Hoạt động THADS là hoạt động hành chính - tư pháp, là giai đoạn cuối
của quá trình tố tụng, nhằm đảm bảo bản án, quyết định của Tòa án, Hội đồng
xử lý vụ việc cạnh tranh, Trọng tài thương mại ra thi hành trên thực tế. Xuất
phát từ đặc điểm của quan hệ dân sự, nên quyền tự định đoạt dân sự, quyền tự
thỏa thuận của đương sự là những quyền cơ bản được pháp luật thi hành án
dân sự ưu tiên thực hiện, trong trường hợp các bên đương sự không tự nguyện
thực hiện, không thỏa thuận được thì Cơ quan THADS áp dung các biện pháp
cưỡng chế đảm bảo quyền, lợi ích người được THA, khôi phục lại tình trạng
ban đầu của quan hệ xã hội bị xâm hại.
Trải qua chặng đường hình thành và phát triển, ngành thi hành án dân
sự nước ta ban đầu do Ban tư pháp xã đảm nhiệm, đến nay đã có cơ cấu tổ
chức chặt chẽ từ Trung ương đến địa phương, đội ngũ cán bộ, công chức đáp
ứng được yêu cầu trong thời kỳ mới, kết quả công tác ngày một khởi sắc. Đạt
được những thành quả đó trước hết là nhờ sự quan tâm sâu sắc của Đảng và
Nhà nước, sự đoàn kết, phấn đấu của tập thể cán bô công chức, các quy định
pháp luật thi hành án ngày một hoàn thiện, trong đó các biện pháp cưỡng chế
thi hành án cũng được quy định chặt chẽ hơn, đảm bảo quyền lợi chính đáng
cho đương sự, người có liên quan. Tuy biện pháp cưỡng chế thi hành án là
biện pháp nghiêm khắc, trực tiếp tác động đến tài sản, hành vi của người phải
thi hành án, nhưng đây là biện pháp cần thiết để buộc người phải thi hành án
thực nghĩa vụ thi hành án, góp phần đảm bảo hiệu quả, hiệu lực Bản án, quyết
định của Toà án được thi hành, tôn trọng; Bên cạnh đó, biên pháp cưỡng chế
THADS còn mang ý nghĩa tuyên truyền, giáo dục, răn đe chung cho xã hội
trong việc THADS.
Huyện Krông Nô là huyện cách xa trung tâm tỉnh Đắk Nông, kinh tế
chậm phát triển, có cơ cấu dân cư đa dạng, nhưng có số lượng vụ việc thi90
hành án lớn, phức tạp. Trong những năm qua công tác thi hành án dân sự trên
địa bàn huyện Krông Nô tuy đạt và vượt chỉ tiêu do Bộ Tư Pháp giao, tuy vậy
số lượng án tồn đọng năm trước chuyển sang năm sau còn cao, số lượng vụ
việc phải áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án nhiều, việc áp dụng trình
tự, thủ tục cưỡng chế, xử lý tài sản thi hành án chưa đảm bảo chặt chẽ, trong
đó có cả nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan.
Từ việc phân tích các vấn đề lý luận về cưỡng chế THADS, đanh giá
thực trạng cưỡng chế THADS trên địa bàn huyện Krông Nô, tỉnh Đắk Nông
luận văn đã phân tích, đánh giá đối với 06 biện pháp cưỡng chế THADS,
đồng thời đề xuất những giải pháp nhằm tiếp tục đổi mới, hoàn thiện các quy
định pháp luật về cưỡng chế thi hành án, nâng cao hiệu quả công tác THADS,
những giải pháp cụ thể là: Tiếp tục hoàn thiện pháp luật về thi hành án dân sự;
Xác định rõ trách nhiệm của các chủ thể trong cưỡng chế thi hành án dân sự;
Nâng cao năng lực áp dụng pháp luật của Chấp hành viên; Xây dựng phương
án kiểm soát tài sản của người THA; Áp dụng khoa học công nghệ vào công
tác THDA; Thường xuyên rà soát, phân loại án; Nêu cao tinh thần trách
nhiệm của Chấp hành viên; Đẩy mạnh công tác giáo dục thuyết phục đối
tượng phải THA; Tranh thủ sự phối hợp công tác THADS; Lập danh sách
người phải THA gửi từng địa phương. Trên cơ sở những giải pháp trên, luận
văn cũng đã phân tích và có kiến nghị nhằm đảm bảo tính khả thi của các giải
pháp trong thực tiễn. Hy vọng luận văn là tài liệu tham khảo có giá trị trong
lĩnh vực cưỡng chế THADS nói chung, trên địa bàn huyện Krông Nô, tỉnh
Đắk Nông nói riêng.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 100 trang
100 trang | 
Chia sẻ: yenxoi77 | Lượt xem: 914 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Cưỡng chế thi hành án dân sự trên địa bàn huyện Krông Nô tỉnh Đắk Nông, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ô, tỉnh Đắk Nông 
từ năm 2012 đến 2016 Chi cục thi hành án dân sự huyện Krông Nô, tỉnh Đắk 
Nông tổ chức cưỡng chế một vụ việc chuyển giao giấy chứng nhận quyền sử 
dụng đất, tại buổi cưỡng chế Chấp hành viên tiếp tục động viên, thuyết phục 
nhưng người phải thi hành án cũng không giao nộp, do đó Chấp hành viên đã 
công bố quyết định cưỡng chế yêu cầu ngươi phải thi hành án chấp hành quyết 
định cưỡng chế và đồng thời đại diện chính quyền địa phương vận động, thuyết 
phục nhưng người phải thi hành án cũng không giao nộp giấy chứng nhận 
quyền sử dụng đất. Chấp hành viên đã lập biên bản về việc tổ chức cưỡng chế 
không thành và lập hồ sơ đề nghị UBND huyện hủy giấy chứng nhận quyền sử 
dụng đất và cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho người được thi 
hành án theo quy định tại Điều 106, Điều 116 Luật THADS. 
