Việt Nam đang dần có những biến chuyển tích cực trên tất cả các lĩnh vực của
đời sống xã hội, đặc biệt là trong kinh tế. Trong khi kinh tế thế giới có nhiều bất ổn,
nhiều nền kinh tế lớn có biểu hiện suy thoái thì nước ta lại giữ vững được mức tăng
trưởng khá cao 7%. Cả nước đang hăng hái thi đua, quyết tâm hoàn thành tốt các mục
tiêu mà Đảng và nhà nước đề ra, nhằm mục tiêu hoàn thành Công nghiệp hóa- Hiện
đại hóa đưa đất nước tiến vào kinh tế tri thức, thu hẹp dần khoảng cách với các nước
phát triển trong quá trình toàn cầu hóa.
24 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2250 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại và sự hình thành nền kinh tế tri thức - Định hướng của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Cuộc cách mạng khoa học và
công nghệ hiện đại và sự hình
thành nền kinh tế tri thức. Định
hướng của Việt Nam.
Lời nói đầu
Lịch sử phát triển của xã hội loài người đã trải qua nhiều hình thái kinh tế, từ
kinh tế tự nhiên mang nặng tính chất tự cung tự cấp đến kinh tế thị trường với vai trò
chủ đạo của phân công lao động và trao đổi hàng hóa. Và trong những năm gần đây,
người ta lại nhắc nhiều đến thuật ngữ “kinh tế tri thức”, đó phải chăng là một bước
phát triển mới trong việc tổ chức kinh tế của xã hội loài người?
Francis Bacon đã nhận định rằng: “Tri thức là sức mạnh”. Sự thực là, sự phát
triển có tính chất bùng nổ của lực lượng sản xuất trong những năm gần đây, đặc biệt là
ở các nước phát triển, dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện
đại, đang làm xuất hiện một hình thái kinh tế mới dựa chủ yếu trên việc sản xuất, phân
bổ và sử dụng tri thức. Nhiều người gọi đó là “kinh tế tri thức”. ở Bắc Mĩ và một số
nước Tây Âu, kinh tế tri thức bắt đầu được hình thành từ đầu những năm 90 của thế kỉ
XX. Hiện nay ở những nước này, kinh tế tri thức đã chiếm khoảng 45% - 60% GDP.
Người ta ước tính đến khoảng năm 2030 các nước phát triển đều trở thành các nền
kinh tế tri thức.
Vậy nền kinh tế tri thức thực chất là như thế nào? Đâu là tiêu chuẩn để xác định
một nền kinh tế tri thức? Và sự hình thành nền kinh tế mới này có tác động như thế
nào đến nền kinh tế Việt Nam vốn đi lên từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, đang
trong quá trình đổi mới? Đó là vấn đề được rất nhiều người Việt Nam quan tâm.
Là sinh viên của một trường thuộc khối kinh tế, em chọn đề tài: “ Cuộc cách
mạng khoa học và công nghệ hiện đại và sự hình thành nền kinh tế tri thức. Định
hướng của Việt Nam.” làm đề tài cho đề án của mình với mong muốn có được hiểu
biết sâu sắc hơn, có phần nền lí luận để góp phần vào công cuộc xây dựng đất nước
sau này. Đề án được thực hiện trên cơ sở phương pháp phân tích – tổng hợp các lí luận
và có đưa ra các ví dụ thực tế, đồng thời có tham khảo một số sách báo có nội dung
liên quan.
Nội dung
I. Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại – Yếu tố tiền đề chủ yếu
của kinh tế tri thức
Các Mác từng nói: “ Khoa học là tinh hoa của tiến trình phát triển chung của
lịch sử. Hơn thế nữa, đó là đòn bẩy mạnh mẽ của lịch sử, là một lực lượng cách mạng,
theo ý nghĩa chính xác nhất của từ đó”. Lịch sử phát triển của xã hội loài người đã
chứng minh điều đó là đúng.
Ngay từ thế kỉ XVII, khoa học đã từng bước đưa ngành trồng trọt chăn nuôi trở
thành cốt lõi của nền kinh tế nông nghiệp, phát triển chủ yếu dựa vào tài nguyên thiên
nhiên. Đến giữa thế kỉ XVII, nền kinh tế công nghiệp bắt đầu được hình thành. Từ đó
đã có hai cuộc cách mạng công nghiệp nổ ra nhờ sự phát triển vượt bậc của khoa học
kĩ thuật, được đánh dấu bằng sự ra đời của máy hơi nước và máy phát điện. Và đặc
biệt, với cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật đầu thế kỉ XX, loài người đã đi sâu nghiên
cứu thế giới từ vi mô đến vĩ mô, tất cả những sự vật nằm ngoài khả năng quan sát của
giác quan con người. Hàng loạt những phát kiến vĩ đại về phân tử, nguyên tử, hạt
nhân, các hạt cơ bản... đến những hiểu biết về vũ trụ: các vì sao, thiên hà, đại thiên hà,
sự giãn nở của vũ trụ... Người ta ước tính rằng trong thế kỉ XX toàn bộ lượng thông
tin, tri thức tăng thêm khoảng 1000 lần so với đầu thế kỉ và vượt trội tất cả các tri thức
mà loài người tích lũy được trong suốt lịch sử phát triển từ thế kỉ XIX trở về trước.
Cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật đó tất yếu sẽ dẫn đến cuộc cách mạng về lực lượng
sản xuất mà ngày nay chúng ta gọi là cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại,
bắt đầu vào khoảng từ sau đại chiến thế giới lần thứ hai.
Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại được mở đầu bằng công nghệ
thông tin (CNTT). CNTT là nhân lõi của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện
đại, nó phản ánh giai đoạn phát triển mới về chất của sản xuất trong đó hàm lượng trí
tuệ là thành phần chủ yếu trong sản phẩm.
CNTT bao gồm từ phần cứng như chế tạo các mạch vi điện tử, các máy vi tính,
máy siêu tính... các dây chuyền sản xuất tự động hóa, các thiết bị ngoại vi cho đến các
phần mềm ứng dụng và các phần mềm hệ thống. Một phần quan trọng nữa trong
CNTT phải kể đến là các loại thiết bị viễn thông, điện tử công nghiệp, điện tử tiêu
dùng... Mạng máy tính và internet đã và đang trở thành hệ thống huyết mạch quan
trọng trong mọi hoạt động kinh tế, văn hóa – xã hội. Năm 1993 đã có 1 triệu người nối
mạng, đến tháng 3 – 2000 số người dùng đã lên tới 280 triệu. Rõ ràng là mạng internet
không còn là một phương tiện kĩ thuật thuần túy mà đã thành một môi trường mới cho
mọi hoạt động của con người và có tác động rất lớn đến sự chuyển biến nhanh chóng
của đời sống con người trên khắp hành tinh.
