Luận văn Cơ sở lý luận và thực tiễn đổi mới tổ chức Viện kiểm sát nhân dân đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam

Căn cứ vào lộ trình thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị, mục tiêu đổi mới tổ Viện kiểm sát nhân dân trong từng giai đoạn cũng khác nhau. Trong giai đoạn từ nay đến năm 2010, thì về cơ bản mô hình tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân được giữ nguyên như hiện nay. Việc đổi mới tổ chức Viện kiểm sát nhân dân trong giai đoạn này chỉ tiến hành trên một phạm vi nhất định và để tạo những tiền đề, cơ sở cho việc đổi mới một cách sâu sắc, mạnh mẽ ở giai đoạn tiếp theo. Do đó, mục tiêu đổi mới tổ chức Viện kiểm sát nhân dân trong giai đoạn này là tiếp tục rà soát, nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung các qui chế về tổ chức, hoạt động và qui chế nghiệp vụ theo chức năng, nhiệm vụ theo quy định hiện hành. Tiếp tục kiện toàn bộ máy làm việc ở Viện kiểm sát nhân dân các cấp cho phù hợp với tình hình nhiệm vụ mới của ngành. Tăng cường việc tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, chính sách đối với cán bộ đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp và nhu cầu hội nhập giao lưu quốc tế hiện nay.

pdf88 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3681 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Cơ sở lý luận và thực tiễn đổi mới tổ chức Viện kiểm sát nhân dân đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ạn tiếp theo, từ sau năm 2010 đến năm 2020, mục tiêu đổi mới tổ chức, hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân là đổi mới cơ bản và toàn diện về tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân. Trong điều kiện tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới toàn diện các lĩnh vực của đất nước, Đảng và Nhà nước ta chủ trương tiến hành công cuộc cải cách tư pháp mạnh mẽ. Trong bối cảnh chung đó, tư tưởng cải cách tư pháp cùng với việc nhấn mạnh tính công khai, dân chủ trong hoạt động tư pháp là không được để xảy ra oan, sai và cũng coi trọng việc chống bỏ lọt tội phạm nhất là đối với tội phạm tham nhũng. Để làm được công việc này, một trong những yêu cầu quan trọng mà trong các nghị quyết của Đảng nêu rõ là: nghiên cứu việc chuyển Viện kiểm sát thành Viện công tố, tăng cường trách nhiệm của công tố trong hoạt động điều tra. Do đó, cần phải đổi mới tổ chức Viện kiểm sát nhân dân theo hướng xây dựng mô hình Viện công tố với chức năng, nhiệm vụ mạnh mẽ tương đồng với Viện công tố các nước, có vai trò chỉ đạo hoạt động điều tra, hoạt động công tố phải gắn kết với hoạt động điều tra ngay từ đầu và cơ quan Viện công tố thực hiện quyền nhân danh xã hội để bảo vệ lợi ích công trong các lĩnh vực dân sự, lao động, hành chính, kinh doanh, thương mại. Việc nghiên cứu mô hình tổ chức và hoạt động của Viện công tố phải đặt trong tổng thể của cải cách tư pháp, đồng bộ với việc đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án, Cơ quan điều tra và các thiết chế tư pháp khác, nhằm xây dựng được một Viện công tố đủ mạnh, thực quyền trong đấu tranh phòng, chống tội phạm và bảo vệ có hiệu quả lợi ích của nhà nước, của cơ quan, tổ chức, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Cụ thể là, Viện công tố phải đáp ứng các yêu cầu sau: - Bảo đảm thực quyền trong các hoạt động tố tụng, trong việc chỉ đạo tìm kiếm bằng chứng buộc tội, truy tìm thủ phạm và quyết định truy tố tội phạm; nâng cao kỹ năng tranh tụng của công tố viên tại các phiên tòa xét xử vụ án hình sự, nhằm chống bỏ lọt tội phạm và không để xảy ra oan sai. - Đảm bảo thực quyền trong thực thi các nhiệm vụ cần thiết trong các thủ tục tố tụng dân sự, hành chính, lao động, kinh doanh, thương mại để bảo vệ các lợi ích công. 3.2. Phương hướng đổi mới tổ chức Viện kiểm sát nhân dân đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp 3.2.1. Phương hướng đổi mới, kiện toàn tổ chức Viện kiểm sát nhân dân từ nay đến năm 2010 và nghiên cứu các cơ sở, tiền đề cho việc thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 * Đổi mới, kiện toàn tổ chức Viện kiểm sát nhân dân từ nay đến năm 2010. Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/ 6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 và Kế hoạch số 05-KH/CCTP của Ban chỉ đạo cải cách tư pháp trung ương về triển khai thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW đã chỉ rõ nhiệm vụ chính của Viện kiểm sát nhân dân từ nay đến năm 2010 là tập trung làm tốt chức năng công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, tiếp tục hoàn thành các nhiệm vụ mà Nghị quyết số 08-NQ/TW của Bộ Chính trị đề ra là: Viện kiểm sát các cấp thực hiện tốt chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp. Hoạt động công tố phải được thực hiện ngay từ khi khởi tố vụ án và trong suốt quá trình tố tụng nhằm bảo đảm không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội. Nâng cao chất lượng công tố của kiểm sát viên tại phiên tòa, bảo đảm tranh tụng với luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác. Để thực hiện nhiệm vụ này, từ nay đến năm 2010, Viện kiểm sát nhân dân các cấp phải tiếp tục đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy, cán bộ của Viện kiểm sát nhân dân các cấp theo lộ trình cải cách tư pháp. Các nội dung cụ thể là: - Kiện toàn tổ chức bộ máy các đơn vị thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp ở Viện kiểm sát nhân dân các cấp, đảm bảo thống nhất, đồng bộ và hiệu quả trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ. Theo đó, thành lập mới một số đơn vị chức năng cấp vụ trực thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao, đó là: + Thành lập mới Vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra án tham nhũng theo quy định của Luật phòng, chống tham nhũng: Việc thành lập đơn vị này là nhằm đáp ứng yêu cầu công cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng hiện nay. Mặt khác, đảm bảo sự đồng bộ với tổ chức của các cơ quan khác được giao nhiệm vụ đấu tranh phòng chống tham nhũng ở nước ta hiện nay. + Thành lập mới Vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra án ma túy trên cơ sở tách ra từ Vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án an ninh, ma túy. Việc thành lập đơn vị này là nhằm phù hợp với yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm ma túy và đảm bảo sự đồng bộ với tổ chức Cơ quan điều tra của Bộ Công an theo quy định của Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự năm 2004. + Thành lập mới Vụ hợp tác quốc