Qua hơn hai mươi năm thực hiện đường lối đổi mới do Đảng ta khởi xướng và
lãnh đạo đến nay, bộ máy nhà nước, nền hành chính nhà nước ta đã có những bước phát
triển đáng kể trong đó trách nhiệm cá nhân của NĐĐCCQHCNN đã được xác lập và
quy định trong hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật là cơ sở pháp lý vững chắc cho
tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước nói chung và cơ quan hành chính nhà nước
nói riêng. Nói tới nhà nước pháp quyền XHCN là nói tới nhà nước có trách nhiệm và
chịu trách nhiệm trước nhân dân.
132 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2757 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
pháp lý của người đứng đầu
Ba là, hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm của NĐĐCCQHCNN dựa trên cơ sở
phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế trong quá trình xây dựng và tổ chức thi hành
pháp luật về trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước.
Dân chủ và pháp chế XHCN là các nguyên tắc cơ bản trong xây dựng và tổ chức
thực thi pháp luật ở Việt Nam. Vì vậy, để đảm bảo và phát huy dân chủ, tăng cường
pháp chế XHCN trong xây dựng và thực thi pháp luật về trách nhiệm của người đứng
đầu cần đảm bảo một số yêu cầu sau:
Thứ nhất, khi tiến hành soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật phải tạo mọi sự
thuận lợi cho sự tham gia rộng rãi của cán bộ, công chức và các đối tượng liên quan đến
phạm vi điều chỉnh và áp dụng pháp luật về trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan
hành chính nhà nước. Sự tham gia của các đối tượng này tích cực và đông đảo bao
nhiều thì quy phạm pháp luật càng sát với yêu cầu thực tiễn, càng có tính khả thi và hiệu
lực thi hành cao.
- Phải thu hút sự tham gia tích cực của các tổ chức chính trị - xã hội và các tổ
chức khác vào quá trình soạn thảo văn bản qui phạm pháp luật.
- Sự tham gia của cá nhân và tổ chức trên đây vào đa phần các khâu của quy trình
soạn thảo.
Thứ hai, các văn bản phải được ban hành đúng thẩm quyền và tuân theo trình tự,
thủ tục, hình thức luật định. Văn bản quy phạm pháp luật về trách nhiệm của người
đứng đầu được ban hành phải bảo đảm tính hợp Hiến, hợp pháp và tính thống nhất của
từng văn bản và của cả hệ thống pháp luật.
Bốn là, hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm của NĐĐCCQHCNN quán triệt
nguyên tắc tập trung dân chủ và chế độ thủ trưởng trong các cơ quan hành chính
Nguyên tắc tập trung dân chủ là một trong những nguyên tắc cơ bản trong tổ chức
và hoạt động của bộ máy nhà nước, tổ chức và hoạt động của các cơ quan hành chính nhà
nước cũng dựa trên nguyên tắc cơ bản này. Đề cao trách nhiệm của NĐĐCCQHCNN
không có nghĩa là tuyệt đối hóa vai trò và trách nhiệm của người đứng đầu dẫn tới biểu
hiện chuyên quyền, độc đoán trong hoạt động quản lý điều hành của người đứng đầu cơ
quan hành chính. Mặt khác nếu không phân định rõ trách nhiệm của tập thể và trách
nhiệm của cá nhân người đứng đầu sẽ dẫn tới tình trạng né tránh, đùn đẩy trách nhiệm khi
có khó khăn hoặc xử lý sai phạm trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước. Bảo đảm
dân chủ và trao thực quyền cho người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước từ việc bổ
nhiệm, giao trách nhiệm cho người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước tới thực thi
nhiệm vụ, công vụ của người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước là yêu cầu trong quá
trình hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm của người đứng đâu các cơ quan hành chính nhà
nước hiện nay.
Năm là, hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm của NĐĐCCQHCNN cần được tiến
hành đồng bộ với cải cách hành chính và xây dựng hoàn thiện hệ thống pháp luật
chung.
Pháp luật về trách nhiệm của NĐĐCCQHCNN là cơ sở pháp lý quan trọng trong
quá trình cải cách hành chính, trong đó cải cách bộ máy hành chính và xây dựng đội
ngũ cán bộ, công chức hành chính. các quy định về trách nhiệm của NĐĐCCQHCNN
góp phần bảo đảm hiệu lực hiệu quả của của bộ máy hành chính. Chính vì vậy hoàn
thiện pháp luật về trách nhiệm của người đứng đầu trở thành nội dung của cải cách hành
chính, cũng như hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung không tách rời.
Sáu là, hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm của NĐĐCCQHCNN dựa trên cơ sở
cá thể hóa trách nhiệm người đứng đầu theo hướng đề cao trách nhiệm cá nhân
NĐĐCCQHCNN.
Đề cao trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước là việc
quy định cụ thể về trách nhiệm của từng chức danh đứng đầu của bộ máy hành
chính từ trung ương tới cơ sở trên cả hai phương diện: các quy định về trách nhiệm
của người đứng đầu cơ quan hành chính trong thực thi nhiệm vụ công vụ và trách
nhiệm cá nhân khi vi phạm pháp luật.
Cá thể hóa trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước
nhằm khắc phục những biểu hiện “ núp bóng” tập thể khi có sai phạm hoặc khó
khăn trong thực thi nhiệm vụ, công vụ. Trên cơ sở đó phát huy được hết khả năng,
năng lực của NĐĐCCQHCNN trong thực thi nhiệm vụ, công vụ. Xây dựng chế độ
công vụ đề cao tính chịu trách nhiệm trong hoạt động công vụ của đội ngũ công
chức nói chung và công chức lãnh đạo nói riêng là một xu thế khách quan trong
điều kiện cải cách hành chính ở nước ta hiện nay cũng như nhiều nước trên thế giới
trong bối cảnh hội nhập và phát triển.
3.2. Yêu cầu hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm của người đứng đầu cơ
quan hành chính nhà nước
Mục 1.3 đã xác định những tiêu chí cơ bản xác định mức độ hoàn thiện pháp
luật trách nhiệm người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước. Để đáp ứng được
những tiêu chí trong quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật này cần phải đáp ứng
được những yêu cầu sau:
- Phải quán triệt đầy đủ các quan điểm hoàn thiện pháp luật trách nhiệm của
người đứng đầu cơ quan hành chính ở mục 3.1 của Báo cáo này.
- Pháp luật về trách nhiệm người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước là
bộ phận không thể thiếu của thể chế hành chính. Nền hành chính sẽ không thể vận
hành và kém hiệu quả nếu thiếu những qui định về tổ chức bộ máy hành chính, về
đội ngũ cán bộ, công chức hành chính, trong đó có trách nhiệm của
NĐĐCCQHCNN từ trung ương tới cơ sở. Yêu cầu của hoàn thiện pháp luật về
trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước cũng chính là yêu
cầu hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước
trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN, đẩy mạnh cải cách hành
chính ở nước ta hiện nay. Trên cơ sở đó để hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm của
người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước.
+ Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan hành chính nhà nước,
điều chỉnh cơ cấu Chính phủ, các Bộ theo hướng giảm bớt các Bộ chuyên ngành về
kinh tế, tiếp tục thực hiện chủ trương xây dựng Bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực,
khắc phục chồng chéo chức năng thẩm quyền giữa các cơ quan hành chính. Đề cao
trách nhiệm cá nhân của NĐĐCCQHCNN.
+ Đơn giản hóa và sắp xếp hợp lý cơ cấu tổ chức bên trong các Bộ, xác định
rõ chức năng, tránh chồng chéo, đổi mới phương thức làm việc của các cơ quan
hành chính trong đó có NĐĐCCQHCNN.