Qua vụ việc cưỡng chế như nêu trên cho thấy hiệu quả của biên pháp 
cưỡng chế chuyển giao quyền tài sản, giấy tờ phụ thuộc vào sự chấp hành của 
người phải thi hành án, trường hợp người phải thi hành án chống đối, không tự 
nguyện hoặc che dấu hoặc hủy hoại giấy tờ, Chấp hành viên không thể nào lấy 
được giấy tờ trả lại cho người được thi hành án. Trong trường hợp này Chấp 
hành viên căn cứ vào tình hình thực tế mà xử lý: Đối với giấy tờ không thể 
thu hồi được nhưng có thể cấp lại, trong trường hợp này thì Chấp hành viên 
yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền ra quyết định hủy giấy tờ đó và cấp 
giấy tờ mới cho người được thi hành án. 
- Buộc người phải thi hành án thực hiện hoặc không thực hiện công 
việc nhất định 
Hàng năm Chi cục thi hành án dân sự huyện Krông Nô, tỉnh Đắk Nông 
áp dụng biện pháp cưỡng chế buộc người phải thi hành án thực hiện hoặc 
68 
không thực hiện công việc nhất định từ 1 đến 3 vụ việc, biện pháp thường hay 
áp dụng nhất là buộc giao người chưa thành niên cho người khác nuôi dưỡng. 
Biện pháp này mang tính đạo đức và nhân văn rất cao. Mục đích của biện 
pháp này hướng tới lợi ích tốt nhất của người chưa thành niên. Khoản 1 Điều 
120 Luật THADS quy định: “Chấp hành viên ra quyết định buộc giao người 
chưa thành niên cho người được giao nuôi dưỡng theo bản án, quyết định. 
Trước khi cưỡng chế giao người chưa thành niên cho người được giao nuôi 
dưỡng, Chấp hành viên phối hợp với chính quyền địa phương, tổ chức chính 
trị - xã hội tại địa phương đó thuyết phục đương sự tự nguyện thi hành án”. 
Tuy nhiên, trong thực tế, việc thi hành án giao người chưa thành niên cho 
người khác nuôi dưỡng gặp rất nhiều khó khăn. Phần lớn biện pháp này áp 
dụng trong vụ án ly hôn, cha mẹ người chưa thành niên đều muốn dành quyền 
nuôi con nên người phải thi hành án không tự nguyện, cố tình đem người 
chưa thành niên trốn tránh và bản thân người phải thi hành án có biểu hiện 
thái quá, chống đối người có thẩm quyền thi hành án gây khó khăn cho việc 
thi hành án. 
Bên cạnh khó khăn từ việc người phải thi hành án chống đối, các quy 
định pháp luật cũng có nhiều bất cập. Biện pháp cưỡng chế buộc người phải 
thi hành án thực hiện hoặc không thực hiện công việc nhất định được quy 
định tại Điều 118, Điều 119, Điều 120, Điều 121 của Luật thi hành án dân sự, 
điểm chung cả bốn điều luật đều yêu cầu Chấp hành viên trước khi áp dụng 
biện pháp cưỡng chế thì phải ra quyết định phạt tiền và ấn định thời hạn để 
người phải thi hành án tự nguyện thực hiện. Nhưng theo quy định tại Điều 52, 
Điều 68 của Nghị định số 110/2013/NĐ-CP ngày 24/9/2013 của Chính phủ, 
quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành 
chính tư pháp, hôn nhân và gia đình, thi hành án dân sự, phá sản doanh 
nghiệp, hợp tác xã. Chấp hành viên có thẩm quyền xử phạt đến 500.000đồng, 
69 
Chi cục trưởng có thẩm quyền xử phạt đến 2.500.000đồng. Trong khi đó các 
hành vi không thực hiện công việc phải làm, không chấm dứt thực hiện công 
việc không được làm theo bản án quyết định có mức phạt tiền từ 
3.000.000đồng đến 5.000.000đồng, vời mức phạt này thuộc thẩm quyền xử 
phạt của Cục trưởng không phải của Chấp hành viên. Việc quy định không 
hợp lý như trên đã làm cho Chấp viên không thể ra quyết định phạt tiền theo 
quy định của Điều 118, Điều 119, Điều 120, Điều 121 của Luật thi hành án 
dân sự, Chấp hành viên muốn hoàn thành nhiệm vụ thì phải chấp nhận vi 
phạm áp dụng thẳng biện pháp cưỡng chế, bỏ qua quyết định phạt tiền. 
2.2.3.5. Nguyên nhân của khó khăn, vướng mắc, hạn chế tồn tại 
- Một số quy định của pháp luật thi hành án dân sự chưa hoàn thiện, 
khó áp dụng và một số chế định pháp luật khác có liên quan chưa có sự đồng 
bộ cao, một số quy định còn chồng chéo. 
- Do tình hình kinh tế tại địa phương có nhiều khó khăn, khiến cho 
đương sự lâm vào hoàn cảnh mất khả năng thanh toán và không có điều kiện 
thi hành án. 
- Việc quy hoạch, cấp quyền sử dụng đất, quyền tài sản trên địa bàn 
huyện Krông Nô triển khai chậm, thêm vào đó là phân định tài sản chung hộ 
gia đình và tài sản chung của vợ chồng chưa rõ ràng dẫn đến công tác cưỡng 
chế thi hành án gặp khó khăn, phức tạp. 
- Việc rà soát, phân loại án của Chấp hành viên đôi khi chưa kịp thời 
dẫn đến giải quyết thi hành án một số vụ việc còn chậm. Đôi lúc Chấp hành 
viên chưa cương quyết đối với những vụ việc có điều kiện thi hành án nhưng 
không tự nguyện thi hành án, chay ỳ, từ đó hệ luỹ đến những vụ việc khác. 
- Việc cấp trang bị thiết bị, phương tiện, công cụ hỗ trợ chưa kịp thời, 
chưa đáp ứng được yêu cầu công tác, việc hỗ trợ tài chính từ Ngân sách nhà 
70 
nước để phục vụ tạm ứng chi phí cưỡng chế còn thiếu, đặc biệt khoản chi phí 
xác minh. 