tế. Việc thành lập đơn vị này xuất từ tình thực tiễn là năng lực tham gia giải quyết các vụ án có yếu tố nước ngoài của các cơ quan tư pháp nói chung và của Viện kiểm sát nhân dân nói riêng còn rất hạn chế, nhất là trong điều kiện giao lưu quốc tế của nước ta hiện nay và những năm tiếp theo. Đơn vị này ngoài việc thực hiện chức năng tham mưu, quản lý về hoạt động đối ngoại và hợp tác quốc tế của ngành Kiểm sát nhân dân thì còn có nhiệm vụ nghiên cứu, tham mưu để cùng với các đơn vị chức năng của Việt Nam như Bộ Công an, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp, Bộ Ngoại giao và phối hợp với cơ quan tư pháp của nước ngoài trong việc tăng cường năng lực giải quyết các vụ án có yếu tố nước ngoài trong điều kiện đất nước mở rộng giao lưu và hội nhập quốc tế, nhất là khi nước ta gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). + Thành lập mới Vụ thi đua khen thưởng của ngành Kiểm sát nhân dân. Đơn vị này có chức năng tham mưu, quản lý về công tác thi đua khen thưởng trong ngành Kiểm sát nhân dân. Việc tăng cường công tác thi đua khen thưởng trong giai đoạn hiện nay là cần thiết nhằm động viên cán bộ, công chức trong ngành thực hiện tốt công tác chuyên môn nghiệp vụ nhất là trong điều kiện cải cách tư pháp hiện nay. Trên cơ sở thành lập mới một số đơn vị trực thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao, cũng cần xem xét, lựa chọn để triển khai thành lập đơn vị tương ứng ở cấp dưới của Viện kiểm sát nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Theo đó, ở Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh có thể thành lập thêm hai phòng nghiệp vụ là: Phòng thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử sơ thẩm án tham nhũng và Phòng thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử sơ thẩm án ma túy. - Tổ chức sơ kết, rút kinh nghiệm việc thực hiện tăng thẩm quyền cho Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện; đồng thời phối hợp với các cơ quan tư pháp tiếp tục lựa chọn trình ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định danh sách các Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện có đủ điều kiện để tăng thẩm quyền theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 và Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 theo lộ trình tăng thẩm quyền đã xác định. - Tiếp tục xây dựng đội ngũ cán bộ kiểm sát trong sạch, vững mạnh. Năng cao chất lượng công tác tuyển chọn, qui hoạch, đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp. Phấn đấu đến năm 2010 đảm bảo tuyển chọn đủ cán bộ cho Viện kiểm sát cấp huyện đáp ứng nhu cầu cho việc tăng thẩm quyền. Tiếp tục thực hiện công tác luân chuyển, điều động cán bộ theo chủ trương của Đảng, tăng cường kiểm sát viên có năng lực cho Viện kiểm sát nhân dân các địa phương. Đồng thời, nghiên cứu phương án thi tuyển để chọn người bổ nhiệm vào chức danh kiểm sát viên; nghiên cứu phương án tăng thời hạn bổ nhiệm hoặc bổ nhiệm không thời hạn đối với chức danh kiểm sát viên, điều tra viên của Viện kiểm sát nhân dân; nghiên cứu đề án đổi mới chính sách tiền lương, chế độ đãi ngộ đối với cán bộ ngành Kiểm sát nhân dân theo lộ trình chung. * Những định hướng trọng tâm cần tập trung nghiên cứu từ nay đến năm 2010 để làm cơ sở cho việc đổi mới tổ chức của Viện kiểm sát nhân dân đến năm 2020. Theo lộ trình Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 thì từ sau năm 2010, việc đổi mới tổ chức Viện kiểm sát nhân dân theo định hướng chuyển Viện kiểm sát nhân dân thành Viện công tố. Do đó, việc nghiên cứu vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ, nguyên tắc tổ chức và hoạt động, cơ cấu tổ chức bộ máy làm việc của Viện công tố cần phải được khẩn trương nghiên cứu làm rõ về một số nội dung cơ bản sau: Một là, cần phải nghiên cứu để xác định vị trí của Viện công tố trong bộ máy nhà nước trong tiến trình cải cách tư pháp là Viện công tố trực thuộc Chính phủ hay trực thuộc Quốc hội như hiện nay. Trong đó, phải chú trọng đề cao tính độc lập trong hành xử quyền công tố và việc bảo vệ lợi ích công. Tính độc lập của các quyết định công tố là một yếu tố không thể thiếu nhằm tạo nên tính khách quan thực sự của hệ thống tư pháp với tính cách là "đơn vị bảo vệ lợi ích xã hội", phù hợp với xu hướng chung mà các nước mong muốn để các công tố viên phải được hoàn thành nhiệm vụ của mình một cách hoàn toàn độc lập mà không phải chịu bất cứ một sự can thiệp nào. Hai là, cần xác định chức năng, nhiệm vụ của Viện công tố trong tố tụng hình sự theo hướng là trung tâm quyết định tố tụng trong giai đoạn điều tra, truy tố tội phạm. Theo đó, Viện công tố có các thẩm quyền cơ bản là: Quyết định việc khởi tố vụ án, khởi tố bị can, quyết định các biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn điều tra; quyết định các hoạt động thu thập chứng cứ và truy tìm thủ phạm; quyết định việc kết thúc điều tra, điều tra lại theo chế độ dự thẩm; quyết định truy tố tội phạm hay không truy tố. Ba là, về vị trí, vai trò của Viện công tố trong tố tụng dân sự, hành chính, lao động, kinh doanh, thương mại và trong thi hành án khi Viện công tố không thực hiện việc kiểm sát hoạt động xét xử của Tòa án tại phiên tòa xét xử các vụ án dân sự, hành chính, lao động, kinh doanh, thương mại thì cần nghiên cứu cơ chế để Viện công tố có trách nhiệm và có các quyền năng tố tụng cần thiết để bảo vệ lợi ích công như Viện công tố các nước, đó là các quyền: khởi tố, tham gia phiên tòa, kháng nghị những bản án, quyết định không có căn cứ và trái pháp luật; trực tiếp quyết định thi hành án trong một số trường hợp…. Viện công tố thực hiện một số nhiệm vụ trong các lĩnh vực này là nhân danh công quyền dưới sự lãnh đạo của Đảng, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, phù hợp với trình độ dân trí, truyền thống pháp lý và xu hướng chung của các nước trong điều kiện hội nhập. Bốn là, nghiên cứu vai trò của Viện công tố trong việc chủ trì nghiên cứu, phân tích tội phạm, đề xuất với Đảng và Nhà nước về hoàn thiện chính sách hình sự, đường lối đấu tranh phòng, chống tội phạm, nhất là tội phạm tham nhũng. Nghiên cứu việc thành lập Viện nghiên cứu tội phạm quốc gia trực thuộc Viện công tố trung ương. Năm là, về mô hình tổ chức của Viện công tố theo yêu cầu cải cách tư pháp phải được tổ chức phù hợp với hệ thống tổ chức của Tòa án nhưng phải đồng bộ với tổ chức Cơ quan điều tra, bảo đảm chủ trương tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra. Theo đó, cần nghiên cứu xây dựng mô hình Viện công tố bốn cấp tương