Thứ đến là công nghệ sinh học (CNSH), đây là một bước đột phá vào thế giới
đầy bí ẩn của sự sống. Nó bắt đầu bằng việc khám phá ra các phân tử hình xoắn kép
(ADN). Công nghệ cao này đã tạo ra một tiềm năng vô tận cho sản xuất ra các loại
lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh và các vật liệu công nghiệp nhằm đáp ứng
nhu cầu ngày càng cao của con người.
Cùng với CNTT và CNSH là một loạt các công nghệ cao khác: công nghệ vật
liệu mới, công nghệ năng lượng công nghệ hàng không – vũ trụ... Nhiều loại vật liệu
mới với các tính năng ưu việt không thể tìm thấy trong tự nhiên đã được tạo ra: vật
liệu tổ hợp, vật liệu com-pô-zit, các chất bán dẫn... Nhiều nguồn năng lượng mới được
tạo ra để thay thế các nguồn năng lượng tự nhiên sắp cạn kiệt, đặc biệt là năng lượng
nguyên tử. Đáng chú ý là công nghiệp hàng không-vũ trụ với triển vọng đưa con
người đến với các hành tinh khác trong vũ trụ....
Nhờ các công nghệ cao đó, nền kinh tế thế giới đạt mức tăng trưởng chưa từng
có. Ngày nay, tổng sản phẩm của thế giới ước tính khoảng 30.000 tỉ USD nghĩa là gấp
khoảng 123 lần so với tổng sản phẩm thế giới những năm 50 (1300 tỉ USD). Có thể
nói, bộ phận cách mạng nhất tạo ra ngày càng nhiều giá trị thặng dư của lực lượng sản
xuất to lớn của loài người ngày nay là khoa học công nghệ. Các Mác đã dự báo rằng
khoa học sẽ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp và đã trở thành hiện thực. Chính
điều đó đã tạo tiền đề cho sự hình thành kinh tế tri thức.
II. Một số vấn đề chung về nền kinh tế tri thức
1. Khái niệm kinh tế tri thức
Kinh tế tri thức là một sản phẩm trực tiếp của cuộc cách mạng khoa học và
công nghệ hiện đại. Nền kinh tế đó đang dần được hình thành, có nhiều tên gọi khác
nhau nhưng phổ biến hơn cả là thuật ngữ “kinh tế tri thức”(knowledge economy) hay
“kinh tế dựa trên tri thức”(knowledge based economy).
Theo cách định nghĩa của tổ chức quốc tế về hợp tác và phát triển kinh tế (viết
tắt là OECD): Kinh tế tri thức là một dạng hình kinh tế trong đó sự sản sinh, phổ cập
và sử dụng tri thức giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển của nền kinh tế
nhằm tạo ra của cải vật chất, nâng cao chất lượng cuộc sống con người.
Cũng có thể định nghĩa đơn giản hơn: Kinh tế tri thức là nền kinh tế trong đó
khoa học, kĩ thuật và công nghệ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, là yếu tố hàng
đầu quyết định việc sản xuất ra của cải, sức cạnh tranh và triển vọng phát triển.
Như vậy trong nền kinh tế tri thức, vấn đề không chỉ ở việc tạo ra tri thức, mà
phải thu nhận, sử dụng và truyền bá tri thức. Kinh tế tri thức không chỉ bao hàm duy
nhất các lĩnh vực lao động với công nghệ cao, sử dụng lao động có tri thức và lao
động có kĩ năng cao là chính, mà còn quá trình tri thức xâm nhập và chi phối tất cả
mọi hoat động kinh tế. Nghĩa là không phải tất cả các ngành đều phải dựa trên nền
tảng công nghệ kĩ thuật cao, song điều chắc chắn là tất cả các ngành đều hoạt động
dưới sự chi phối của tri thức. Tóm lại, tri thức vừa là nội dung vừa lầ động lực của nền
kinh tế.
Có thể hình dung một cách cụ thể về nền kinh tế tri thức thông qua bảng so
sánh sau:
Stt
Hình thái
kinh tế Đặc
Hình thái thứ
nhất
Hình thái thứ hai
(Kinh tế tài
Hình thái thứ ba
(Kinh tế thị
trưng
(Kinh tế sức
người)
nguyên) trường)
1 Định vị
trong sơ đồ
Kinh tế tự nhiên,
tương đương với
nền kinh tế nông
nghiệp và xã hội
nông dân cổ
truyền.
Hình thái thị trường,
tương đương với
nền kinh tế thị
trường của đại công
nghiệp cơ khí và Xã
hội công nghiệp.
Hình thái Cộng
sản chủ nghĩa
(CSCN), tương
đương với nền
kinh tế có tốc độ
phát triển cao và
xã hội tự do chân
chính.
2 Phương thức
tồn tại
Tự cấp tự túc,
khép kín trong
từng cộng đồng
riêng biệt.
Phân công lao động
và trao đổi bị giới
hạn bởi các biên
giới địa phương,
quốc gia.
Phân công và
trao đổi phổ biến
thông qua mạng
kiên kết toàn cầu
không biên giới.
3 Lợi thế phát
triển chủ yếu
Tài nguyên thiên
nhiên
Công cụ kĩ thuật Tri thức của con
người (Khoa học
– Công nghệ), kĩ
năng lao động.
4 Tầm quan
trọng của
khoa học
Nhỏ Lớn Rất lớn
5 Tỷ lệ đóng
góp của khoa
học - công
Dưới 10% Trên 40 % Trên 70%
nghệ cho
tăng trưởng
kinh tế
6 Tầm quan
trọng của
giáo dục
Nhỏ Lớn Rất lớn
7 Bình quân
trình độ văn
hóa
Tỷ lệ mù chữ cao Trung học Trung học
chuyên nghiệp
8 Kết cấu công
nghệ:
- Công nghệ
thông tin
3 -5% 15%
-Công nghệ
sinh học
2% 10%
-Công nghệ
năng lượng
2% 10%
-Công nghệ
biển
2% 10%
- Công nghệ
sạch
1% 5%
- Công nghệ
vật liệu mới
1% 5%
- Công nghệ
không gian
5%
Công nghệ
mềm
5%
9 Vai trò của
truyền thống
Không lớn Lớn Rất lớn
10 Kết cấu sức
lao động:
- Nông
nghiệp
Trên 50% 10 – 20% Dưới 10%
- Công
nghiệp
Khoảng 15 -20% Trên 30% Dưới 20%
- Công nghệ
cao
10 -15% Trên 40%
11 Trình độ tổ
chức xã hội
Đơn giản Phức tạp Rất phức tạp
12 Mức độ toàn
cầu hóa kinh
tế thế giới
Thấp Khá cao Rất cao
2. Một số phạm trù trong kinh tế thị trường
Mỗi một hình thái kinh tế mới ta đời đều có những phạm trù kinh tế riêng đặc
trưng cho nó. Đối với nền kinh tế tri thức, chúng ta có thể tìm hiểu một số phạm trù
sau đây.
