Luận văn Công đoàn trong việc nâng cao ý thức chính trị của giai cấp công nhân ở nước ta hiện nay

Cần tạo điều kiện, thậm chí có thể có những văn bản quy định cho cán bộ công đoàn các cấp tham gia vào Thường vụ Đảng ủy các cấp để Công đoàn có thể kịp thời nắm bắt những thông tin về tình hình hoạt động của đơn vị mình, đặc biệt là những tác động cũng như những diễn biến tư tưởng của công nhân và để Công đoàn kịp thời nắm được những chủ trương đường lối của Đảng. Có nắm được rõ tình hình như vậy, hoạt động của Công đoàn mới có hiệu quả cao và từ đó nâng cao được vị thế của Công đoàn.

pdf105 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2879 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Công đoàn trong việc nâng cao ý thức chính trị của giai cấp công nhân ở nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
: "Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước và chế độ" [8, tr. 66]. Vì tầm quan trọng đó của cán bộ, mỗi tổ chức trong từng thời kỳ nhất định cần xây dựng một đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu của đường lối chính trị và nhiệm vụ mà tổ chức đặt ra. Công đoàn là một tổ chức chính trị - xã hội của GCCN, do vậy người cán bộ công đoàn phải là người hoạt động xã hội phù hợp với tính chất của tổ chức. Khác với cán bộ đảng, nhà nước, cán bộ công đoàn lấy việc tổ chức, giáo dục, vận động, thuyết phục quần chúng làm phương pháp công tác chủ yếu. Cán bộ công đoàn hoạt động theo Luật Công đoàn, Điều lệ Công đoàn. Đội ngũ cán bộ công đoàn bao gồm cán bộ lãnh đạo và cán bộ thực hiện, chuyên trách hoặc không chuyên trách công tác công đoàn. Cán bộ lãnh đạo ở các cấp công đoàn do dân chủ bầu cử từ dưới lên hoặc do bổ nhiệm. Trong đó, một bộ phận chuyên trách công tác công đoàn, còn phần lớn hoạt động không chuyên trách, thực hiện vai trò đại diện cho người lao động theo nhiệm kỳ và sự tín nhiệm của quần chúng. Cán bộ thực hiện chủ yếu là cán bộ chuyên trách ở các cơ quan công đoàn, làm công tác phong trào, chuyên môn, nghiệp vụ. Trong giai đoạn đổi mới, đẩy mạnh CNH, HĐH ở nước ta hiện nay, để có được phong trào hoạt động công đoàn sôi nổi, rộng khắp, có chất lượng phải xây dựng đội ngũ cán bộ công đoàn có năng lực. Hồ Chủ tịch đã nói: Cán bộ nào phong trào ấy, "công nhân sản xuất tốt hay xấu, có đoàn kết hăng hái sản xuất hay không, đó là tiêu chuẩn để biết cán bộ công đoàn tốt hay không" [35, tr. 372]. Để xây dựng được đội ngũ cán bộ công đoàn có năng lực cần đánh giá đúng thực trạng của đội ngũ cán bộ công đoàn hiện nay. Theo báo cáo tình hình cán bộ công đoàn, công tác cán bộ và đào tạo bồi dưỡng cán bộ công đoàn của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (tháng 11 năm 2000) thì tính đến tháng 12 năm 1999, toàn bộ hệ thống công đoàn có 6.894 cán bộ công đoàn chuyên trách hoạt động công đoàn ở các cấp (hưởng lương ngân sách công đoàn) và khoảng 278.800 cán bộ công đoàn không chuyên trách được bầu vào Ban chấp hành Công đoàn các cấp, thường biến động theo nhiệm kỳ đại hội ở các công đoàn cơ sở và công đoàn cấp trên cơ sở. Về mặt mạnh của đội ngũ cán bộ công đoàn: Hầu hết đội ngũ cán bộ công đoàn đều trưởng thành từ phong trào công nhân và công đoàn, có nhiệt tình, tâm huyết, có trách nhiệm, luôn cố gắng hoàn thành nhiệm vụ được giao, gắn bó với tổ chức công đoàn. Nhiều cán bộ công đoàn đã qua đào tạo về chuyên môn, chính trị, công tác công đoàn, bước đầu đã thích ứng với điều kiện công đoàn trong nền kinh tế thị trường. Phần đông cán bộ công đoàn là những người có phẩm chất đạo đức, gương mẫu, có lối sống giản dị, gắn bó với công nhân. Nhìn chung, đội ngũ cán bộ công đoàn trong thời gian qua đã giữ vai trò quyết định trong việc đẩy mạnh phong trào công nhân và hoạt động công đoàn, góp phần quan trọng vào việc thực hiện mục tiêu kinh tế - xã hội của đất nước. Về mặt yếu kém: Trước hết, mặt yếu kém của cán bộ công đoàn là ở chất lượng của đội ngũ của mình. Trình độ của đội ngũ cán bộ công đoàn còn thấp cả về trình độ chuyên môn, kỹ thuật, trình độ chính trị và trình độ chuyên môn Công đoàn. Đội ngũ cán bộ công đoàn các cấp, nhất là công đoàn cơ sở, còn yếu về nghiệp vụ công tác công đoàn, về tổ chức hướng dẫn các nội dung hoạt động công đoàn. Không ít cán bộ công đoàn còn hạn chế hiểu biết về quản lý kinh tế, về khoa học- công nghệ, về đường lối của Đảng, về chính sách, pháp luật của Nhà nước. Một số cán bộ dao động, giảm sút niềm tin, nhận thức mơ hồ về chủ nghĩa Mác - Lênin, về CNXH, hoài nghi về đường lối của Đảng. Một số cán bộ công đoàn sa sút về đạo đức cách mạng, không phân biệt được phải trái, thiếu trách nhiệm với đoàn viên, làm cho tổ chức công đoàn của mình chỉ tồn tại một cách hình thức. Chất lượng của đội ngũ cán bộ công đoàn chưa ngang tầm đòi hỏi của nhiệm vụ công tác công đoàn trong giai đoạn CNH, HĐH đất nước và hoạt động công đoàn trong nền kinh tế thị trường. Vì vậy, tổ chức công đoàn cần xây dựng đội ngũ cán bộ công đoàn có đủ trình độ, năng lực, phẩm chất và bản lĩnh để đáp ứng yêu cầu mới. Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam khóa VIII đã đề ra mục tiêu xây dựng đội ngũ cán bộ công đoàn là phải vừa có đức vừa có tài. Phẩm chất chính trị, đạo đức và tài năng của người cán bộ công đoàn là hai yếu tố quyết định đến việc xây dựng tổ chức công đoàn vững mạnh. Hai yếu tố này có quan hệ chặt chẽ với nhau, thiếu hoặc coi nhẹ một trong hai yếu tố sẽ không phải là con người toàn diện và cũng không đạt được kết quả cao trong hoạt động. Hồ Chủ tịch đã nói: có tài mà không có đức là người vô dụng, có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó. Một cán bộ công đoàn có tài, tức là phải có kiến thức về quản lý kinh tế -xã hội, hiểu biết về chuyên môn ngành nghề, về pháp luật, về những vấn đề chính trị, nắm vững lý luận, kỹ năng và nhiệm vụ công tác Công đoàn, có năng lực hoạt động thực tiễn. Nếu không có tài thì không thể thuyết phục nổi công nhân. Một cán bộ Công đoàn có đạo đức cách mạng là phải có quan điểm lập trường vững vàng, tuyệt đối trung thành với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nhiệt tình công tác công đoàn, gương mẫu, có lối sống lành mạnh, hòa mình với quần chúng, hiểu quần chúng, lắng nghe ý kiến của quần chúng, làm cho quần chúng tin yêu, kính phục. Nếu không có đức không thể tập hợp, tổ chức, lãnh đạo được công nhân. Vì tầm quan trọng của cả hai yếu tố đức tài và mà trong việc đào tạo đội ngũ cán bộ công đoàn cần coi trọng