Việt Nam có 54 dân tộc có ngôn ngữ, tín ngưỡng và truyền thống văn hóa
khác nhau. Trong đó, đồng bào DTTS thường sống theo làng bản của mình,
sử dụng ngôn ngữ của dân tộc mình, do đó, để hòa nhập với các dân tộc khác
và với cuộc sống hiện đại nói chung, còn gặp trở ngại. Về mặt dân số, Lâm
Đồng là một trong những tỉnh có đồng bào DTTS tập trung đông và đa dạng,
trong đó, huyện Lâm Hà là huyện có bà con DTTS tập trung đông nhất, đặc
biệt là bà con DTTS Kơ Ho. Ở đây, đa số bà con, những người chủ hộ gia
đình vẫn chưa biết tiếng Việt, quan niệm sống khá lạc hậu và ít quan tâm đến
đời sống bên ngoài làng bản của mình. Về mặt địa lý, mặc dù được Nhà nước
quan tâm đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng nhưng do địa hình một số nơi khá
hiểm trở, nên đường sá đi lại còn khó khăn, một số thôn, xã vẫn khá tách biệt,
khó tiếp cận được với đời sống hiện đại. Về mặt kinh tế, huyện Lâm Hà là
một trong những huyện có điều kiện kinh tế khó khăn nhất tỉnh, số hộ cận
nghèo và nghèo chiếm hơn 50%, đặc biệt với các hộ gia đình DTTS Kơ Ho,
tỷ lệ hộ nghèo cao, kinh tế chủ yếu dựa vào nông nghiệp, theo mùa vụ, còn
hạn chế trong áp dụng khoa học công nghệ, do vậy đời sống còn khó khăn.
Với những đặc điểm trên và do nhận thức còn hạn chế, bà con dân tộc Kơ
Ho nói chung và trẻ em Kơ Ho nói riêng gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp
cận các dịch vụ y tế và giáo dục. Tuy từ năm 2010, tỉnh đã có kế hoạch từng
bước chuyên nghiệp hóa nghề CTXH, nhưng các hoạt động hỗ trợ trẻ trong
giáo dục và y tế tại huyện còn rất nhiều hạn chế. Tỷ lệ trẻ không theo học
thường xuyên và tỷ lệ trẻ bỏ học cấp THCS cao và các hoạt động CTXH
không để lại tác động lan tỏa, nên không khắc phục triệt để được thực trạng.
Về y tế, chỉ có khoảng 50% trẻ được thăm khám thường xuyên và có hơn
20% số trẻ chưa bao giờ được thăm khám. Ở những thôn, xã, bản xa trạm y tế,75
trẻ em DTTS nói chung và trẻ em Kơ Ho nói riêng không nhận được những
hỗ trợ thiết thực, không được quan tâm đúng mức. Các hoạt động hỗ trợ trẻ
em Kơ Ho trong tiếp cận về giáo dục và y tế còn mang tính hình thức, hạn chế
về cách thức, chưa đi sâu vào nhu cầu thực tế của trẻ, do đó, không mang lại
hiệu quả cũng như không được bà con đón nhận nhiệt tình và không nhận
được sự đánh giá cao từ phía bà con.
96 trang |
Chia sẻ: yenxoi77 | Lượt xem: 594 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Công tác xã hội trong hỗ trợ về giáo dục và y tế đối với trẻ em dân tộc Kơ Ho từ thực tiễn huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ỉ đạo, định hướng
từ Đảng và Chính phủ.
Trước hết, về vĩ mô, nghề CTXH đang được hoàn thiện dần về hành lang
pháp lý, theo đó, các trung tâm CTXH đang được xây dựng và quy định chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn; các NVXH được quy định mã nghề, được cấp mã
vạch, đội ngũ CTV CTXH được hoàn thiện, bổ sung về chế độ phụ cấp nghề;
mạng lưới CTV được xây dựng và mở rộng. Các hoạt động đào tạo chuyên
môn về CTXH được đẩy mạnh, nhiều trường Đại học đã có các chương trình
tham quan, học tập kinh nghiệm đào tạo CTXH của nước ngoài, nhằm nâng
cao chất lượng đầu ra cho ngành CTXH. Hiện nay, tại Việt Nam, một số trường
đã được cấp phép đào tạo trình độ tiến sỹ CTXH. Nghề CTXH được định
hướng hoàn thiện để có thể bao phủ mọi lĩnh vực đời sống xã hội, đảm bảo
không có người yếu thế hay người dân có nhu cầu nào bị bỏ lại đằng sau.
Về vi mô, mỗi địa phương cần xây dựng cho tỉnh, huyện mình một kế hoạch cụ
thể về phát triển nghề CTXH.
61
Thứ nhất, các địa phương cần lên kế hoạch xây dựng mạng lưới NVXH và CTV
CTXH theo nhu cầu thực tế: căn cứ số lượng người dân có nhu cầu, các huyện, tỉnh
lên kế hoạch phân bổ số lượng CTV và NVXH theo từng xã, phường, đảm bảo mỗi
xã, phường đều có các NVXH hoạt động, sẵn sàng trợ giúp người dân khi cần.
Thứ hai, mỗi tỉnh cần triển khai xây dựng mô hình điểm Trung tâm cung cấp
dịch vụ CTXH cấp tỉnh, quy định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trang bị đường
dây nóng nhằm đáp ứng nhu cầu được trợ giúp của người dân. Trong tương lai, mô
hình này sẽ được mở rộng xuống các tuyến dưới, trở thành đơn vị chủ đạo trong các
hoạt động hỗ trợ người yếu thế, và là đơn vị điều phối các hoạt động CTXH, chịu
trách nhiệm đánh giá nhu cầu trợ giúp, và lên kế hoạch phân bổ nguồn nhân lực và
nguồn lực tài chính cho các hoạt động CTXH tại địa phương. Hiện tại, toàn tỉnh chỉ
có một trung tâm CTXH, do đó, Trung tâm cung cấp các dịch vụ CTXH tỉnh nên
được đặt là đầu mối chủ đạo, chủ trì và phối hợp các hoạt động trong toàn tỉnh, là đơn
vị đánh giá nhu cầu sử dụng các dịch vụ xã hội trong đó có y tế và giáo dục và xây
dựng kế hoạch quý, năm cho các hoạt động CTXH trong toàn tỉnh, mạng lưới CTV
và NVXH tại huyện, xã sẽ căn cứ kế hoạch chung để xây dựng riêng cho mỗi đơn vị
kế hoạch hay báo cáo về việc sử dụng và cung cấp các dịch vụ xã hội. Trung tâm
CTXH do đó, sẽ là đơn vị chịu trách nhiệm về các hoạt động CTXH trong tỉnh, đồng
thời cũng vẫn là đơn vị tiếp nhận các trường hợp cần trợ giúp nhưng không thông qua
tuyến dưới là từ các CTV hay NVXH huyện, xã, đảm bảo đúng chức năng nhiệm vụ
của trung tâm là cung cấp các dịch vụ CTXH cho người dân trong tỉnh. Trong tương
lai, việc nhân rộng các mô hình Trung tâm cung cấp dịch vụ CTXH sẽ tạo điều kiện
thuận tiện cho người dân trong việc tiếp cận khi cần nhận được các trợ giúp, khắc
phục được các khó khăn về giao thông, đặc biệt tại các tỉnh miền núi, nâng cao tính
bảo mật thông tin cho thân chủ và tính chuyên nghiệp đối với các hoạt động trợ giúp.
62
Thứ ba, các tỉnh chủ trương phát triển các dịch vụ CTXH theo cả chiều rộng và
chiều sâu. Cụ thể, các dịch vụ CTXH cần tiếp cận dần hết các lĩnh vực đời sống: các
nhóm yếu thế trong xã hội (từ đối tượng là trẻ em đến người già, người khuyết tật thể
chất và tinh thần, nghiện ma túy, mại dâm, nạn nhân bị mua bán, bệnh nhân HIV,.)
và liên kết với các ngành khác để đảm bảo độ bao phủ như: luật pháp (CTXH đối với
các phạm nhân trong tù); giáo dục (CTXH trong trường học); y tế (CTXH trong bệnh
viện). Đồng thời, về chiều sâu, các tỉnh cần có các lộ trình đào tạo, bồi dưỡng, tập
huấn ngắn hạn, dài hạn, thường xuyên để nâng cao trình độ chuyên môn, cải thiện
chất lượng đội ngũ NVXH và CTV CTXH.
Thứ tư, mạng lưới CTV và NVXH cần được tổ chức và phân công nhiệm vụ,
quyền hạn rõ ràng giữa các cấp, bậc tránh tình trạng mỗi thôn, xã, huyện hoạt động
theo cách riêng, tự phát và chồng chéo. Và các CTV hay NVXH hoạt động tại các
tuyến dưới thôn, xã cần tiếp xúc và gần gũi hơn nữa với con em DTTS cũng như các
già làng, trưởng thôn tại các thôn, bản có đồng người DTTS sinh sống để kịp thời
thông báo với tuyến trên về các trường hợp cần được trợ giúp.