Thông tin và tri thức:
- Đây là hai nguồn lực chủ yếu của kinh tế tri thức. Vấn đề đặt ra là phải
phân biệt hai phạm trù này vì như John Naribett nói: “ Chìm ngập trong thông tin mà
vẫn thiếu tri thức”.
+ Thông tin là dữ liệu được xếp thành trật tự có nghĩa, có thể thu nhận được, có
thể dùng hoặc không.
+ Tri thức là thông tin đã được thu thập, xử lí và nhận thức, là việc áp dụng và
sử dụng một cách có ích các thông tin.
Theo quan điểm triết học, tri thức được hiểu là kết quả của quá trình nhận thức,
là phản ánh trung thực của thực tiễn vào tư duy con người, tính đúng đắn của nó thể
hiện bằng sự kiểm nghiệm thực tế, đồng thời phù hợp với các nguyên lí của lí luận về
nhận thức trên cơ sở phương pháp duy vật biện chứng.
- Thông tin là nội dung của tri thức được truyền đạt nhưng khi tri thức
được hệ thống hóa lại trở thành thông tin. Thông tin là đầu vào của quá trình sản xuất
ra tri thức.
Sản phẩm tri thức:
Tri thức là sản phẩm của lao động, là biểu hiện cụ thể về năng lực tư duy mà
chỉ duy nhất loài người mới có. Sản phẩm tri thức có nhiều tính chất đặc biệt khác với
vật thể thông thường:
- Vì tri thức thuộc phạm trù tinh thần nên nó luôn được mang, chứa trong
những hình thức hiện vật nhất định: bộ nhớ trong não, băng từ, đĩa...
- Đối với sản phẩm thông thường, người mua có quyền sở hữu về nó,
nghĩa là có quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt. Còn đối với sản phẩm tri thức,
người mua chỉ có quyền sở hữu vật mang nó và có quyền sử dụng đối với nội dung tri
thức. Đặc tính này có nguồn gốc sâu xa ở chỗ chỉ duy nhất con người mới có khả năng
tư duy.
- Quá trình tiêu dùng sản phẩm tri thức dù là tiêu dùng sản xuất hay tiêu
dùng cho cá nhân, nói chung đều mang tính chất cuả một quá trình nghiên cứu, học
tập và trực tiếp hoàn thiện sản phẩm tri thức đó. Đôi khi người tiêu dùng còn phát hiện
ra tính năng mà chính tác giả của nó không ngờ tới.
- Việc sản xuất ra các loại sản phẩm tri thức thường tạo ra giá trị gia tăng
rất lớn. Đây là một đặc điểm tạo nên ưu thế vượt trội của sản phẩm tri thức so với các
sản phẩm thông thường khác. Chẳng hạn E. Sanchez và D. Mync sản xuất bộ phim “
Đồ án Blair Witch” bằng kĩ thuật số, phát hành trên internet, chỉ riêng trong nước Mĩ
đã thu được 140 triệu USD, và chỉ với chi phí 500.000 USD, nghĩa là có tỷ suất lợi
nhuận 280. Theo ước tính, trong ngành chế tạo thiết bị điện tử, tỷ suất giá trị gia tăng
trên giá trị đầu vào là khoảng 300, còn trong ngành công nghệ phần mềm tỷ suất đó
tiến tới vô hạn (!).
Nền kinh tế tri thức được nuôi dưỡng bằng nguồn năng lượng vô tận và năng
động là tri thức nên phát triển nhanh và khả năng bền vững rất cao.
Công nhân tri thức
Phạm trù này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với nền kinh tế tri thức, bởi
đây là lực lượng trực tiếp tiếp thu tri thức, khoa học – công nghệ để tiến hành sản xuất
theo phương thức hiện đại. Sự ra đời của công nhân tri thức là tất yếu khách quan
cùng với sự ra đời của nền kinh tế tri thức đồng thời cũng là sự phủ định có kế thừa
của giai cấp công nhân trong nền kĩ thuật - công nghệ hiện đại thế kỉ XX. Công nhân
tri thức có nhiều điểm tiến bộ so với công nhân trước đó, biểu hiện:
- Công nhân tri thức có sở hữu trí tuệ. Sở hữu này cho phép họ có thu
nhập cao hơn công nhân công nghiệp bình thường khiến họ có tư hữu chứ không còn
là vô sản nữa.
- Công nhân tri thức làm chủ một nền kĩ thuật mà phần lớn các ngành kĩ
thuật đều dựa vào các thành tựu mới nhất của khoa học.
- Giai cấp công nhân có sự tăng tiến cả về mặt số lượng lẫn chất lượng.
Trên cơ sở tri thức khoa học đang dần dần trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, số
lượng công nhân có tri thức, có tay nghề cao ngày càng tăng. Đồng thời nền kinh tế tri
thức mang đặc tính sáng tạo, thích hợp với bản chất của người công nhân, do đó sẽ
kích thích họ không ngừng học hỏi, nghiên cứu nâng cao trình độ khoa học – kĩ thuật
của mình. Như vậy, tri thức sẽ đóng vai trò động lực thúc đẩy sự phát triển chất lượng
người công nhân.
Các ngành kinh tế tri thức
Chúng ta đã đề cập nhiều đến kinh tế tri thức, vậy trong nền kinh tế hiện nay
những ngành kinh tế nào thì được coi là ngành kinh tế tri thức? – Theo giáo sư, viện sĩ
Đặng Hữu: Các ngành sản xuất và dịch vụ do công nghệ cao tạo ra như các dịch vụ
khoa học và công nghệ, dịch vụ tin học, các ngành công nghiệp công nghệ cao... được
gọi là ngành kinh tế tri thức.