ứng với bốn cấp của Tòa án hay chỉ ba là cấp phúc thẩm, thượng thẩm và cấp trung ương tương ứng với Tòa án, còn Viện công tố cấp khu vực thì tương ứng với Cơ quan điều tra? Nghiên cứu cơ cấu bộ máy của Viện công tố các cấp về các bộ phận nghiệp vụ, tham mưu, giúp việc; nghiên cứu cơ cấu của hệ thống tổ chức công tố, cơ sở đào tạo, bồi dưỡng chức cán bộ, nghiên cứu khoa học. Sáu là, nghiên cứu các cơ chế tổ chức và hoạt động của Viện công tố để nâng cao tính chủ động, độc lập trong tố tụng của mỗi cấp công tố nhưng phải bảo đảm sự lãnh đạo tập trung, thống nhất của toàn bộ hệ thống. Nghiên cứu nguyên tắc độc lập quyết định truy tố hay không truy tố tội phạm bảo đảm sự linh hoạt của chính sách công tố trong tinh thần vừa tôn trọng luật pháp vừa tính đến lợi ích của công chúng, tập trung xử lý các vụ án phạm tội nghiêm trọng, phức tạp có hiệu quả. Nguyên tắc độc lập quyết định truy tố hay không truy tố được qui định trong khuôn khổ pháp luật và công khai về chính sách công tố do Tổng công tố trưởng đề ra và để thực tiễn áp dụng nguyên tắc này không bị lợi dụng thì phải có cơ chế kiểm soát, có giải thích và được thông báo công khai. Bảy là, về thẩm quyền hành chính và thẩm quyền tư pháp và việc phân định các thẩm quyền này trong tổ chức và hoạt động của Viện công tố theo hướng cần nghiên cứu để phân định rõ thẩm quyền quản lý hành chính với thẩm quyền tư pháp của các chức danh pháp lý trong Viện công tố. Đặt vấn đề này là do xuất phát từ thực tế hiện nay đã có sự không rõ ràng trong việc xác định các thẩm quyền này dẫn tới gặp nhiều khó khăn, vướng mắc trong khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mỗi chức danh và việc xác định trách nhiệm pháp lý của từng chức danh trong những trường hợp cụ thể. Tám là, về mối quan hệ giữa Viện công tố với ủy ban tư pháp của Quốc hội (nếu cơ quan này được Quốc hội thành lập trong thời gian tới) và Hội đồng nhân dân các cấp thì cần nghiên cứu các vấn đề: ủy ban tư pháp của Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp giám sát hoạt động của hệ thống công tố được thực hiện theo cơ chế nào? giám sát chung hay giám sát sự việc cụ thể và khi giám sát sự việc có quyền kết luận tính đúng, sai của những quyết định công tố và yêu cầu Viện công tố phải xem xét lại nhưng Viện công tố có quyền không tuân theo kết luận của ủy ban tư pháp không? cơ chế giám sát của Hội đồng nhân dân về công tác thực hành quyền công tố của Viện công tố các địa phương được tiến hành theo phương thức nào? Chín là, cần nghiên cứu đề án về xây dựng đội ngũ công tố viên trong sạch, vững mạnh, đáp ứng yêu cầu của cải cách tư pháp. Thời gian qua, Viện kiểm sát nhân dân các cấp luôn chú trọng và có nhiều biện pháp nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công tác đào tạo cán bộ nhằm thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của ngành. Tuy nhiên, thực trạng đội ngũ cán bộ, công tác đào tạo cán bộ hiện nay vẫn còn nhiều tồn tại, hạn chế so với yêu cầu đặt ra. Với mục tiêu xây dựng đội ngũ công tố viên trong sạch, vững mạnh, đáp ứng yêu cầu của cải cách tư pháp cần phải tiến hành một số công việc sau: - Nghiên cứu đề xuất cơ cấu cán bộ Viện công tố theo hướng đa chức danh, bảo đảm phù hợp với chức năng công tố và việc tăng cường công tố viên theo yêu cầu cải cách tư pháp. Các chức danh cơ bản là công tố viên, trợ lý công tố viên,… - Nghiên cứu mở rộng nguồn để bổ nhiệm công tố viên theo hướng không chỉ là cán bộ trong ngành như hiện nay mà từ còn các nguồn khác như luật sư, điều tra viên, thẩm phán… Đồng thời, đa dạng hình thức để lựa chọn người bổ nhiệm công tố viên, bảo đảm chọn đúng và chính xác những người cần cho sự nghiệp công tố của đất nước. Công tố viên phải có năng lực nghiệp vụ và nắm chắc luật pháp, dũng cảm đấu tranh vì công lý. Đổi mới hình thức thi tuyển bằng sát hạch thực tiễn giải quyết các vụ việc, hoặc bằng con đường đánh giá, chấm điểm chất lượng, hiệu quả lao động của người cần bổ nhiệm, khắc phục bệnh quan liêu trong xét bổ nhiệm. Nghiên cứu cơ chế loại bỏ những công tố viên không có khả năng làm việc, khắc phục tình trạng đồng nhất chính sách xã hội với chế độ của công tố viên. - Nghiên cứu việc tăng thời hạn bổ nhiệm đối với công tố viên gắn với cơ chế tuyển chọn công tố viên theo hướng bổ nhiệm không thời hạn (hiện nay thời hạn bổ nhiệm là 5 năm sau đó xét bổ nhiệm lại thường là thủ tục). Nâng độ tuổi nghỉ hưu cho các chức danh tư pháp, trong đó có chức danh công tố viên do đặc thù của lao động tư pháp là kinh nghiệm thực tiễn và tâm lý cuộc sống, phù hợp với xu hướng hội nhập quốc tế. - Đổi mới chương trình đào tạo, bồi dưỡng công tố viên đáp ứng yêu cầu thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Viện công tố trong tiến trình cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế. Đào tạo, bồi dưỡng kiến thức và nâng cao năng lực điều tra, kỹ năng công tố, trình độ ngoại ngữ và tin học. Công tố viên trong thời gian tới phải được đào tạo và bồi dưỡng chuyên sâu về nghiệp vụ điều tra tội phạm mới có thể hoàn thành nhiệm vụ công tố chỉ đạo điều tra, tăng cường tranh tụng tại phiên tòa. - Nghiên cứu đổi mới các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng công tố viên đủ năng lực để giảng dạy và nghiên cứu về kỹ năng công tố, phương pháp điều tra tội phạm, thống kê hình sự và nghiên cứu tội phạm học. - Nghiên cứu đổi mới chính sách tiền lương và chế độ đãi ngộ cho ngũ cán bộ, công tố viên. Lương và chế độ đãi ngộ phải phù hợp với đặc thù của hoạt động công tố và trong bối cảnh chung của sự phát triển kinh tế, có tính đến khả năng phát triển kinh tế của từng địa phương. Nghiên cứu cơ chế khen thưởng bổ nhiệm trước thời hạn đối với công tố viên có sáng kiến, có thành tích xuất sắc trong công tác. 3.2.2. Phương hướng đổi mới tổ chức của Viện kiểm sát nhân dân từ sau năm 2010 đến năm 2020 Với những nội dung nghiên cứu như đã nêu ở trên, có thể đề xuất về mô hình Viện công tố trong cải cách tư pháp từ những nội dung có liên quan như sau: * Vị trí của Viện công tố trong bộ máy nhà nước trong điều kiện cải cách tư pháp. Trong điều kiện cải cách tư pháp, vị trí của Viện công tố trong bộ máy nhà nước là một cơ quan ngang bộ và trực thuộc Chính phủ tức là thuộc cơ quan hành pháp. Viện công tố các địa phương được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung lãnh đạo thống nhất trong ngành, không chịu sự chỉ đạo của chính quyền địa phương. Ưu điểm của phương án này là đảm bảo tính độc lập, tính thống nhất chỉ đạo của cơ quan hành pháp