Thứ năm, các hoạt động của các tổ chức, đoàn thể như Hội phụ nữ, Hội khuyến
nông, Hội khuyến học, Hội Thanh niên.trên địa bàn tỉnh cần được định hướng và
chỉ đạo phối hợp với ngành CTXH chặt chẽ hơn, hỗ trợ cho đội ngũ CTV và NVXH
cả về nguồn nhân lực và tài chính khi cần thiết, lồng ghép các chương trình của
CTXH trong các chương trình sinh hoạt hội nhóm để sự có mặt của CTXH trong các
dịch vụ y tế, giáo dục cũng như trong đời sống của abf con DTTS được rõ nét hơn.
Đồng thời, trong nhiều trường hợp thành viên của các hội là CTV ngành CTXH là
những người chủ đạo trong hoạt động tiếp xúc, tìm hiểu nhu cầu của bà con và phát
hiện kịp thời các trường hợp cần đến sự trợ giúp của CTXH.
Những định hướng trên sẽ là cơ sở để các địa phương lên kế hoạch cụ thể, xác
định mục tiêu và các bước thực hiện để từng bước xây dựng cho địa phương mình
63
nghề CTXH chuyên nghiệp, nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động, giúp
người dân khắc phục khó khăn và được hưởng các quyền mà pháp luật quy định.
3.2. Giải pháp tăng cƣờng công tác xã hội trong hỗ trợ về giáo dục và y tế đối
với trẻ em dân tộc Kơ Ho huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng
3.2.1. Giải pháp về chính sách, thể chế
Để tăng cường các hoạt động CTXH trong hỗ trợ về giáo dục và y tế, trước hết
tỉnh Lâm Đồng nói chung và huyện Lâm Hà nói riêng cần có các chính sách, phương
hướng, thể chế rõ ràng. Cụ thể, lãnh đạo tỉnh, huyện cần coi việc trẻ em DTTS nói
chung và dân tộc Kơ Ho nói riêng được tiếp cận đầy đủ với các dịch vụ y tế và giáo
dục là một trong những mục tiêu được ưu tiên thực hiện để từ đó đưa ra các chủ
trương, chính sách, chỉ đạo sát sao kịp thời để đẩy mạnh hiệu quả của các hoạt động
trợ giúp.
Bên cạnh các chính sách tập trung cho ngành giáo dục và y tế, cũng cần có cách
chính sách thúc đẩy sự tham gia của các bên liên quan, mà ở đây là ngành CTXH. Và
ngược lại, các chính sách của ngành CTXH cũng cần đề cập đến việc gắn kết các
hoạt động với các chính sách của giáo dục và đào tạo. Ngoài ra, các chính sách cần
hướng tới việc huy động các nguồn lực bên ngoài nhiều hơn, cả về vật chất và phi vật
chất, các nguồn lực có thể là các nguồn đầu tư vật chất từ xã hội, và sự tham gia của
các hội, nhóm về nhân lực để từng bước nâng cao chất lượng và số lượng đội ngũ
NVXH, CTV công tác xã hội.
Trên thực tế, ngay sau khi Đề án 32 được Thủ tướng phê duyệt, tỉnh Lâm Đồng
cũng đã xây dựng Kế hoạch phát triển nghề CTXH, trong đó có đề cập đến việc phát
triển đội ngũ NVXH cả về chất lượng và số lượng, đồng thời quy định rõ các lĩnh vực
cần can thiệp và nhiệm vụ của các NVXH cụ thể trong lĩnh vực giáo dục và y tế đã
chỉ rõ như sau: “Trong các trường phổ thông, cao đẳng, đại học và cơ sở giáo dục và
đào tạo khác: Nhân viên công tác xã hội tiền hành giáo dục và tham vấn cho những
64
học sinh và sinh viên gặp những vấn đề trong học tập và cuộc sống. Nếu học sinh,
sinh viên gặp các vấn đề trong gia đình thì nhân viên công tác xã hội cũng có thể
phối hợp với để tham vấn cho giáo viên xây dựng môi trường học tập thuận lợi cho
những học sinh, sinh viên; giải quyết các bất hòa giữa các nhóm học sinh, sinh viên”
[31] và “Lĩnh vực sức khỏe, bao gồm cả sức khỏe tâm thần (tại các bệnh viện và
phòng khám): Nhân viên công tác xã hội hỗ trợ về mặt tâm lý xã hội và các dịch vụ
chăm sóc. Đồng thời nhân viên công tác xã hội cũng đóng vai trò là cán bộ quản lý
để điều phối dịch vụ cho đối tượng, giám sát những thay đổi của họ để tìm kiếm dịch
vụ cần đáp ứng. Nhân viên công tác xã hội cũng đảm nhận vai trò quản lý, chăm sóc
tập trung tại các cơ sở bảo trợ xã hội và cùng hợp tác với các cơ sở để cung cấp
những hỗ trợ tâm lý xã hội cho các đối tượng”[31]. Căn cứ kế hoạch trên huyện Lâm
Hà có thể triển khai các hoạt động hỗ trợ cho trẻ em Kơ Ho trong việc tiếp cận các
dịch vụ y tế và giáo dục tuy nhiên cần đẩy mạnh hơn nữa các hoạt động hỗ trợ mang
tính trực tiếp, như đến nhà thăm hỏi và giúp đỡ các em về việc học hay hỗ trợ các em
khi phải đến thăm khám tại các cơ sỏ y tế nếu gặp các trở ngại về ngôn ngữ hay quy
trình, thủ tục khám chữa bệnh. Trong các văn bản liên quan đến các dịch vụ giáo dục,
y tế cho trẻ em DTTS nói chung và trẻ em DTTS Kơ Ho nói riêng, cần có nội dung
thể chế hóa vai trò của các NVXH trong việc hỗ trợ trẻ em Kơ Ho tiếp cận các dịch
vụ y tế và giáo dục, nhằm trao cho các NVXH nhiều quyền hơn trong các hoạt động
hỗ trợ này.
Về Giáo dục, tháng 1/2017, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tại đã ký Quyết
định Ban hành Kế hoạch phát triển nghề Công tác xã hội trong ngành giáo dục giai
đoạn 2017 – 2020, theo đó có chỉ rõ “Khảo sát, xây dựng các nội dung hoạt động
CTXH sao cho phù hợp đặc điểm của các vùng miền, đặc biệt là các vùng dân tộc
thiểu số ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn. Nghiên cứu đánh giá
các nhu cầu thiết yếu, tối thiểu của học sinh tại các trường phổ thông dân tộc nội trú,
65
bán trú để xây dựng các dịch vụ CTXH trường học nh m hỗ trợ, nâng cao năng lực
cho học sinh” [4]
Dựa vào kế hoạch này, tỉnh Lâm Đồng nói chung và huyện Lâm Hà nói riêng
có thể đưa ra kế hoạch cụ thể cho huyện để phát triển ngành CTXH. Huyện có thể
đưa ra phương hướng hoạt động cho mạng lưới CTV công tác xã hội theo cách tiếp
cận gần hơn với trẻ và gia đình trẻ, các hình thức hỗ trợ cần cụ thể hơn, hỗ trợ trực
tiếp tại gia đình cần được đẩy mạnh hơn.
Về Y tế, sau khi Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 32/2010/QĐ-
TTg ngày 25/3/2010, CTXH trong ngành Y tế cũng đã được hình thành ngay sau đó
khi mà Bộ Y tế ban hành Đề án “Phát triển nghề công tác xã hội trong ngành Y tế
giai đoạn 2011-2020”, trong đó nêu rõ lộ trình đưa nghề CTXH như là một bộ phận
không thể tách rời của ngành y tế, như thí điểm lập phòng CTXH tại các bệnh viện
tuyến trung ương, vạch ra kế hoạch cụ thể: “Đến hết năm 2020, triển khai hoạt động
CTXH trong CSSK tại:
- 80% các bệnh viện tuyến trung ương;
- 60% các bệnh viện tuyến tỉnh;
- 30% các bệnh viện tuyến huyện;
- 40% số xã/phường” [7]
Đây là cơ sở về mặt chính sách để các huyện, tỉnh có thể lồng ghép các hoạt động
CTXH vào hoạt động y tế, cũng như là cơ sở về mặt thể chế đối với các hoạt động
CTXH trong bệnh viện và các cơ sở khám chữa bệnh. Hiện nay, các bệnh viện tuyến
huyện chưa có phòng CTXH, tuy nhiên, dựa vào đội ngũ CTV công tác xã hội,
huyện Lâm Hà có thể chủ động định hướng các hoạt động của đội ngũ CTV gần hơn
với các dịch vụ của bệnh viện, hỗ trợ con em dân tộc Kơ Ho tại bệnh viện và tại nhà
khi cần thiết, nâng cao hiệu quả phòng, khám và chữa bệnh. Các bệnh viện tuyến
huyện do đó, không cần thiết phải có phòng CTXH, nhưng cần có các CTV sẵn sàng
66
trợ giúp khi có trường hợp cần đến sự can thiệp của CTXH, điều này phụ thuộc vào
chính sách phân bổ nguồn lực của huyện đối với ngành CTXH.