Các tiêu chí cơ bản của một nền kinh tế tri thức
- Về cơ cấu GDP: hơn 70% do các ngành sản xuất, dịch vụ và ứng dụng
công nghệ cao.
- Cơ cấu giá trị gia tăng: hơn 70% do lao động trí óc đem lại.
- Cơ cấu lao động: hơn 70% công nhân tri thức.
- Cơ cấu tư bản: hơn 70% là vốn con người.
Ngoài ra còn có các tiêu chí khác, trong đó có tiêu trí về vai trò rất quan trọng
của giáo dục và bình quân trình độ văn hóa là trung học chuyên nghiệp.
3. Đặc trưng cơ bản của kinh tế tri thức
Là một hình thái kinh tế mới của xã hội loài người, kinh tế tri thức có nhiều đặc
điểm cơ bản khác biệt so với các nền kinh tế trước đó. Những đặc điểm này còn đang
được định hình và tiếp tục phát triển. Nhưng ta có thể thấy điều cốt yếu trong kinh tế
tri thức đó là việc thu thập, sử dụng và truyền bá các thông tin tri thức. Dưới đây là
một số đặc trưng của kinh tế tri thức:
- Tri thức, đặc biệt là khoa học và công nghệ trở thành lực lượng sản xuất
trực tiếp. Nhờ cuộc cách mạng khoa học -công nghệ hiện đại, hàng lọat các công nghệ
cao đã được phát minh và ứng dụng ngay vào quá trình sản xuất tạo nên sự thay đổi rõ
rệt cả về số lượng lẫn chất lượng. Các yếu tố vật chất của quá trình sản xuất cũng như
giá trị của hàm lượng vật chất trong các sản phẩm ngày càng giảm để nhường chỗ cho
các yếu tố tri thức. Chính vì vậy trình độ khoa học-công nghệ và vốn con người trong
cuộc đua tranh, cạnh tranh phát triển.
- Sự chuyển đổi cơ cấu sản xuất sang các ngành kinh tế tri thức: Nền kinh
tế nông nghiệp dựa trên sản xuất nông nghiệp, nền kinh tế công nghiệp thì công
nghiệp và dịch vụ là chủ yếu, còn trong nền kinh tế tri thức, các ngành kinh tế tri thức
sẽ chiếm vai trò thống trị, nhất là các dịch vụ trí tuệ (nghiên cứu khoa học, kĩ thuật, tư
vấn thiết kế, y tế, tài chính, thông tin liên lạc....) sẽ trở thành họat động kinh tế chiếm
phần chủ yếu với số người tham gia nhiều nhất.
- Kinh tế tri thức là nền kinh tế mở cao, mang tính chất toàn cầu hóa. Với
sự phát triển cao của CNTT, các tri thức mới, đặc biệt là thành tựu khoa học-công
nghệ được phổ biến và ứng dụng một cách nhanh chóng trên phạm vi toàn cầu. Hoạt
động kinh tế và phân công lao động sẽ vượt ra khỏi biên giới các quốc gia và trở thành
hoạt động mang tính toàn cầu. Nền kinh tế thế giới sẽ trở thành một mạng lưới gồm
nhiều quan hệ đan xen giữa các nền kinh tế quỗc gia. Tuy nhiên, trong mạng kinh tế
toàn cầu đó, vẫn tồn tại những mảng, vùng có trình độ phát triển còn kém xa những
mảng, vùng khác. Việc tham gia vào mạng lưới này có thể giúp các quốc gia kém phát
triển tạo được sự bứt phá nhưng đồng thời cũng đưa đến những rủi ro tụt hậu rất lớn,
tùy thuộc vào khả năng của từng quốc gia.
- Kinh tế tri thức là nền kinh tế năng động với tốc độ biến đổi cực kì cao.
Nó thể hiện ở tốc độ sản sinh tri thức tăng theo cấp số nhân, ở tốc độ ứng dụng các
phát minh khoa học vào quá trình sản xuất và ở sự biến đổi của giá cả trên thị trường.
Điều này đòi hỏi các nền kinh tế, các doanh nghiệp không ngừng sáng tạo, đổi mới
công nghệ sản xuất (sáng tạo và đổi mới là linh hồn của nền kinh tế), nâng cao trình
độ quản lí, thực hiện chiến lược đi tắt đón đầu.... để bắt kịp với tốc độ phát triển
chung. Những biến đổi trên cũng đồng thời kéo theo biến đổi về cấu trúc giai cấp-xã
hội ở các quốc gia.
- Kinh tế tri thức phải dựa trên cơ sở pháp luật rõ ràng, có hiệu lực và có
đầy đủ thông tin. Cần tránh hiện tượng lừa đảo, chụp giật, gây nhiễu thông tin. Kinh
nghiệm các nước chỉ rõ rằng CNTT cho phép kiểm soát rất có hiệu quả mọi giao dịch,
giảm bớt tình trạng trốn lậu thuế.
4. Tác động của xu thế phát triển kinh tế tri thức đến quan hệ kinh tế quốc
tế
Quá trình chuyển từ kinh tế công nghệ công nghiệp sang kinh tế tri thức có tác
động mạnh đến quan hệ kinh tế quốc tế, từ phương thức hoạt động đến nội dung, cấu
trúc các mối quan hệ đó. Có thể đưa ra một số tác động chủ yếu như sau:
- Kinh tế tri thức đẩy nhanh quá trình toàn cầu hóa, làm cho nó trở thành
xu thế bao trùm quan hệ quốc tế hiện đại. Do kinh tế tri thức chủ yếu dựa trên việc tạo
ra và sử dụng tri thức vốn mang tính chất năng động, lan tỏa không biên giới, trước
hết là khoa học-công nghệ nên lực lượng sản xuất thế giới và các hoạt động kinh tế
của con người ngày càng được đa dạng hóa, đa phương hóa trên phạm vi toàn cầu.
Trên thực tế, không ít công trình nghiên cứu đã chỉ ra rằng toàn cầu hóa ngày
nay là một xu thế khách quan và phổ biến, được thúc đẩy chủ yếu bởi những tiến bộ
của khoa học và công nghệ. Hiện nay, mỗi ngày tổng giá trị các giao dịch tài chính
quốc tế lên tới 3500 tỉ USD. Trên 50.000 công ty xuyên quốc gia với khoảng 300.000
công ty con nằm khắp các nước trên thế giới. Các công ty con cũng ra sức nắm bắt và
ứng dụngnhững tiến bộ mới về khoa học và công nghệ để tăng sức cạnh tranh và mở
rộng thị trường của mình. Trên phương diện vĩ mô, các nước đều tăng cường hội nhập
kinh tế quốc tế để tận dụng tối đa các cơ hội và hạn chế các bất lợi của quá trình toàn
cầu hóa.