+ Thực hiện phân cấp mạnh, trong đó cần thiết ban hành các qui định về
phân cấp quản lý hành chính nhà nước giữa Trung ương và địa phương, giữa các
cấp chính quyền địa phương. Phân định rõ trách nhiệm của NĐĐCCQHCNN ở địa
phương theo hướng cấp trên không can thiệp trực tiếp vào các công việc đã phân
cấp cho cấp dưới. Bảo đảm trách nhiệm đến cùng đối với NĐĐCCQHCNN, tránh
tình trạng đùn đẩy trách nhiệm trong hoạt động quản lý, điều hành.
+ Thực hiện chế độ thủ trưởng trong tổ chức các cơ quan hành chính nhà
nước ở địa phương trong đó chuyển từ chế độ ủy ban sang chế độ thủ trưởng và
thực hiện việc bầu cử phổ thông chức danh này từ đó làm rõ trách nhiệm của người
đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước với cử tri.
- Phải khắc phục được những hạn chế, bất cập và những khoảng trống chưa
có qui phạm pháp luật điều chỉnh của pháp luật hiện hành về trách nhiệm người
đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước.
3.3. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm của người đứng đầu các
cơ quan hành chính nhà nước
Pháp luật về trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước hiện
nay chừng mực nhất định đã thể chế hoá được các chủ trương của Đảng và chính sách
của Nhà nước về vị trí, vai trò của người đứng đầu các cơ quan trong hệ thống chính trị
nói chung và cơ quan hành chính nhà nước nói riêng. Hệ thống pháp luật đó bước đầu
tạo được hành lang pháp lý ghi nhận địa vị pháp lý của người đứng đầu, xác định chức
năng, nhiệm vụ và trách nhiệm của người đứng đầu trong các cơ quan, tổ chức, đơn vị.
Đồng thời là công cụ quan trọng cho người đứng đầu thực hiện quản lý, điều hành một
cách có hiệu quả... Tuy nhiên, trước sự biến đổi và phát triển nhanh chóng của đời sống
nhà nước và xã hội; xu thế toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế nhiều quy phạm pháp luật
về trách nhiệm của người đứng đầu các cơ quan trong hệ thống chính trị nói chung và
cơ quan hành chính nhà nước nói riêng không còn phù hợp; một số khác còn dừng ở
những quy định chung... Bên cạnh đó, còn có một số nhóm quan hệ chưa được pháp luật
điều chỉnh... Điều đó đòi hỏi phải có những giải pháp hoàn thiện, sửa đổi, bổ sung kịp
thời cả nội dung và hình thức.
3.3.1. Nhóm giải pháp hoàn thiện pháp luật về nội dung
3.3.1.1. Hoàn thiện thể chế xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của Chính phủ
và các cơ quan hành chính nhà nước địa phương liên quan đến người đứng đầu trên
cơ sở đó hoàn thiện các quy định về trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan hành
chính nhà nước.
Thứ nhất, hoàn thiện thể chế quy định rõ chức năng, nhiệm vụ của Chính phủ và
cơ quan hành chính nhà nước địa phương
Một là, đối với Chính phủ
Tiếp tục hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ của Chính phủ theo hướng xây dựng hệ
thống cơ quan hành pháp thống nhất, thông suốt, hiện đại và đúng với vai trò là cơ quan
hành chính nhà nước cao nhất. Tập trung xây dựng các quy định hướng dẫn thực hiện
chức năng, nhiệm vụ của Chính phủ đầy đủ và cụ thể. Thực hiện nhất quán nguyên tắc:
Một việc chỉ giao cho một cơ quan, một người chịu trách nhiệm chính.
Trên thực tế nguyên tắc này vẫn chưa được thực hiện nhất quán, ví dụ Quản lý
nhà nước về vệ sinh an toàn thực phẩm hiện nay có đến 5 Bộ chịu trách nhiệm chính
trong chuỗi cung cấp thực phẩm, đó là: sản phẩm từ đồng ruộng sau sơ chế do Bộ Nông
nghiệp & Phát triển nông thôn; Quá trình chế biến sản phẩm tại nhà máy do Bộ Công
Thương; Công nhận quy chuẩn kỹ thuật do Bộ Khoa học- Công nghệ; Giám sát đưa
hàng vào lưu thông do Hải quan và Bộ Y tế chịu trách nhiệm quản lý nhà nước về chất
lượng vệ sinh an toàn thực phẩm.
Chính phủ tập trung thực hiện tốt hơn nữa chức năng quản lý nhà nước trên tất cả
các lĩnh vực mà pháp luật đã quy định. Xác định rõ phạm vi và nội dung quản lý nhà
nước về kinh tế, xã hội cho phù hợp với yêu cầu phát triển. Tập trung làm tốt hơn việc
hoạch định thể chế, cơ chế, chính sách, xây dựng giải pháp, bảo đảm các cân đối lớn và
ổn định kinh tế vĩ mô, cải cách thủ tục hành chính, tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho
các hoạt động kinh tế, xã hội. Xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và nâng cao
năng lực chỉ đạo tổ chức thực hiện, tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra.
Xây dựng quy chế làm việc của Chính phủ chặt chẽ và thiết thực. Xác định cụ
thể nhiệm vụ của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các Phó Thủ tướng và từng thành
viên Chính phủ, bảo đảm bao quát hết các chức năng, nhiệm vụ của Chính phủ. Xác
định rõ phạm vi và nội dung quản lý nhà nước của cơ quan hành chính nhà nước các
cấp.
Đẩy mạnh sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước mà trọng tâm là cổ phần hoá,
kể cả các tổng công ty và tập đoàn kinh tế, thu hẹp và tiến tới các Bộ và UBND các tỉnh,
thành phố không còn thực hiện chức năng đại diện chủ sở hữu đối với doanh nghiệp nhà
nước. Làm rõ chức năng quản lý nhà nước của cơ quan hành chính và chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn của các đơn vị sự nghiệp, phân cấp mạnh cho các đơn vị sự nghiệp về sử
dụng ngân sách, kinh phí, tuyển dụng và bổ nhiệm cán bộ.
Từ thực tiễn giải quyết đơn, thư khiếu nại của công dân, nghiên cứu việc thành
lập tài phán hành chính.
Hai là, đối với cơ quan hành chính ở chính quyền địa phương
Khẩn trương xây dựng và đưa vào thực hiện quy hoạch tổng thể đơn vị hành
chính các cấp, trên cơ sở đó ổn định cơ bản các đơn vị hành chính ở cả ba cấp tỉnh,
huyện, xã. Kiện toàn thống nhất hệ thống cơ quan chuyên môn của các cấp chính quyền.
Tính thống nhất và thông suốt của hệ thống hành chính nhà nước được bảo đảm
trên cơ sở xác định rõ vị trí, trách nhiệm của chính quyền địa phương trong hệ thống cơ
quan nhà nước. Chính quyền địa phương được xây dựng, tổ chức và hoạt động theo
nguyên tắc nhà nước đơn nhất, quyền lực của Nhà nước là thống nhất. Theo đó, cần
điều chỉnh, bổ sung các quy định để thực hiện nhất quán chủ trương này, đồng thời có
cơ chế bảo đảm nguyên tắc xây dựng chính quyền của dân, do dân và vì dân, tăng
cường công tác giám sát của cấp uỷ, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể đối với hoạt
động của chính quyền địa phương.