Các kế hoạch của tỉnh, huyện nên đề cập đến việc cần đẩy mạnh hơn các hoạt
động CTXH, các CTV công tác xã hội cần được tạo điều kiện tiếp cận với thân chủ,
trẻ em Kơ Ho, tại bệnh viện và trường học khi có nhu cầu. Lãnh đạo huyện Lâm Hà
cần đưa ra các chủ trương lồng ghép các hoạt động CTXH vào các hoạt động của các
đoàn thể khác, đặc biệt là Hội phụ nữ, Hội thanh niên, Hội khuyến học,.. để các
hoạt động trợ giúp được đồng bộ. Bên cạnh đó, kết quả điều tra cho thấy, số trẻ em
được tiếp cận với các dịch vụ y tế, giáo dục tỷ lệ thuận với hoàn cảnh gia đình trẻ.
Hơn thế, các hoạt động hỗ trợ tại các xã, thôn có tỷ lệ hộ nghèo cao dường như rất ít,
hay không đến được với trẻ. Do đó, các chính sách cần ưu tiên hơn đối với các thôn,
xã có tỷ lệ cao trẻ không tiếp cận được với các dịch vụ y tế, giáo dục.
Bên cạnh đó, tại các xã, thôn có tỷ lệ hộ nghèo cao, tỷ lệ bỏ học, và không
theo học thường xuyên của trẻ cũng cao hơn các thôn, xã khác. Tỉnh, huyện cần
có các chính sách mang tính đan xen và lồng ghép dưới dạng kết hợp: đặc biệt là
kết hợp với chính sách giảm nghèo, các gia đình nghèo có trẻ theo học thường
xuyên sẽ được nhận thêm các khoản phụ cấp, trợ cấp cao hơn và trái lại, các gia
đình có trẻ thường xuyên bỏ học sẽ bị cắt hay giảm tạm thời mức hỗ trợ, trợ cấp.
Hoặc, tỉnh hay huyện có thể tăng mức hỗ trợ học phí hay trợ cấp tỷ lệ thuận với
các gia đình có số con đi học thường xuyên như một sự khuyến khích và hỗ trợ
các gia đình cho trẻ đến trường.
Đối với các gia đình có trẻ từ 6 tuổi trở lên, nếu trẻ theo học thường xuyên nên
được hỗ trợ thêm trong mua BHYT để khuyến khích các gia đình cho trẻ đi học và sử
dụng các dịch vụ y tế.
Trường học có thể bố trí chương trình học phù hợp hơn đối với trẻ em DTTS, có
thể cử các cô giáo luân phiên nhau bồi dưỡng thêm tiếng Việt cho các em, có NVXH
67
theo sát các em không chỉ ở trường mà cả ở nhà. Các hoạt động cần được lên kế
hoạch cụ thể, chuyên nghiệp và có đưa ra các đánh giá cho mỗi hoạt động, đảm bảo
tính hiệu quả và khả thi.
CTXH cần kết hợp chặt chẽ với các già làng, trưởng thôn để nếu trong thôn, bản
có trường hợp cần sự giúp đỡ, các CTV và NVXH sẽ nhân được thông tin kịp thời và
tổ chức các hoạt động hỗ trợ phù hợp.
Và cuối cùng, các chính sách của tỉnh hay huyện cần ưu tiên hơn đối với việc
phân bổ nguồn lực và ngân sách dành cho CTXH, để CTXH có thể trở thành một
nghề chuyên nghiệp, được người dân nói chung và đồng bào DTTS nói riêng biết
đến và sử dụng được các dịch vụ mà ngành CTXH cung cấp.
3.2.2. Giải pháp về đội ngũ cán bộ làm công tác xã hội
Trước tiên, trong các văn bản và chủ trương của tỉnh, huyện nghề CTXH cần
được nhấn mạnh rõ là một nghề, hoạt động CTXH là hoạt động chuyên nghiệp, có
nguyên tắc, phương pháp và có đội ngũ nhân viên được đào tạo. Do đó, các NVXH
cần có chuyên môn về CTXH.
Theo như kết quả nghiên cứu, thực trạng tiếp cận dịch vụ y tế và giáo dục của trẻ
em Kơ Ho còn nhiều bất cập, các hình thức trợ giúp từ phía CTXH còn nhiều hạn
chế, chưa mang lại hiệu quả cao. Những hạn chế và bất cập này do các hoạt động trợ
giúp mang tính nhất thời, chưa tuân thủ nguyên tắc cũng như các phương pháp mà
nghề CTXH yêu cầu đối với một NVXH khi thực hành nghề, do đó, các hoạt động
không đáp ứng đúng nhu cầu và chưa phù hợp với đặc điểm của đối tượng cần trợ
giúp. Nguyên nhân của thực trạng này một phần do chất lượng của đội ngũ NVXH,
mặt khác do số lượng NVXH và CTV CTXH còn hạn chế, không được định hướng
và lên kế hoạch thực hiện một cách bài bản.
Về số lượng, đội ngũ cán bộ, CTV CTXH cần được bổ sung thêm để đảm bảo
huyện có mạng lưới các NVXH và CTV CTXH đủ về số lượng, có thể kịp thời giải
68
quyết được những khó khăn của người dân nói chung và trẻ em Kơ Ho nói riêng khi
có nhu cầu. Hơn nữa, do địa hình hiểm trở, nhiều hộ gia đình bị chia cắt cũng khiến
việc tiếp cận các gia đình trở nên khó khăn, mạng lưới NVXH và CTV CTXH dày sẽ
khiến cho việc tiếp cận các em theo địa bàn trở nên dễ hơn. Về mặt này, tỉnh Lâm
Đồng nói chung và huyện Lâm Hà nói riêng cần có các chính sách ưu tiên các sinh
viên học ngành CTXH về làm việc tại địa bàn, đón nhận các sinh viên ngành CTXH
về địa phương thực tập, coi đây là nguồn CTV tạm thời hàng năm cho mạng lưới
CTV. Mở rộng mạng lưới CTV thông qua việc kêu gọi sự tham gia của các hội,
đoàn, trường đại học có khoa đào tạo ngành CTXH trên địa bàn tỉnh, cùng với hội
phụ nữ, như hội thanh niên, hội khuyến học,... có thể kêu gọi sự tham gia dưới hình
thức tình nguyện viên để không làm tăng ngân sách chi phụ cấp CTV. Đặc biệt, đối
với các sinh viên ngành CTXH, việc làm tình nguyện viên cho mạng lưới CTV
CTXH sẽ được các em tham gia tích cực vì các hoạt động này gắn liền với chuyên
ngành học và giúp các em tích lũy thêm kinh nghiệm, học cách vận dụng kiến thức
vào thực tế, đồng thời, tỉnh và huyện cũng giảm bớt một phần trong chi trả phụ cấp
CTV và giảm bớt được chi phí dành cho các hoạt động tập huấn, bồi dưỡng kiến thức
đối với các CTV không qua đào tạo chuyên môn CTXH.
Về trình độ chuyên môn, các cán bộ, viên chức, CTV đều không được đào tạo
đúng chuyên ngành. Đây là một trong những nguyên nhân chủ yếu khiến các hoạt
động CTXH chưa mang lại hiệu quả cao. Nghề CTXH là một nghề phục vụ con
người, hỗ trợ con người giải quyết các khó khăn đa dạng trong cuộc sống, từ khó
khăn mang tính vật chất đến các khó khăn mang đặc tính tâm lý, tình cảm. Do đó,
khía cạnh chuyên môn trong lĩnh vực này được hiểu theo nghĩa khá đặc biệt, chuyên
môn không chỉ là kiến thức được học, kinh nghiệm thông qua thực hành mà còn có
những kỹ năng mềm và tố chất của một nhà tâm lý học, giáo dục, biện hộ, hiểu và
nắm vững các chính sách, có khả năng thấu cảm, thấu hiểu Đặc biệt trong khuôn
69
khổ đề tài nghiên cứu này, các hoạt động CTXH hướng đến đối tượng là trẻ em
DTTS Kơ Ho theo hai lĩnh vực tiếp cận là y tế và giáo dục. Ngoài các kiến thức cơ
bản về CTXH, các nhân viên và CTV cần có các kỹ năng mềm để tiếp cận thành
công với trẻ và gia đình cũng như những hiểu biết nhất định về dân tộc Kơ Ho, và các
chính sách về giáo dục và y tế dành cho đồng bào DTTS Kơ Ho. Về lâu dài, bên cạnh
việc đội ngũ CTV và cán bộ làm CTXH cần được nâng cao về chuyên môn, thông
qua các hoạt động tập huấn, bồi dưỡng thường xuyên, các nhân viên và CTV cần
được bồi dưỡng về kỹ năng mềm, đặc biệt là kỹ năng tiếp xúc và làm việc với đồng
bào DTTS, trẻ em DTTS. Theo đó, với các đặc điểm riêng của huyện, nơi có đông
đồng bào DTTS đang sinh sống với số hộ gia đình DTTS Kơ Ho chiếm đa số, huyện
Lâm Hà nên có chủ trương bố trí ít nhất 1 cán bộ làm CTXH biết nói tiếng Kơ Ho.