71 
Chương 3 
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM CƯỠNG CHẾ THI 
HÀNH ÁN DÂN SỰ TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN KRÔNG NÔ, 
TỈNH ĐẮK NÔNG 
3.1 Phương hướng bảo đảm cưỡng chế thi hành án dân sự trên địa 
bàn huyện Krông Nô 
3.1.1. Chuẩn bị các điều kiện cần thiết tổ chức cưỡng chế 
Cưỡng chế thi hành án dân sự tác động trực tiếp đến tài sản hoặc hành 
vi của người phải thi hành án, để tổ chức cưỡng chế thi hành án ngoài các yếu 
tố cần và đủ, như cơ sở pháp lý, trình tự thủ tục tác nghiệp chặt chẽ, thì công 
tác chuẩn bị các điều kiện cần thiết hết sức quan trọng trong việc bảo đảm 
cưỡng chế thi hành án dân sự. 
Theo quy định tại Điều 70 Luật THADS căn cứ để tổ cức cưỡng chế thi 
hành án gồm: “Bản án, quyết định; Quyết định thi hành án; Quyết định cưỡng 
chế thi hành án, trừ trường hợp bản án, quyết định đã tuyên kê biên, phong 
tỏa tài sản, tài khoản và trường hợp thi hành quyết định áp dụng biện pháp 
khẩn cấp tạm thời của Tòa án”. Để lựa chọn biện pháp cưỡng chế phù hợp 
với tính chất vụ việc, tương ứng với nghĩa vụ thi hành án, trước khi ban hành 
quyết định cưỡng chế thì Chấp hành viên phải tiến hành xác minh đầy đủ, 
chính xác về điều kiện thi hành án của người phải thi hành án, hoàn cảnh gia 
đình, nhân thân và nguồn thu nhập của người phải thi hành án. Sau khi Chấp 
hành viên đã quyết định cưỡng chế và xây dựng kế hoạch cưỡng chế thì cần 
thực hiện công tác chuẩn bị cưỡng chế. Tùy vào tính chất vụ việc phức tạp 
hay ít phức tạp, Chấp hành viên tiến hành công tác chuẩn bị gồm: 
- Họp bàn cưỡng chế, trên cơ sở nội dung, tình huống của kế hoạch 
cưỡng chế đã được Chấp hành viên xây dựng và đề xuất, thủ trưởng cơ quan 
thi hành án dân sự mời các các cơ quan, đơn vị phối hợp cưỡng chế, đại diện 
72 
Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp họp bàn cưỡng chế, phổ biến kế hoạch 
cưỡng chế và phân công nhiệm phối hợp cụ thể cho từng cơ quan, đơn vị, 
đồng thời lắng nghe ý kiến đóng góp của các cơ quan phối hợp để hoạn thiệt 
kế hoạch cưỡng chế. 
- Phối hợp với cơ quan Công an cùng cấp xây dựng kế hoạch bảo vệ 
cưỡng chế. Theo quy định tại thông tư liên tịch số 03/2012/TTLT – BTP – 
BCA ngày 30/3/2012 của Bộ Tư pháp – Bộ Công an; quy định cụ thể việc 
phối hợp bảo vệ cưỡng chế trong thi hành án, Cơ quan công an có trách nhiệm 
chủ trì trong việc xây dựng kế hoạch bảo vệ cưỡng chế, cơ quan thi hành án 
dân sự có trách nhiệm phối hợp để xây dựng kế hoạch bảo vệ cưỡng chế sát 
với tình hình vụ việc, đạt yêu cầu đặt ra. 
- Tùy vào tính chất của từng vụ việc, Chấp hành viên đề xuất lãnh đạo 
đơn vị để được hỗ trợ các công cụ, phương tiện, tăng cường nhân lực Chấp 
hành viên chủ động liên hệ thuê phương tiện, xe cứu thương, xe đưa đón đoàn 
cưỡng chế đi làm nhiệm vụ , thuê nhân công, mua vật liệu cần thiết. 
3.1.2. Bảo đảm công tác phối hợp cưỡng chế thi hành án 
Trên cơ sở nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, tổ chức trong thi hành án 
dân sự được quy định tại chương VIII của Luật THADS và được quy định chi 
tiết tại Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính phủ, quy định 
chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều Luật Thi hành án dân sự. Lãnh đạo 
Chi cục thi hành án dân sự huyện Krông Nô phải tham mưu cho UBND huyện 
Krông Nô thành lập và kiện toàn Ban chỉ đạo thi hành án dân sự, theo đó Ban chỉ 
đạo thi hành án dân sự có trách nhiệm giúp chủ tịch UBND huyện chỉ đạo công 
tác thi hành án dân sự trên địa bàn huyện và chỉ đạo công tác phối hợp thi hành 
án trên địa bàn huyện, đặc biệt là chỉ đạo phối hợp cưỡng chế đối với những vụ 
việc có tính chất phức tạp có ảnh hưởng đến an ninh, tật tự của địa phương. 
73 
 Công tác phối hợp thi hành án dân sự có ý nghĩa đặc biệt quan trọng 
trong quá trình cơ quan thi hành án tổ chức thi hành Bản án, quyết định, hiệu quả 
của công tác phối hợp ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả thực hiện nhiệm vụ của 
cơ quan thi hành án, do đó lãnh đạo, chấp hành viên phải xây dựng được mối 
quan hệ công tác với Chính quyền địa phương, các cơ quan, đơn vị trên địa bàn 
huyện, từ đó tranh thủ sự ủng hộ, phối hợp công tác, đặc biệt là công tác cưỡng 
chế thi hành án. Để cưỡng chế thi hành án đạt hiệu quả thì Chấp hành viên phải 
tranh thủ được công tác phối hợp, phối hợp trong việc động viên thuyết phục, 
xác minh điềukiện th hành án; tổ chức cưỡng chế thi hành án. 