cả hai yếu tố đức - tài, lấy đức là gốc. Để có một đội ngũ cán bộ công đoàn như vậy, cần phải có những giải pháp sau: - Thứ nhất: Đưa cán bộ đi học để có nghiệp vụ hoạt động công đoàn. Cán bộ công đoàn có hai nguồn, một là xuất phát từ đội ngũ công nhân, viên chức, lao động thông qua phong trào quần chúng, được quần chúng lựa chọn bầu lên làm lãnh đạo. Đây là những người gần gũi với công nhân, gắn bó với lợi ích của công nhân, nhiệt tình, sống gương mẫu, có năng khiếu hoạt động công đoàn. Họ là những người trưởng thành từ phong trào quần chúng, chịu thử thách khắc nghiệt trước phong trào quần chúng nhưng họ thiếu lý luận và nghiệp vụ về công tác công đoàn, hoạt động chủ yếu bằng kinh nghiệm. Vì vậy đối với những cán bộ công đoàn thuộc nguồn này cần đưa họ đi học Đại học Công đoàn hoặc các lớp đại học phần Công đoàn, các lớp bồi dưỡng lý luận nghiệp vụ Công đoàn và các chính sách chế độ, luật pháp của Nhà nước. Có lòng nhiệt tình cộng với những hiểu biết về công tác công đoàn, chắc chắn những cán bộ này sẽ trở thành nòng cốt của tổ chức. Nguồn thứ hai là các chuyên gia về Công đoàn được đào tạo có bài bản, lấy hoạt động công đoàn làm nghề nghiệp. Những người này nắm rất chắc lý thuyết về hoạt động Công đoàn nhưng họ lại thiếu kinh nghiệm thực tiễn, chưa gắn bó với phong trào công nhân, chưa hiểu được tâm tư nguyện vọng, niềm vui nỗi buồn của công nhân. Họ chưa đủ bản lĩnh để tận dụng những lý luận đã học vào giải quyết những vấn đề thực tiễn. Những người này sẽ là chỗ dựa cho những cán bộ xuất phát từ nguồn trên về mặt lý luận và nghiệp vụ nhưng cũng phải tạo điều kiện cho họ được rèn luyện trong hoạt động thực tiễn. Họ cần xuống với công nhân, gắn bó với công nhân để đưa những vấn đề đã học vào thực tiễn phong trào công nhân, tránh tình trạng lý luận suông và những hoạt động hình thức. - Thứ hai: Phải thường xuyên tổ chức các lớp tập huấn để bồi dưỡng bổ sung kiến thức về hoạt động công đoàn và các lớp phổ biến về đường lối, chính sách, chế độ, pháp luật của Đảng, Nhà nước cho cán bộ công đoàn. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, những biến đổi trong đời sống kinh tế xã hội luôn luôn diễn ra, các đường lối, chính sách, chế độ, pháp luật của Đảng, Nhà nước cũng phải luôn luôn được bổ sung sửa đổi để định hướng, điều chỉnh các hoạt động kinh tế, xã hội. Vì vậy, phải thường xuyên mở những lớp tập huấn bồi dưỡng kiến thức cho cán bộ công đoàn phù hợp với điều kiện mới. - Thứ ba: Đổi mới nội dung chương trình, phương thức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công đoàn của Trường Đại học Công đoàn. Trường Đại học Công đoàn là cái nôi đào tạo cán bộ cho hệ thống Công đoàn cả nước. Trong suốt thời gian qua, Trường Đại học Công đoàn đã phấn đấu bền bỉ hoàn thành nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng cán bộ mà Đảng và Nhà nước giao phó. Hiện nay tình hình có nhiều thay đổi, hoạt động công đoàn không thể dập khuôn như cũ. Trong bài phát biểu tại Đại hội Công đoàn lần thứ VIII, đồng chí Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu đã nói: Trong nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế điều kiện làm việc, điều kiện sống và nhu cầu, nguyện vọng lợi ích của công nhân lao động đã khác trước, của những bộ phận công nhân lao động trong những thành phần kinh tế cũng không giống nhau, nếu tổ chức và hoạt động Công đoàn không phù hợp với mỗi loại hình tổ chức và hoàn cảnh cụ thể thì hiệu quả sẽ rất hạn chế [42, tr. 19]. Vì vậy nội dung chương trình, phương thức đào tạo của Trường Đại học Công đoàn cũng phải đổi mới để cán bộ Công đoàn có cơ sở lý luận cho những hoạt động thực tiễn trong điều kiện mới của mình. Phải gắn học với hành, tăng giờ thảo luận, trao đổi, đi thực tế. Bên cạnh đó phải đa dạng hóa các loại hình đạo tạo: đào tạo ngắn hạn, dài hạn, lớp bồi dưỡng, lớp đại học phần, lớp ban ngày, lớp ban đêm để mọi đối tượng công nhân trong mọi thành phần kinh tế tùy theo điều kiện thời gian của mình đều có thể đi học. Tuy nhiên, điều quan trọng ở đây là phải coi trọng chất lượng học tập đối với tất cả mọi loại hình đào tạo. - Thứ tư: Mỗi cán bộ công đoàn phải nêu cao tinh thần tự rèn luyện, tu dưỡng về đạo đức, lối sống. Hồ Chủ tịch đã nói: "Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống, nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong" [35, tr. 293]. Đây có thể coi là giải pháp hàng đầu trong việc nâng cao phẩm chất đạo đức cho cán bộ công đoàn. Tất nhiên, để nâng cao phẩm chất đạo đức cho cán bộ công đoàn, ngoài việc các cán bộ công đoàn tự rèn luyện tu dưỡng, các cán bộ công đoàn cùng cấp, cấp trên cũng phải có trách nhiệm giúp các cán bộ đó trau dồi đạo đức thông qua sự góp ý chân thành, sự phê bình thẳng thắn và có tính xây dựng. - Thứ năm: Phải coi trọng giáo dục lý luận Mác -Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cho đội ngũ cán bộ công đoàn. Cán bộ công đoàn muốn thực hiện tốt nhiệm vụ của mình phải có trình độ chính trị cao, bản lĩnh chính trị vững vàng. Theo Hồ Chủ tịch: "Có học tập lý luận Mác - Lênin mới củng cố đạo đức cách mạng, giữ vững lập trường, nâng cao sự hiểu biết và trình độ chính trị, mới làm tốt công tác Đảng giao phó cho mình" [35, tr. 292]. Hồ Chủ tịch cũng chỉ rõ, học lý luận Mác - Lênin không phải học suông, học máy móc mà học để mà làm. Học tập chủ nghĩa Mác - Lênin là học cái tinh thần xử trí mọi việc, là học tập những chân lý phổ biến của chủ nghĩa Mác - Lênin để áp dụng một cách sáng tạo vào hoàn cảnh thực tế. - Thứ sáu: Phải có hệ thống chính sách đảm bảo lợi ích vật chất và động viên tinh thần cho đội ngũ cán bộ công đoàn. Để cán bộ công đoàn nhiệt tình công tác, cống hiến suốt đời cho sự nghiệp Công đoàn, gắn bó với công nhân, đấu tranh không khoan nhượng cho lợi ích chính đáng, hợp pháp của công nhân thì phải có chính sách đãi ngộ và chăm sóc về vật chất và tinh thần đối với cán bộ công đoàn. Về vật chất, đó là các chính sách thỏa đáng về tiền lương, nhà ở, trang bị phương tiện làm việc, đi lại... Về tinh thần, đó là chính sách tặng thưởng kịp thời bằng các danh hiệu cao quý (huân, huy chương...) bằng khen, giấy khen... 3.2. Rút kinh nghiệm để đẩy mạnh hơn nữa các hoạt động của công đoàn có liên quan đến việc giáo dục ý thức chính trị của GCCN Trong các hoạt động của Công đoàn nhằm nâng cao ý thức chính trị của GCCN, thì hoạt động tuyên truyền, giáo dục là hoạt động có tác động trực tiếp, có vai trò quan trọng nhất. Vì