Cùng với sự giúp đỡ của già làng, trưởng thôn, trưởng bản, việc tiếp cận với đồng
bào DTTS sẽ dễ dàng hơn, cũng như thông qua các nhân vật có tiếng nói trong cộng
đồng, các NVXH không chỉ hiểu và nắm được tâm tư, nguyện vọng, suy nghĩ, tình
cảm cuả bà con mà còn khắc phục được các trở ngại trong việc mang các hoạt động
CTXH đến với bà con, gây dựng quan hệ và tạo niềm tin trong cộng đồng đồng bào
DTTS nói chung và đồng bào DTTS Kơ Ho nói riêng.
Bên cạnh các khía cạnh về chuyên môn, năng lực, phương pháp thực hiện các
hoạt động CTXH, khía cạnh đạo đức nghề nghiệp và tuân thủ nguyên tắc của ngành
CTXH là yếu tố không nhỏ quyết định thành công của các hoạt động hỗ trợ. Đồng
bào DTTS là đối tượng khá nhạy cảm, do bà con mang các đặc điểm về tín ngưỡng,
văn hóa, truyền thống, ngôn ngữ rất khác biệt so với dân tộc Kinh, vì là dân tộc thiểu
số, nên bản thân bà con đôi khí tự tạo rào cản trong việc tiếp xúc với các dân tộc khác
và dân tộc Kinh. Đội ngũ nhân viên và CTV đa số là người dân tộc Kinh, dân tộc
chiếm đa số, nên đôi khi trong tiếp xúc vẫn tồn tại những khoảng cách nhất định. Do
vậy, NVXH hay CTV cần phải tuân thủ các nguyên tắc của ngành CTXH, đặc biệt là
70
nguyên tắc tôn trọng sự khác biệt, không phán xét, và tôn trọng quyền tự quyết của
thân chủ. Với đặc điểm khác biệt về dân tộc, tuân thủ các nguyên tắc trên sẽ giúp cho
các NVXH làm việc có hiệu quả và gây dựng được lòng tin đối với đồng bào DTTS.
Mặt khác, các nhân viên và CTV CTXH cần phải có tâm huyết và đạo đức
nghề nghiệp. Để tạo lòng tin đối với bà con, cần có một khoảng thời gian cần thiết,
thông qua tiếp xúc thường xuyên, và không phải mọi nhân viên đều thành công ngay
từ những buổi đầu gặp bà con. Tâm huyết và đạo đức nghề nghiệp là những yếu tố
giúp các NVXH sẵn sàng tiếp cận với bà con DTTS nói chung và trẻ em Kơ Ho nói
riêng, để cảm thông, thấu hiểu và lên kế hoạch trợ giúp hiệu quả, cũng như tạo được
lòng tin của bà con, được bà con lắng nghe và làm theo. Do đó, bên cạnh việc đào
tạo, bồi dưỡng thêm về chuyên môn, nghiệp vụ, việc nâng cao đạo đức nghề nghiệp
cho đội ngũ cán bộ, nhân viên làm CTXH cũng cần được chú trọng.
Ngoài ra, tỉnh, huyện cần có chế độ phụ cấp, trợ cấp để các cán bộ, CTV làm
CTXH có thể yên tâm công tác và công tác có hiệu quả, và bản thân các nhân viên,
CTV CTXH cũng cần được chính quyền, ban ngành, đoàn thể các cấp quan tậm về
đời sống tinh thần và vật chất, củng cố thêm lòng yêu nghề, qua đó nâng cao hiệu quả
công tác.
3.2.3. Giải pháp về giáo dục, truyền thông và vận động xã hội
Tuy CTXH đã được công nhận là một nghề chuyên nghiệp từ năm 2010
những chỉ khoảng từ năm 2014, các kế hoạch thực hiện lộ trình chuyên nghiệp hóa
nghề CTXH mới được các tỉnh thực hiện và tiến hành. Lâm Đồng là một tỉnh có
nhiều nhóm DTTS cư trú, trong đó huyện Lâm Hà là huyện có người DTTS cư trú
nhiều nhất. Điều kiện kinh tế của huyện nhìn chung khó khăn, dẫn tới việc tiếp cận
các dịch vụ y tế, giáo dục của bà con DTTS nói chung và trẻ em Kơ Ho nói riêng gặp
trở ngại, nghề CTXH vẫn chưa được quan tâm, đầu tư để có thể phát huy hết hiệu
quả.
71
Trong quá trình hoàn thiện nghề CTXH, huyện Lâm Hà cần quan tâm hơn đến
hoạt động truyền thông và vận động xã hội về nghề CTXH, về các dịch vụ CTXH
cho người dân nói chung, để các nhân viên, CTV nghề CTXH có thể trở thành những
địa chỉ thân quen và tin cậy để người dân có thể tìm đến khi gặp khó khăn.
Truyền thông cũng cần được lên kế hoạch cụ thể, có nội dung rõ ràng, bám sát
đối tượng muốn truyền đạt. Các nội dung của truyền thông về CTXH cần tập trung
vào các dịch vụ mà CTXH có thể mang lại, chức năng, nhiệm vụ của các Trung tâm
CTXH và các hoạt động mà Trung tâm thực hiện, cần truyền thông dể người dân
nắm được NVXH và các CTV CTXH là những ai? họ làm gì và vì sao họ làm những
điều đó? Đồng thời làm rõ các trường hợp, đối tượng được thụ hưởng các dịch vụ
CTXH. Và để truyền thông có hiệu quả, cần có phương thức truyền thông phù hợp.
Với đồng bào dân tộc Kơ Ho nếu truyền thông chung chung trên loa đài hoặc rải tờ
rơi có thể sẽ không được bà con lưu tâm, trong khi, nếu các cán bộ truyền thông gặp
gỡ trực tiếp bà con tại các buổi họp thôn, xã, thông qua già làng, trưởng bản để truyền
đạt bằng cả hai tiếng Việt và Kơ Ho hoặc tìm đến từng hộ gia đình, có các đặc điểm,
hoàn cảnh đặc biệt để tư vấn trực tiếp sẽ đạt được kết quả tốt hơn. Đối với bà con
DTTS truyền thông cần chọn lọc về ngôn ngữ, cách thức và nội dung truyền thông để
đảm bảo bà con có thể hiểu được nội dung muốn truyền đạt. Truyền thông cần đáp
ứng được việc mọi người dân Kơ Ho đều có thể hiểu và tiếp thu được, ngay cả với
các trường hợp không biết chữ hoặc có trình độ dân trí thấp.
Theo như kết quả điều tra, các hình thức truyền thông còn mang tính hình thức,
phiến diện, chưa có các cách thức phù hợp với đặc điểm của đồng bào DTTS. Do đó,
để truyền thông có hiệu quả, ngành CTXH cần lên kế hoạch cụ thể, ngoài hình thức
tuyên truyền chung chung trên loa, đài, đội ngũ nhân viên và CTV ngành CTXH có
thể xây dựng các hoạt động như diễn kịch vui, tiểu phẩm, lồng ghép trong các
chương trình biểu diễn hoạt động nghệ thuật tại cộng đồng để tuyên truyền và ngành
72
CTXH. Đối với một số địa bàn hay trường hợp đặc biệt, NVXH cần tổ chức đến nhà
thăm hỏi, cùng với trưởng thôn, già làng động viên, khuyến khích, tư vấn cho gia
đình hay thôn bản về các dịch vụ xã hội và nhiệm vụ của ngành CTXH để bà con
hiểu và tin tưởng. Bên cạnh truyền thông về các dịch vụ y tế, giáo dục, huyện cũng
cần truyền thông thêm về các hoạt động và dịch vụ CTXH để bà con biết và tìm đến
để yêu cầu được trợ giúp. Mặc dù dã được công nhận là một nghề chuyên nghiệp từ
năm 2010 nhưng không phải tất cả mọi người dân đều biết và hiểu rõ về nghề
CTXH, đặc biệt là cách thức tìm kiếm các dịch vụ CTXH, và trong đời sống hàng
ngày, bản thân các dịch vụ của ngành CTXH chưa phải là lựa chọn đầu tiên khi
người dân gặp những khó khăn cần được trợ giúp. Do đó, bên cạnh việc đẩy mạnh
tuyên truyền, vận động người dân nói chung và đồng bào DTTS nói riêng tham gia
sử dụng các dịch vụ CTXH, các nhân viên và CTV CTXH cần mang các dịch vụ đến
với người dân, và phương pháp hiệu quả nhất là trực tiếp gặp gỡ, tư vấn cho bà con
về các dịch vụ CTXH.