trong quản lý nhà nước về đấu tranh phòng chống tội phạm. Trong một nhà nước vận hành theo nguyên tắc pháp quyền thì Viện công tố phải hoàn toàn độc lập và chỉ tuân theo pháp luật để thực hiện quyền lực nhà nước của hệ thống hành pháp khi phán quyết những hành vi tội phạm sẽ không gặp phải sự can thiệp, trở ngại nào. Tính độc lập của các quyết định công tố là một yếu tố không thể thiếu nhằm tạo nên tính khách quan thực sự của hệ thống công tố với tính cách là đơn vị bảo vệ lợi ích nhà nước, bảo vệ lợi ích xã hội, phù hợp với xu hướng chung của các nước trên thế giới trong điều kiện hội nhập và giao lưu quốc tế * Về nguyên tắc tổ chức của hệ thống cơ quan Viện công tố. Về nguyên tắc tổ chức của hệ thống cơ quan Viện công tố cần tiếp tục áp dụng nguyên tắc tập trung thống nhất trong ngành. Viện trưởng Viện công tố cấp dưới chịu sự lãnh đạo của Viện trưởng Viện công tố cấp trên và chịu sự lãnh đạo thống nhất của Tổng công tố trưởng. Viện công tố các cấp hợp thành một hệ thống thống nhất trực thuộc Chính phủ. Ưu điểm của nguyên tắc này là để hoạt động công tố của Viện công tố không bị lệ thuộc, can thiệp của chính quyền địa phương, đảm bảo tính độc lập khi truy cứu trách nhiệm đối với người phạm tội, đảm bảo tính thống nhất của việc thực thi pháp luật trong đấu tranh phòng chống, tội phạm. * Về vai trò của Viện công tố trong giai đoạn điều tra. Theo mô hình này, Viện công tố chỉ đạo hoạt động điều tra ngay từ đầu, tức là công tố viên quyết định mở cuộc điều tra theo trình tự tố tụng, chỉ đạo điều tra viên thu thập các bằng chứng buộc tội và truy tìm thủ phạm. Căn cứ vào tổng kết thực tiễn và yêu cầu cải cách tư pháp đặt ra trong Văn kiện đại hội toàn quốc lần thứ X của Đảng và Nghị quyết số 49 của Bộ Chính trị, thì cần lựa chọn mô hình công tố mạnh có quyền chỉ đạo hoạt động điều tra theo hướng: - Viện công tố có trách nhiệm là đầu mối tiếp nhận và quyết định việc phân loại, xử lý tất cả các tin báo, tố giác về phạm tội do cơ quan, tổ chức và cá nhân cung cấp. Cơ quan điều tra thực hiện việc xác minh tin báo, tố giác về tội phạm theo mệnh lệnh của Viện công tố. Viện công tố phải là cơ quan trực tiếp ra tất cả các quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can trên cơ sở kết quả xác minh của Cơ quan điều tra. - Mọi mệnh lệnh của Viện công tố có giá trị bắt buộc đối với Cơ quan điều tra; nếu không đồng ý thì Cơ quan điều tra vẫn phải chấp hành nhưng có quyền kiến nghị Viện công tố cấp trên xem xét. Khi tiến hành các hoạt động điều tra thì điều tra viên phải do công tố viên điều hành, chỉ đạo trực tiếp; công tố viên có quyền yêu cầu điều tra viên thu thập chứng cứ và truy tìm thủ phạm. Để thực hiện được nội dung này cần xác lập cơ chế pháp lý để điều tra viên hoàn thành trách nhiệm tố tụng của mình trong mối quan hệ ràng buộc với công tố viên. - Viện công tố trực tiếp ra các quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can, quyết định áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn điều tra, thay cho việc phê chuẩn các lệnh, quyết định đó của Cơ quan điều tra như hiện nay; quyết định việc thu nhập chứng cứ và truy tìm thủ phạm; quyết định việc kết thúc điều tra; có quyền điều tra lại theo chế độ dự thẩm; quyết định truy tố hay không truy tố một tội phạm. Thực hiện cơ chế này vừa đơn giản, thuận lợi về mặt thủ tục, tiết kiệm và đảm bảo tính nghiêm minh của văn bản tố tụng do Viện công tố ban hành; đồng thời khắc phục được tình trạng trả hồ sơ để điều tra bổ sung làm cho việc giải quyết vụ án bị kéo dài; mặt khác, qua đó nêu cao trách nhiệm của Viện công tố, của Cơ quan điều tra trong đấu tranh chống tội phạm. * Vai trò của Viện công tố trong giai đoạn xét xử các vụ án hình sự. - Tăng cường năng lực của công tố viên thực hành quyền công tố tại phiên tòa xét xử, đảm bảo tranh tụng dân chủ với người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác. Công tố viên phải nắm chắc hồ sơ chứng cứ, theo dõi chặt chẽ diễn biến tại phiên tòa để hỏi và luận tội một cách xác đáng, tranh luận có trọng tâm, thuyết phục, góp phần làm sáng tỏ mọi tình tiết của vụ án. Kết thúc phiên tòa xét xử, nếu thấy rằng Tòa án áp dụng pháp luật hình sự không đúng hoặc có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng thì công tố viên báo cáo Viện trưởng ra kháng nghị yêu cầu Tòa cấp trên thụ lý, giải quyết. - Tòa án xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật là đúng đắn và cần thiết trong bảo vệ công lý. Nhưng để chống lạm quyền, độc đoán trong việc Tòa án ra phán quyết thì tất yếu phải có sự giám sát mang tính pháp lý mà quyền kháng nghị của Viện công tố đối với bản án, quyết định của Tòa án chính là phương thức dùng quyền lực để chế ước quyền lực, đảm bảo sự công bằng, bình đẳng trong việc xét xử vụ án hình sự, đảm bảo công lý. Quan niệm cho rằng bỏ việc kiểm sát xét xử của Viện công tố tại phiên tòa chỉ đúng với ý nghĩa là bỏ kiểm sát hành vi và các quyết định tố tụng của Tòa án trước và trong khi xét xử tại phiên tòa, còn các quyết định tố tụng của Tòa án sau khi xét xử thì vẫn là đối tượng phải có sự giám sát của Viện công tố. Pháp luật hiện hành đã giao cho Viện kiểm sát nhân dân quyền kháng nghị đối với bản án, quyết định của Tòa án là phù hợp với xu hướng chung về tư pháp của các nước phát triển. Điều này cần phải được tiếp tục kế thừa khi quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Viện công tố nước ta trong tiến trình cải cách tư pháp. * Vai trò của Viện công tố trong tố tụng dân sự, lao động, hành chính, kinh doanh, thương mại. Trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền, mở rộng dân chủ thì có xu hướng càng giảm bớt sự can thiệp của nhà nước vào việc dân sự mà đề cao nguyên tắc các đương sự tự định đoạt là đúng đắn và cần thiết. Các cơ quan công quyền kể cả cơ quan hành chính và tư pháp phải tạo mọi điều kiện cho công dân thực hiện đầy đủ các quyền dân sự của họ. Tuy nhiên, do trình độ dân trí và việc quản lý nhà nước đối với các giấy tờ chứng nhận về quyền sở hữu tài sản, sở hữu trí tuệ có liên quan đến việc giải quyết các vụ việc dân sự ở nước ta còn yếu kém, bất cập; trình độ và năng lực của đội ngũ Thẩm phán cũng còn hạn chế, nên trong một số loại việc dân sự mà đương sự không có khả năng thực hiện được các quyền để bảo vệ lợi ích của mình trước Tòa án hoặc trong những trường hợp bên nguyên đơn, bên bị đơn cùng thỏa thuận để gây thiệt hại cho lợi ích của người thứ ba, lợi ích công cộng thì cần thiết phải có sự tham gia của Viện công tố để bảo vệ quyền và lợi