Tổ chức hợp lý chính quyền địa phương, phân biệt rõ những khác biệt giữa chính
quyền nông thôn và chính quyền đô thị:
+ Đối với chính quyền nông thôn:
Không tổ chức HĐND ở huyện; ở huyện có UBND với tính chất là đại diện của
cơ quan chính quyền cấp tỉnh để giải quyết các nhiệm vụ về hành chính và các công
việc liên quan đến quyền lợi và nghĩa vụ của người dân theo quy định của pháp luật.
UBND huyện tập trung chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra cấp dưới thực hiện chủ trương,
chính sách, nghị quyết, kế hoạch của cấp trên. Cơ chế giám sát đối với tổ chức, hoạt
động của UBND huyện được thực hiện thông qua hoạt động giám sát của đại biểu và
đoàn đại biểu Quốc hội, HĐND, UBND cấp tỉnh, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể và
giám sát trực tiếp của nhân dân. Kiện toàn cấp uỷ huyện để đáp ứng tốt yêu cầu lãnh
đạo toàn diện và lãnh đạo hoạt động của UBND huyện.
Chính quyền xã có hội đồng nhân và UBND chịu trách nhiệm xây dựng và chỉ
đạo thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, quản lý ngân sách xã, quản lý nhà
nước về các lĩnh vực giáo dục, y tế, đất đai, xây dựng, hộ tịch... trên địa bàn theo quy
định của pháp luật. Trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ của chính quyền cấp xã, xác định
cụ thể các chức danh công chức xã theo hướng ổn định và chuyên sâu về nghiệp vụ.
+ Đối với chính quyền đô thị:
Tổ chức chính quyền đô thị phải bảo đảm tính thống nhất và liên thông trên địa
bàn về quy hoạch đô thị, kết cấu hạ tầng (như điện, đường, cấp thoát nước, xử lý rác
thải, bảo vệ môi trường) và đời sống dân cư...
Xác định cấp dân cư đô thị có HĐND: là HĐND thành phố trực thuộc trung
ương, HĐND thành phố thuộc tỉnh, HĐND thị xã; không tổ chức HĐND ở quận và
phường. Tại quận, phường có UBND là đại diện cơ quan hành chính cấp trên tại địa bàn
để thực hiện các nhiệm vụ theo quy định của pháp luật và phân cấp của chính quyền cấp
trên.
ở huyện, quận, phường không tổ chức HĐND nhưng có cơ quan hành chính là
UBND để quản lý và thực hiện các nhiệm vụ theo quy định của pháp luật và phân cấp
của chính quyền cấp trên. UBND huyện, quận, phường bao gồm chủ tịch, các phó chủ
tịch và các uỷ viên do UBND cấp trên bổ nhiệm, miễn nhiệm trên cơ sở xem xét nhân
sự do cấp uỷ huyện, quận, phường giới thiệu và được cấp có thẩm quyền quản lý cán bộ
đồng ý.
Khi thực hiện không tổ chức HĐND ở huyện, quận, phường, cần tăng cường
HĐND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương về số lượng, chất lượng đại biểu, về cơ sở
vật chất, điều kiện làm việc.
Thực hiện thí điểm việc không tổ chức HĐND huyện, quận, phường, cần tăng
cường HĐND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương về số lượng, chất lượng đại biểu,
về cơ sở vật chất, điều kiện làm việc.
Thực hiện thí điểm việc không tổ chức HĐND huyện, quận, phường. Qua thí
điểm sẽ tổng kết, đánh giá và xem xét để có chủ trương sửa đổi, bổ sung Hiến pháp về
tổ chức chính quyền địa phương cho phù hợp.
Thứ hai, hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của NĐĐCCQHCNN
nhằm bảo đảm nguyên tắc tập trung dân chủ và chế độ thủ trưởng theo hướng đề cao
vai trò trách nhiệm cá nhân người đứng đầu.
Một là, đối với Chủ tịch UBND là người đứng đầu cơ quan hành chính, chịu
trách nhiệm trước HĐND cùng cấp và cơ quan hành chính cấp trên.
Quy định rõ trong luật về thẩm quyền, trách nhiệm của Chủ tịch UBND và tập
thể UBND theo hướng phân định rõ những loại việc bắt buộc phải thảo luận và biểu
quyết của UBND, những loại việc thuộc thẩm quyền quyết định của chủ tịch UBND.
Người đứng đầu cơ quan hành chính có trách nhiệm đề xuất, giới thiệu nhân sự
cấp phó và các thành viên của cơ quan hành chính để cấp uỷ có thẩm quyền xem xét,
quyết định, sau đó giới thiệu cho cơ quan dân cử để bầu hoặc bổ nhiệm và chịu trách
nhiệm về việc đề xuất, giới thiệu của mình.
Chủ tịch UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Chủ tịch UBND thị xã,
thành phố thuộc tỉnh do HĐND cùng cấp bầu, cấp trên phê chuẩn. Trường hợp cần thay
đổi Chủ tịch UBND mà nhân sự là người phải điều động từ nơi khác đến thì sau khi trao
đổi với cấp uỷ cùng cấp và được cấp có thẩm quyền quản lý cán bộ đồng ý, Thủ tướng
Chính phủ bổ nhiệm Chủ tịch UBND cấp tỉnh, Chủ tịch UBND cấp trên bổ nhiệm Chủ
tịch UBND cấp dưới trực tiếp.
Hai là, thí điểm việc nhân dân bầu trực tiếp Chủ tịch UBND xã, Chủ tịch UBND
cấp trên trực tiếp quyết định phê chuẩn; trên cơ sở tổng kết thí điểm xem xét thực hiện
chính thức chủ trương này cùng với việc xem xét sửa đổi, bổ sung Hiến pháp về việc
nhân dân trực tiếp bầu Chủ tịch UBND xã.
Ba là, đổi mới và hoàn thiện các quy định pháp luật về tổ chức và hoạt động của
cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương trong đó quy định mô hình Thị trưởng đối
với chính quyền đô thị. Trong đó quy định Thị trưởng là người đứng đầu chịu trách
nhiệm toàn bộ trước Nhà nước về mặt hành chính, chứ không phải là cơ quan tập thể
UBND như hiện nay.
Về nhiệm vụ quyền hạn của Thị trưởng, Thị trưởng phải có trách nhiệm ra quyết
định, phải chịu trách nhiệm về các quyết định của mình, phải căn cứ vào nghị quyết của
HĐND, nghị quyết của cấp ủy để mà hành động.
Giúp Thị trưởng là cả một bộ máy hành chính, hoạt động theo chỉ huy điều hành
của Thị trưởng
Bốn là, cần đổi mới căn bản, toàn diện hơn phương thức làm việc và sự chỉ đạo,
điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các bộ và cơ quan hành chính địa
phương các cấp nhằm theo kịp và đi đầu trong cải cách hành chính. Coi đó là yếu tố
thúc đẩy mạnh tiến trình cải cách hành chính.
- Trên cơ sở hoàn thiện Quy chế làm việc của Chính phủ, của mỗi cơ quan hành
chính để vừa phải làm việc theo Quy chế, vừa loại bỏ những công việc không thuộc
chức trách của mình nhằm khắc phục tình trạng bao biện làm thay hoặc đùn đẩy trách
nhiệm giữa các cấp hành chính.
- Đưa nhanh việc áp dụng công nghệ thông tin vào quản lý hành chính, hình
thành từng bước “Chính phủ điện tử” để nâng cao hiệu lực, hiệu quả chỉ đạo, điều hành
tập trung, thống nhất của Chính phủ và hệ thống hành chính các cấp.
- Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và người đứng đầu cơ quan hành chính các
cấp cần tập trung nhiều hơn vào sự chỉ đạo, điều hành đối với cải cách hành chính một
cách kiên quyết và chịu trách nhiệm hàng đầu về kết quả cải cách hành chính trước
Đảng, trước toàn dân. Đổi mới tổ chức và chỉ đạo thực hiện của Ban chỉ đạo cải cách
hành chính của Chính phủ theo hướng tăng cường hiệu lực và hiệu quả.