Ngoài ra các hoạt động truyền thông về ngành CTXH cần được lồng ghép thông
qua các hoạt động truyền thông của ngành liên quan, như luật pháp, giáo dục và y tế.
Cách thức này sẽ giúp cộng đồng dễ dàng liên tưởng và hiểu dễ hơn về lĩnh vực hoạt
động cũng như lợi ích mà CTXH mang lại. Truyền thông về CTXH có thể được lồng
ghép trong các chương trình truyền thông về khuyến nông, giảm nghèo, khuyến
học,tạo ấn tượng về mối liên quan giữa các lĩnh vực này đối với các dịch vụ mà
ngành CTXH cung cấp, để bà con dễ hiểu và liên tưởng hơn.
Song song với các hoạt động truyền thông, vận động xã hội, các ban ngành cần
đẩy mạnh hoạt động giáo dục về CTXH. Nhà trường cũng cần lồng ghép vào chương
trình dạy học các nội dung phổ biến kiến thức về các hoạt động CTXH, đồng thời
tuyên truyền về CTXH thông qua công việc mà các CTV hay NVXH đang thực hiện
tại trường, đây là cách tuyên truyền thông qua giáo dục về nghề CTXH. Trường học
73
và đội ngũ nhân viên và CTV cần phối hợp để mở rộng các dịch vụ hỗ trợ tại nhà để
bản thân trẻ ý thức được ngoài gia đình và nhà trường các em còn được một đội ngũ
những người làm nghề CTXH sẵn sàng can thiệp và trợ giúp nếu các em gặp
khó khăn, khiến các em yên tâm tiếp cận các dịch vụ về CTXH.
Tiểu kết chƣơng
Trong chương 3, tác giả đã nêu các định hướng và các giải pháp về chính
sách, về nguồn nhân lực CTXH và về các hoạt động truyền thông nhằm đẩy
mạnh và nâng cao hiệu quả của nghề CTXH nói chung cũng như hiệu quả của
các hoạt động trợ giúp trẻ em dân tộc Kơ Ho trong việc tiếp cận các dịch vụ
giáo dục và y tế nói riêng.
Hoạt động CTXH trong trợ giúp trẻ em Kơ Ho tiếp cận với các dịch vụ y
tế và giáo dục vẫn cần nhiều nỗ lực phối hợp hơn nữa từ các cấp chính quyền,
đoàn thể. Các chính sách cần chú trọng hơn đến việc tăng cường các hoạt
động trợ giúp về giáo dục và y tế để đảm bảo cho bà con DTTS nói chung và
trẻ em Kơ Ho nói riêng có thể tiếp cận và sửa dụng hiệu quả các dịch vụ y tế
và giáo dục.
Đội ngũ cán bộ, CTV làm CTXH là nhân tố quan trọng trong việc đem lại
hiệu quả cho các hoạt động CTXH, vì vậy, huyện Lâm Hà cần có kế hoạch
nâng cao chất lượng và số lượng nguồn nhân lực, để các nhân viên xã hội là
những người có chuyên môn và tâm huyết, tiếp xúc nhiều hơn và sâu sát hơn
hoàn cảnh các em nhỏ Kơ Ho để có kế hoạch trợ giúp cụ thể và hiệu quả.
Cuối cùng, huyện cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động, giáo
dục bà con DTTS nói chung và các hộ gia đình dân tộc Kơ Ho nói riêng về
các dịch vụ của ngành CTXH để bà con hiểu và tin tưởng tìm đến để được
giúp đỡ, tin tưởng gửi gắm con em cho các NVXH, để sự trợ giúp mang tính
hai chiều, hai bên cùng cố gắng.
74
KẾT LUẬN
Việt Nam có 54 dân tộc có ngôn ngữ, tín ngưỡng và truyền thống văn hóa
khác nhau. Trong đó, đồng bào DTTS thường sống theo làng bản của mình,
sử dụng ngôn ngữ của dân tộc mình, do đó, để hòa nhập với các dân tộc khác
và với cuộc sống hiện đại nói chung, còn gặp trở ngại. Về mặt dân số, Lâm
Đồng là một trong những tỉnh có đồng bào DTTS tập trung đông và đa dạng,
trong đó, huyện Lâm Hà là huyện có bà con DTTS tập trung đông nhất, đặc
biệt là bà con DTTS Kơ Ho. Ở đây, đa số bà con, những người chủ hộ gia
đình vẫn chưa biết tiếng Việt, quan niệm sống khá lạc hậu và ít quan tâm đến
đời sống bên ngoài làng bản của mình. Về mặt địa lý, mặc dù được Nhà nước
quan tâm đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng nhưng do địa hình một số nơi khá
hiểm trở, nên đường sá đi lại còn khó khăn, một số thôn, xã vẫn khá tách biệt,
khó tiếp cận được với đời sống hiện đại. Về mặt kinh tế, huyện Lâm Hà là
một trong những huyện có điều kiện kinh tế khó khăn nhất tỉnh, số hộ cận
nghèo và nghèo chiếm hơn 50%, đặc biệt với các hộ gia đình DTTS Kơ Ho,
tỷ lệ hộ nghèo cao, kinh tế chủ yếu dựa vào nông nghiệp, theo mùa vụ, còn
hạn chế trong áp dụng khoa học công nghệ, do vậy đời sống còn khó khăn.
Với những đặc điểm trên và do nhận thức còn hạn chế, bà con dân tộc Kơ
Ho nói chung và trẻ em Kơ Ho nói riêng gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp
cận các dịch vụ y tế và giáo dục. Tuy từ năm 2010, tỉnh đã có kế hoạch từng
bước chuyên nghiệp hóa nghề CTXH, nhưng các hoạt động hỗ trợ trẻ trong
giáo dục và y tế tại huyện còn rất nhiều hạn chế. Tỷ lệ trẻ không theo học
thường xuyên và tỷ lệ trẻ bỏ học cấp THCS cao và các hoạt động CTXH
không để lại tác động lan tỏa, nên không khắc phục triệt để được thực trạng.
Về y tế, chỉ có khoảng 50% trẻ được thăm khám thường xuyên và có hơn
20% số trẻ chưa bao giờ được thăm khám. Ở những thôn, xã, bản xa trạm y tế,
75
trẻ em DTTS nói chung và trẻ em Kơ Ho nói riêng không nhận được những
hỗ trợ thiết thực, không được quan tâm đúng mức. Các hoạt động hỗ trợ trẻ
em Kơ Ho trong tiếp cận về giáo dục và y tế còn mang tính hình thức, hạn chế
về cách thức, chưa đi sâu vào nhu cầu thực tế của trẻ, do đó, không mang lại
hiệu quả cũng như không được bà con đón nhận nhiệt tình và không nhận
được sự đánh giá cao từ phía bà con.
Những thiếu sót trong hoạt động hỗ trợ trẻ em Kơ Ho tiếp cận các dịch vụ
y tế và giáo dục do nhiều nguyên nhân khác nhau. Thứ nhất, đồng bào Kơ Ho
còn hạn chế về trình độ giáo dục và nhận thức, coi trọng các tập quán của dân
tộc, bởi vậy, chưa quan tâm, coi trọng việc học và xem nhẹ việc khám chữa
bệnh khi có bệnh, đồng thời do ngôn ngữ bất đồng, bà con ngại tiếp xúc với
các y tá, bác sỹ và giáo viên, dẫn tới việc không động viên con em đến trường
và tìm thầy lang khi có vấn đề về sức khỏe. Thứ hai, điều kiện kinh tế của
huyện còn nhiều khó khăn, các chính sách vẫn ưu tiên hỗ trợ bà con thoát
nghèo, giảm nghèo hơn là phát triển các dịch vụ CTXH, bởi vậy, đội ngũ
NVXH và CTV công tác xã hội chưa được đầu tư về chất lượng và số lượng.
Thứ ba, đội ngũ cán bộ NVXH và CTV công tác xã hội, một phần chưa có
trình độ chuyên môn tốt, một phần chưa thực sự tận tâm với nghề, nên ở một
số thôn bản, bà con phản ánh chưa bao giờ tiếp xúc hay nhận được bất kỳ sự
trợ giúp nào từ các NVXH. Thứ tư, công tác truyền thông về các dịch vụ
CTXH chưa được sâu rộng, các hình thức truyền thông chưa phát huy được
hiệu quả và không được lồng ghép với các hoạt động truyền thông về các dịch
vụ y tế và giáo dục, khiến các dịch vụ CTXH có mục tiêu hỗ trợ các dịch vụ y
tế và giáo dục thường bị bỏ qua. Do đó, có nhiều hộ gia đình hoàn toàn không
biết về các dịch vụ CTXH để tìn kiếm sự trợ giúp cho con em mình khi cần.