vậy, trước hết phải đổi mới nội dung phương pháp tuyên truyền, vận động GCCN của Công đoàn. Công tác tuyên truyền giáo dục là một cuộc cách mạng về tư tưởng, một cuộc đấu tranh về tư tưởng, qua đó, tổ chức Công đoàn giác ngộ, tập hợp công nhân vào tổ chức của mình, động viên công nhân hành động để thực hiện nhiệm vụ chính trị của tổ chức Công đoàn. Nhận thức rõ tầm quan trọng của công tác tuyên truyền, giáo dục, trong những năm qua, Công đoàn Việt Nam đã có nhiều cố gắng trong việc đổi mới công tác tuyên truyền, vận động công nhân góp phần xây dựng giai cấp vững mạnh, là nòng cốt trong khối liên minh công nhân - nông dân - trí thức và khối đại đoàn kết toàn dân trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Tuy nhiên, công tác tuyên truyền, vận động công nhân của Công đoàn vẫn còn những hạn chế như: chưa được coi trọng đúng mức (đặc biệt trong các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế tư nhân, thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài). Nội dung, hình thức tuyên truyền còn dập khuôn, chưa phù hợp với đặc điểm sản xuất kinh doanh của từng cơ sở và nhu cầu nguyện vọng của công nhân. Chưa tìm ra được nhiều phương pháp phù hợp và cũng chưa nhân rộng những phương pháp phù hợp. Vì những hạn chế đó mà cần đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động tuyên truyền, vận động công nhân trong điều kiện mới. Đại hội VIII Công đoàn Việt Nam đã chỉ rõ: phải tiếp tục đổi mới công tác tuyên truyền, giáo dục xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh, xứng đáng là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiền phong của mình. Có thể nói, đây là giải pháp trực tiếp để Công đoàn nâng cao ý thức chính trị cho giai cấp công nhân trong giai đoạn hiện nay. Để công nhân có nhận thức, tư tưởng đúng, hành động đúng đáp ứng được yêu cầu của thời kỳ mới, trước hết, phải đổi mới nội dung tuyên truyền. Nội dung tuyên truyền của Công đoàn rất rộng nhưng hai nội dung cơ bản nhất nhằm nâng cao ý thức giai cấp cho giai cấp công nhân là tuyên truyền về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và tuyên truyền về đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước. Nội dung tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh: Cần phải chọn lựa những vấn đề cốt lõi của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh theo sát những kết quả nghiên cứu mới nhất do cơ quan có thẩm quyền chính thức công bố để tuyên truyền cho công nhân. Tức là những nội dung tuyên truyền phải có chọn lọc, có mục đích, có định hướng. Chẳng hạn lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về SMLS của GCCN, về hình thái kinh tế - xã hội, về học thuyết giá trị thặng dư. Những nội dung này đã được các nhà khoa học trong hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn bộ giáo trình Quốc gia các bộ môn khoa học Mác -Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh nghiên cứu trên cơ sở khoa học và đã khẳng định giá trị bền vững của những nguyên lý đó, đồng thời làm sáng tỏ những điều ngộ nhận, những luận điệu xuyên tạc, phủ định các giá trị cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin. Các cán bộ công đoàn cần kịp thời tiếp thu và đưa những nội dung đó tuyên truyền cho công nhân để đảm bảo tính thuyết phục cao trong công tác tuyên truyền, tránh lối tuyên truyền cũ, giản đơn, áp đặt. Chẳng hạn, tuyên truyền theo kiểu ca ngợi một chiều CNXH, lảng tránh những vấn đề thực tế mà CNXH phải đương đầu, phê phán một chiều CNTB, phủ nhận mọi thành tựu mà nhân loại đạt được dưới CNTB. Về tư tưởng Hồ Chí Minh, cần tuyên truyền cho công nhân tư tưởng cốt lõi nhất đó là tư tưởng về con đường cách mạng Việt Nam: độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, từ đó rèn luyện lập trường tư tưởng, quyết tâm phấn đấu suốt đời cho lý tưởng cộng sản. Nội dung tuyên truyền đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước phải bám sát những vấn đề hiện hành. Phải làm cho công nhận rõ cơ sở khoa học của đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, từ đó có được nhận thức tư tưởng và hoạt động đúng đắn. Người công nhân hiện nay có trình độ nhận thức cao hơn trước, hơn nữa với sự phát triển mạnh của cách mạng khoa học công nghệ, đặc biệt trong lĩnh vực thông tin họ có thể tiếp nhận thông tin từ rất nhiều nguồn, cả chính thống và cả không chính thống. Nếu chúng ta không giải thích cho công nhân rõ cơ sở khoa học của đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước (cơ sở lý luận, thực tiễn: tình hình của đất nước, tình hình quốc tế), nếu chúng ta bưng bít thông tin không để cho công nhân biết, công nhân bàn, công nhân làm, công nhân kiểm tra, không đặt niềm tin vào công nhân, sẽ làm cho công nhân hoang mang, thiếu tin tưởng vào đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước và cũng sẽ làm những thông tin tuyên truyền với dụng ý xấu có đất để ăn sâu bám rễ trong công nhân. Bác Hồ đã chỉ rõ: Công đoàn và cán bộ Công đoàn phải tìm cách này hay cách khác giải thích cho công nhân rõ tình hình trong nước và nước ngoài... phải giải thích cho họ hiểu. Nếu không, họ sẽ hoang mang. Do hiểu tình hình mà nâng cao tinh thần yêu nước của công nhân [34, tr. 298]. Vì vậy, công tác tuyên truyền đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước cho công nhân không chỉ đơn thuần là đọc nghị quyết, văn bản một cách hình thức, phiến diện xem các đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước là chân lý tuyệt đối từ trên trời rơi xuống, công nhân chỉ là đối tượng cần tiếp thu và chấp hành cho đúng mà cần phải giải thích cặn kẽ cho công nhân hiểu. Từ các nội dung thiết thực, có chọn lọc phải biên soạn thành các tài liệu tuyên truyền, học tập phù hợp với từng đối tượng công nhân. Có tài liệu cho công nhân trong các ngành khác nhau, có tài liệu cho công nhân trong các doanh nghiệp Nhà nước, có tài liệu cho công nhân trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Các tài liệu đó đều phải ngắn gọn, súc tích, dễ hiểu. Bên cạnh việc đổi mới nội dung, phải đổi mới phương pháp tuyên truyền, bởi nếu nội dung tốt mà phương pháp không tốt thì công nhân cũng không thể hiểu, không thể nhớ được. Muốn tuyên truyền đạt kết quả, người cán bộ tuyên truyền phải có kiến thức, phải có hiểu biết sâu rộng những vấn đề mình tuyên truyền. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: "Muốn huấn luyện thợ rèn, thợ nguội thì người huấn luyện phải thạo nghề rèn, nghề nguội" [33, tr. 46]. Để có kiến thức sâu rộng thì phải học, phải coi học tập là công việc suốt đời, học ở trong sách vở, học lẫn nhau, học ở kinh nghiệm mà người học mang đến. Theo Hồ Chủ tịch, người huấn luyện nào tự cho mình đã biết đủ cả rồi thì người đó là dốt nhất. Kiến thức sâu, rộng nhưng bài giảng của cán bộ tuyên truyền phải ngắn gọn, dễ hiểu, dễ nhớ, từ ngữ, lời lẽ phải đơn giản, phù hợp với từng đối tượng, nhưng vẫn phải súc tích và đảm bảo chuyển tải đầy đủ lượng thông tin cần truyền đạt. làm cho người học nắm được bản chất của vấn đề. Bác Hồ đã nói: "Việc cốt yếu phải làm cho người học hiểu thấu vấn đề nhưng hiểu thấu cũng có nhiều cách: có cách hiểu thấu thật tỉ mỉ, nhưng dạy theo cách đó thì phải tốn nhiều thì giờ. Trái lại cũng có cách dạy bao quát mà vẫn làm cho người đọc hiểu thấu được... [33, tr. 47]. Trong thời đại bùng nổ thông tin như hiện nay, không tránh khỏi việc công nhân có những băn khoăn, thắc mắc, đặt những câu hỏi về những vấn đề được tuyên truyền. Nhiệm vụ của người cán bộ làm công tác tuyên truyền là phải kịp thời nắm bắt những thông tin ngược đó, xem công nhân đồng tình với cái gì, phản đối cái gì, từ đó giải thích cần thiết, thỏa đáng. Ngoài việc đổi mới nội dung, phương pháp tuyên truyền còn phải đổi mới, đa dạng hóa các hình thức tuyên truyền. Hình thức tuyên truyền là phương tiện để truyền tải nội dung đến các loại đối tượng. Nếu hình thức tuyên truyền đơn điệu thiếu sáng tạo, thì công tác tuyên truyền sẽ kém hiệu quả. Hình thức tuyên truyền do nội dung tuyên truyền, đối tượng tuyên truyền và những điều kiện vật chất quy định. Có thể sử dụng nhiều hình thức tuyên truyền, trong đó có tuyên truyền miệng. Lâu nay chúng ta phổ biến là tình trạng mở lớp với số lượng người lớn, đi học theo kiểu đi mít tinh, người trên cứ giảng, người ở dưới cứ nói chuyện, đọc báo, làm việc riêng, hết giờ thì về, học xong không nắm được nội dung nào. Bác Hồ đã phê phán việc học tập hình thức này là tham làm nhiều mà làm không chu đáo, không biết "quý hồ tinh, bất quý hồ đa". Ngày nay, tuyên truyền miệng có thể thành lập các đội truyền thông tổng hợp, lồng ghép các nội dung tuyên truyền vào các hoạt động nghệ thuật. Các đội này lưu động để tác động sâu rộng vào đời sống của công nhân. Ngoài việc tuyên truyền miệng thì một hình thức rất quan trọng là tuyên truyền thông qua các phương tiện thông tin ở cơ sở như tờ tin, bảng tin, và các phương tiện thông tin đại chúng như các báo, tạp chí, phát thanh, truyền hình. Hình thức này trong những năm qua Công đoàn đã sử dụng tương đối tốt, đã xuất bản các Báo Lao động, Tạp chí Lao động và Công đoàn; đã có chương trình truyền hình Công đoàn, phát thanh Công đoàn. Trong những năm tới, cần phát huy hơn nữa, đảm bảo các loại báo đó hoạt động đúng tôn chỉ, mục đích của mình, xứng đáng là tiếng nói của Công đoàn, là diễn đàn của công nhân. Bên cạnh hình thức tuyên truyền trực tiếp trên, còn có những hình thức tuyên truyền gián tiếp như tổ chức các cuộc mít tinh, các cuộc thi tìm hiểu lịch sử dân tộc, lịch sử cách mạng nhân các ngày lễ lớn, các phong trào "đền ơn đáp nghĩa", "xóa đói giảm nghèo"... nhằm tuyên truyền truyền thống cách mạng, đường lối, chính sách của Đảng, củng cố niềm tin, nâng cao khí thế cách mạng cho công nhân. Tuy nhiên, việc tổ chức các hoạt động tuyên truyền nhân các ngày kỷ niệm lớn phải thiết thực, hấp dẫn, lôi kéo nhiều công nhân tự nguyện, tự giác tham gia, tránh bệnh hình thức, lãng phí mà không có hiệu quả thiết thực. Cùng với việc đổi mới công tác tuyên truyền, vận động GCCN, Công đoàn cũng phải đổi mới công tác tham gia giải quyết việc làm, cải thiện đời sống vật chất và nâng cao trình độ mọi mặt cho công nhân. Tham gia cùng với các cấp quản lý để giải quyết việc làm, tăng thu nhập, nâng cao trình độ mọi mặt cho công nhân là một hoạt động gián tiếp nhưng lại có vai trò quan trọng trong việc nâng cao ý thức chính trị của GCCN. Để hoạt động này đạt kết quả cao cần đổi mới theo những hướng sau: Thứ nhất: Cần xác định rõ vị trí, quyền hạn và trách nhiệm của Công đoàn trong những vấn đề cần tham gia. Vấn đề giải quyết việc làm, tăng thu nhập, nâng cao trình độ cho công nhân thuộc về trách nhiệm của chuyên môn, Công đoàn chỉ ở vị trí tham gia đề xuất ý kiến để chuyên môn tham khảo hoặc thỏa thuận, thống nhất ý kiến với Công đoàn trước khi quyết định tổ chức thực hiện. Xác định được như vậy, Công đoàn sẽ có những hình thức, biện pháp thích hợp để tham gia ý kiến, phối hợp hoạt động, tránh can thiệp thô bạo vào công việc của chuyên môn. Công đoàn phải nắm được nội dung của các vấn đề cần tham gia. Chẳng hạn, Công đoàn muốn tham gia giải quyết việc làm cho công nhân phải nắm rõ tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, doanh nghiệp có điều kiện để mở rộng sản xuất, tạo thêm việc làm cho người lao động hay không, nếu không, Công đoàn phải tham gia vào các vấn đề khác như tạo vốn, sử dụng vốn, xây dựng chiến lược sản xuất kinh doanh... đó cũng là gián tiếp tham gia giải quyết việc làm cho công nhân. Thứ hai: Đối với Tổng Liên đoàn Lao động Việt nam cần tham gia có hiệu quả với Nhà nước để cải tiến các chính sách, chế độ có liên quan đến người lao động như chính sách tiền lương, tiền công, chính sách liên quan đến việc làm, chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, chính sách đối với lao động dôi dư trong các doanh nghiệp, chính sách đào tạo và đào tạo lại... Thứ ba: Đối với Công đoàn cơ sở phải tranh thủ sự lãnh đạo của cấp ủy đảng, sự ủng hộ của chuyên môn để triển khai thực hiện các chính sách, chế độ có liên quan đến người lao động. Thứ tư: Cần phát động phong trào thi đua học tập nâng cao trình độ học vấn, tay nghề cho công nhân thật sâu rộng trong các địa phương, trong các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế nhằm xóa mù chữ, chống tái mù chữ trong công nhân. Thứ năm: Chú trọng đầu tư trang thiết bị hiện đại, đáp ứng yêu cầu đào tạo nghề, nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả của các trung tâm dịch vụ việc làm. Tổ chức các phong trào thi đua XHCN cũng là một hoạt động nhằm nâng cao ý thức chính trị cho GCCN. Trong những năm vừa qua, hoạt động này của Công đoàn còn có những mặt hạn chế. Vì vậy, để phong trào thi đua thực sự trở thành một đòn bẩy phát triển kinh tế, một tác động quan trọng để nâng cao ý thức chính trị của GCCN, cần phải đổi mới hoạt động này. Việc đổi mới cần theo những hướng sau: - Cải tiến nội dung, hình