- Chính phủ, các Bộ, UBND các cấp thực hiện vai trò chức năng quản lý nhà
nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN với các nội dung hoạch định chiến
lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội; xây dựng và ban hành thể chế,
chính sách; hướng dẫn việc tổ chức thực hiện; thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm.
Kiên quyết thực hiện việc chuyển giao mạnh các chức năng, nội dung công việc không
thuộc chức năng của hệ thống hành chính cho các tổ chức xã hội, tổ chức phi Chính
phủ, tổ chức sự nghiệp dịch vụ công, tổ chức doanh nghiệp, tư nhân đảm nhiệm ngày
càng nhiều hơn theo hướng đẩy mạnh xã hội hoá.
Chính phủ, các bộ thực hiện quản lý vĩ mô trong phạm vi cả nước đối với các
lĩnh vực kinh tế - xã hội; tiếp tục đẩy mạnh việc phân cấp quản lý hành chính giữa
Trung ương và địa phương, giữa chính quyền địa phương một cách đồng bộ trên từng
ngành, lĩnh vực; quy định rõ thẩm quyền quyết định và chịu trách nhiệm đối với những
vấn đề phân cấp để các địa phương chủ động tổ chức thực hiện được sát thực, nhanh
chóng, kịp thời, có hiệu quả. Đồng thời, tăng cường quản lý nhà nước sau phân cấp của
các bộ, ngành Trung ương để đảm bảo tính thống nhất quản lý ngành, lĩnh vực trong cả
nước.
3.3.1.2. Hoàn thiện các quy định về nội dung trách nhiệm của người đứng đầu
cơ quan hành chính nhà nước
Hoàn thiện các quy định xác định rõ trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan
hành chính nhà nước đối với từng nhóm quan hệ thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp
luật về trách nhiệm của người đứng đầu. Bao gồm các quy định pháp luật về các nhóm
quan hệ sau:
- Trách nhiệm trong việc chấp hành đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước và chỉ đạo của cấp trên; tổ chức, điều hành cơ quan, tổ chức,
đơn vị thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, có chất lượng và đúng thời hạn
được giao; quyết định chủ trương, giải pháp cần thiết để hoàn thành nhiệm vụ và chịu
trách nhiệm về quyết định đó.
- Trách nhiệm về việc ban hành hoặc trình cơ quan, người có thẩm quyền ban
hành văn bản pháp luật bảo đảm tính hợp pháp của văn bản (bao gồm: văn bản quy
phạm pháp luật, văn bản cá biệt, công văn chỉ đạo, điều hành và nội quy, quy chế, điều
lệ, quy định áp dụng trong nội bộ cơ quan, tổ chức, đơn vị thuộc quyền quản lý).
- Trách nhiệm trong việc ban hành văn bản quy định cụ thể chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn, trách nhiệm của các cấp phó, các cơ quan, tổ chức, đơn vị cấu thành hoặc
từng cán bộ, công chức, viên chức thuộc quyền; không để tình trạng chồng chéo, trùng
lắp về nhiệm vụ hoặc trách nhiệm không rõ ràng; bảo đảm cán bộ, công chức, viên chức
thuộc quyền thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao và đúng pháp
luật trên cơ sở căn cứ các quy định về phân công, phân cấp và nhiệm vụ, quyền hạn
được giao,
- Trách nhiệm trong việc tuyển dụng, sử dụng, đánh giá, đào tạo, bồi dưỡng, nâng
lương, cử dự thi nâng ngạch, quyết định nâng ngạch, bổ nhiệm, khen thưởng, kỷ luật, cho
nghỉ chế độ và quản lý đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức theo đúng chủ trương, chính
sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
- Trách nhiệm trong việc quản lý, sử dụng có hiệu quả tài sản công được giao;
phòng, chống cháy nổ và bảo đảm an toàn lao động tại cơ quan, tổ chức, đơn vị. Khi sử
dụng các nguồn tài chính, các tài sản, trang thiết bị phải thực hiện đúng chế độ, chính
sách và đúng quy định của pháp luật; quản lý, kiểm tra thường xuyên, không để xảy ra
tham nhũng, lãng phí, hư hỏng, mất mát, thất thoát.
- Trách nhiệm trong việc thực hiện đúng quy định của pháp luật về văn hóa công
sở; không để xảy ra tình trạng cán bộ, công chức, viên chức thuộc thẩm quyền quản lý
có thái độ hách dịch, cửa quyền, gây phiền hà cho công dân, doanh nghiệp trong quá
trình thực hiện nhiệm vụ, công vụ.
- Trách nhiệm trong việc tổ chức thực hiện Quy chế dân chủ trong cơ quan, tổ
chức, đơn vị; giải quyết khiếu nại, tố cáo trong phạm vi thẩm quyền theo đúng quy định
của pháp luật.
- Trách nhiệm trong việc thực hiện đúng các quy định của pháp luật về bảo vệ bí
mật nhà nước; về phát ngôn, khai thác, quản lý và sử dụng mạng Internet trong cơ quan,
tổ chức, đơn vị.
- Các chế độ trách nhiệm khác theo quy định của pháp luật.
3.3.1.3. Hoàn thiện các bảo đảm pháp lý đối với việc thực hiện chế độ trách
nhiệm đối với người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị nhà nước cần có quy định
theo nguyên tắc:
- Cấp có thẩm quyền khi quyết định bổ nhiệm hoặc phân công nhiệm vụ cho
người đứng đầu phải quy định quyền hạn của người đứng đầu phải tương xứng với chức
trách và nhiệm vụ được giao;
Quyền hạn, chức trách và nhiệm vụ giao cho người đứng đầu phải rõ ràng, cụ
thể.
- Cấp có thẩm quyền bổ nhiệm hoặc phân công nhiệm vụ cho người đứng đầu
phải có trách nhiệm bảo đảm các điều kiện về nguồn nhân lực, tài chính, trang thiết bị,
thời gian cho người đứng đầu để thực hiện chức trách, quyền hạn và nhiệm vụ được
giao.
Để có thể phát huy tốt vai trò của NĐĐCCQHCNN và đồng thời có thể quy trách
nhiệm cá nhân với họ, trước hết, Nhà nước cho họ quyền bổ nhiệm và cách chức các vị
trí cấp dưới. Theo cơ chế hiện nay, những vị trí như cấp phó thường do cấp trên bổ
nhiệm, điều đó gây nhiều khó khăn trong quản lý và điều hành công việc.
Thứ đến là quy định cụ thể chặt chẽ quy chế làm việc, báo cáo công tác sao cho
tránh tối đa tình trạng báo cáo vượt cấp, thì thụp với cấp trên vượt cấp (chẳng hạn ông
Trưởng phòng nếu muốn báo cáo trình bày điều gì thì đầu tiên phải báo cáo người phụ
trách trực tiếp, nếu không được ủng hộ mới được báo cáo lên cấp trên nữa để bảo lưu ý
kiến, cấp trên sẽ làm việc với hai người để lắng nghe ý kiến bảo lưu của họ để quyết
định cuối cùng). Việc này được các cơ quan của nước ngoài làm rất nghiêm túc, tạo nên
kỷ cương và sự thống nhất điều hành trong đơn vị (nhân viên thường không được trực
tiếp báo cáo giám đốc nếu anh ta chưa thông qua trưởng phòng). Sau khi trao quyền rồi
thì tất nhiên người đứng đầu cơ quan phải chịu trách nhiệm cá nhân trước mọi hoạt
động của cơ quan. Nếu để xảy ra sai phạm thì tuỳ mức độ anh ta phải chịu trách nhiệm
cá nhân.