Bên cạnh đó, sự tham gia của các đoàn thể, ban ngành vào hoạt động trợ giúp
76
gần như không có, hoặc rất yếu ớt và phiến diện. Các hoạt động không được
triển khai đồng bộ, trẻ không được hưởng lợi cao nhất từ các hoạt động này.
Để khắc phục những thiếu sót trên, chính quyền huyện Lâm Hà cần đưa ra
những biện pháp, kế hoạch cụ thể:
Thứ nhất, đưa mục tiêu cải thiện việc tiếp cận các dịch vụ y tế, giáo dục
cho trẻ em Kơ Ho như là một trong những mục tiêu được ưu tiên, đồng bộ
hóa các hoạt động hỗ trợ, kêu gọi sự tham gia nhiệt tình của các hội, đoàn và
các cá nhân, tổ chức xã hội trong việc huy động nguồn lực. Thứ hai, dành một
phần ngân sách đầu tư cho việc cải thiện đội ngũ làm CTXH, nâng cao năng
lực chuyên môn và đạo đức nghề cũng như phát triển thêm về số lượng, đặc
biệt, đánh giá và chọn lọc, ưu tiên những người có thể nói được tiếng Kơ Ho.
Thứ ba, kết hợp các chính sách y tế, giáo dục với các chính sách của CTXH
để CTXH có thể tham gia, phối hợp chặt chẽ với hai ngành trên trong hoạt
động hỗ trợ trẻ tiếp cận các dịch vụ. Thứ tư, đẩy mạnh công tác truyền thông
và vận động xã hội, chú trọng phát triển theo chiều sâu, chú ý trong việc lựa
chọn các hình thức tuyên truyền phù hợp với đối tượng là đồng bào dân tộc
Kơ Ho. Thứ năm, đội ngũ những người làm CTXH cần khai thác năng lực, uy
tín và tầm ảnh hưởng của các già làng, trưởng thôn để tiếp cận sâu và có hiệu
quả hơn các hộ gia đình dân tộc Kơ Ho. Thứ sáu, mở rộng các hoạt động
CTXH theo hướng toàn diện, các hoạt động hỗ trợ cần mang tính cá nhân
hơn, không chỉ hỗ trợ theo hướng chung chung cho toàn cộng đồng, khó đánh
giá được kết quả tác động; trong khi các hộ gia đình dân tộc Kơ Ho thường
sống khép kín trong làng bản của mình, nói ngôn ngữ và theo văn hóa của
mình, việc tiếp xúc từng hộ gia đình hoặc chia nhóm nhỏ để tiếp cận có thể
giúp các NVXH đánh giá tốt hơn về các khó khăn mỗi gia đình và lên kế
hoạch trợ giúp hiệu quả.
77
Trẻ em DTTS nói chung và trẻ em dân tộc Kơ Ho nói riêng còn gặp rất
nhiều khó khăn về điều kiện kinh tế và điều kiện tiếp cận các dịch vụ y tế,
giáo dục, bởi vậy, các em rất cần được quan tâm, hỗ trợ. CTXH cần là trụ cột,
điều phối các hoạt động hỗ trợ để các em được tiếp cận tốt hơn với các dịch
vụ y tế và giáo dục. Các NVXH cần đảm nhận vai trò là người biện hộ, tham
vấn, kết nối,trợ giúp các em khi các em và gia đình có nhu cầu để đảm bảo
mọi trẻ em DTTS nói chung và trẻ em dân tộc Kơ Ho nói riêng được hưởng
mọi quyền lợi mà các em có để có thể phát triển toàn diện và trở thành những
công dân có ích cho gia đình và xã hội.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê Chí An, (1999), Nhập môn công tác xã hội cá nhân, khoa phụ nữ học
đại học mở bán công thành phố Hồ Chí Minh.
2. Báo cáo tóm tắt Đề tài nghiên cứu cấp Bộ (2012) “Đánh giá thực trạng
khả năng và cơ hội tiếp cận dịch vụ xã hội của nhóm người nghèo, đối
tượng dễ bị tổn thương, đặc biệt là tại các vùng sâu vùng xa, vùng dân
tộc thiểu số” của Viện Khoa học, Lao động và Xã hội
3. Vũ Ngọc Bình, (1998), Những điều cần biết về quyền trẻ em, Nxb Chính
trị Quốc gia Hà Nội.
4. Bộ Giáo dục và Đào tạo, (2017) Kế hoạch phát triển nghề công tác xã
hội trong nghành giáo dục giai đoạn 2017 – 2020” ban hành ngày
25/1/2017, Hà Nội
5. Bộ Lao động Thương Binh và Xã hội (1999), Trẻ em có hòan cảnh đặc
biệt khó khăn định hướng và phát triển, Nxb Lao động xã hội , Hà Nội.
6. Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, Viện Khoa học lao động (2012),
Đánh giá thực trạng khả năng và cơ hội tiếp cận dịch vụ xã hội của
nhóm người nghèo, đối tượng dễ bị tổn thương, đặc biệt là tại các vùng
sâu vùng xa, vùng dân tộc thiểu số, Đề tài nghiên cứu cấp Bộ.
7. Bộ Y tế (2011) Đề án “Phát triển nghề công tác xã hội trong ngành Y tế
giai đoạn 2011-2020” ban hành ngày 15/7/2011, Hà Nội
8. C. Mác - Ph.Ănghen: Toàn tập, Tập 3.
9. Bùi Thế Cường (2002), Chính sách xã hội và Công tác xã hội ở Việt
Nam thập niên 90, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
10. Công ước quốc tế về Quyền trẻ em năm 1989.
11. Nguyễn Nhiêu Cốc (1996), “Văn hóa dân tộc và cộng đồng đổi mới hiện
nay”, Tạp chí Dân tộc và Thời đại, số 23.
12. Cục bảo vệ chăm sóc trẻ em (2012), Tài liệu tập huấn công tác bảo vệ,
chăm sóc trẻ em.
13. Nguyễn Từ Chi (2003), Góp phần nghiên cứu văn hóa và tộc người, Nxb.
Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
14. Vũ Dũng (2000), Tâm lý học xã hội, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
15. Trương Minh Dục, (2008), Xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết dân
tộc ở Tây Nguyên, Nxb chính trị quốc gia.
16. Khổng Diễn (1995), Dân số và dân số tộc người, Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội.
17. Dự thảo “Luật hỗ trợ phát triển vùng dân tộc thiểu số và miền núi”.
18. Bùi Xuân Đính, (2012), Các tộc người Việt Nam, (Giáo trình), Nxb Thời
đại, Hà Nội.
19. Bùi Xuân Đính (2014), Tập bài giảng lớp cao học Công tác xã hội khóa
4 đợt 1/2013. Công tác xã hội với dân tộc thiểu số, Hà Nội.
20. Phạm Minh Hạc (2011), Về tâm lý giáo dục Việt Nam, tạp chí Nghiên cứu con
người số 1 năm 2011.
21. Nguyễn Thị Thanh Huyền (2015) “Hỗ trợ xã hội đối với người dân tộc thiểu
số từ thực tiễn xã Kim Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình”, Luận văn
thạc sĩ, Học viện khoa học xã hội.
22. Phan Thị Mai Hương (2007), Cách ứng phó của trẻ vị thành niên với
hoàn cảnh khó khăn, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
23. Tiêu Thị Minh Hường, Lý Thị Hàm, Bùi Thị Xuân Mai, Giáo trình tâm
lý học xã hội, Nxb Lao động xã hộiLưu Quang Tuấn, Đặng Đỗ Quyên,
Nguyễn Thị Hải Yến, 2013, về “An sinh xã hội cho dân tộc thiểu số –
Tổng quan từ chính sách, nghiên cứu và dữ liệu sẵn có” của Viện Khoa
học , Lao động và xã hội
24. Đặng Cảnh Khanh (2003), Đoàn TNCS Hồ Chí Minh với công tác chăm
sóc, giáo dục trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, Nxb Thanh niên,
Hà Nội.
25. Đặng Cảnh Khanh, (2006), Nguồn nhân lực trẻ các dân tộc thiểu số
những phân tích xã hội học, Nxb Thanh niên.
26. Đỗ Long – Đức Uy, Tâm lý học dân tộc, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội.
27. Bùi Thị Xuân Mai (chủ biên), Giáo trình nhập môn công tác xã hội, Nxb
Lao động xã hội.