ích của các chủ thể này. Thực tiễn hiện nay việc giải quyết các tranh chấp dân sự của Tòa án là lĩnh vực đang có nhiều bức xúc của xã hội đòi hỏi phải có sự tham gia của Viện công tố trong những trường hợp nhất định. Việc quy định Viện công tố có quyền đại diện lợi ích công cộng đưa một số loại tranh chấp dân sự nhất định ra tòa và Viện công tố là người đại diện cho công quyền tranh tụng tại phiên tòa không chỉ bảo vệ quyền lợi cá nhân mà quan trọng hơn còn là để bảo vệ lợi ích công chúng. Việc khẳng định vai trò của Viện công tố trong việc giải quyết các tranh chấp dân sự, hành chính, lao động, kinh doanh, thương mại liên quan đến lợi ích công cộng sẽ tạo động lực thúc đẩy các quan hệ dân sự, kinh tế phát triển lành mạnh hướng tới mục tiêu đảm bảo công bằng, bình đẳng và công lý xã hội. Điều đó cũng phù hợp với truyền thống pháp lý của nước ta và xu hướng chung trong luật pháp của nhiều nước trên thế giới đều có quy định Viện công tố trong một số trường hợp đại diện cho lợi ích công cộng đưa vụ việc dân sự ra tòa. Cũng xuất phát từ việc Viện công tố có quyền đại diện lợi ích công cộng, bảo vệ lợi ích công cộng, do đó, cần qui định quyền kháng nghị của Viện công tố đối với các bản án, quyết định về dân sự, hành chính, lao động, kinh doanh, thương mại và trong thi hành án khi các bản án, quyết định đó khi có vi phạm pháp luật và ảnh hưởng đến lợi ích công cộng. * Vai trò của Viện công tố trong lĩnh vực phòng vi phạm và tội phạm. Thông qua thực hiện chức năng công tố trong đấu tranh phòng, chống tội phạm, Viện công tố đề xuất những kiến nghị với các cơ quan có thẩm quyền áp dụng các biện pháp khắc phục những sơ hở trong quản lý nhà nước, kinh tế, xã hội và áp dụng các biện pháp phòng ngừa. Viện công tố đóng vai trò trung tâm trong việc chủ trì nghiên cứu, phân tích tội phạm, đề xuất với Đảng và Nhà nước về chính sách hình sự, đường lối đấu tranh phòng, chống tội phạm nhất là tội phạm về tham nhũng. Do đó, về tổ chức bộ máy cần thành lập Viện nghiên cứu phòng ngừa tội phạm quốc gia trực thuộc Viện công tố tối cao. * Về mô hình tổ chức của Viện công tố theo yêu cầu cải cách tư pháp. Căn cứ vào yêu cầu cải cách tư pháp được ghi trong Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 thì Viện công tố phải được tổ chức phù hợp với hệ thống tổ chức của Tòa án. Theo đó hệ thống Viện công tố nếu chỉ phù hợp với tổ chức Tòa án thì gồm 4 cấp là: - Viện công tố khu vực: Được tổ chức ở một (nơi có số lượng án nhiều) hoặc một số đơn vị hành chính cấp huyện (nơi có số lượng án không nhiều). Nhiệm vụ chủ yếu của các Viện công tố này là thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra và thực hành quyền công tố tại phiên tòa xét xử sơ thẩm các vụ án thuộc thẩm quyền của cấp huyện như hiện nay. - Viện công tố phúc thẩm: Đặt tại các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có nhiệm vụ chủ yếu là thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử phúc thẩm các bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm có kháng cáo, kháng nghị và thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra và giai đoạn xét xử sơ thẩm một số vụ án do luật qui định phải được điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm ở cấp tỉnh. - Viện công tố thượng thẩm: Có nhiệm vụ thực hành quyền công tố tại các phiên tòa phúc thẩm các vụ án mà Tòa án cấp phúc thẩm xét xử sơ thẩm vụ án đó theo thẩm quyền. Viện công tố thượng thẩm đặt tại các vùng phù hợp với tổ chức Tòa án thượng thẩm. - Viện công tố tối cao: Viện công tố tối cao có trụ sở đặt tại Hà Nội có nhiệm vụ tổng kết kinh nghiệm thực hành quyền công tố, hướng dẫn áp dụng pháp luật thống nhất, tham gia các phiên tòa giám đốc thẩm, tái thẩm của Tòa án nhân dân tối cao. Tuy nhiên, cơ cấu tổ chức của hệ thống Viện công tố cần tính đến sự đồng bộ với tổ chức Cơ quan điều tra nhằm thực hiện chủ trương của Đảng là gắn kết hoạt động công tố với hoạt động điều tra, tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra và cũng là để nâng cao chất lượng tranh tụng của công tố viên tại phiên tòa. Vì vậy, mô hình tổ chức Cơ quan điều tra cũng phải được nghiên cứu kỹ lưỡng để đảm bảo sự phù hợp với tổ chức của hệ thống Viện công tố và tổ chức của hệ thống Tòa án * Về thẩm quyền hành chính và thẩm quyền tư pháp và việc phân định các thẩm quyền đó trong tổ chức và hoạt động của Viện công tố. Theo đó, các quyền hạn tư pháp chủ yếu tập trung vào chức danh công tố viên; còn các chức danh Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện công tố là chủ yếu thực hiện chức năng quản lý hành chính trong đơn vị, chỉ thực hiện tố tụng khi cần thiết đối với những vụ án nghiêm trọng, phức tạp và khi trực tiếp thực hiện hoạt động tố tụng thì với tư cách tố tụng là công tố viên. Do đó, cần nghiên cứu phương án để đảm bảo tính khả thi theo hướng xây dựng chế độ công tố viên mạnh đủ khả năng đảm nhiệm quyền ra về cơ bản các quyết định tố tụng thuộc thẩm quyền của Viện công tố. Làm như vậy vừa phân định được thẩm quyền tố tụng và thẩm quyền hành chính, vừa bảo đảm tính pháp quyền trong hoạt động công tố, nâng cao tính chủ động và tự chịu tránh nhiệm của mỗi chức danh, khắc phục tình trạng quan liêu hoặc quá tải về công việc của Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát các cấp hiện nay. Để làm được điều này, công tố viên phải được đào tạo, bồi dưỡng kiến thức điều tra tội phạm mới có thể hoàn thành trách nhiệm trong điều kiện cải cách tư pháp với nhiệm vụ là công tố viên chỉ đạo hoạt động điều tra. * Về hoàn thiện và xây dựng mối quan hệ giữa Viện công tố với Hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân, ủy ban tư pháp của Quốc hội, đảm bảo thực hiện cơ chế giám sát của Hội đồng nhân dân, của ủy ban tư pháp đối với tổ chức và hoạt động của hệ thống Viện công tố. 3.3. Các kiến nghị về xây dựng và hoàn thiện pháp luật về Viện công tố 3.3.1. Sửa đổi, bổ sung Hiến pháp, các bộ luật, các luật và các văn bản dưới luật có liên quan - Sửa đổi Hiến pháp: Hiến pháp là đạo luật cơ bản và quan trọng nhất của nhà nước, trong đó có quy định về các cơ quan nhà nước, chức năng, nhiệm vụ, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của cơ quan đó. Do đó, khi Viện công tố với tư cách là một cơ quan nhà nước mới thay thế cơ quan Viện kiểm sát nhân dân được qui định trong Hiến pháp hiện hành thì đòi hỏi phải được ghi nhận trong Hiến pháp sửa đổi. Trong Hiến pháp sửa đổi phải có những qui định về vị trí, vai trò của Viện công tố trong bộ máy nhà nước. Đồng thời, cần