3.1.3. Chú trọng tính hiểu quả thực tế 
Mục đích của việc cưỡng chế thi hành án dân sự là nhằm buộc người 
phải thi hành án thi hành Bản án, quyết định của Tòa án, đảm bảo quền lợi 
chính đáng của các bên đương sự, khôi phục quan hệ xã hội bị xậm phạm, vì 
vậy trong quá trình Chấp hành viên áp dụng các biện pháp cưỡng chế phải đạt 
được hiệu quả thực tế, đồng thời có ý nghĩa giáo dục, răn đe chung đối với 
người phải thi hành án có điều kiện thi hành mà không tự nguyện thi hành án. 
Tại Điều 13 của Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính phủ, 
quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều Luật Thi hành án dân sự, 
quy định: “Chấp hành viên căn cứ vào nội dung bản án, quyết định; quyết 
định thi hành án; tính chất, mức độ, nghĩa vụ thi hành án; điều kiện của 
người phải thi hành án; yêu cầu bằng văn bản của đương sự và tình hình thực 
tế của địa phương để lựa chọn việc áp dụng biện pháp bảo đảm, biện pháp 
cưỡng chế thi hành án thích hợp” 
Để đảm bảo tính hiệu quả thực tế của biện pháp cưỡng chế thi hành án, 
ngoài chọn việc áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án thích hợp thì trong 
quá trình tổ chức cưỡng chế, xử lý tài sản, Chấp hành viên cần thức hiện tác 
nghiệp đúng quy trình, linh hoạt để thu được hiểu quả cao nhất. 
74 
3.2. Giải pháp và kiến nghị để nâng cao hiệu quả công tác cưỡng 
chế thi hành án dân sự huyện Krông Nô 
3.2.1. Tiếp tục hoàn thiện pháp luật về thi hành án dân sự 
Hiệu quả công THADS phụ thuộc nhiều yếu tố khác nhau, trong đó yếu 
tố quan trọng là ở mức độ hoàn thiện của pháp luật, bao gồm pháp luật 
THADS và các văn bản pháp luật khác có liên quan. Trên cơ sở các vấn đề đã 
được phân tích tại Chương 1 và Chương 2 của luận văn cho thấy hệ thống 
pháp luật chưa đồng bộ, thống nhất. Giữa pháp luật về thi hành án dân sự và 
các văn bản pháp luật có liên quan còn nhiều điểm thống nhất nên chưa tạo 
được sự tương hỗ lẫn nhau. Hệ quả là công tác thi hành án gặp nhiều vướng 
mắc trở ngại, và do đó, ở một khía cạnh khác, một số quy định của các văn 
bản pháp luật chuyên ngành cũng chưa được thực thi, chưa phát huy hiệu quả 
tích cực trong đời sống xã hội. Bên cạnh đó, một số vấn đề chưa được điều 
chỉnh cụ thể trong luật thi hành án làm hạn chế sự tham gia của các cơ quan, 
tổ chức có liên quan vào hoạt động thi hành án,v.v... Những vấn đề bất cập đó 
cho thấy để công tác thi hành án dân sự nói chung và cưỡng chế thi hành án 
dân sự trên địa bàn huyện Krông Nô nói riêng đạt hiệu quả thì cơ chế pháp 
luật hiện hành điều chỉnh công tác thi hành án cần được nghiên cứu, rà soát và 
từng bước sửa đổi, bổ sung. 
- Một số kiến nghị về hoàn thiện pháp luật để nâng cao hiệu quả 
công tác cưỡng chế thi hành án dân sự huyện Krông Nô 
Trên cơ sở phân tích những điểm bất cập, chúng tôi đề xuất giải pháp 
hoàn thiện pháp luật về thi hành án dân sự và các văn bản pháp luật có liên 
quan như sau: 
+ Tăng cường việc nghiên cứu, triển khai chủ trương của Đảng về xây 
dựng văn bản pháp luật chung điều chỉnh hoạt động Thi hành án và chủ 
trương thống nhất đầu mối quản lý công tác thi hành án. 
75 
Sau gần hai mươi năm tiến hành sự nghiệp đổi mới, dưới sự lãnh đạo 
của Đảng, công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đã có những 
tiến bộ quan trọng. Quy trình ban hành các văn bản quy phạm pháp luật được 
đổi mới. Nhiều bộ luật, luật được ban hành đã tạo khuôn khổ pháp lý ngày 
càng hoàn chỉnh hơn để Nhà nước quản lý bằng pháp luật trên các lĩnh vực 
kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng, đối ngoại... Nguyên tắc pháp quyền xã 
hội chủ nghĩa từng bước được đề cao và phát huy trên thực tế. Công tác phổ 
biến và giáo dục pháp luật được tăng cường đáng kể. Những tiến bộ đó đã góp 
phần thể chế hóa đường lối của Đảng, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý 
điều hành của Nhà nước, đẩy mạnh phát triển kinh tế, giữ vững ổn định chính 
trị - xã hội của đất nước. 