thức thi đua cho phù hợp với từng loại hình ngành, nghề, doanh nghiệp, địa phương. Mỗi ngành, nghề, doanh nghiệp, địa phương có đặc điểm riêng, vì vậy trên cơ sở nội dung các phong trào thi đua do Tổng Liên đoàn Lao động Việt nam phát động, các ngành, nghề... cần cụ thể hóa, đề ra mục đích, yêu cầu, nội dung thi đua cho phù hợp với điều kiện cụ thể của mình, phải coi trọng tính thiết thực và hiệu quả, tránh hình thức. - Cần nhanh chóng hoàn thiện và ban hành quy chế và các hình thức khen thưởng thống nhất trong hệ thống Công đoàn, thực sự có tác dụng kích thích phong trào hành động cách mạng. Thi đua XHCN là phong trào cách mạng của quần chúng dựa trên tính tự nguyện, tự giác tham gia của người lao động. Tính tự nguyện, tự giác này được hình thành trên cơ sở họ được thỏa mãn những lợi ích chính trị và dân chủ trong thi đua. Thực tiễn cho thấy bất cứ nơi nào biết quan tâm bồi dưỡng, giáo dục tốt về chính trị và nhiệt tình cách mạng của quần chúng trong các nhiệm vụ về thi đua, ở nơi đó họ sẽ có thói quen lao động mà không chờ vào việc khen thưởng, không có sự mặc cả trong thi đua. Tuy vậy, lợi ích vật chất thường xuyên đóng vai trò chủ đạo trong đời sống xã hội, nên kích thích bằng lợi ích vật chất một cách thỏa đáng sẽ là động lực thúc đẩy họ ra sức hoàn thành nhiệm vụ được giao, đồng thời nó cũng là một phương tiện quan trọng để tổ chức, duy trì, phát triển phong trào thi đua. - Cần coi trọng công tác tổng kết thi đua nhằm đánh giá kết quả phong trào, phát hiện và nhân điển hình tiên tiến, rút ra những kinh nghiệm cần thiết cho việc tổ chức các phong trào thi đua tiếp theo. Trong quá trình tổng kết phải chú ý công tác khen thưởng thi đua, phải đảm bảo đúng nguyên tắc: công khai, chính xác, kịp thời. 3.3. Dưới sự lãnh đạo của đảng, công đoàn kết hợp với các tổ chức trong hệ thống chính trị để nâng cao ý thức chính trị cho GCCN Việc xây dựng GCCN lớn mạnh về mọi mặt, vững vàng về chính trị, giác ngộ về giai cấp, thiết tha gắn bó với lý tưởng độc lập dân tộc và CNXH là việc làm có ý nghĩa vô cùng to lớn và cũng là trách nhiệm nặng nề của tổ chức Công đoàn. Nhiệm vụ đó của tổ chức Công đoàn sẽ không thể hoàn thành nếu không được đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng và được sự phối hợp chặt chẽ của các tổ chức khác trong hệ thống chính trị. Đồng chí Cù Thị Hậu - Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt nam đã khẳng định "GCCN không thể lớn mạnh và hoàn thành được sứ mệnh lịch sử của mình nếu Đảng, Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội không quan tâm đến sự nghiệp xây dựng giai cấp công nhân" [11, tr. 4]. Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của GCCN Việt Nam, đại biểu trung thành cho lợi ích của GCCN và của toàn dân tộc. Đảng vừa là một bộ phận của hệ thống chính trị đồng thời vừa là lãnh đạo hệ thống ấy. Công đoàn là một thành viên của hệ thống chính trị, là tổ chức quần chúng rộng rãi nhất của GCCN dưới sự lãnh đạo của Đảng. Có sự lãnh đạo của Đảng, tổ chức Công đoàn mới có định hướng chính trị đúng và do vậy tập hợp được đông đảo công nhân để họ tham gia một cách tự giác vào các mặt hoạt động của đời sống xã hội. Không có sự lãnh đạo của Đảng mọi hoạt động của Công đoàn sẽ đi chệch hướng, thậm chí bị lợi dụng để biến thành công cụ bảo vệ lợi ích cho giới chủ, đàn áp về tổ chức, về tư tưởng, về kinh tế đối với GCCN. Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo Công đoàn bằng đường lối, chủ trương thông qua nghị quyết của đại hội, của cấp ủy Đảng. Muốn thực hiện tốt vai trò lãnh đạo của mình, đòi hỏi Đảng phải luôn vững mạnh và giữ vững được bản chất GCCN của mình. Giữ vững bản chất GCCN thể hiện ở sự kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, kiên định nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình, ở mối quan hệ máu thịt với GCCN và quần chúng lao động... Sự lãnh đạo của Đảng đối với Công đoàn thông qua hoạt động trực tiếp của tổ chức Đảng các cấp, thông qua mỗi đảng viên. Sự lãnh đạo đó có đạt hiệu quả hay không là do năng lực hoạt động của mỗi tổ chức cơ sở Đảng, trình độ của mỗi đảng viên. Hiện nay, còn không ít tổ chức cơ sở Đảng yếu kém. Bên cạnh đó việc phát triển các tổ chức cơ sở Đảng còn chưa được rộng khắp, đặc biệt là chưa vươn tới nhiều doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Vì vậy, muốn đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng với Công đoàn phải tiếp tục chỉnh đốn các tổ chức cơ sở Đảng hiện có, nâng cao chất lượng sinh hoạt cấp ủy, chi bộ, tránh kiểu sinh hoạt hình thức; nâng cao tính chiến đấu, khắc phục tình trạng thụ động, ỷ lại, buông lỏng vai trò lãnh đạo. Có như vậy, các đảng bộ, chi bộ ở cơ sở mới đảm bảo được vai trò là hạt nhân lãnh đạo chính trị đối với chính quyền, với các đoàn thể nhân dân trong đó có tổ chức Công đoàn. Cùng với việc chỉnh đốn, đổi mới hoạt động của các tổ chức cơ sở Đảng hiện có, Đảng phải coi trọng việc phát triển và xây dựng tổ chức của mình trong các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, kể cả các doanh nghiệp ngoài quốc doanh để mọi cơ sở sản xuất kinh doanh đều có tổ chức Đảng, đều được Đảng lãnh đạo trực tiếp. Đồng thời với việc xây dựng Đảng là việc giáo dục, rèn luyện đội ngũ đảng viên. Do tác động tiêu cực của cơ chế thị trường mà nhiều đảng viên đã có biểu hiện suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, thiếu gương mẫu, không thể hiện vai trò tiên phong của mình. Vì vậy, phải giáo dục tư tưởng chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ, đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân, làm trong sạch đội ngũ đảng viên. Bởi chất lượng của Đảng được thể hiện trước hết ở chất lượng của từng đảng viên. Nâng cao chất lượng đảng viên chính là góp phần nâng cao chất lượng của Đảng. Đảng phải tăng cường sự lãnh đạo của mình đối với Công đoàn. Công đoàn phải kiên định, tuân thủ sự lãnh đạo của Đảng. Kiên định, tuân thủ sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố đảm bảo cho những thành công trong hoạt động Công đoàn, đặc biệt trong hoạt động giáo dục ý thức chính trị cho GCCN. Tuy nhiên, hoạt động giáo dục ý thức chính trị cho GCCN của Công đoàn còn cần đến sự phối hợp của các tổ chức trong hệ thống chính trị mà trực tiếp ở đây là Nhà nước và Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh. Nhà nước và Công đoàn là những thành viên trong hệ thống chính trị XHCN ở nước ta. Quan hệ giữa Công đoàn và Nhà nước là sự