có qui định chung nhất và cơ bản nhất về chức năng, nhiệm vụ, nguyên tắc tổ chức và hoạt động Viện công tố. - Ban hành Luật Viện công tố: Trong tương lai, Viện công tố là một cơ quan nhà nước mới được thành lập có vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ, có hệ thống tổ chức khác hẳn so với Viện kiểm sát nhân dân theo quy định của pháp luật hiện hành. Do đó, cần thiết phải ban hành luật mới với tên gọi dự kiến là Luật Viện công tố thay thế Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân hiện hành. Luật này cần xây dựng theo hướng qui định bao quát tất cả những vấn đề cơ bản về tổ chức và hoạt động của Viện công tố mà cần thiết phải điều chỉnh dưới hình thức văn bản luật, khắc phục tình trạng phải điều chỉnh cả bằng hình thức văn bản pháp lệnh đối với những lĩnh vực cần phải được điều chỉnh bằng luật như hiện nay (Pháp lệnh kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân). - Xây dựng Bộ luật tố tụng hình sự mới: Nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn để xây dựng Bộ luật tố tụng hình sự mới theo hướng xác định rõ vị trí, vai trò của Viện công tố trong tố tụng hình sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp. Bộ luật tố tụng hình sự mới là bộ luật cơ bản và quan trọng nhất liên quan trực tiếp đến việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Viện công tố trong tương lai, do đó cần được quan tâm nghiên cứu đúng mức khi xây dựng Bộ luật này theo các tiêu chí cơ bản sau: + Trong Bộ luật tố tụng hình sự mới cần phân định rõ thẩm quyền quản lý hành chính với trách nhiệm, quyền hạn tư pháp trong hoạt động tố tụng theo hướng tăng quyền cho điều tra viên, công tố viên và Thẩm phán để họ chủ động trong thực thi nhiệm vụ, nâng cao tính độc lập và chịu tránh nhiệm trước pháp luật về các hành vi và quyết định tố tụng của mình. + Nghiên cứu phương án hạn chế việc tạm giam, thu hẹp đối tượng người có thẩm quyền quyết định việc áp dụng biện pháp tạm giam. Theo đó, cần có qui định không áp dụng biện pháp tạm giam đối với một số tội trong Bộ luật hình sự. Về thẩm quyền áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam, theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành có 7 người có quyền ra lệnh tạm giam: Thủ trưởng, phó thủ trưởng Cơ quan điều tra; Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân; Chánh án, Phó Chánh án Tòa án nhân dân và Hội đồng xét xử. Như vậy, hiện nay ở nước ta có nhiều chủ thể có quyền này. Tham khảo vấn đề này trong tố tụng hình sự các nước trên thế giới cho thấy có nước giao cho Viện công tố, có nước thì giao cho Tòa án. Theo yêu cầu cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay và với mô hình Viện công tố như đã nêu ở trên thì việc giao thẩm quyền này cho Viện công tố là phù hợp. + Nghiên cứu các phương án để tăng cường trách nhiệm của Viện công tố trong hoạt động điều tra gắn kết giữa hoạt động công tố và hoạt động điều tra ngay từ đầu, bảo đảm chống bỏ lọt tội phạm và cũng là nâng cao chất lượng tố tụng của công tố viên tại phiên tòa nhằm chống làm oan người vô tội. Cần có quy định Viện công tố trực tiếp ra quyết định tố tụng thay cho việc phê chuẩn các quyết định tố tụng như hiện nay. Đồng thời, xác lập cơ chế công tố viên chỉ đạo hoạt động điều tra và chỉ đạo điều tra viên trong hoạt động tố tụng, vì chính công tố viên là người chịu trách nhiệm buộc tội thì phải có quyền chỉ đạo thu thập chứng cứ, bắt giữ và truy tìm thủ phạm, còn việc thực hiện các biện pháp nghiệp vụ điều tra như thế nào là công việc của điều tra viên. + Đồng thời cần qui định cơ chế Viện công tố quản lý điều tra viên về mặt tố tụng, qua đó gắn với việc Cơ quan điều tra bổ nhiệm, đề bạt điều tra viên, đảm bảo tăng cường trách nhiệm của điều tra viên trong việc thực hiện các yêu cầu điều tra của công tố viên. + Nghiên cứu cơ chế mở rộng khả năng tranh tụng tại phiên tòa mà trọng tâm là đổi mới việc luận tội, xét hỏi, tranh luận của công tố viên tại phiên tòa xét xử các vụ án hình sự gắn với việc đổi mới trình tự, thủ tục xét xử tại phiên tòa. Theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành, Thẩm phán hỏi là chính và hỏi trước về hành vi và theo trình tự vụ việc. Trên thực tế có nhiều điểm không hợp lý khi thực hiện vấn đề này, do đó cần thay đổi trình tự, thủ tục xét hỏi tại phiên tòa theo hướng vừa đơn giản về thủ tục vừa nâng cao về hiệu quả tranh tụng, bảo đảm phán quyết của Tòa án khách quan, chính xác. Theo phương án này thì công tố viên viên hỏi là chính, sau đó đến người bào chữa, Thẩm phán chỉ hỏi những điểm còn mâu thuẫn và chưa rõ về vụ án. + Nghiên cứu phương án nâng cao chất lượng kháng nghị của Viện công tố theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm hình sự; quy định chặt chẽ những căn cứ kháng nghị và quy định rõ trách nhiệm của người ra kháng nghị đối với bản án hoặc quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, khắc phục tình trạng hiện nay là hiệu quả kháng nghị của Viện kiểm sát thì hạn chế trong khi tỷ lệ án bị cải sửa hoặc án bị hủy do kháng cáo nhiều mà Viện kiểm sát không có kháng nghị; đồng thời cũng tránh tình trạng kháng nghị của Viện công tố tràn lan, thiếu căn cứ dẫn đến Tòa án bác kháng nghị. + Nghiên cứu, xây dựng cơ chế xét xử theo chế độ một Thẩm phán và hoàn thiện thủ tục rút gọn đối với những vụ án có đủ một số điều kiện nhất định theo thủ tục rút gọn: Hiện nay các vụ án theo thủ tục rút gọn mới chỉ rút gọn về thời gian, chưa rút gọn về thủ tục và chỉ rút gọn ở giai đoạn sơ thẩm. Do đó, cần qui định cụ thể cơ chế bắt buộc phải áp dụng thủ tục rút gọn khi vụ án đủ điều kiện và vai trò quyết định áp dụng thủ tục rút gọn thuộc về Viện công tố. - Sửa đổi, bổ sung Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004: Căn cứ theo chức năng, nhiệm vụ của Viện công tố trong tương lai theo mô hình Viện công tố như đã nêu ở trên thì Viện công tố không thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp đối với việc giải quyết các quyết các vụ việc dân sự, lao động, hành chính, kinh doanh, thương mại nữa mà Viện công tố chỉ có trách nhiệm thực hiện những quyền năng tố tụng cần thiết để bảo vệ lợi ích công như khởi tố, tham gia phiên tòa, kháng nghị những bản án, quyết định không có căn cứ và trái pháp luật; trực tiếp quyết định thi hành án trong một số trường hợp nhất định. Do đó, cần sửa đổi, bổ sung các qui định có liên quan về vấn đề này trong Bộ luật tố tụng dân sự. - Sửa đổi, bổ sung các bộ luật, các luật và các văn bản pháp luật khác có liên quan đến tổ chức và