+ Hoàn thiện Luật thi hành án dân sự và các văn bản hướng dẫn thi 
hành 
Có thể nói rằng, qua thực tiễn hai năm triển khai Luật Thi hành án dân 
sự đã có khá hiều vấn đề vướng mắc, bất cập xuất phát từ quy định của Luật 
Thi hành án dân sự và các văn bản hướng dẫn thi hành. Ở khía cạnh đánh giá 
về Luật Thi hành án dân sự trong tổng thể các mối quan hệ với hệ thống pháp 
luật, một số quy định của Luật Thi hành án dân sự và các văn bản hướng dẫn 
thi hành cần được hoàn thiện theo hướng: 
Thứ nhất: Sửa đổi các quy định về việc kê biên tài sản đã có giao dịch 
chuyển quyền sở hữu tài sản, tại khoản 1 Điều 24 của Nghị định số 
62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015, quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số 
điều Luật Thi hành án dân sự: “Kể từ thời điểm bản án, quyết định có hiệu lực 
pháp luật, nếu người phải thi hành án chuyển đổi, tặng cho, bán, chuyển 
nhượng, thế chấp, cầm cố tài sản cho người khác mà không sử dụng khoản 
tiền thu được để thi hành án và không còn tài sản khác hoặc tài sản khác 
không đủ để đảm bảo nghĩa vụ thi hành án thì tài sản đó vẫn bị kê biên, xử lý 
76 
để thi hành án, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Khi kê biên tài 
sản, nếu có người khác tranh chấp thì Chấp hành viên thông báo cho đương 
sự, người có tranh chấp thực hiện theo quy định tại Khoản 1 Điều 75 Luật 
THADS. Trường hợp đã bị áp dụng biện pháp ngăn chặn, biện pháp khẩn cấp 
tạm thời, biện pháp bảo đảm thi hành án, biện pháp cưỡng chế thi hành án 
mà tài sản bị chuyển đổi, tặng cho, bán, chuyển nhượng, thế chấp, cầm cố 
cho người khác thì tài sản đó bị kê biên, xử lý để thi hành án; Chấp hành viên 
có văn bản yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch đối với tài sản đó vô hiệu hoặc 
yêu cầu cơ quan có thẩm quyền hủy giấy tờ liên quan đến giao dịch đối với 
tài sản đó” 
Về mặt lý luận, có thể nói quy định như trên nhằm hạn chế việc đương 
sự tẩu tán tài sản, trốn tránh nghĩa vụ thi hành án, gây khó khăn cho công tác 
thi hành án. Đồng thời nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của người dân với 
mục đích cuối cùng là bảo đảm hiệu lực thi hành trên thực tế các bản án quyết 
định của Tòa án. Mặc dù vậy, khi áp dụng các quy định trên vào thực tế đã 
gặp không ít khó khăn, vướng mắc, do thiếu các quy định chi tiết, cũng như 
thiếu sự thống nhất giữa các văn bản pháp luật. Trong thực tiễn công tác thi 
hành ándân sự, biện pháp kê biên tài sản được áp dụng khi người phải thi 
hành án phải thi hành nghĩa vụ trả tiền và mặc dù người này có điều kiện thi 
hành (có tài sản) nhưng không tự nguyện thi hành. Để tiến hành kê biên tài 
sản, Chấp hành viên hoặc người được thi hành án phải tiến hành xác minh tài 
sản của người phải thi hành án và khi có căn cứ cho thấy người phải thi hành 
án có tài sản nhưng không tự nguyện thi hành án thì Chấp hành viên mới tiến 
hành kê biên để thi hành án Do đó, căn cứ để xác định một tài sản có phải là 
của người phải thi hành án hay không là rất quan trọng vì Chấp hành viên chỉ 
kê biên, xử lý tài sản khi có căn cứ xác định tài sản đó thuộc quyền sở hữu, 
quyền sử dụng đối với tài sản là đất đai hợp pháp của người phải thi hành án. 
77 
Theo quy định của pháp luật, để xác định chủ sở hữu tài sản phải căn cứ theo 
quy định tại Điều 160 Bộ luật Dân sự quy định về căn cứ xác lập quyền sở 
hữu, đồng thời, tại Điều 161 Bộ luật Dân sự quy định về thời điểm xác lập 
quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản. Để tiến hành kê biên xử lý tài sản 
của người phải thi hành án theo hướng dẫn tại khoản 1 Điều 24 của Nghị định 
số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 nói trên thì cần sớm có một văn bản hướng 
dẫn cụ thể để hủy bỏ giao dịch (kể cả giao dịch hợp pháp và giao dịch không 
hợp pháp) giữa người phải thi hành án với người nhận chuyển quyền sở hữu 
tài sản. Lúc đó mới có đủ cơ sở xác định tài sản đã giao dịch là tài sản thuộc 
quyền sở hữu hợp pháp của người phải thi hành án làm căn cứ cưỡng chế kê 
biên xử lý tài sản để thi hành án, tạo điều kiện cho Chấp hành viên tổ chức thi 
hành án nhanh chóng, đúng pháp luật đảm quyền và lợi ích chính đáng cho 
các bên đương sự. 
Thứ hai: Tại điểm b khoản 1 Điều 99 Luật THADS quy định về quyền 
yêu cầu định giá lại của đương sự. “ Đương sự có yêu cầu định giá lại trước 
khi có thông báo công khai về việc bán đấu giá tài sản. Yêu cầu định giá lại 
chỉ được thực hiện một lần và chỉ được chấp nhận nếu đương sự có đơn yêu 
cầu trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được thông báo về kết 
quả thẩm định giá và phải nộp ngay tạm ứng chi phí định giá lại tài sản” [41, 
tr43]. 
Theo quan điểm của cá nhân tôi, để hạn chế việc đương sự cố tình kéo 
dài thời gian thi hành án một cách hợp pháp gây khó khăn cho công tác thi 
hành án bằng quyền yêu cầu định giá lại, đề nghị bổ sung thêm quy định buộc 
đương sự phải nêu ra lý do làm căn cứ cho yêu cầu của mình. 
Thứ ba: Tại khoản 2 Điều 95 uật THADS quy định về quy định về kê 
biên nhà ở của người phải thi hành án: “. Trường hợp nhà ở gắn liền với 
đất thuộc quyền sử dụng của người khác thì Chấp hành viên chỉ kê biên nhà ở 
78 
và quyền sử dụng đất để thi hành án nếu người có quyền sử dụng đất đồng ý. 
Trường hợp người có quyền sử dụng đất không đồng ý thì chỉ kê biên nhà ở 
của người phải thi hành án, nếu việc tách rời nhà ở và đất không làm giảm 
đáng kể giá trị căn nhà”. Quy định như trên là chưa đảm bảo quyền lợi của 
người phải thi hành án và chưa chặt chẽ, trong trường hợp nếu người có 
quyền sử dụng đất không đồng ý thì việc kê biên quyền sử dụng đất của người 
phải thi hành án thiếu căn cứ và việc xử lý quyền sử dụng đất thì ai phải chịu 
chi phí, do đó trong nhiều trường hợp Chấp hành viên chỉ kê biên nhà ở, 
không kê biên quyền sử dụng đất làm cho giá trị nhà ở của người phải thi 
hành án khi định giá thì có giá trị cao, nhưng không bán được nên hạ giá 
nhiều lần dẫn đến thiệt hại cho người phải thi hành án. 