- Quá trình phát triển kinh tế tri thức làm cho phân công lao động trở nên
sâu sắc và rộng khắp toàn cầu. Cùng với quá trình chuyển từ kinh tế công nghiệp sang
kinh tế tri thức, tri thức mà trước hết là khoa học và công nghệ sẽ phát triển nhanh
chóng, làm cho phân công lao động quốc tế phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu.
Bởi vì trong thời đại kinh tế này, khoa học-công nghệ và con người sẽ áp đảo các lợi
thế về đất đai, tài nguyên.... Một xu thế khác là sự phân công chuyên sâu trong hợp tác
quốc tế cũng được tăng cường theo hướng ngày càng có nhiều công ty đi chuyên sâu
vào sản xuất một mặt hàng, một chi tiết cụ thể nào đó của một sản phẩm hoặc chỉ cung
cấp một dịch vụ chuyên môn nhất định.
- Phát triển kinh tế tri thức sẽ làm thay đổi sâu sắc cơ cấu kinh tế thế giới
và cấu trúc của quan hệ kinh tế quốc tế. Trong những năm 60, cơ cấu sản phẩm thế
giới với các ngành nông nghiệp – công nghiệp – dịch vụ có tỉ lệ là 10,4%-28,4%-
50,4% thì đến những năm 90, cơ cấu này đã có sự thay đổi mạnh mẽ với tỉ lệ 4,4%-
21%-62,4%. Chiếm vị trí ngày càng quan trọng trong cơ cấu kinh tế thế giới là các
ngành kinh tế dựa vào tri thức. Sự thay đổi trong cơ cấu của kinh tế các nước và kinh
tế thế giới kéo theo sự biến đổi trong cấu trúc kinh tế quốc tế, thể hiện ở một số khía
cạnh sau:
+ Hàng hóa dịch vụ có hàm lượng trí tuệ cao ngày càng chiếm vị trí chủ
chốt trong thương mại quốc tế. Năm 1990, trao đổi kinh tế và công nghiệp trao đổi
khoa học và công nghệ giữa các nước đạt 110 tỉ USD, năm 1995 là 250 tỉ USD và 500
tỉ USD năm 2000.
+ Thương mại điện tử là lĩnh vực phát triển nhanh nhất và sẽ đóng vai trò
hàng đầu trong thương mại thế giới. Thực tế cho thấy, từ năm 1997 đến năm 2002,
thương mại điện tử đã phát triển với tốc độ ghê gớm từ 17 tỉ USD đến gần 1000 tỉ
USD.
+ Tình trạng vừa cạnh tranh vừa hợp tác giữa các doanh nghiệp và tính
năng động, linh hoạt trên phạm vi quốc tế của chúng ngày càng tăng. Để tồn tại và
phát triển trong quá trình toàn cầu hóa, các công ty luôn tìm cách đổi mới công nghệ
và nâng cao năng lực cạnh tranh. Hai xu hướng sáp nhập và chia nhỏ các công ty đang
cùng diễn ra, tạo nên sự linh hoạt của nền kinh tế.
+ Lợi thế so sánh của các quốc gia trong thương mại quốc tế thay đổi theo
hướng giảm dần các lợi thế truyền thống như đất đai, tài nguyên, nhân công rẻ, vị trí
địa lý... và tăng vai trò của các yếu tố tri thức. Trong điều kiện hiện tại, cấc nước phát
sẽ có lợi thế hơn các nước đang phát triển vì trình độ khoa học công nghệ của họ nhìn
chung là phát triển hơn, lại nắm giữ hầu hết các nguồn vốn và có đội ngũ công nhân tri
thức đông đảo. Tuy nhiên, quá trình này cũng mở ra nhiều cơ hội để các nước đang
phát triển có thể tận dụng “đi tắt, đón đầu” trên con đường phát triển kinh tế và thu
hẹp khoảng cách so với các nước đi trước.
- Đặc tính tăng trưởng bền vững của nền kinh tế thị trường sẽ tạo nên sự
biến đổi lớn về chất trong quan hệ kinh tế quốc tế. Kinh tế quốc tế sẽ phát triển một
cách ổn định, nguy cơ về khủng hoảng sẽ không còn là một bóng đen bao trùm lên
quan hệ kinh tế quốc tế nữa.
Dưới tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học – công nghệ hiện đại,
xu hướng chuyển sang kinh tế thị trường đã và đang là một thực tế và ngày càng được
khẳng định trước hết là trong các nước phát triển và các nước công nghiệp. Khi kinh tế
thị trường được khẳng định một cách mạnh mẽ và vững chắc, nhất định nó sẽ kéo theo
sự biến chuyển về mặt xã hội, dẫn tới sự thay đổi phương thức sản xuất. Vì lẽ đó có
nhiều nhà khoa học cho rằng kinh tế tri thức đang được hình thành một cách tất yếu,
khách quan trong xã hội tư bản chủ nghĩa. Khi kinh tế tri thức phát triển lan rộng sẽ
làm sâu sắc thêm những mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản, mặt khác sẽ tạo ra
tiền đề vật chất to lớn cho một xã hội cao hơn xã hội tư bản chủ nghĩa.
III- Việt Nam với xu thế hình thành và phát triển nền kinh tế tri thức
1. Kinh tế tri thức là một tất yếu khách quan đối với các nước đang phát
triển, trong đó có Việt Nam
Với những biểu hịên thay đổi như hiện nay của nền kinh tế thế giới, chúng ta có
thể thấy kinh tế tri thức đang dần trở thành xu thế phổ biến trên toàn cầu. ở những nền
kinh tế lớn trên thế giới, các ngành kinh tế tri thức chiếm tỉ lệ ngày càng cao trong cơ
cấu GDP. Tỉ lệ này là 57,3% ở Xin-ga-po, 55,3% ở Mĩ, 53% ở Nhật Bản, 51% ở
Canađa và 48% ở Ô-xtrây-lia. Và một điều tất yếu là kinh tế tri thức phát triển sẽ cuốn
vào vòng xoáy của nó tất cả các nước đang phát triển và kém phát triển. Do kinh tế tri
thức có tốc độ biến đổi cực kì cao, thuộc tính tốc độ biến đổi nói lên rằng khả năng bắt
kịp các nước cũng như khả năng tụt hậu sẽ lớn. Kinh tế tri thức có thể là chiếc chìa
khóa vàng cho các nước nghèo, chậm phát mở lối đi tắt, đón đầu, vươn lên bằng trí tuệ
của mình. Việc gia nhập vào mạng toàn cầu hàm chứa khả năng phải chịu “rủi ro”.