hoạt động của Viện công tố: Theo quy định của pháp luật hiện hành, liên quan đến tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân được qui định rải rác ở nhiều văn bản khác nhau, do đó khi xác lập tổ chức và hoạt động của Viện công tố trên thực tế thì cần phải sửa đổi, bổ sung các văn bản này cho đảm bảo tính đồng bộ và thống nhất. 3.3.2. Ban hành mới, sửa đổi, bổ sung, thay thế các qui chế nghiệp vụ về tổ chức và hoạt động của Viện công tố Để Viện công tố được tổ chức và hoạt động trên thực tế, đòi hỏi phải có một hệ thống các qui chế nghiệp vụ, qui chế về quản lý và các qui định cụ thể về tổ chức và hoạt động điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong nội bộ ngành. Do đó, khi Viện công tố được xác lập trên thực tế phải tiến hành việc ban hành mới hoặc sửa đổi, bổ sung, thay thế các qui định hiện hành. Cụ thể gồm các lĩnh vực cơ bản sau: - Qui chế về tổ chức bộ máy và hoạt động của các đơn vị công tác trong hệ thống Viện công tố. - Qui chế về thông tin, báo cáo, quản lý công tác trong hệ thống Viện công tố. - Qui chế về công tác thực hành quyền công tố trong việc điều tra các vụ án hình sự. - Qui chế về công tác thực hành quyền công tố trong việc xét xử các vụ án hình sự. - Qui chế về công tác công tố trong việc tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù. - Qui chế về công tác công tố trong việc thi hành án. - Qui chế về công tác công tố đối với các vụ án dân sự, lao động, hành chính, kinh doanh, thương mại. kết luận Qua quá trình phát triển từ ngày thành lập đến nay, tổ chức của Viện kiểm sát nhân dân đã không ngừng đổi mới, từng bước được hoàn thiện, củng cố, về cơ bản đáp ứng được yêu cầu thực hiện chức năng, nhiệm vụ theo luật định. Từng bước hệ thống tổ chức, bộ máy cơ quan Viện kiểm sát các cấp đã đi vào ổn định hoạt động theo một quy trình đồng bộ, thống nhất, đạt hiệu quả trong đấu tranh phòng, chống tội phạm. Tuy nhiên, quá trình vận hành và trước những nhu cầu, nhiệm vụ mới cho thấy cơ cấu tổ chức bộ máy Viện kiểm sát nhân dân các cấp đã bộc lộ một số điểm chưa hợp lý, bất cập. Tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân cần phải có sự bổ sung, điều chỉnh cho phù hợp với yêu cầu mới. Việc kiện toàn tổ chức bộ máy Viện kiểm sát nhân dân và cần quán triệt các nguyên tắc, quan điểm chỉ đạo là phải quán triệt các quan điểm, tư tưởng chỉ đạo việc cải cách bộ máy nhà nước và các cơ quan tư pháp đã thể hiện trong các nghị quyết của Đảng về cải cách tư pháp nhất là Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Căn cứ vào lộ trình thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị, mục tiêu đổi mới tổ Viện kiểm sát nhân dân trong từng giai đoạn cũng khác nhau. Trong giai đoạn từ nay đến năm 2010, thì về cơ bản mô hình tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân được giữ nguyên như hiện nay. Việc đổi mới tổ chức Viện kiểm sát nhân dân trong giai đoạn này chỉ tiến hành trên một phạm vi nhất định và để tạo những tiền đề, cơ sở cho việc đổi mới một cách sâu sắc, mạnh mẽ ở giai đoạn tiếp theo. Do đó, mục tiêu đổi mới tổ chức Viện kiểm sát nhân dân trong giai đoạn này là tiếp tục rà soát, nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung các qui chế về tổ chức, hoạt động và qui chế nghiệp vụ theo chức năng, nhiệm vụ theo quy định hiện hành. Tiếp tục kiện toàn bộ máy làm việc ở Viện kiểm sát nhân dân các cấp cho phù hợp với tình hình nhiệm vụ mới của ngành. Tăng cường việc tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, chính sách đối với cán bộ đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp và nhu cầu hội nhập giao lưu quốc tế hiện nay. Cũng trong giai đoạn này, việc nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn để đề xuất mô hình tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong giai đoạn tiếp theo là một nội dung quan trọng cần được tiến hành khẩn trương theo lộ trình và kế hoạch đã đề ra. Trong giai đoạn tiếp theo, từ sau năm 2010 đến năm 2020, mục tiêu đổi mới tổ chức, hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân là đổi mới cơ bản và toàn diện về tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân. Do đó, cần phải đổi mới tổ chức Viện kiểm sát nhân dân theo hướng xây dựng mô hình Viện công tố với chức năng, nhiệm vụ mạnh mẽ tương đồng với Viện công tố các nước có vai trò chỉ đạo hoạt động điều tra, hoạt động công tố phải gắn kết với hoạt động điều tra ngay từ đầu và cơ quan Viện công tố thực hiện quyền nhân danh xã hội để bảo vệ lợi ích công trong các lĩnh vực dân sự, hành chính. Việc nghiên cứu mô hình tổ chức và hoạt động của Viện công tố phải đặt trong tổng thể của cải cách tư pháp, đồng bộ với việc đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án, Cơ quan điều tra và các thiết chế tư pháp khác, nhằm xây dựng được một Viện công tố đủ mạnh, thực quyền trong đấu tranh phòng, chống tội phạm và bảo vệ có hiệu quả lợi ích của nhà nước, của cơ quan, tổ chức, quyền và nghĩa vụ hợp pháp của công dân trên các phương diện. Vị trí của Viện công tố trong bộ máy nhà nước là một cơ quan ngang bộ và trực thuộc Chính phủ tức là thuộc cơ quan hành pháp. Viện công tố các địa phương được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung lãnh đạo thống nhất trong ngành, không chịu sự chỉ đạo của chính quyền địa phương. Tính độc lập của các quyết định công tố là một yếu tố không thể thiếu nhằm tạo nên tính khách quan thực sự của hệ thống công tố với tính cách là đơn vị bảo vệ lợi ích nhà nước, bảo vệ lợi ích xã hội, phù hợp với xu hướng chung của các nước trên thế giới trong điều kiện hội nhập và giao lưu quốc tế. Về nguyên tắc tổ chức của hệ thống cơ quan Viện công tố cần tiếp tục áp dụng nguyên tắc tập trung, thống nhất trong ngành. Viện trưởng Viện công tố cấp dưới chịu sự lãnh đạo của Viện trưởng Viện công tố các cấp trên và chịu sự lãnh đạo thống nhất của Tổng công tố trưởng. Viện công tố các cấp hợp thành một hệ thống thống nhất trực thuộc Chính phủ. Về vai trò của Viện công tố trong giai đoạn điều tra, theo mô hình này, Viện công tố chỉ đạo hoạt động điều tra ngay từ đầu, tức là công tố viên quyết định mở cuộc điều tra theo trình tự tố tụng, chỉ đạo điều tra viên thu thập các bằng chứng buộc tội và truy tìm thủ phạm. Qua tổng kết thực tiễn và yêu cầu cải cách tư pháp đặt ra trong Văn kiện Đại hội toàn quốc lần thứ X của Đảng, Nghị quyết số 49 của Bộ Chính trị, thì cần lựa chọn mô hình công tố mạnh có quyền chỉ đạo hoạt động điều tra. Theo yêu cầu cải cách tư pháp thì Viện công tố