Theo quan điểm của tôi, trước khi người có quyền sử dụng đất chấp 
nhận để quyền sử dụng đất của mình gắn liền với công trình nhà ở của người 
phải thi hành án thì họ đã ý thức được rằng nếu có rủi ro của một trong hai 
bên thì sẽ ảnh hưởng đến quyền sở hữu tài sản của bên còn lại, do đó cả hai 
bên phải chấp nhận ảnh hướng và phải chấp nhận việc kê biên cả nhà ở và cả 
quyền sử dụng đất. Vì vậy tôi đề nghị sửa quy định nêu trên theo hướng khi 
kê biên nhà ở của người phải thi hành án thì kê biên cả quyền sử dụng sử 
dụng đất của người khác, sau khi xử lý xong quyền sử dụng đất thanh toán giá 
trị quyền sử dụng đất được cho chủ sở hữu. 
Thứ tư: Tăng thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực 
thi hành án dân sự. Cụ thể: Sửa quy định về thẩm quyền xử lý vi phạm hành 
chính trong lĩnh vực thi hành án dân sự đối với các hành vi quy định mức phạt 
tiền từ 2.000.000đ đến 5.000.000đ tại Điều 68 của Nghị định số 
110/2013/NĐ-CP ngày 24/9/2013 của Chính phủ, quy định xử phạt vi phạm 
hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân và gia 
đình, thi hành án dân sự, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã. Đây là điều kiện 
79 
cần thiết để Chấp hành viên có cơ sở thực hiện áp dụng biện pháp cưỡng chế 
Buộc người phải thi hành án thực hiện hoặc không thực hiện công việc nhất 
định. Ngoài ra, là một trong những chế định quan trọng của pháp luật nhằm 
đấu tranh phòng và chống các vi phạm hành chính, giữ vững an ninh, trật tự 
an toàn xã hội, góp phần đưa các bản án, quyết định có hiệu lực của Toàn án 
được thực thi trên thực tế, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của công 
dân.Tuy nhiên, trên thực tế việc xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động 
thi hành ándân sự vẫn chưa thực sự đi vào đời sống xã hội, chưa đáp ứng 
được mục tiêu đặt ra là răn đe, phòng ngừa vi phạm để từ đó nâng cao hiệu 
lực quản lý Nhà nước. Cho đến nay việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn xử 
phạt vi phạm hành chính trong hoạt động tư pháp chưa nhiều; cơ quan thanh 
tra chuyên ngành tư pháp còn rất ít khi thực hiện thẩm quyền đó. Thực tiễn, 
khi phát hiện hành vi vi phạm hành chính trong hoạt động thi hành án dân sự, 
một số người có thẩm quyền còn nhiều lúng túng khi vận dụng các quy định 
của pháp luật để xử phạt. Trong khi đó, ý thức chấp hành pháp luật của một 
bộ phận lớn những người phải thi hành án và người có quyền lợi, nghĩa vụ 
liên quan trong các hoạt động thi hành án dân sự còn chưa cao; tại nhiều địa 
phương, đã để xảy ra tình trạng chống đối cơ quan thi hành án bằng nhiều 
hình thức từ những việc như cố tình không nhận giấy báo, giấy triệu tập của 
cơ quan thi hành án. đến những hành vi nghiêm trọng hơn như phân tán hoặc 
làm hư hỏng tài sản thuộc diện kê biên để không thực hiện nghĩa vụ thi hành 
án, thậm chí là phá hủy niêm niêm phong, hủy hoại tài sản đã kê biên... Thực 
tế đó đã chứng tỏ vi phạm hành chính trong lĩnh vực này không những chưa 
giảm mà còn có xu hướng ngày càng nhiều hơn và phức tạp hơn 
Thứ năm: Hoàn thiện các văn bản pháp luật có liên quan đến hoạt động 
thi hành án dân sự Bên cạnh việc hoàn thiện các quy định của Luật Thi hành 
án dân sự, một số quy định trong các văn bản pháp luật có liên quan đến công 
80 
tác thi hành án như Bộ luật Dân sự, Bộ luật Tố tụng dân sự, Bộ luật Hình sự, 
Bộ luật Tố tụng hình sự, Luật Đất đai, Luật Nhà ởv.v... cũng cần được nghiên 
cứu, rà soát và sửa đổi, bổ sung nhằm tạo cơ sở pháp lý thống nhất, đồng bộ, 
tăng cường hiệu quả công tác thi hành án dân sự. 
Luật các tổ chức tín dụng năm 2010: Bổ sung quy định cụ thể về trách 
nhiệm, phối hợp kịp thời với cơ quan thi hành án dân sựcung cấp đúng, đầy 
đủ, kịp thời thông tin, số liệu về tài khoản của người phải thi hành án và chế 
tài với các vi phạm. 
Luật bảo hiểm xã hội:Bổ sung quy định cụ thể về việc khấu trừ tài sản 
của người phải thi hành án theo quyết định của chấp hành viên và hủy bỏ 
những văn bản có nội dung chưa phù hợp với quy định của Luật Thi hành án 
dân sự. 
Hoàn thiện cơ chế quản lý tài sản, thu nhập của cá nhân theo hướng 
phần lớn thu nhập, chi tiêu của cá nhân được thực hiện thông qua tài khoản, 
cơ quan thi hành án có quyền hạn chế các giao dịch của người phải thi hành 
án trong giai đoạn chưa hoàn thành nghĩa vụ, khấu trừ tài khoản của người 
phải thi hành án. 