Trình độ phát triển càng cách xa tiến độ phát triển chung của mạng thì độ “rủi ro”
càng lớn. Song kinh nghiệm cho thấy rằng, trong khi những “rủi ro” khi tham gia vào
mạng là tiềm ẩn thì những “rủi ro” do không tham gia vào mạng là chắc chắn và lớn
hơn bất kì “rủi ro” nào khi tham gia vào mạng.
Tuy nhiên, đối với các nước chậm phát triển, rất nhiều vấn đề còn tồn tại hạn
chế khả năng chuyển sang kinh tế tri thức. Những tồn tại đó là: lực lượng lao động ít
tri thức, thiếu kĩ năng chiếm tuyệt đại đa số làm cho bước quá độ diễn ra chậm; nguồn
lực tài chính khan hiếm; tiềm lực khoa học và công nghệ(tri thức) yếu và thấp kém....
Những yếu tố này tự nó chứa đựng năng lực “nhập mạng” yếu, cản trở khả năng tiếp
cận với các cơ hội phát triển.
2. Thực trạng nền kinh tế nước ta và định hướng của Việt Nam
Nền kinh tế Việt Nam vốn đi lên từ một xuất phất điểm thấp: một nền nông
nghiệp lạc hậu, công nghiệp hầu như không có gì, đất nước sau chiến tranh bị tàn phá
nặng nề... Trải qua chế độ quan liêu bao cấp, nền kinh tế đó càng thêm lạc hậu, què
quặt. Năm1986, Đảng và Nhà nước ta quyết định tiến hành đổi mới trên tất cả các
lĩnh vực. Sau 15 năm đổi mới, chúng ta cũng đạt được một số thành tựu quan trọng.
Kinh tế tăng trưởng khá, tổng sản phẩm trong nước năm 2000 tăng gấp đôi so với năm
1990. Nềnkinh tế từ trạng thái khan hiếm nghiêm trọng, nay đã đáp ứng được nhu cầu
thiết yếu của nhân dân; từ cơ chế tập trung, quan liêu bao cấp chuyển sang cơ chế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa; từ chỗ nền kinh tế chỉ có hai thành phần cơ bản
là kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể đã chuyển sang nền kinh tế nhiều thành phần
trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Đời sống nhân dân được cải thiện. Đặc
biệt đã vượt qua được cuộc khủng hoảng kinh tế- tài chính ở một số nước châu á. Tuy
vậy nền kinh tế còn tồn tại nhiều hạn chế: Kinh tế phát triển nhưng chưa vững chắc,
hiệu quả và sức cạnh tranh còn thấp. Mức tăng trưởng kinh tế hàng nămđạt tới gần 7%
nhưng GDP bình quân tính theo đầu người chỉ bằng 1/12 bình quân thế giới. Cơ cấu
kinh chậm chuyển dịch, nặng về nông nghiệp. Lao động nông thôn dồi dào, cần cù
nhưng vẫn thiếu việc làm. Sản phẩm làm ra chất lượng thấp, giá thành cao... Bên cạnh
đó giáo dục chưa phát triển. Khoa học công nghệ còn nhiều yếu kém. Việc phân bổ, sử
dụng đội ngũ cán bộ khoa học hiện nay còn nhiều điều bất hợp lí. Chất lượng đào tạo
còn thấp, trình độ chưa cập nhật được tri thức hiện đại, bị hông nhiều về hiểu biết
công nghệ, quản lí kinh doanh, tiếp thị, ngoại ngữ...
Dân tộc ta kiên cường bất khuất, tất nhiên sẽ không chịu lùi bước trước khó
khăn nào. Tttrong báo cáo chính trị tại đại hội lần thứ IX, Đảng ta đã khẳng định:
“Con đường công nghiệp hóa- hiện đại hóa của nước ta cần và có thể rút ngắn thời
gian so với các nước đi trước, vừâ có bước tuần tự, vừa có bước nhảy vọt. Phát huy
mọi lợi thế của đất nước, tận dụng mọi khả năng để đạt trình độ công nghệ tiên tiến.
Đặc biệt là công nghệ thông tin và công nghệ sinh học, tranh thủ ứng dụng ngày càng
nhiều, ở mức cao hơn và phổ biến hơn những thành tựu khoa học công nghệ, từng
bước phát triển kinh tế tri thức”. Đây cũng chính là định hướng cho nền kinh tế Việt
Nam. Chúng ta có thể đi theo con đường “rút ngắn”, dựa vào khoa học công nghệ để
thực hiện Công nghiệp hóa- Hiện hóa đất nước. Và khi hoàn thành sự nghiệp đó chúng
ta cũng đồng thời chuyển nền công nghiệp đó sang nền kinh tế tri thức. Thực tế, cách
thức rút ngắn này cũng đã được nhiều nước trên thế giới áp dụng thành công như Nam
Triều Tiên, Singapo... công nghiệp hóa đất nước trong vòng 30 năm, Ailen từ một
nước nông nghiệp những năm 60, ngày nay đàng hoàng sánh vai cùng các nước tiên
tiến. Chúng ta có thể và nhất định sẽ thực hiện được điều đó, như tổng bí thư Lê Khả
Phiêu đã nói: “Nhân dân Việt Nam đã biết cầm đũa thì biết vót chông, đã biết vót
chông thì mười ngón tay ấy sẽ biết học tập, sử dụng máy vi tính, đi vào công nghệ
thông tin, cánh cửa của tri thức.” Tất nhiên đó không phải là một con đường bằng
phẳng mà sẽ vô cùng chông gai, vất vả đối với Việt Nam.
3. Những giải pháp đưa ra cho Việt Nam tiến vào nền kinh tế tri thức
a. Khái quát chung
Kinh tế tri thức là một tất yếu khách quan, đang diễn ra ráo riết, dù những
nước nghèo nhất cũng đang phải đương đầu với thách thức của nền kinh tế đang được
tri thức hóa, toàn cầu hóa. Vấn đề là chúng ta bước vào nền kinh tế tri thức như thế
nào?
