức độ làm chủ đến đâu, những gì họ được phép làm… tránh tình trạng người lao động lạm dụng quyền làm chủ quá mức tạo nên sự không ổn định trong hoạt động của doanh nghiệp sau cổ phần hoá. §Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ SV: Hoµng ThÞ Trang Kết luận Đổi mới, sắp xếp và phát triển Doanh nghiệp nhà nước là yêu cầu tất yếu và cần thiết. Thấy được vấn đề đó, Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương triển khai thực hiện trong gần 20 năm. Mặc dù có những thăng trầm nhưng cũng đã đem lại những kết quả đáng ghi nhận. Việc sắp xếp Doanh nghiệp nhà nước được thực hiện bằng các giải pháp sáp nhập, hợp nhất, cổ phần hoá, giao, khoán, bán, cho thuê doanh nghiệp, tổ chức lại các Tổng công ty và thành lập Tập đoàn kinh tế. Trong tất cả những giải pháp này cổ phần hoá được xem là giải pháp cơ bản và quan trọng nhất để cơ cấu lại Doanh nghiệp nhà nước. Cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước đã được bắt đầu thí điểm từ năm 1990, từ đó đến nay đã 15 năm, trong 15 năm qua chúng ta đã sắp xếp được một nửa số Doanh nghiệp nhà nước. Và mục tiêu đặt ra là phải cổ phần hoá số còn lại trong 4 năm tới. Đây quả là một thách thức lớn, nếu không làm được thì vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước khó được đảm bảo. Muốn làm được phải đổi mới tư duy, phải vượt qua chính mình để có cách nhìn mới, có một quan niệm mới về kinh tế Nhà nước và vai trò chủ đạo của nó, về cổ phần hoá và cải cách Doanh nghiệp nhà nước, phải dám từ bỏ lợi ích cục bộ để đảm bảo lợi ích toàn cục, từ bỏ “chiếc mũ bảo hộ” của Nhà nước để tự vượt lên chính mình. Đó chính là chìa khoá thành công trong cải cách Doanh nghiệp nhà nước. §Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ SV: Hoµng ThÞ Trang Danh mục tài liệu tham khảo 1. Cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước. Cơ sở lý luận và kinh nghiệm thực tiễn 2. Cổ phần hoá các Doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam 3. Cổ phần hoá các Doanh nghiệp nhà nước. Lý luận và thực tiễn. 4. Nghiên cứu kinh tế số 333, tháng 2/2006. 5. Phát triển kinh tế số 4/2005. 6. Thương mại số 1+2/2005. 7. Kinh tế và dự báo số 6/2005. 8. Tạp chí tài chính số 1/2006. §Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ SV: Hoµng ThÞ Trang Mục lục Lời nói đầu ...................................................................................................... 1 Nội dung .......................................................................................................... 3 I. Cơ sở lý luận về việc Cổ phần hoá một bộ phận doanh nghiệp Nhà nước ở nước ta ...................................................................................... 3 1. Tính tất yếu phải cổ phần hoá một bộ phận doanh nghiệp Nhà nước ở nước ta ........................................................................................................... 3 1.1. Doanh nghiệp Nhà nước và yêu cầu đổi mới Doanh nghiệp Nhà nước .............................................................................................................. 3 1.2. Yêu cầu đổi mới Doanh nghiệp Nhà nước ..................................... 3 1.3. Cổ phần hoá - giải pháp cải cách doanh nghiệp Nhà nước tối ưu ... 5 2. Đối tượng của cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước ở nước ta ......... 8 3. Mục tiêu cổ phần hóa một bộ phận doanh nghiệp Nhà nước .......... 10 4. Tiền đề để cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước ........................... 12 II. Thực trạng cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam . 15 1. Quá trình cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước ở nước ta .............. 15 2. Tình hình hoạt động của các doanh nghiệp sau cổ phần hoá ........... 18 3. Những mặt hạn chế của cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước và nguyên nhân của chúng ................................................................................ 20 3.1. Những mặt hạn chế của cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước .... 20 3.2. Những nguyên nhân chủ yếu của những hạn chế trong quá trình cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước ................................................................ 23 4. Cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước trong giai đoạn hiện nay - mục tiêu và triển vọng .......................................................................................... 26 III. Một số biện pháp góp phần đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước ............................................................................ 28 Kết luận ........................................................................................................ 32 §Ò ¸n kinh tÕ chÝnh trÞ SV: Hoµng ThÞ Trang Tài liệu tham khảo .......................................................................................... 33

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf65323oc_7288.pdf
Luận văn liên quan