thống nhất về mục tiêu chính trị, sự cộng tác, giúp đỡ nhau trong các mặt hoạt động. Nhà nước ta là nhà nước của dân, do dân, vì dân, đại diện cho quyền lợi của GCCN và nhân dân lao động, Công đoàn là tổ chức chính trị - xã hội của GCCN vì vậy Nhà nước cần tạo điều kiện để Công đoàn hoạt động, Công đoàn phải là người cộng tác đắc lực của Nhà nước. Sự phối hợp hoạt động của Nhà nước với Công đoàn được thể hiện ở chỗ Nhà nước phải có chiến lược xây dựng GCCN, có các chính sách xã hội đối với GCCN mà đặc biệt là chính sách việc làm, thu nhập, bảo hiểm, bảo hộ lao động, chính sách giáo dục - đào tạo để công nhân nâng cao được đời sống vật chất, tinh thần, nâng cao trình độ văn hóa, khoa học kỹ thuật. Trong từng đơn vị cụ thể, sự phối hợp hoạt động của Nhà nước đối với Công đoàn được thể hiện ở sự phối hợp giữa chính quyền, ban giám đốc với các Công đoàn cơ sở. Chính quyền, ban giám đốc phải tạo điều kiện về thời gian, về điều kiện vật chất, về các văn bản pháp quy bảo đảm về mặt pháp lý cho Công đoàn hoạt động. Bên cạnh đó, các cấp chính quyền, ban giám đốc cần chấp hành nghiêm chỉnh các luật qui định quyền hạn, nghĩa vụ của tổ chức Công đoàn, của người lao động để tránh những cản trở trái luật đối với hoạt động của Công đoàn. Sự phối hợp, tạo điều kiện của Nhà nước giúp Công đoàn thực hiện tốt hoạt động của mình đồng thời cũng làm cho các chủ trương, chính sách của Nhà nước đi vào cuộc sống, được hiện thực hóa trong cuộc sống. GCCN nước ta gồm nhiều độ tuổi khác nhau, trong đó số công nhân trong độ tuổi từ 18 đến 35 là độ tuổi vẫn tham gia sinh hoạt đoàn chiếm tỷ lệ không nhỏ. Theo kết quả điều tra của Viện Công nhân và Công đoàn ở 4 ngành Công nghiệp, Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Xây dựng, Giao thông vận tải với 3.940 công nhân được chọn mẫu thì số công nhân trong độ tuổi dưới 30 chiếm 21,32% [54, tr. 6]. Còn theo kết quả điều tra tình hình công nhân tại các doanh nghiệp nhà nước ở Hà Nội của Viện Chủ nghĩa xã hội khoa học thuộc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh thì số công nhân có độ tuổi dưới 35 chiếm 46,7% [16, tr. 6]. Vì vậy, việc nâng cao ý thức chính trị cho GCCN của Công đoàn cũng cần phải phối hợp với Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh. Đội ngũ công nhân trẻ là những người nhạy cảm, năng động, sáng tạo, có tri thức, ham học hỏi, có hoài bão, có ý chí và nghị lực. Trong cách mạng giải phóng dân tộc trước đây cũng như trong sự nghiệp đổi mới, CNH, HĐH đất nước hiện nay đội ngũ công nhân trẻ luôn tỏ rõ tinh thần quả cảm, lòng nhiệt tình cách mạng, chí tiến thủ, tinh thần trách nhiệm cao đối với dân tộc. Tuy nhiên, do chưa được rèn luyện trong thực tiễn đấu tranh cách mạng, vốn sống chưa nhiều nên bản lĩnh chính trị thường không vững vàng, trước những tác động tiêu cực của cơ chế thị trường, trước những âm mưu "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch, trước sự thoái hóa, biến chất của một bộ phận cán bộ đảng viên, một số công nhân trẻ đã bị dao động, khủng hoảng niềm tin, nảy sinh tư tưởng thực dụng, sùng bái đồng tiền..., mà không thiết tha với những vấn đề chính trị. Thực trạng đó đòi hỏi phải quan tâm đến việc giáo dục, nâng cao ý thức chính trị cho đội ngũ công nhân trẻ. Phần lớn công nhân trẻ vừa là đoàn viên của tổ chức Công đoàn vừa là đoàn viên của tổ chức Đoàn thanh niên. Vì vậy, Công đoàn cần phải phối hợp với Đoàn thanh niên để nâng cao ý thức chính trị, ý thức giai cấp cho công nhân trẻ. Sự phối hợp này có thể thực hiện dưới nhiều hình thức như Công đoàn phối hợp với Đoàn thanh niên tổ chức học tập chính trị cho đoàn viên là công nhân, tổ chức các phong trào thi đua lao động giỏi, lao động sáng tạo để các phong trào sinh động hơn, đạt kết quả cao hơn... Có thực hiện tốt sự phối hợp giữa Công đoàn và Đoàn thanh niên thì công tác giáo dục, nâng cao ý thức chính trị cho đội ngũ công nhân trẻ của Công đoàn mới đạt kết quả tốt, mới tạo ra một đội ngũ công nhân vừa hồng vừa chuyên, xứng đáng là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Các giải pháp để phát huy vai trò của Công đoàn trong việc nâng cao ý thức chính trị của giai cấp công nhân nêu trên là một chỉnh thể thống nhất, có quan hệ biện chứng với nhau. Thực hiện đúng, kết hợp hài hòa các giải pháp đó chúng ta chắc chắn sẽ xây dựng được một GCCN giác ngộ về giai cấp, vững vàng về chính trị, tư tưởng... vươn lên làm tròn SMLS của mình theo đúng tinh thần của Nghị quyết Trung ương 7 khóa VII của Đảng Cộng sản Việt Nam. Không những vậy, chúng ta còn làm cho âm mưu "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch không có đất để phát triển trên đất nước chúng ta. Kết luận GCCN Việt Nam có SMLS vô cùng to lớn, xét cả về tầm vóc lịch sử và cả về những nhiệm vụ nặng nề mà nó phải hoàn thành. Từ khi ra đời cho đến nay, GCCN đã lớn mạnh không ngừng về số lượng và chất lượng, từng bước hoàn thành SMLS của mình. Trong giai đoạn hiện nay, tình hình thế giới và trong nước có nhiều biến đổi. Sự biến đổi đó vừa đem lại những thời cơ vừa đặt GCCN trước những thách thức to lớn. Thời cơ đó là GCCN có điều kiện phát triển về số lượng, về trình độ văn hóa, chuyên môn. Thách thức đó là sự giảm sút ý thức giai cấp trước những cám dỗ vật chất đời thường, trước những tác động tiêu cực của cơ chế thị trường. Chính vì vậy, việc xây dựng GCCN vững mạnh về mọi mặt, trong đó có ý thức chính trị là vấn đề có ý nghĩa quan trọng và cấp bách hiện nay. Việc giác ngộ ý thức giai cấp có thể coi là nhân tố chủ quan quyết định trực tiếp đến việc thực hiện SMLS của GCCN. Giáo dục nâng cao ý thức chính trị cho GCCN phải là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước, Công đoàn và các tổ chức chính trị, xã hội, đồng thời là trách nhiệm của mỗi người, mỗi tập thể công nhân, trong đó vai trò của Công đoàn là rất quan trọng, vì Công đoàn là tổ chức chính trị - xã hội của GCCN, là người bạn đồng hành gắn bó với GCCN trong suốt chặng đường lịch sử hình thành và phát triển của GCCN. Trong quá trình thực hiện vai trò giáo dục nâng cao ý thức chính trị cho GCCN, Công đoàn đã đạt được những thành tựu nhất định, tuy nhiên bên cạnh đó vẫn còn tồn tại những hạn chế. Để phát huy hơn nữa vai trò này của Công đoàn, ngoài những giải pháp đã nêu cho tổ chức Công đoàn, tác giả xin đề xuất một số kiến nghị đối với Đảng và Nhà nước như sau: 1. Đối với Đảng - Cần coi trọng việc chỉ đạo, kiểm tra việc thành lập, hoạt động của các tổ chức