Sau nhiều cuộc hội thảo, tranh luận khoa học, một hướng đi cơ bản đã được
vạch ra cho nền kinh tế Việt Nam. Con đường phát triển kinh tế tri thức trong tiến
trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế nước ta cần thiết phải phát
triển theo mô hình “hai tốc độ song hành” (qui trình kép). Cùng với việc chăm lo phát
triển nông nghiệp và khả năng cạnh tranh của các ngành công nghiệp cơ bản và then
chốt nhằm ổn định, từng bước cải thiện đời sống nhân dân, chúng ta phải đồng thời
đẩy nhanh tốc độ phát triển các ngành kinh tế dựa vào tri thức, công nghệ cao để tăng
tốc quá trình hiện đại hóa, không ngừng nâng cao vị thế độc lập tự chủ và năng lực
cạnh tranh của nền kinh tế nhằm giữ vững thế chủ động, hội nhập kinh tế thế giới. Để
thực hiện nhiệm vụ đó, chúng ta cần phải thực hiện một số nhiệm vụ sau:
-Tiến hành song song việc phát triển cơ chế thị trường và mở cửa hội
nhập.Thực tế cho thấy cơ chế thị trường là cơ chế phân phối nguồn lực tối ưu và
trong cơ chế này, cạnh tranh đóng vai trò động lực phát triển. Đối với nước ta hiện
nay cần đẩy nhanh quá trình cải cách thị trường, đẩy mạnh khu vực doanh nghiệp nhà
nước, khuyến khích khu vực tư nhân phát triển thông qua các chính sách thị
trường.Đối với vấn đề mở cửa hội nhập, cần quán triệt đây là cơ hội để phát triển.
Không đẩy mạnh mở cửa, hội nhập sẽ không thể phát huy tính năng động, tích cực
của nền kinh tế, không có những cơ hội để tiếp cận với những tiến bộ về khoa học
công nghệ hiện đại, thương mại hóa quốc tế bị hạn chế....
- Đầu tư đẩy mạnh việc chăm lo phát triển toàn diện nguồn nhân lực, then chốt
là công tác giáo dục và đào tạo theo hướng hiện đại, tạo lập một xã hội học tập và cá
nhân học tập suốt đời nhằm không ngừng nâng cao dân trí, đào tạo và bồi dưỡng nhân
tài. Bởi vì con đường ngắn nhất đến với tri thức là giáo dục và đào tạo. Coi giáo dục-
đào tạo là quốc sách hàng đầu, nâng cao tỷ lệ đầu tư cho giáo dục đồng thời phải tiến
hành cải cách hệ thống giáo dục nhằm nâng cao chất lượng nguồn lực con người đáp
ứng yêu cầu phát triển của đất nước. Nhanh chóng hoàn thành việc phổ cập giáo dục
phổ thông cơ sở trên toàn quốc; đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học kĩ thuật có trình độ
cao, tạo lập đội ngũ công nhân kĩ thuật lành nghề. Không ngừng mở rộng hợp tác giáo
dục- đào tạo và khoa học công nghệ với các nước khác. Đây là một việc rất quan
trọng.
- Tích cực xây dựng một nền khoa học- công nghệ tiên tiến trên cơ sở tiếp
thu, ứng dụng các thành tựu phát triển cao đã có trên thế giới, đồng thời tăng cường
năng lực nội sinh nước nhà. Phát triển khoa học công nghệ cần chú trọng các ngành
thông tin, sinh học, năng lượng, vật liệu mới.... Nước ta là nước đi sau trong quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, vì vậy có thể tận dụng những thành tựu thế giới đã đạt
được, nhưng đó phải là sự vận dụng sáng tạo, tìm cách đi tắt, đón đầu, nhanh chóng
rút ngắn khoảng cách với các nước khác. Bên cạnh đó, thực hiện tốt những chính sách
về phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng nhân tài, đối đãi thỏa đáng với đội ngũ cán bộ,
chuyên gia khoa học, tránh hiện tượng chảy máu chất xám; hoạch định chế độ theo
hướng khuyến khích các đơn vị, doanh nghiệp ứng dụng khoa học- công nghệ đặc biệt
là công nghệ cao. Cùng vơí đó, phải đẩy mạnh xây dựng cơ sở hạ tầng nhằm ứng dụng
và phát triển công nghệ thông tin; tăng cường xây dựng và phát triển nhanh công nghệ
cao nhằm tăng hàm lượng tri thức trong tổng thể nền kinh tế quốc dân.
- Xây dựng hành lang pháp lí hiện đại, phù hợp, đủ mạnh và hiệu quả
trong việc phát triển nền kinh tế tri thức theo định hướng XHCN. Đây là vấn đề rất
cấp bách. Chỉ có trên cơ sở một cơ chế vận hành hiệu quả và hệ chính sách phù hợp,
nghĩa là một hành lang pháp lí tương ứng với nền kinh tế tri thức định hướng XHCN,
chúng ta mới có điều kiện đảm bảo thật sự giải phóng mọi lực lượng sản xuất trong xã
hội, phát huy tiềm năng sáng tạo của mỗi người, mỗi thành phần kinh tế nhằm phát
triển sản xuất, tiến tới chăm lo, phát triển toàn diện đời sống của các tầng lớp nhân dân
lao động, xây dựng một xã hội học tập lành mạnh. Điển hình như việc ban hành luật
khoa học và công nghệ. Luật có qui định điều chỉnh phù hợp, nhằm tạo lập môi trường
pháp lí thuận lợi, bình đẳng và các thiết chế dân chủ khác để phát huy tối đa sức sáng
tạo của các nhà khoa học và công nghệ, các tập thể khoa học- công nghệ và của toàn
dân. Đây sẽ là luồng sinh khí mới làm cho các hoạt động về khoa học- công nghệ phát
triển nhanh, rộng, phục vụ kịp thời các mục tiêu kinh tế xã hội.
b. ý kiến đề xuất của bản thân
Trong thời đại ngày nay, nền kinh tế thế giới đang diễn ra nhiều đổi thay mạnh
mẽ, đặc biệt là xu thế hình thành và phổ biến rộng khắp của nền kinh tế tri thức. Đứng
trước bối cảnh đó, mỗi người dân Việt Nam cần phải tích cực tìm hiểu về nền kinh tế
tri thức, về vị thế của Việt Nam trong nền kinh tế đó như thế nào, từ đó tìm ra giải
pháp góp phần đưa đất nước đi lên. Bản thân em cũng rất quan tâm đến vấn đề “Kinh
tế tri thức”. Trong phạm vi đề án này em xin đưa ra một số ý kiến:
- Trước hết, cần phải đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục cho mọi người dân
những kiến thức về kinh tế tri thức như: khái niệm, bản chất, đặc trưng,... Phần lớn
người dân Việt Nam vẫn còn rất xa lạ với thuật ngữ mới này. Tiếp đó nâng cao ý thức
tự giác trong toàn xã hội vào nền kinh tế tri thức. Đối với học sinh, sinh viên không
ngừng tiếp thu những hiểu biết về khoa học- công nghệ, nâng cao trình độ ngoại ngữ,
tăng khả năng hội nhập trong hoàn cảnh mới. Đối với các nhà sản xuất kinh doanh
không ngừng cải tiến công cụ, qui trình sản xuất bằng cách áp dụng khoa học công
nghệ tiến bộ.... Với sự ý thức như vậy của từng cá nhân, dần dần sẽ đưa đất nước tiến
vào kinh tế tri thức.