28. Nhóm tác giả Tổ Công tác xã hội - Khoa Xã hội và Nhân văn trường Cao
đẳng Sư phạm Trung ương (2012), Công tác xã hội trong trợ giúp trẻ có
hoàn cảnh khó khăn hòa nhập học đường”.
29. PAHE – Trung tâm nghiên cứu y tế và phát triển cộng đồng (2016)
“Những vấn đề công b ng sức khỏe của người dân tộc thiểu số ở việt
Nam” – Báo cáo số 3
30. Phạm Văn Quyết và Nguyễn Quý Thanh, Phương pháp nghiên cứu xã
hội học, NXB đại học quốc gia Hà Nội.
31. Lê Thị Quý, (2011), Xã hội học gia đình, Nxb chính trị hành chính
32. Ríah Nhô, 2018, về “Hoạt động phát triển cộng đồng trong giảm nghèo
đối với người dân tộc thiểu số từ thực tiễn xã Ch’ơm huyện Tây Giang,
tỉnh Quảng Nam”,
33. Sở Lao động tỉnh Lâm Đồng, (2010), “Đề án phát triển nghề công tác xã hội
tại tỉnh Lâm Đồng giai đọan 2010 – 2020”
34. Tạ Thị Tiệp, 2014, về “Công tác xã hội với tình trạng bỏ học của học
sinh dân tộc thiểu số - nghiên cứu trường hợp tại xã Đăk Jơ Ta, huyện
Mang Yang, tỉnh Gia Lai”
35. Trần Đình Tuấn (2010), Công tác xã hội lý thuyết và thực hành, NXB
Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội
36. Vương Xuân Tình - Trần Văn Hà (Đồng chủ nhiệm, 2005), Tác động của đô
thị hóa đến sự biến đổi kinh tế - xã hội ở các tộc người vùng miền núi phía
Bắc , 1986 - 2004, Báo cáo tổng hợp đề tài cấp cơ sở, Viện Dân tộc học, Hà
Nội.
37. Hà Thị Thư, (2012), Kỹ năng công tác xã hội nhóm của sinh viên ngành
CTXH, Nxb từ điển bách khoa.
38. Nông Thị Phương Thảo, 2012, về “Công tác xã hội với người dân tộc
thiểu số về bảo hiểm y tế từ thực tiễn tỉnh Lạng Sơn”
39. Vũ Thanh Thủy, 2017, về “Công tác xã hội nhóm đối với sinh viên dân
tộc thiểu số từ thực tiễn trường Cao đẳng sư phạm Lào Cai”
40. Thủ tướng Chính phủ (2010), Quyết định phê duyệt đề án Phát triển nghề
công tác xã hội giai đoạn 2010 – 2020 (khái niệm, vai trò và nhiệm vụ của
nghề công tác xã hội), số 32/2010/QĐ – TTg.
41. Thủ tướng Chính phủ (2017), « Quyết định số 1898/QĐ-TTg về việc phê
duyệt chính sách đặc thù hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu
số và miền núi giai đoạn 2017 – 2020”
42. Lê Xuân Trình, (2015), “Quyền của người dân tộc thiểu số theo quy định
của luật pháp quốc tế và Việt Nam”, Luận văn thạc sĩ Luật, ĐH Quốc
gia Hà Nội
43. Trường Đại học Lao động - Xã hội (2007), Giáo trình Tâm lý học phát
triển, Nxb Lao động - Xã hội, Hà Nội.
44. Viện Dân tộc học (1978), Các dân tộc ít người ở Việt Nam các tỉnh phía
Bắc, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
45. Trần Quốc Vượng (1996), “Đôi điều về văn hoá Mường”, Tạp chí Dân tộc
và Thời đại, số 23.
46. https://congtacxahoi.net
PHỤ LỤC
PHỤ LỤC 1
PHIẾU KHẢO SÁT HỘ GIA ĐÌNH
CÓ TRẺ TRONG ĐỘ TUỔI ĐI HỌC
BẢNG HỎI DÀNH CHO GIA ĐÌNH TRẺ
Thông tin Ông/bà cung cấp cho chúng tôi, chỉ nhằm mục đích nghiên cứu và đảm
bảo tính bí mật. Đề nghị Ông/bà cung cấp thông tin một cách đầy đủ, chính xác
cho các câu hỏi dưới đây bằng cách viết phần trả lời hoặc khoanh tròn/ đánh dấu
X vào các phương án trả lời phù hợp mà phiếu đã cung cấp.
PHẦN I: THÔNG TIN CHUNG
1. Họ và tên người trả lời: ........................................... Tuổi .............................
3. Giới tính: Nam Nữ
4. Địa chỉ của gia đình: .......................................................................................
5. Trình độ học vấn của người trả lời:
Không biết chữ Tiểu học Trung học
Trung cấp Cao đẳng Đại học và trên đại học
6. Số thành viên trong hộ: ................................
7. Số lao động chính hiện tại: ..........................
8. Thu nhập trung bình/tháng của hộ: .............................
9. Gia đình có bao nhiêu người trong độ tuổi đi học (3-22 tuổi):
...............................
10. Gia đình thuộc đối tượng:
Hộ nghèo
Hộ cận nghèo
Gia đình có trẻ khuyết tật
Khác (ghi rõ)
PHẦN II: CÂU HỎI
Câu 1: Các con của ông/bà đang đi học theo trình độ nào?
a. Tiểu học
b. Trung học cơ sở
c. Trung học phổ thông
d. Đai học
e. Trên đại học
Câu 2: Các con của ông/bà có theo học thường xuyên không?
a. Có
b. Không
Câu 3: Theo ông/bà yếu tố chủ yếu ảnh hưởng đến việc các con không đi học
thường xuyên là gì?
a. Làm việc nhà giúp cha mẹ
b. Giao thông không thuận tiện
c. Không cần thiết phải học
d. Các yếu tố khác:
..
Câu 4: gia đình có nhận được hỗ trợ từ các nhân viên xã hội trong tiếp cận giáo dục
không?
a. Thường xuyên
b. Thỉnh thoảng
c. Chưa bao giờ
Câu 5: các nhân viên xã hôi hỗ trợ con em trong gia đình tiếp cận các dịch vụ xã hội
thông qua các hình thức nào?
a. Tuyên truyền, vận động, tư vấn về các dịch vụ giáo dục và cách tiếp cận các
dịch vụ giáo dục tại các địa điểm sinh hoạt chung của cộng đồng
b. Tuyên truyền, vận động, tư vấn về các dịch vụ giáo dục và cách tiếp cận các
dịch vụ giáo dục tại nhà
c. Hỗ trợ các em học tập tại nhà
d. Trực tiếp hỗ trợ đưa các em đến trường hàng ngày
e. Hỗ trợ việc học tập tại trường
f. Khác(xin nêu rõ)
Câu 6: Ông/bà đánh giá thế nào về các dịch vụ giáo dục tại địa phương?
Rất tốt Tốt Bình
thường
Kém Rất kém
Cơ sở vật chất
Giáo viên
Các dịch vụ dành
cho học sinh
Câu 7: Ông/bà có thể cho biết mức độ hài lòng về các hỗ trợ trong việc tiếp cận các
dịch vụ giáo dục mà gia đình nhận được từ các nhân viên xã hội ?
a. Rất hài lòng
b. Hài lòng
c. Không hài lòng
Câu 8: Trong gia đình trẻ được thăm khám về y tế?
a. Thường xuyên
b. Không thường xuyên
c. Chưa bao giờ
Câu 9: Ông/bà có gặp khó khăn trong việc cho con em mình tiếp cận các dịch vụ y
tế không?
a. Không
b. Có
Nếu có thì đó là những khó khăn gì?...................................................................
.....
Câu 10: Những hỗ trợ nào gia đình được nhận từ các nhân viên xã hội liên quan đến
các dịch vụ y tế?
a. Tuyên truyền, vận động và tư vấn về các dịch vụ y tế và cách tiếp cận các
dịch vụ y tế tại các địa điểm sinh hoạt chung của cộng đồng
b. Tuyên truyền, vận động và tư vấn về các dịch vụ y tế và cách tiếp cận các
dịch vụ y tế tại nhà
c. Hỗ trợ trực tiếp trong việc tiếp cận các dịch vụ y tế (cấp phát dụng cụ, thuốc
men, đưa đi thăm khám.)
d. Tư vấn về cách phòng các bệnh cơ bản
e. Tư vấn về cách chăm sóc sức khỏe, vệ sinh cá nhân
f. Khác
Câu 11: Ông/bà đánh giá thế nào về các dịch vụ y tế tại địa phương?