Trước mắt cần có một cơ chế thích hợp để quản lý đội ngũ công chức, đồng thời
nâng cao được trách nhiệm của người đứng đầu.
3.3.1.4. Hoàn thiện pháp luật quy định rõ các hình thức trách nhiệm đối với
người đứng đầu hành chính nhà nước
Người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước nếu vi phạm chế độ trách nhiệm,
tùy theo tính chất và mức độ của hành vi vi phạm, phải chịu một hoặc nhiều hình thức
trách nhiệm sau đây:
+ Trách nhiệm kỷ luật;
+ Trách nhiệm dân sự;
+ Trách nhiệm vật chất;
+ Trách nhiệm hình sự;
+ Trách nhiệm khác theo quy định của pháp luật.
- Trách nhiệm kỷ luật: người đứng đầu và cấp phó của người đứng đầu cơ
quan hành chính nhà nước vi phạm các quy định của pháp luật trong thi hành nhiệm
vụ, công vụ, nếu chưa đến mức bị truy cứu TNHS, thì tuỳ theo tính chất, mức độ của
hành vi vi phạm phải bị xử lý kỷ luật. Việc xử lý kỷ luật phải tuân theo các quy định
của pháp luật về xử lý kỷ luật đối với cán bộ, công chức.
- Trách nhiệm dân sự: người đứng đầu và cấp phó của người đứng đầu cơ quan
hành chính nhà nước nếu có hành vi vi phạm pháp luật trong thi hành nhiệm vụ, công
vụ, gây thiệt hại, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của cá nhân, uy tín của cơ quan, tổ
chức, đơn vị đến mức phải chịu trách nhiệm dân sự thì ngoài việc bị xử lý kỷ luật phải
bị xử lý về trách nhiệm dân sự. Việc xử lý trách nhiệm dân sự đối với người đứng đầu
và cấp phó của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị của Nhà nước phải tuân theo
quy định của pháp luật dân sự và tố tụng dân sự.
- Trách nhiệm vật chất: người đứng đầu và cấp phó của người đứng đầu cơ quan
hành chính nhà nước nếu có hành vi vi phạm pháp luật trong thi hành nhiệm vụ, công
vụ làm mất mát, hư hỏng trang bị, thiết bị hoặc gây ra thiệt hại về tài sản của cơ quan, tổ
chức, đơn vị, nhưng chưa đến mức phải truy cứu TNHS thì phải chịu TNVC theo quy
định của pháp luật.
- Trách nhiệm hình sự: người đứng đầu và cấp phó của người đứng đầu cơ quan
hành chính nhà nước trong thi hành nhiệm vụ, công vụ nếu phạm một tội đã được Bộ
luật hình sự quy định thì phải chịu TNHS theo quy định tại Điều 2 Bộ luật hình sự năm
1999. Việc xử lý TNHS đối với người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị của Nhà nước
phải tuân theo quy định của pháp luật hình sự và tố tụng hình sự.
Các quy định của chương này dựa trên cơ sở pháp điển hóa các quy định đơn lẻ
về trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước trong một loạt các văn
bản quy phạm pháp luật là các Nghị định hiện hành, trong đó phải kể tới là Nghị định số
107/2006/CĐ-CP ngày 22 tháng 9 năm 2006 của Chính Phủ quy định xử lý trách nhiệm
của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị khi để xảy ra tham nhũng trong cơ quan, tổ
chức, đơn vị do mình quản lý, phụ trách; Nghị định số 103/2007/NĐ-CP ngày 14 tháng
6 năm 2007 của Chính Phủ quy định trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức,
đơn vị và trách nhiệm của cán bộ, công chức, viên chức trong việc thực hành tiết kiệm,
chống lãng phí; Nghị định số 157/2007/NĐ-CP ngày 27 tháng 10 năm 2007 của Chính
Phủ quy định chế độ trách nhiệm đối với người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị của
nhà nước trong thi hành nhiệm vụ, công vụ.
Hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm của NĐĐCCQHCNN trên cơ sở pháp điển
hóa các quy định đơn lẻ và chứa đựng trong các văn bản quy phạm pháp luật dưới luật
thành các đạo luật trong đó có Luật Công vụ là bước đi thích hợp bảo đảm tính kế thừa
có chọn lọc và phát triển đáp ứng yêu cầu của cải cách hành chính giai đoạn hiện nay.
Để có thể phát huy tốt vai trò của NĐĐCCQHCNN và đồng thời có thể quy trách
nhiệm cá nhân với họ, trước hết, Nhà nước cần mạnh dạn trao quyền lực thực sự cho họ
mà biểu hiện cốt lõi của vấn đề là trao cho họ quyền bổ nhiệm và cách chức các vị trí
cấp dưới. Theo cơ chế hiện nay, những vị trí như cấp phó thường do cấp trên bổ nhiệm,
điều đó gây nhiều khó khăn trong quản lý và điều hành công việc.
Thứ đến là quy định cụ thể chặt chẽ quy chế làm việc, báo cáo công tác sao cho
tránh tối đa tình trạng báo cáo vượt cấp, thì thụp với cấp trên vuợt cấp (chẳng hạn ông
Trưởng phòng nếu muốn báo cáo trình bày điều gì thì đầu tiên phải báo cáo người phụ
trách trực tiếp, nếu không được ủng hộ mới được báo cáo lên cấp trên nữa để bảo lưu ý
kiến, cấp trên sẽ làm việc với hai người để lắng nghe ý kiến bảo lưu của họ để quyết
định cuối cùng).Việc này được các cơ quan của nước ngoài làm rất nghiêm túc, tạo nên
kỷ cương và sự thống nhất điều hành trong đơn vị (nhân viên thường không được trực
tiếp báo cáo giám đốc nếu anh chưa thông qua trưởng phòng). Sau khi trao quyền rồi thì
tất nhiên người đứng đầu các cơ quan phải chịu trách nhiệm cá nhân trước mọi hoạt
động của cơ quan. Nếu để xảy ra sai phạm thì tuỳ mức độ anh phải chịu trách nhiệm cá
nhân.
Trước mắt cần có một cơ chế thích hợp để quản lý đội ngũ công chức, đồng thời
mới nâng cao được trách nhiệm của người đứng đầu.
3.3.2. Nhóm giải pháp hoàn thiện hình thức pháp luật
- Pháp điển hóa hệ thống pháp luật về trách nhiệm người đứng đầu cơ quan hành
chính nhà nước.
Về lý luận, pháp điển hóa là hình thức hệ thống lại pháp luật trong đó, cơ quan
nhà nước có thẩm quyền tập hợp, sắp xếp các qui phạm pháp luật, các chế định, các văn
bản qui phạm pháp luật trong một ngành luật theo trình tự nhất định, loại bỏ những mâu
thuẫn chồng chéo, các qui định lỗi thời và bổ sung những qui định mới, từ đó ban hành
văn bản qui phạm pháp luật mới trên cơ sở kế thừa và phát triển các qui định pháp luật
cũ và điển hình là các bộ luật - pháp điển Bộ luật pháp điển hóa sẽ thay thế một loạt các
văn bản qui phạm pháp luật đã lỗi thời.