cơ sở Đảng ở các doanh nghiệp, xây dựng các tổ chức cơ sở Đảng trong sạch, vững mạnh, để các cấp Công đoàn luôn có được sự lãnh đạo kịp thời, đúng đắn của Đảng. - Cần tạo điều kiện, thậm chí có thể có những văn bản quy định cho cán bộ công đoàn các cấp tham gia vào Thường vụ Đảng ủy các cấp để Công đoàn có thể kịp thời nắm bắt những thông tin về tình hình hoạt động của đơn vị mình, đặc biệt là những tác động cũng như những diễn biến tư tưởng của công nhân và để Công đoàn kịp thời nắm được những chủ trương đường lối của Đảng. Có nắm được rõ tình hình như vậy, hoạt động của Công đoàn mới có hiệu quả cao và từ đó nâng cao được vị thế của Công đoàn. 2. Đối với Nhà nước - Cần có những chính sách khuyến khích đối với cán bộ công đoàn như chính sách tiền lương, thu nhập, nhà ở, phương tiện làm việc. Phân cấp cho Công đoàn chủ động trong việc thực hiện chính sách đối với cán bộ của mình. - Có cơ chế bảo vệ cán bộ công đoàn (hiện nay có nhiều doanh nghiệp, cán bộ công đoàn do đấu tranh bảo vệ lợi ích cho công nhân mà bị cho ra khỏi dây chuyền sản xuất, bị vô hiệu hóa). - Ban hành những quy định cụ thể về quyền của tổ chức Công đoàn, trách nhiệm của chuyên môn trong việc tạo điều kiện cho Công đoàn hoạt động (điều kiện thời gian, vật chất, phương tiện hoạt động). - Quan tâm chỉ đạo các cấp, các ngành, kiểm tra việc thi hành Luật Lao động, Luật Công đoàn, xử lý kịp thời, nghiêm minh những trường hợp vi phạm pháp luật. Với sự lãnh đạo của Đảng, sự cộng tác, tạo điều kiện của Nhà nước, chắc chắn Công đoàn Việt Nam sẽ phát huy tốt vai trò của mình trong việc giáo dục nâng cao ý thức chính trị cho GCCN, góp phần xây dựng GCCN vững vàng về chính trị, xứng đáng là giai cấp lãnh đạo cách mạng. Danh mục tài liệu tham khảo 1. Hoàng Chí Bảo (2000), "Xây dựng giai cấp công nhân trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước - từ lý luận đến thực tiễn", Lao động và Công đoàn, (2), tr. 19-20. 2. Bộ giáo dục và đào tạo (1997), Đề cương bài giảng môn triết học Mác - Lênin, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 3. Đặng Ngọc Chiến (2000), "Công nhân, viên chức, lao động và Công đoàn Việt Nam với phong trào thi đua yêu nước trong thời kỳ đổi mới", Tạp chí Cộng sản, (20), tr. 23-26. 4. Hoàng Minh Chúc (1998), "Phong trào Công đoàn Việt Nam trong hơn mười năm đổi mới", Tạp chí Cộng sản, (14), tr. 6-10. 5. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần VII, Nxb Sự thật, Hà Nội. 6. Đảng Cộng sản Việt Nam (1994), Văn kiện Hội nghị lần thứ 7 Ban chấp hành Trung ương khóa VII, (Lưu hành nội bộ), Hà Nội. 7. Đảng Cộng sản Việt Nam (1995), Nghị quyết của Bộ Chính trị về một số định hướng lớn trong công tác tư tưởng hiện nay, (Lưu hành nội bộ), Hà Nội. 8. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị lần thứ 3 Ban chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 9. Đảng Cộng sản Việt nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 10. Cù Thị Hậu (1999), "70 năm - chặng đường vẻ vang của tổ chức Công đoàn Việt Nam", Tạp chí Cộng sản, (14), tr. 19-22. 11. Cù Thị Hậu (2001), "Giai cấp công nhân Việt Nam đi đầu thực hiện đường lối đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo", Lao động và Công đoàn, (243), tr. 4,6. 12. Lê Mậu Hãn (chủ biên) (1995), Đảng Cộng sản Việt Nam các Đại hội và Hội nghị Trung ương, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 13. Hiến pháp nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1992), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 14. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh - Khoa Chủ nghĩa xã hội khoa học (1997), Giáo trình môn Chủ nghĩa xã hội khoa học, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 15. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh - Viện Khoa học Chính trị (1999), Tập bài giảng chính trị học, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 16. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh - Viện Chủ nghĩa xã hội khoa học (2001), Tổng hợp kết quả điều tra tình hình công nhân tại các doanh nghiệp nhà nước ở Hà Nội. 17. Phạm Thị Xuân Hương (2000), "Nâng cao ý thức giai cấp cho công nhân - một việc quan trọng cần làm trong giai đoạn hiện nay", Lao động và Công đoàn, (10), tr. 8 - 22. 18. Nguyễn Hải Khoát (2000), "Cách tiếp cận văn hóa - tâm lý trong công tác tuyên truyền, giáo dục đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước", Nghiên cứu lý luận, (5), tr. 55 - 58. 19. Nguyễn Văn Khởi (2000), "Về vai trò của cán bộ công đoàn cơ sở trong các doanh nghiệp", Lao động và Công đoàn, (7), tr. 7. 20. V.I. Lênin (1974), Toàn tập, tập 4, Nxb Tiến bộ, Matxcơva. 21. V.I. Lênin (1975), Toàn tập, tập 6, Nxb Tiến bộ, Matxcơva. 22. V.I. Lênin (1981), Toàn tập, tập 31, Nxb Tiến bộ, Matxcơva. 23. V.I. Lênin (1977), Toàn tập, tập 37, Nxb Tiến bộ, Matxcơva. 24. V.I. Lênin (1975), Toàn tập, tập 42, Nxb Tiến bộ, Matxcơva. 25. Trần Thị Bích Liên (2001), Tích cực hóa nhân tố chủ quan để giai cấp công nhân Việt Nam thực hiện và hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình, Luận án tiến sĩ Triết học. 26. Cao Văn Lượng (chủ biên) (2000), Công nghiệp hóa, hiện đại hóa và sự phát triển giai cấp công nhân. Những chính sách và giải pháp xây dựng giai cấp công nhân củng cố và tăng cường vị trí giai cấp công nhân trong xã hội, Đề tài KHXH 03 - 07. 27. Nguyễn An Lương (2000), "Thực trạng giai cấp công nhân Việt Nam trong quá trình đổi mới những vấn đề đặt ra", Quốc phòng toàn dân, (10), tr. 24 - 27. 28. C.Mác và Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 29. C.Mác và Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 30. C.Mác và Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 31. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 32. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 33. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 34. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 35. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 36. Đỗ Đức Ngọ (2000), "Công cụ và phương pháp công tác tư tưởng của Công đoàn Việt Nam", Lao động và Công đoàn, (8), tr. 2, 3. 37. Văn Nhân (1999), "Bàn về nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công đoàn", Lao động và Công đoàn, (215), tr. 11. 