Đẩy nhanh tiến độ ban hành văn bản hướng dẫn thi hành Luật Thi hành 
án dân sự và các Nghị định của Chính phủ quy định chi tiết Luật này, trong đó 
tập trung vào các văn bản sau đây: Thông tư liên tịch giữa Bộ Tư pháp, Bộ 
Tài chính, Bộ Công an hướng dẫn trại giam, trại tạm giam thu, nộp, quản lý 
và sử dụng tiền thi hành án. 
* Thông tư liên tịch giữa Bộ Tư pháp, Bộ Công an hướng dẫn bảo vệ 
cưỡng chế thi hành án. 
* Thông tư liên tịch giữa Bộ Tài chính và Bộ Tư pháp hướng dẫn cơ 
chế quản lý tài chính về kinh phí tổ chức cưỡng chế thi hành án dân sự. 
81 
* Tiếp tục quán triệt, tuyên truyền sâu rộng Luật Thi hành án dânsự và 
các văn bản hướng dẫn thi hành để các tổ chức, cá nhân nhận thức đúng, đầy 
đủ hơn quyền và nghĩa vụ, trách nhiệm trong công tác thi hành án dân sự 
3.2.2. Xác định rõ trách nhiệm của các chủ thể trong cưỡng chế thi 
hành án dân sự 
Trong hoạt động cưỡng chế THADS được chia thành nhiều giai đoạn 
và có mối quan hệ làm tiền đề cho nhau, đó là: Ban hành quyết định cưỡng 
chế; Tổ chức thực hiện quyết định cưỡng chế; Xử lý tài sản cưỡng chế. Theo 
quy định tại của Luật THADS thì thẩm quyền ban hành quyết định cưỡng 
chế; tổ chức thực hiện quyết định cưỡng chế do Chấp hành viên tiến hành; Xử 
lý tài sản cưỡng chế do Chấp hành viên hoặc ký hợp ủy quyền cho tổ chức 
thẩm định giá và tổ chức bàn đấu giá. 
Các chủ thể trong cưỡng chế THADS được xác định theo nhiều tiêu chí 
khác nhau, tuy nhiên trong phạm vi luận văn tôi xác định chủ thể cưỡng chế 
THADS theo tiêu chí trách nhiệm, gồm có: Người thi hành công vụ là Chấp 
hành viên; người bị cưỡng chế là người phải thi hành án hoặc người giữ tài 
sản của người phải thi hành án; người được hưởng quyền lợi từ việc cưỡng 
chế là người được thi hành án. Ngoài ra còn có các cơ quan phối hợp cưỡng 
chế, người được Chấp hành viên ủy quyền xử lý tài sản cưỡng chế. Việc xác 
định các chủ thể trong cưỡng chế THADS có ý nghĩa về mặt pháp lý và thực 
tiễn, từ đó nâng cao trách nhiệm của từng chủ thể, cụ thể: Trách nhiệm phải 
thực hiện theo quy định của pháp luật và trách nhiệm bồi thường, đặc biệt là 
bồi thường nhà nước trong quá trình thi hành công vụ mà có lỗi và dẫn đến 
thiệt hại cho tổ chức, cá nhân có liên quan. 
Hiện nay Luật thi hành án dân sự năm 2008, được sửa đổi, bổ sung năm 
2014 chưa có quy định về trách nhiệm bồi thường trong hoạt động thi hành án 
dân sự, việc bồi thường trong hoạt động thi hành án dân sự được thực hiện 
82 
theo quy định của Luật trách nhiệm bồi thường của nhà nước năm 2009 và 
Thông tư liên tịch số 17/2015/TTLT-BTP-BQP ngày 07/12/2015 của Bộ Tư 
pháp, Bộ Quốc phòng, hướng dẫn thực hiện trách nhiệm bồi thường Nhà nước 
trong hoạt động thi hành án dân sự, do đó việc xác định đối tượng bồi thường, 
trách nhiệm bồi thường, phạm vi bồi thường và thủ tục bồi thường trong hoạt 
động thi hành án dân sự còn nhiều bất cập và khó khăn. 
Theo quy định của pháp luật về trách nhiệm bồi thường của nhà nước 
(TNBTCNN) thì một trong những căn cứ để thực hiện quyền yêu cầu bồi 
thường đó là khi có văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định 
hành vi của người thi hành công vụ là trái pháp luật. Tuy nhiên, thực tế cho 
thấy, quy định này chưa thực sự tạo được thuận lợi cho người bị thiệt hại 
trong lĩnh vực thi hành án dân sự thực hiện quyền yêu cầu bồi thường. Để có 
được văn bản xác định hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ, thì 
người bị thiệt hại phải trải qua rất nhiều giai đoạn phức tạp. Pháp luật về 
TNBTCNN trong hoạt động THADS quy định 06 loại văn bản xác định hoặc 
làm cơ sở để xác định người thi hành công vụ có hành vi trái pháp luật được 
quy định tại Điều 3 Thông tư liên tịch số 17/2015/TTLT-BTP-BQP ngày 
07/12/2015 của Bộ Tư pháp, Bộ Quốc phòng hướng dẫn thực hiện trách 
nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động thi hành án dân sự:“Văn bản 
của cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định hành vi của người thi hành 
công vụ là trái pháp luật là các văn bản đã có hiệu lực pháp luật sau đây: 1. 