Từ thực trạng hệ thống pháp luật về trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan
hành chính nhà nước được nghiên cứu ở phần 2 cho thấy các qui định pháp luật điều
chỉnh về lĩnh vực này tồn tại dưới nhiều văn bản qui phạm pháp luật khác nhau. Bao
gồm: các văn bản qui phạm pháp luật do Quốc hội ban hành; các văn bản qui phạm
pháp luật do Chính phủ; các Bộ và các cơ quan có thẩm quyền khác ban hành. Nói cách
khác những qui định về trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước
hiện nay còn tản mạn ở nhiều văn bản khác nhau. Vì lẽ đó giải pháp pháp điển hóa các
qui phạm pháp luật này trong một đạo luật có hiệu lực pháp lý cao là giải pháp quan
trọng.
Theo quan niệm của nhóm nghiên cứu đề nghị cơ quan có thẩm quyền của nhà
nước cần sớm ban hành Luật công vụ. Luật này được ban hành trước hết dựa trên cơ sở
pháp điển hóa các văn bản qui phạm pháp luật hiện hành liên quan đến người đứng đầu
và trách nhiệm của người đứng đầu các cơ quan, tổ chức, đơn vị… tập trung chủ yếu là
các văn bản pháp luật sau: Luật phòng chống tham nhũng có hiệu lực ngày 01-6-2006,
Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, có hiệu lực từ ngày 01-6-2006.
Nghị định số 107/2006/NĐ-CP ngày 22 tháng 9 năm 2006 của Chính phủ qui
định xử lý trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị khi để xảy ra tham
nhũng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị do mình quản lý, phụ trách; Nghị định số
103/2007/NĐ-CP ngày 14 tháng 6 năm 2007 của Chính phủ qui định trách nhiệm của
người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị và trách nhiệm của cán bộ, công chức, viên
chức trong việc thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; Nghị định số 157/2007/NĐ-CP
ngày 27 tháng 10 năm 2007 của Chính phủ qui định chế độ trách nhiệm đối với người
đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị của nhà nước trong thi hành nhiệm vụ, công vụ. Luật
cán bộ, công chức được Quốc hội khóa XII thông qua và có hiệu lực vào ngày
01/01/2010 chỉ chứa đựng chưa đến 10% qui định về hoạt động công vụ.
Ban hành luật Công vụ trong đó có các qui định cụ thể về trách nhiệm của người
đứng đầu cơ quan, tổ chức nhà nước nói chung, cơ quan hành chính nhà nước nói riêng
đáp ứng được yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta hiện nay. Mặt
khác khắc phục được tình trạng qui định về trách nhiệm của NĐĐCCQHCNN tản mạn
trong các văn bản dưới luật dẫn đến khó thực hiện thậm chí có nhiều qui định trùng lặp,
mâu thuẫn và chồng chéo, tình trạng này dẫn tới việc tổ chức thực hiện các qui định
pháp luật về trách nhiệm NĐĐCCQHCNN hiệu quả còn thấp chưa đáp ứng được yêu
cầu của cải cách hành chính hiện nay.
Nội dung Luật công vụ. Bao gồm các chương, mục, Điều, khoản:
- Qui định về những vấn đề chung xác định rõ: phạm vi điều chỉnh; đối tượng áp
dụng; nguyên tắc hoạt động công vụ, giải thích từ ngữ.
- Qui định hoạt động công vụ của cán bộ, công chức và viên chức.
- Qui định về trách nhiệm của cán bộ, công chức, viên chức trong hoạt động công
vụ
- Qui định trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị nhà
nước.
- Qui định trách nhiệm pháp lý của người đứng đầu.
- Văn hóa công sở và đạo đức công vụ.
- Qui định thanh tra, kiểm tra hoạt động công vụ của cán bộ, công chức, viên
chức
- Khen thưởng và kỷ luật
- Qui định về các điều kiện bảo đảm hoạt động công vụ
- Hiệu lực văn bản.
Đối với trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước cần được
thiết kế theo một trong hai phương án sau: phương án 1 - thiết kế bởi một mục trong
chương - trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị nhà nước. Mục này
có nhiều điều, khoản qui định cụ thể các nhóm quan hệ được nêu ở mục 3.3.1.2
Phương án 2: ban hành Nghị định về trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan
hành chính nhà nước. Bao gồm các chương:
Chương 1: Qui định chung. Gồm các qui định xác định rõ:
- Phạm vi điều chỉnh
- Đối tượng áp dụng
- Giải thích từ ngữ
- Căn cứ xác định chế độ trách nhiệm đối với người đứng đầu cơ quan hành
chính nhà nước.
Chương 2: Chế độ trách nhiệm trong công sở đối với người đứng đầu cơ quan
hành chính nhà nước.
- Nội dung trách nhiệm (qui định rõ nội dung ở mục 3.3.1.2 Báo cáo)
- Trách nhiệm của cấp có thẩm quyền bộ phận phân công nhiệm vụ cho người
đứng đầu.
Chương 3: Chế độ trách nhiệm trong thi hành công vụ
- Nội dung trách nhiệm
- Các hình thức trách nhiệm pháp lý.
- Chương 4: Khen thưởng và xử lý vi phạm pháp luật.
- Khen thưởng
- Xử lý vi phạm kỷ luật
Chương 5: Điều khoản thi hành
- Hiệu lực, hướng dẫn kiểm tra việc thi hành.
- Trách nhiệm thi hành
3.3.3. Nhóm giải pháp tổ chức thực hiện
Một là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật về trách nhiệm của
người đứng đầu: Pháp luật về trách nhiệm của người đứng đầu được coi là hoàn thiện
không chỉ được thể hiện ở chỗ được ban hành dưới hình thức một đạo luật mang tính
pháp điển cao, mà quan trọng hơn là đạo luật đó phải đi vào cuộc sống, phải làm cho
nhân dân nắm được một cách đầy đủ và hiểu được nội dung của các văn bản pháp luật
về trách nhiệm của người đứng đầu được ban hành qua các giai đoạn. Muốn vậy, phải
“coi trọng công tác giáo dục, tuyên truyền, giải thích pháp luật” và “cần phải sử dụng
nhiều hình thức và biện pháp để giáo dục và nâng cao ý thức pháp luật... cho nhân dân.
Hai là, đào tạo đội ngũ cán bộ, công chức: Pháp luật về trách nhiệm của người
đứng đầu được coi là hoàn thiện còn phải được thể hiện thông qua hoạt động thực hiện
và áp dụng pháp luật, trong đó đội ngũ cán bộ, công chức hành chính, do vậy phải nâng
cao trình độ, năng lực, phẩm chất cho đội ngũ cán bộ, công chức hành chính, trước hết
là các công chức giữ vị trí lãnh đạo. Muốn vậy, phải có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng
thường xuyên về chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ, công chức hành chính, đẩy
mạnh tiêu chuẩn hoá đội ngũ công chức lãnh đạo, trong đó xác định rõ cả về tiêu chuẩn
chuyên môn, nghiệp vụ và tiêu chuẩn về tác phong, đạo đức, lối sống.
Ba là, đẩy mạnh công tác kiểm tra, xử lý trong quá trình thực hiện pháp luật về
trách nhiệm của người đứng đầu:
Pháp luật về trách nhiệm của người đứng đầu được coi là hoàn thiện còn được
thể hiện thông qua hiệu quả việc kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật về trách
nhiệm của người đứng đầu, xử lý vi phạm pháp luật. Phân định rõ chức năng, thẩm
quyền của các cơ quan làm công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật về
trách nhiệm của người đứng đầu. Nâng cao năng lực và phẩm chất cho những người
làm công tác này, mở rộng dân chủ, xây dựng cơ chế kiểm tra, giám sát của các tổ
chức chính trị - xã hội và nhân dân, phát hiện kịp thời những khiếm khuyết, yếu
kém, xử lý nghiêm mọi vi phạm pháp luật của cán bộ, công chức nói chung, công
chức lãnh đạo nói riêng.