- Giáo dục đào tạo phải gắn liền với thực tiễn. Thực tế hiện nay ở nước ta
công tác giáo dục đào tạo còn nhiều bất cập, cần phải khắc phục. Việc đào tạo quá
nhiều cử nhân đã gây ra tình trạng “thừa thầy, thiếu thợ”, công nhân có tay nghề kĩ
thuật cao còn rất ít, ảnh hưởng rất lớn đến việc sản xuất ra những mặt hàng có chất
lượng cao. Bên cạnh đó, trong khi một số ngành đào tạo quá nhiều, một số khác lại
đào tạo quá ít so với nhu cầu của các doanh nghiệp, công ty.... Vì vậy không ít sinh
viên ra trường phải làm trái nghề, không thể áp dụng các kiến thức đã được học vào
công việc. Như vậy trong quá trình giảng dạy và học tập, yêu cầu đặt ra đối với các
giáo viên và học sinh, sinh viên là phải luôn cập nhật thông tin, phải liên hệ tri thức
với thực tiễn, đáp ứng nhu cầu của thực tiễn.
- Trong quá trình giáo dục và đào tạo, cần tạo ra các động lực kích thích
học sinh, sinh viên hăng say học tập. Ví dụ như chính sách về việc làm. Theo thống kê
năm 2001, từ 38 trường đại học, chỉ có 67% số sinh viên ra trường tìm được việc làm
ổn định; 62% trong số này được tuyển dụng làm nghiên cứu viên mới, và chỉ có 4%
trí thức trẻ trong số này được đào tạo tiếp. Một bộ phận trí thức trẻ vẫn đứng ngoài
cuộc. Vì vậy chính sách này sẽ có tác động tích cực đến mục đích, động cơ học tập
của học sinh, sinh viên. Bên cạnh đó, việc khen thưởng kịp thời và thích đáng cũng tạo
động lực tốt để trí thức trẻ thể hiện, phát huy hết năng lực của mình.
- Tổ chức rộng rãi các cuộc thi tìm hiểu về tri thức khoa học, đặc biệt là
khoa học tự nhiên, thông qua các phương tiện thông tin đại chúng: đài, báo, Internet...
Qua đó tạo cho mọi người thói quen tìm hiểu và cập nhật thông tin, tri thức.
Kết luận
Đất nước đã bước sang thế kỉ XXI- Thế kỉ của những thành tựu kì diệu của
cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, thế kỉ của nền kinh tế tri thức. Trước
mắt chúng ta là rất nhiều cơ hội và thách thức. Liệu chúng ta có tận dụng được các cơ
hội đó để đưa đất nước không những đuổi kịp mà còn vượt lên hàng đầu trong cuộc
chạy ma-ra-tông với các cường quốc kinh tế trên thế giới hay không? Đó là một câu
hỏi lớn mà cả dân tộc phải đưa ra lời giải đáp. Nó bắt đầu từ sự cố gắng nỗ lực của
mỗi cá nhân. Điều đó đòi hỏi mỗi người phải dày công nghiên cứu, tìm tòi nắm vững
kiến thức khoa học hiện đại, rèn luyện kỹ năng thực hành và vận dụng sáng tạo vào
hoàn cảnh đất nước và con người Việt Nam, trở thành những tài năng trẻ ngay từ khi
còn ngồi trên ghế nhà trường. Vận mệnh dân tộc phụ thuộc vào sự cố gắng nỗ lực đó
của mỗi cá nhân.
Việt Nam đang dần có những biến chuyển tích cực trên tất cả các lĩnh vực của
đời sống xã hội, đặc biệt là trong kinh tế. Trong khi kinh tế thế giới có nhiều bất ổn,
nhiều nền kinh tế lớn có biểu hiện suy thoái thì nước ta lại giữ vững được mức tăng
trưởng khá cao 7%. Cả nước đang hăng hái thi đua, quyết tâm hoàn thành tốt các mục
tiêu mà Đảng và nhà nước đề ra, nhằm mục tiêu hoàn thành Công nghiệp hóa- Hiện
đại hóa đưa đất nước tiến vào kinh tế tri thức, thu hẹp dần khoảng cách với các nước
phát triển trong quá trình toàn cầu hóa.
tài liệu tham khảo
1. Sự nghiệp giáo dục trong chế độ xã hội chủ nghĩa. Phạm Văn Đồng
2. Tạp chí cộng sản. Số 16/2000; 22/2000; 18/2001; 15/2001
3. Văn kiện Đại hội đại biểu toànquốc lần thứ IX.
Mục lục
Lời nói đầu .......................................................................................................... 1
Nội dung .............................................................................................................. 3
I. Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại – Yếu tố tiền đề chủ yếu của
kinh tế tri thức .................................................................................................. 3
II. Một số vấn đề chung về nền kinh tế tri thức .................................................. 5
1. Khái niệm kinh tế tri thức .............................................................................. 5
2. Một số phạm trù trong kinh tế thị trường ...................................................... 8
3. Đặc trưng cơ bản của kinh tế tri thức .......................................................... 11
4. Tác động của xu thế phát triển kinh tế tri thức đến quan hệ kinh tế quốc tế13
III- Việt Nam với xu thế hình thành và phát triển nền kinh tế tri thức .............. 16
1. Kinh tế tri thức là một tất yếu khách quan đối với các nước đang phát triển,
trong đó có Việt Nam ....................................................................................... 16
2. Thực trạng nền kinh tế nước ta và định hướng của Việt Nam ................... 16
3. Những giải pháp đưa ra cho Việt Nam tiến vào nền kinh tế tri thức ........ 18
Kết luận ............................................................................................................. 22
Tài liệu tham khảo ............................................................................................ 23
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại và sự hình thành nền kinh tế tri thức - Định hướng của Việt Nam.pdf