phải được tổ chức phù hợp với hệ thống tổ chức của Tòa án theo đó hệ thống cơ quan công tố nếu chỉ phù hợp với tổ chức Tòa án thì gồm 4 cấp là: Viện công tố khu vực, Viện công tố phúc thẩm, Viện công tố thượng thẩm, Viện công tố trung ương. Tuy nhiên cơ cấu tổ chức của hệ thống Viện công tố cần tính đến sự đồng bộ với tổ chức Cơ quan điều tra nhằm thực hiện chủ trương của Đảng là gắn kết hoạt động công tố với hoạt động điều tra, tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra và cũng là để nâng cao chất lượng tranh tụng của công tố viên tại phiên tòa. Vì vậy, mô hình tổ chức Cơ quan điều tra cũng phải được nghiên cứu kỹ lưỡng để đảm bảo sự phù hợp với tổ chức của hệ thống Viện công tố và tổ chức của hệ thống Tòa án. Danh mục tài liệu tham khảo 1. Ban Chỉ đạo cải cách tư pháp (2004), Báo cáo sơ kết hai năm triển khai thực hiện Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02-01-2002 của Bộ Chính trị về "một số nhiệm vụ trọng tâm trong công tác tư pháp trong thời gian tới", Hà Nội. 2. Ban Chỉ đạo cải cách tư pháp - Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2006), Kế hoạch số 05-KH/CCTP về thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 (giai đoạn 2006 - 2010) , Hà Nội. 3. Ban Nội chính Trung ương Đảng (2002), Đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với các cơ quan bảo vệ pháp luật trong đấu tranh chống tội phạm, Đề tài khoa học cấp bộ, Hà Nội. 4. Bộ luật tố tụng hình sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2003), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 5. Lê Cảm (2005), "Bàn về tổ chức quyền tư pháp - nội dung cơ bản của chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020", Kiểm sát, (23). 6. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội. 7. Đảng Cộng sản Việt Nam (1993), Chỉ thị số 29-CT/TW ngày 08-11 của Ban Bí thư Trung ương về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với các cơ quan bảo vệ pháp luật, Hà Nội. 8. Đảng Cộng sản Việt Nam (1995), Văn kiện Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương khóa VII, Hà Nội. 9. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 10. Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Chỉ thị số 53-CT/TW ngày 21-3 của Bộ Chính trị về một số công việc cấp bách của các cơ quan tư pháp cần thực hiện trong năm 2000, Hà Nội. 11. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 12. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/1 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, Hà Nội. 13. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010 định hướng đến năm 2020, Hà Nội. 14. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2/6 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội. 15. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 16. Đỗ Văn Đương (2006), "Cơ quan thực hành quyền công tố trong cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay", Nghiên cứu lập pháp, (7). 17. Phạm Hồng Hải (2006), "Đổi mới mô hình tổ chức và hoạt động của hệ thống các cơ quan thực hiện chức năng thực hành quyền công tố đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp", Nhà nước và pháp luật, (3). 18. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam từ năm 1946 đến năm 2001 (2002), Nxb Thành phố Hồ Chí Minh. 19. Lê Thị Tuyết Hoa (2002), Quyền công tố ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ Luật học. 20. Hội luật gia Việt Nam (1985), Hồ Chí Minh và pháp chế, Thành phố Hồ chí Minh. 21. V.I. Lênin (1978), Toàn tập, tập 41, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. 22. V.I. Lênin (1978), Toàn tập, tập 44, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. 23. Trần Đức Lương (2004), Bài phát biểu khai mạc Hội nghị công tác tư pháp toàn quốc, Hà Nội. 24. C. Mác - Ph.Ăngghen (1970), Tuyển tập, tập 1, Nxb Sự thật, Hà Nội. 25. Hồ Chí Minh (1995), Nhà nước và pháp luật, Nxb Pháp lý, Hà Nội. 26. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 27. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 28. Đỗ Mười (1992), "Trước yêu cầu của công cuộc đổi mới, Viện kiểm sát nhân dân có vị trí vai trò, trách nhiệm rất quan trọng", Kiểm sát, (1), tr. 4. 29. Đinh Xuân Nam - Đỗ Văn Đương (1998), Hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện trong công tác phòng ngừa tội phạm, Đề tài khoa học cấp bộ, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Hà Nội. 30. Khuất Văn Nga (2005), "Viện kiểm sát nhân dân đã và đang vững bước trên con đường cải cách tư pháp", Kiểm sát, (13). 31. La Thị Sức (1998), Đổi mới tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân ở Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sĩ Luật học. 32. Lê Hữu Thể (Chủ biên) (2005), Thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra, Nxb Tư pháp, Hà Nội. 33. Hà Mạnh Trí (2000), Diễn văn kỷ niệm 40 năm thành lập ngành Kiểm sát nhân dân 26/7/1960 -26/7/2000, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Hà Nội. 34. ủy ban Thường vụ Quốc hội (1962), Pháp lệnh ngày 18-4 qui định bộ máy làm việc của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Hà Nội. 35. ủy ban Thường vụ Quốc hội (2004), Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự, Hà Nội 36. Viện Khoa học kiểm sát - Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2005), "Chuyên đề về cơ quan công tố một số nước", Thông tin khoa học pháp lý, (5+6). 37. Viện Khoa học kiểm sát - Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2006), "Chuyên đề một số văn bản về cải cách tư pháp", Thông tin khoa học kiểm sát, (3). 38. Viện Khoa học kiểm sát - Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2005), Viện kiểm sát nhân dân trong tiến trình cải cách tư pháp, Đề tài khoa học cấp bộ, Hà Nội. 39. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2001), Viện kiểm sát nhân dân Việt Nam 1960 - 2000 (Kỷ yếu), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 40. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2003), Những qui định về Viện kiểm sát nhân dân và kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân, Hà Nội. 41. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2005), Các qui định về hoạt động nghiệp vụ và quản lý của Viện kiểm sát nhân dân, Hà Nội. 42. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2006), Kế hoạch số 23/KH-VKSTC về thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 trong ngành Kiểm sát nhân dân giai đoạn 2006 -2010, Hà Nội.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf87_7066.pdf
Luận văn liên quan