Bốn là, mở rộng việc áp dụng các phương pháp khoa học trong việc đánh giá
chất lượng, hiệu quả của công chức hành chính, trong đó có NĐĐCCQHCNN.
Trách nhiệm của thủ trưởng các cơ quan, đơn vị là ban hành cụ thể và chính xác
những quy định phận sự như vậy cho từng cán bộ, công chức. Mở rộng việc áp dụng các
phương pháp khoa học (như ISO) vào việc đánh giá chất lượng, hiệu quả công việc của
từng cá nhân, từng đơn vị. Đây cũng là cơ sở để đánh giá kết quả công tác của cán bộ,
công chức hàng năm, khắc phục được việc đánh giá, bình bầu cán bộ, công chức một
cách chung chung, đa phần hoàn thành tốt công việc, trong khi cơ quan, tổ chức còn nợ
nhiều công việc trước cấp trên, dân và doanh nghiệp phàn nàn, không bằng lòng với thái
độ và trách nhiệm giải quyết công việc của cơ quan hành chính.
Năm là, nghiên cứu tổng kết việc thực hiện thí điểm thi tuyển các chức danh
NĐĐCCQHCNN ở địa phương.
Từ năm 2008 việc thí điểm thi tuyển các chức danh lãnh đạo đã được thí điểm ở
tỉnh Long An, Thành phố Đà Nẵng và tỉnh Nghệ An. Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn, tạo
bước đột phá trong công tác cán bộ; đồng thời nhằm thực hiện Nghị quyết số 17-
NQ/TW ngày 01/8/2007 về đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả
quản lý nhà nước
Vấn đề bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo thông qua thi tuyển không phải là vấn đề mới.
ở nhiều nước trên thế giới, cán bộ, nhân viên trong các cơ quan quản lý nhà nước cũng
như các doanh nghiệp được sắp xếp, bố trí theo vị trí việc làm. Mỗi chức danh được
thiết kế và quy định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn gắn với các tiêu chuẩn cụ thể
như: sức khoẻ, trình độ học vấn, ngành nghề đào tạo, kỹ năng giải quyết công việc...
Khi khuyết một chức danh nào đó thì người ta tiến hành thi tuyển. ở nước ta, dưới các
triều đại phong kiến, hầu hết các chức quan lại được bổ nhiệm lần đầu đều được thực
hiện thông qua hình thức thi tuyển. Ngay sau khi Cách mạng tháng 8 năm 1945 thành
công, để xây dựng và củng cố chính quyền cách mạng còn non trẻ, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã ban hành Sắc lệnh số 76/SL ngày 20/5/1950 quy định chế độ tuyển chọn, bổ
nhiệm, quản lý, sử dụng công chức trong bộ máy nhà nước. Theo đó, việc tuyển chọn,
bổ nhiệm công chức vào các ngạch, bậc của nền hành chính Quốc gia đều thực hiện
thông qua thi tuyển. Song, thời đó do yêu cầu phải huy động mọi nguồn lực, sức người,
sức của cho tuyền tuyến, những quy định tiến bộ của Sắc Lệnh số 76/SL chưa có điều
kiện áp dụng trong thực tế.
Hiện nay, theo quy định hiện hành của Nhà nước, việc tuyển dụng công chức,
viên chức vào làm việc trong các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp của Nhà nước
chủ yếu phải thông qua thi tuyển (Nghị định 115, 116, 117 của Chính phủ năm 2003).
Song, việc tuyển chọn, đề bạt, bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo trong các cơ quan hành chính,
đơn vị sự nghiệp của Nhà nước chủ yếu là thông qua hình thức lấy phiếu tín nhiệm,
chưa có quy định thực hiện bằng hình thức thi tuyển.
Sáu là, tăng cường công tác giám sát đối với người đứng đầu các cơ quan hành
chính. Trong đó chú trọng công tác giám sát của Quốc hội, HĐND và tăng cường hoạt
động giám sát, phản biện nhân dân trong điều kiện mở rộng và phát huy dân chủ ở nước
ta hiện nay.
KẾT LUẬN
Hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm của NĐĐCCQHCNN Việt Nam xuất phát
từ những yêu cầu của sự phát triển đất nước, từ yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền
XHCN của dân, do dân, vì dân, yêu cầu cải cách nền hành chính nhà nước:
- Xây dựng tổ chức bộ máy hành chính tinh gọn, xác định rõ chức năng, nhiệm
vụ, phân định rõ trách nhiệm giữa các cơ quan, giữa các cấp chính quyền, giữa chính
quyền đô thị và chính quyền nông thôn, giữa tập thể và người đứng đầu cơ quan hành
chính; hoạt động có kỷ luật, kỷ cương và nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước.
- Cải cách hành chính phải đáp ứng yêu cầu xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức
có phẩm chất chính trị, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, tinh thần trách nhiệm và tận tụy
phục vụ nhân dân.
Qua hơn hai mươi năm thực hiện đường lối đổi mới do Đảng ta khởi xướng và
lãnh đạo đến nay, bộ máy nhà nước, nền hành chính nhà nước ta đã có những bước phát
triển đáng kể trong đó trách nhiệm cá nhân của NĐĐCCQHCNN đã được xác lập và
quy định trong hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật là cơ sở pháp lý vững chắc cho
tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước nói chung và cơ quan hành chính nhà nước
nói riêng. Nói tới nhà nước pháp quyền XHCN là nói tới nhà nước có trách nhiệm và
chịu trách nhiệm trước nhân dân. Hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm của
NĐĐCCQHCNN là việc tiếp tục cụ thể hóa các quan điểm của Đảng ta về xây dựng
nhà nước pháp quyền XHCN, về cải cách nền hành chính nhà nước phục vụ yêu cầu
phát triển đất nước trong thời kỳ mới.
Từ những kết quả nghiên cứu đề tài, có thể rút ra các kết luận cơ bản sau đây:
Để xây dựng nền hành chính xây dựng nền hành chính dân chủ, trong sạch,
vững mạnh, từng bước hiện đại.Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, coi đây là
nhiệm vụ thường xuyên của tất cả các tổ chức trong hệ thống chính trị.
Cải cách hành chính ngày càng trở thành yếu tố quan trọng trong chương trình
nghị sự về cải cách của Việt Nam. Đây không chỉ là điều kiện hết sức thiết yếu để Việt
Nam có thể tối đa hóa được các lợi ích của quá trình hội nhập, mà còn là công cụ quan
trọng đảm bảo thực hiện thành công kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội và góp phần thực
hiện các mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ của Việt Nam. Tuy nhiên cải cách hành chính
ở Việt Nam được tiến hành trong công cuộc đổi mới, khởi đầu từ Đại hội VI của Đảng
Cộng sản Việt Nam. Đó là công việc mới mẻ, chưa có tiền lệ, lại diễn ra trong điều
kiện thiếu kiến thức và kinh nghiệm quản lý hành chính. Trong đó hoàn thiện pháp luật
về trách nhiệm của NĐĐCCQHCNN là một trong những giải pháp có bản của cải cách
nền hành chính nhà nước cũng nằm trong bối cảnh chung đó.
Hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm của NĐĐCCQHCNN cần có lộ trình thích
hợp và có những bước đột phá (thí điểm) những mô hình mới đảm bảo trách nhiệm của
NĐĐCCQHCNN từ trung ương tới cơ sở, trên cơ sở quán triệt những quan điểm có tính
nguyên tắc về tổ chức bộ máy nhà nước, về cải cách nền hành chính.
Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm của NĐĐCCQHCNN của đề
tài được luận chứng một cách đồng bộ trên cả ba phương diện: Nội dung, hình thức và
các giải pháp về tổ chức thực hiện sẽ góp phần vào việc tổng kết lý luận và thực tiễn về
pháp luật về trách nhiệm của NĐĐCCQHCNN ở nước ta hiện nay.
Phụ lục
1. Hiến pháp 1992 (sửa đổi 2001).
2. Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 1996 (sửa đổi 2002).
3. Luật Khiếu nại, tố cáo 1998 (sửa đổi 2004, 2005).
4. Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi 2009).
5. Luật Tổ chức Chính phủ 2001.
6. Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân 2003.
7. Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, ủy ban nhân
dân 2004.
8. Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí 2005.
9. Luật Phòng, chống tham nhũng 2005 (sửa đổi 2007).
10. Luật Cán bộ, công chức 2008.
11. Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn 2007.
12. Nghị định 23/2003 của Chính phủ về Quy chế làm việc của Chính phủ.
13. Nghị định số 107/2006/NĐ-CP ngày 22/9/2006 của Chính phủ quy định xử lý
trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị khi để xảy ra tham nhũng
trong cơ quan, tổ chức, đơn vị do mình quản lý, phụ trách.
14. Nghị định số 103/2007/NĐ-CP ngày 14/6/2007 của Chính phủ quy định trách
nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị về trách nhiệm của cán bộ,
công chức, viên chức trong việc thực hành tiết kiệm chống lãng phí.
15. Nghị định số 157/2007/NĐ-CP ngày 27/10/2007 của Chính phủ quy định chế độ
trách nhiệm đối với người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị của Nhà nước trong
thi hành nhiệm vụ, công vụ.
16. Nghị định số 178/2007/NĐ-CP ngày 03/12/2007 của Chính phủ Quy định chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ, cơ quan ngang Bộ.
17. Quyết định số 53/2006/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy chế làm việc
mẫu của ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
18. Chỉ thị số 36/2004/CT-TTg ngày 27 tháng 10 năm 2004 của Thủ tướng Chính phủ về
việc chấn chỉnh và tăng cường trách nhiệm của Thủ trưởng các cơ quan hành chính nhà
nước trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo.
19. Thông tư số 98/2006/TT-BTC ngày 20/10/2006 của Bộ Tài chính hướng dẫn việc
BTTH và xử lý kỷ luật đối với cán bộ, công chức, viên chức vi phạm quy định của
pháp luật về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí.
20. Thông tư số 08/2007/TT-BNV ngày 01/10/2007 của Bộ Nội vụ hướng dẫn thực
hiện Nghị định số 107/2006/NĐ-CP ngày 22/9/2006 của Chính phủ quy định xử lý
trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị khi để xảy ra tham nhũng
trong cơ quan, tổ chức, đơn vị do mình quản lý, phụ trách đối với các đơn vị sự
nghiệp, doanh nghiệp của Nhà nước và các tổ chức xã hội, xã hội - nghề nghiệp có
sử dụng ngân sách, tài sản của Nhà nước.
mục lục
21. Trang
Mở Đầu 7
22. Phần thứ nhất: CƠ Sở Lý LUậN HOàN THIệN PHáP LUậT Về
TRáCH NHIệM CủA NGƯờI ĐứNG ĐầU CáC CƠ QUAN HàNH
CHíNH NHà nƯớC 23
23. 1.1. Trách nhiệm của người đứng đầu các cơ quan hành chính nhà nước 23
24. 1.1.1. Khái niệm, đặc điểm, vị trí, vai trò của người đứng đầu các cơ
quan hành chính nhà nước 23
25. 1.1.2. Trách nhiệm của người đứng đầu các cơ quan hành chính nhà nước 31
26. 1.2. Pháp luật về trách nhiệm của người đứng đầu các cơ quan hành
chính nhà nước 45
27. 1.2.1. Khái niệm và nội dung điều chỉnh của pháp luật về trách nhiệm của
người đứng đầu các cơ quan hành chính nhà nước 45
28. 1.2.2. Vai trò của pháp luật về trách nhiệm của người đứng đầu các cơ
quan hành chính nhà nước 46
29. 1.3. tiêu chí hoàn thiện và các điều kiện đảm bảo hoàn thiện pháp luật về
trách nhiệm của người đứng đầu các cơ quan hành chính nhà nước 50
30. 1.3.1. Tiêu chí hoàn thiện 50
31. 1.3.2. Các điều kiện bảo đảm hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm của
người đứng đầu các cơ quan hành chính nhà nước 55
32. 1.4. Pháp luật về trách nhiệm của người đứng đầu các cơ quan hành
chính nhà nước của một số nước trên thế giới 64
33. 1.4.1. Pháp luật về trách nhiệm của người đứng đầu các cơ quan hành
chính nhà nước Trung quốc 65
34. 1.4.2. Pháp luật về trách nhiệm của người đứng đầu các cơ quan hành
chính nhà nước Anh 67
35. 1.4.3. Pháp luật về trách nhiệm của người đứng đầu các cơ quan hành
chính nhà nước Hoa Kỳ 68
36. 1.4.4. Pháp luật về trách nhiệm của người đứng đầu các cơ quan hành
chính nhà nước Nhật Bản 71
37. 1.4.5. Những giá trị tham khảo cho hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm của
người đứng đầu các cơ quan hành chính nhà nước Việt Nam 76
38. Phần thứ hai: pháp luật về trách nhiệm của người đứng đầu các cơ quan
hành chính nhà nước - thực trạng và những vấn đề đặt ra 78
39. 2.1. Thực trạng pháp luật về trách nhiệm của người đứng đầu các cơ
quan hành chính nhà nước 78
40. 2.1.1. Hệ thống văn bản pháp luật về trách nhiệm người đứng đầu các cơ
quan hành chính nhà nước 78
41. 2.1.2. Thực trạng điều chỉnh pháp luật về trách nhiệm người đứng đầu các cơ
quan hành chính nhà nước theo pháp luật hiện hành 91
42. 2.2. Đánh giá chung ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân pháp luật hiện
hành về trách nhiệm của người đứng đầu các cơ quan hành chính nhà
nước và những vấn đề đặt ra 112
43. 2.2.1. Những ưu điểm của hệ thống pháp luật 112
44. 2.2.2. Hạn chế, bất cập 114
45. 2.2.3. Nguyên nhân 115
46. 2.2.4. Những vấn đề đặt ra 118
47. Phần thứ ba: Quan điểm và giải pháp hoàn thiện pháp luật về trách
nhiệm của người đứng đầu các cơ quan hành chính nhà nước Việt
Nam hiện nay 120
48. 3.1. Quan điểm hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm của người đứng đầu
các cơ quan hành chính nhà nước 120
49. 3.2. Yêu cầu hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm của người đứng
đầu cơ quan hành chính nhà nước 125
50. 3.3. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm của người đứng đầu
các cơ quan hành chính nhà nước 127
51. 3.3.1. Nhóm giải pháp hoàn thiện pháp luật về nội dung 127
52. 3.3.2. Nhóm giải pháp hoàn thiện hình thức pháp luật 138
53. 3.3.3. Nhóm giải pháp tổ chức thực hiện 141
54. KẾT LUẬN 145
55. phụ lục 147
Những chữ viết tắt trong đề tài
56. BTTH : Bồi thường thiệt hại
57. HĐND : Hội đồng nhân dân
58. NĐĐCCQHCNN : Người đứng đầu các cơ quan hành chính nhà nước
59. TNHS : Trách nhiệm hình sự
60. TNKL : Trách nhiệm kỷ luật
61. TNVC : Trách nhiệm vật chất
62. UBND : ủy ban nhân dân
63. XHCN : Xã hội chủ nghĩa
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước.pdf