Rất tốt Tốt Trung
bình
Kém Rất kém
Cơ sở vật chất
Đội ngũ y bác sỹ
Quy trình khám chữa
bệnh
Hiệu quả của hoạt
động khám chữa bệnh
Câu 12: Ông/bà có thể cho biết mức độ hài lòng về các hỗ trợ trong việc tiếp cận
các dịch vụ y tế mà gia đình nhận được từ các nhân viên xã hội ?
d. Rất hài lòng
e. Hài lòng
f. Không hài lòng
Câu 13: Ông/bà có ý kiến gì về các hoạt động trợ giúp trong tiếp cận các dịch vụ y
tế và giáo duc cho con em mình không? Xin hãy ghi rõ
..
Xin chân thành cảm ơn ông/bà!
PHỤ LỤC 2
PHIẾU PHỎNG VẤN SÂU LÃNH ĐẠO HUYỆN LÂM HÀ
(Phỏng vấn sâu dành cho lãnh đạo huyện Lâm Hà )
A.Thông tin cá nhân:
1. Họ và tên: .....................................................Chức vụ:............................
2. Năm sinh:..............................................................
3. Thời gian công tác: ......................................................................................
B. Nội dung phỏng vấn
Câu 1. Xin ông/bà cho biết số hộ gia đình dân tộc thiểu số Ko Ho hiện nay tại
huyện Lâm Hà?
Câu 2. Ông/bà có thể tóm tắt một số đặc điểm chủ yếu về dân tộc Kơ Ho hiện
đang sinh sống trên địa bàn huyện không?
Câu 3. Theo ông/bà các hộ gia đình dân tộc Kơ Ho hiện đang sinh sống trên
địa bàn huyện đang gặp những khó khăn gì?
Câu 4. Xin ông/bà cho biết tỷ lệ % trẻ em trong độ tuổi đi học (3-22 tuổi) bỏ
học? Và huyện có các biện pháp nào để vận động để các em trở lại trường?
Câu 5. Huyện có chính sách ưu đãi nào để khuyến khích trẻ em dân tộc Kơ
Ho và gia đình đưa trẻ đến trường không?
Câu 6. Xin ông/bà cho biết tỷ lệ % trẻ em dân tộc Kơ Ho trên 6 tuổi có
BHYT?
Câu 7. Theo ông/bà các cơ sở y tế trên địa bàn huyện đã đáp ứng tốt nhu cầu
khám chữa bệnh chưa?Đối với trẻ em dân tộc Kơ Ho huyện có chính sách ưu
đãi nào trong sử dụng các dịch vụ y tế không?
Câu 8. Xin ông/bà cho biết huyện đã triển khai các nội dung nào của Đề án 32
về nghề CTXH trên địa bàn huyện? Huyện hiện có mạng lưới CTV công tác
xã hội chưa?
Câu 9. Theo ông/bà công tác hỗ trợ trẻ em dân tộc Kơ Ho trong việc tiếp cận
các dịch vụ y tế, giáo dục đang gặp phải những khó khăn gì? Nếu có thì
phương hướng thóa gỡ những khó khăn này là gì?
Xin trân trọng cảm ơn!
PHỤ LỤC 3
PHIẾU KHẢO SÁT
(Phỏng vấn sâu dành cho cán bộ ban Dân tộc huyện Lâm Hà )
A.Thông tin cá nhân:
1. Họ và tên: ....................................................
.Chức vụ:.....................................
2. Năm sinh:...............................................................
3. Thời gian công tác:
...............................................................................................
B. Nội dung phỏng vấn
Câu 1. Xin ông/bà cho biết tình hình chung về dân tộc Kơ Ho hiện đang sinh
sống trên địa bàn huyện hiện nay?
Câu 2. Theo ông/bà khó khăn chủ yếu mà các hộ gia đình dân tộc Kơ Ho hiện
đang gặp phải là gì?
Câu 3. Theo ông/bà nguyên nhân chủ yếu dẫn đến việc trẻ em Kơ Ho bỏ học
là gì? Và ông/bà có thể đưa ra một số giải pháp khắc phục tình trạng này
không?
Câu 4. Theo ông/bà trở ngại nào khiến trẻ em dân tộc Kơ Ho có thể gặp khó
khăn khi tiếp cận với các dịch vụ y tê? Ông/bà có thể đưa ra một số giải pháp
để khắc phục tình trạng này không?
Câu 5. Theo ông/bà nhân viên xã hội cần trang bị cho bản thân các kỹ năng,
kiến thức , chuyên môn gì để có thể hỗ trợ trẻ em dân tộc Kơ Ho một cách
hiệu quả trong việc tiếp cận các dịch vụ y tế và giáo dục?
Câu 6. Theo ông/bà các cấp lãnh đạo cần có các chủ trương chính sách gì
trong thời gian tới để thúc đẩy việc tiếp cận các dịch vụ y tế, giáo dục của trẻ
em Kơ Ho?
Xin trân trọng cảm ơn!
PHỤ LỤC 4
PHIẾU KHẢO SÁT
(Phỏng vấn sâu dành cho cán bộ hội phụ nữ huyện Lâm Hà )
A.Thông tin cá nhân:
1. Họ và tên:....................................................
Chức vụ:.....................................
2.Nămsinh:....................................................
3. Thời gian công tác:............................................................................
B. Nội dung phỏng vấn
Câu 1. Xin bà cho biết trong thời gian vừa qua Hội đã có những hoạt
động/phòng trào nào liên quan đến các gia đình dân tộc Kơ Ho và kết quả mà
các hoạt động/phòng trào này đem lại?
Câu 2. Xin bà cho biết Hội có thường xuyên nhận được các yêu cầu được tư
vấn/tham vấn liên quan đến các dịch vụ giáo dục, y tế từ các gia đình dân tộc
Kơ Ho không?
Câu 3. Xin bà cho biết các hoạt động tư vấn,tham vấn về tiếp cận các dịch vụ
giáo dục.y tế của Hội thường được thực hiện dưới hình thức nào và hiệu quả
của các hoạt động này?
Câu 4. Xin bà cho biết Hội có thường xuyên liên kết chặt chẽ với mạng lưới
CTV công tác xã hội không? Nếu có, Hội và mạng lưới CTV được tổ chức
phối hợp như thế nào và có đem lại hiệu quả không?
Câu 5. Theo bà khó khăn của trẻ em dân tộc Kơ Ho trong việc tiếp cận các dịch vụ
y tế, giáo dục là gì và nên có các biện pháp gì để khắc phục những khó khăn này?
Câu 6. Theo bà các cấp lãnh đạo huyện cần có các phương hướng. chính sách,
chủ trương gì để khuyến khích trẻ em Kơ Ho đến trường và hỗ trợ các em tiếp
cận tốt hơn với các dịch vụ y tế?
Xin trân trọng cảm ơn!
PHỤ LỤC 5
PHIẾU KHẢO SÁT
(Phỏng vấn sâu dành cho trưởng thôn)
A.Thông tin cá nhân:
1. Họ và tên: .....................................................
Chức vụ:.....................................
2. Năm sinh:....................................................
3. Thời gian công tác: ...........................................................................
B. Nội dung phỏng vấn
Câu 1. Xin ông cho biết trong thôn có bao nhiêu gia đình dân tộc Kơ Ho?
Trong đó có bao nhiêu gia đình đang có con trong độ tuổi đi học (3-22 tuổi)?
Câu 2. Xin ông cho biết sơ bộ hoàn cảnh của các hộ gia đình dân tộc Kơ Ho
trong bản (điều kiện kinh tế, nguồn thu nhập, số con.)?
Câu 3. Theo ông các gia đình dân tộc Kơ Ho có cái nhìn ra sao về việc cho
con em đi học? Yếu tố nào ảnh hưởng đến quan niệm trên?
Câu 4. Trẻ em dân tộc Kơ Ho và gia đình có thường xuyên nhận được các hỗ trợ
từ hội phụ nữ, nhân viên xã hội về tiếp cận các dịch vụ giáo dục không? Nếu có
các hình thức hỗ trợ này được thực hiện ra sao và có đem lại hiệu quả không?
Câu 5. Trẻ em dân tộc Kơ Ho trên 6 tuổi tại bản có BHYT đầy đủ không?
Trong trường hợp có trẻ trên 6 tuổi chưa có BHYT thì vì lý do gì?
Câu 6. Trẻ em dân tộc Kơ Ho và gia đình trong bản có được thăm khám, phổ
biến các kiến thức chăm sóc sức khỏe, vệ sinh, phòng bệnh thường xuyên
không? Các hình thức tuyên truyền, hỗ trợ này thường được thực hiện như thế
nào và có đem lại hiệu quả không?
Câu 7. Theo ông để việc hỗ trợ tiếp cận các dịch vụ giáo dục, y tế đạt được
hiệu quả tốt nhất thì các hội,ban ngành liên quan cần có những biện pháp gì?
Câu 8. Là người đứng đầu bản ông có tâm nguyện, mong muốn gì cho trẻ em
dân tộc Kơ Ho, đặc biệt ở khía cạnh giáo dục và y tế?
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_van_cong_tac_xa_hoi_trong_ho_tro_ve_giao_duc_va_y_te_do.pdf