38. Lê Khả Phiêu (2000), Chủ nghĩa xã hội nhất định thành công, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 39. Lê Duy Sơn (2000), Phát triển mối quan hệ giữa giai cấp công nhân Việt Nam và dân tộc Việt Nam trong quá trình đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, Luận án tiến sĩ Triết học. 40. Hoàng Ngọc Thanh (1998), "Phác thảo chân dung đội ngũ cán bộ công đoàn nước ta hiện nay", Lao động và Công đoàn, (211), tr. 12. 41. Tôn Trung Phạm (1995), Kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa và công đoàn, Nxb Lao động, Hà Nội. 42. Tổng liên đoàn lao động Việt Nam (1999), Văn kiện Đại hội lần thứ VIII, Nxb Lao động, Hà Nội. 43. Tổng liên đoàn lao động Việt Nam (1999), Văn kiện Hội nghị lần thứ ba khóa VIII, (Lưu hành nội bộ). 44. Tổng liên đoàn lao động Việt Nam (2000), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm khóa VIII, (Lưu hành nội bộ). 45. Tổng liên đoàn lao động Việt Nam (2001), Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu khóa VIII, (Lưu hành nội bộ). 46. Tổng liên đoàn lao động Việt Nam - Ban Tư tưởng và văn hóa (1999), Những bài giảng chính trị cơ bản trong công nhân lao động, Nxb Lao động, Hà Nội. 47. Tổng Liên đoàn Lao động Việt nam - Ban Tư tưởng và văn hóa (2000), Đảng Cộng sản Việt Nam với giai cấp công nhân và Công đoàn Việt Nam, Nxb Lao động, Hà nội. 48. Tổng Liên đoàn Lao động Việt nam - Ban Tư tưởng và văn hóa Trung ương (2000), Sự nghiệp đổi mới của Đảng với giai cấp công nhân và tổ chức Công đoàn Việt Nam. 49. Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam - Viện công nhân và Công đoàn (1999), Xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Nxb Lao động, Hà Nội. 50. Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam (1998), Điều lệ Công đoàn Việt Nam, Nxb Lao động, Hà Nội. 51. Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam - Viện Công nhân và công đoàn (2001), Xu hướng biến động của giai cấp công nhân Việt Nam những năm đầu thế kỷ XXI, Nxb Lao động, Hà Nội. 52. Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam - Trường đại học Công đoàn (1999), Giáo trình lý luận và nghiệp vụ công đoàn, Nxb Lao động, Hà Nội. 53. Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam (2000), Báo cáo sơ kết chỉ thị 02 về việc tổ chức học tập những bài chính trị cơ bản trong công nhân lao động. 54. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam - Viện Công nhân và Công đoàn (1999), Báo cáo kết quả điều tra xã hội học về thực trạng giai cấp công nhân Việt Nam đến thời điểm 1999. 55. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2000), Báo cáo tóm tắt kết quả khảo sát xã hội học về vai trò của Công đoàn và thái độ của công nhân, viên chức và lao động với một số vấn đề kinh tế - xã hội cấp bách hiện nay. 56. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam - Ban Kinh tế và chính sách xã hội (1996), Báo cáo tổng kết 5 năm (1991 - 1995) thi hành Luật Công đoàn. 57. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (199&), Báo cáo về tình hình thực hiện ký kết thỏa ước lao động tập thể và giao kết hợp đồng lao động. 58. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2000), Báo cáo tóm tắt tình hình công tác Bảo hộ lao động của nước ta và sự đóng góp của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam đối với công tác Bảo hộ lao động. 59. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam - Ban Pháp luật (2000), Báo cáo tình hình đình công của người lao động từ năm 1995 đến tháng 10 năm 2000. Nguyên nhân và những kiến nghị, giải pháp. 60. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2000), Báo cáo quý I năm 2000. 61. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2000), Báo cáo tổng kết công tác công đoàn, nhiệm vụ năm 2001. 62. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2001), Báo cáo hoạt động công đoàn tháng 5 năm 2001. 63. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2001), Báo cáo sơ kết nửa nhiệm kỳ thực hiện nghị quyết Đại hội VIII và nhiệm vụ đến Đại hội IX Công đoàn Việt Nam. 64. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2000), Báo cáo tổng kết công tác công đoàn năm 1999. Phương hướng, nhiệm vụ năm 2000. 65. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2000), Báo cáo tổng kết công tác công đoàn năm 2000, nhiệm vụ năm 2001. 66. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2000), Báo cáo rút kinh nghiệm tình hình triển khai công tác bổ túc văn hóa và đào tạo nghề cho công nhân lao động. 67. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam - Ban Tư tưởng và văn hóa (2001), Dự thảo báo cáo trình độ học vấn, tay nghề của công nhân lao động. 68. Hà Trang (2001), "Gần 3 triệu người lao động hưởng ứng cuộc thi tìm hiểu đường lối và thành tựu mới của Đảng Cộng sản Việt Nam", Lao động xã hội, (29), tr. 1. 69. Thanh Tuyền (1999), "Chủ tịch Hồ Chí Minh với giai cấp công nhân và Công đoàn Việt Nam", Dân vận, (7), tr. 11-13. 70. Trương Đình Tuyển (1998), "Công đoàn giữ vai trò quan trọng trong việc thực hiện nhiệm vụ chính trị, chuyện môn", Thương mại, (12), tr. 2-3. 71. Nguyễn Văn Tư (1998), "Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động công đoàn", Lao động và Công đoàn, (210), tr. 5-6. 72. Nguyễn Văn Tư (1998), "Nhiệm vụ mới của Công đoàn Việt Nam", Tạp chí Cộng sản, (21), tr. 11-15. 73. Mục Lục 74. 75. Trang Mở đầu 1 Chương 1: ý thức chính trị và sự cần thiết phải nâng cao ý thức chính trị cho giai cấp công nhân nước ta 6 1.1. ý thức chính trị 6 1.2. Sự cần thiết phải nâng cao ý thức chính trị của giai cấp công nhân nước ta 24 Chương 2: vai trò của công đoàn trong việc nâng cao ý thức chính trị của giai cấp công nhân ở nước ta hiện nay 41 2.1. Công đoàn Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội của giai cấp công nhân Việt Nam 41 2.2. Những tác động quan trọng của Công đoàn để nâng cao ý thức chính trị của giai cấp công nhân Việt Nam 51 Chương 3: những giải pháp chủ yếu để phát huy vai trò của công đoàn trong việc nâng cao ý thức chính trị của giai cấp công nhân nước ta 74 3.1. Tiếp tục phát triển và củng cố tổ chức Công đoàn 74 3.2. Rút kinh nghiệm để đẩy mạnh hơn nữa các hoạt động của Công 92 đoàn có liên quan đến giáo dục ý thức chính trị của giai cấp công nhân 3.3. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Công đoàn kết hợp với các tổ chức trong hệ thống chính trị để nâng cao ý thức chính trị cho giai cấp công nhân 99 Kết luận 105 Danh mục tài liệu tham khảo 107

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLUẬN VĂN- Công đoàn trong việc nâng cao ý thức chính trị của giai cấp công nhân ở nước ta hiện nay.pdf
Luận văn liên quan