Quyết định thu hồi, sửa đổi, bổ sung, hủy các quyết định trái pháp luật về thi 
hành án dân sự; 2. Quyết định giải quyết khiếu nại của người có thẩm quyền 
theo quy định của Luật Thi hành án dân sự năm 2008 đã được sửa đổi, bổ 
sung năm 2014 (sau đây gọi tắt là Luật Thi hành án dân sự);3. Kết luận nội 
dung tố cáo của người có thẩm quyền theo quy định của Luật Thi hành án 
dân sự; 4. Kết luận thanh tra giải quyết vụ việc khiếu nại, tố cáo của cơ quan 
83 
nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về thanh tra; 5. Văn bản 
của Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền trả lời chấp nhận 
kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân có thẩm quyền đã ra kháng nghị theo 
quy định của Luật Thi hành án dân sự;6. Bản án, quyết định của Toà án có 
thẩm quyền đã có hiệu lực pháp luật”. Sau khi có đủ căn cứ thực hiện quyền 
yêu cầu bồi thường là văn bản xác định hành vi trái pháp luật của người thi 
hành công vụ, tiếp theo đó là một chuỗi các thủ tục như nộp hồ sơ yêu cầu bồi 
thường sau khi có đủ căn cứ thực hiện quyền yêu cầu bồi thường, thương 
lượng việc giải quyết bồi thường 
- Kiến nghị để nâng cao trách nhiệm của các chủ thể trong cưỡng 
chế thi hành án dân sự huyện Krông Nô 
Hoạt động thi hành án dân sự là hoạt động có tính đặc thù và nhãy cảm, 
đặc biệt là trong cưỡng chế thi hành án, dễ gây ra thiệt hại khi thi hành công 
vụ, do đó Luật THADS cần bổ sung quy định về trách nhiệm bối thường của 
nhà nước trong lĩnh vực thi hành án, từ đó nâng cao trách nhiệm của các chủ 
thể trong cưỡng chế thi hành án dân sự. 
Pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước chưa đặt ra quy 
định để bồi thường cho thân nhân của người bị thiệt hại đã chết, ngoài thiệt 
hại của người đã chất thì những thiệt hại về vật chất và tinh thần mà người bị 
thiệt hại phải gánh chịu khi còn sống cũng ảnh hưởng rất lớn đến thân nhân 
của họ, Nhà nước cũng chưa thực hiện được việc tự chịu trách nhiệm trước 
người dân đối với hành vi của mình. Đây cũng là vấn đề mà pháp luật về 
TNBTCNN hiện hành chưa quy định rõ, khiến cho người bị thiệt hại và thân 
nhân của họ sẽ phải chịu những tổn thất về vật chất và tinh thần khi người bị 
thiệt hại qua đời. 
3.2.3. Nâng cao năng lực áp dụng pháp luật của Chấp hành viên 
84 
Chấp hành viên là người được Nhà nước giao nhiệm vụ tổ chức thi 
hành Bản án, quyết định của Tòa án, là trung tâm của quá trình tổ chức thi 
hành án; khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, Chấp hành viên phải 
tuân theo pháp luật, chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thi hành án và 
được pháp luật bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và uy tín. 
Quá trình tổ chức thi hành án thành án, Chấp hành viên phải tuân theo 
trình tự, thủ tục được pháp luật thi hành án dân sự quy đinh, đồng thời phải 
đảm bảo đúng quy định của các chế định pháp luật khác có liên quan, như 
Luật đất đai; Bộ luật dân sự; Luật nhà ở; Luật bán đấu giá tài sản  Như vậy, 
ngoài việc Chấp hành viên phải nắm vững Pháp luật THADS thì phải có kiến 
thức sâu rộng các chế định pháp luật khác có liên quan và có khả năng áp 
dụng pháp luật đạt hiệu quả tốt. Nhận thấy tầm quan trọng và ý nghĩa của việc 
khả năng áp dụng pháp luật của Chấp hành viên trong việc tổ chức thi hành án 
và đặc biệt là trong việc cưỡng chế thi hành án, đòi hỏi bản thân Chấp hành 
viên phải thường xuyên học tập, tích lũy kiến thức, kinh nghiệp và bản lĩnh 
chính trị. 
Để nâng cao hiệu quả công tác thi hành án nói chung và cưỡng chế thi 
hành án nói riêng thì giải pháp nâng cao khả năng áp dụng pháp luật của Chấp 
hành viên là một giải pháp trọng tâm mang lại nhiều hữu ích, giải pháp này 
đòi hỏi Chấp hành viên thường xuyên nâng cao ý thức học tập, tích lũy kinh 
nghiệm. Bên cạnh đó sự hỗ trợ từ cơ chế chính sách của Đảng và Nhà nước 
cũng hết sức quan trọng và có tính chất bản lề của giải pháp, như chính sách 
thu hút nhân tài, chính sách đãi ngộ, công tác cán bộ, công tác đào tạo, bồi 
dưỡng cán bộ cũng cần được quan tâm, chăm lo đúng mức. 
- Kiến nghị nâng cao khả năng áp dụng pháp luật của Chấp hành 
viên trên địa bàn huyện Krông Nô 
85 
Có chính sách thu hút, chế độ đãi ngỗ thoả đáng đối với Cán bộ, công 
chức làm công tác thi hành án, làm cho cán bộ, công chức thi hành án an tâm 
công tác, công hiến hết mình, đồng thời đề cao công tác bảo vệ cán bộ, bởi 
quá trình Chấp hành viên tổ chức thi hành án, cưỡng chế thi hành án tiềm ẩn 
nhiều rủi ro khách quan cho bản thân Chấp hành viên cũng như cán bộ, công 
chức làm công tác thi hành án dân sự. Trên cơ sở chức năng nhiệm vụ, đề án 
vị trí việc làm và quy hoạch đã được xây dụng, Lãnh đạo Tổng cục thi hành 
án dân sự và Cục thi hành án dân sự tỉnh Đăk Nông phải xây dựng kế hoạch 
đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ, công chức làm công tác thi hành án, 
tào điều kiện thuận lợi đề cán bộ, công chức có điều kiện tự học tập, nhgiên 
cứu. Tạo ra nhiều phong trào, cuộc thi để cán bộ, công chức có cơ hội học tập 
và học hỏi lẫn nhau. 
Lãnh đạo Chi cục thi hành án dân sự huyện Krông Nô phải bám sát 
nhiệm vụ chuyên môn của đơn vi, tạo sự đoàn kết, thống nhất cao trong đơn 
vị, từ đó khắc phục khó khăn hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị, đồng thời 
phát hiện nhân rỗng những tấm gương tiêu biểu và kèm cặp, tạo điều kiện 
những cán bộ, công chức chưa đáp ứng được yêu cầu tiếp tục tu dưỡng, rèn 
luyện. 
Cán bộ, công chức Chi cục thi hành án dân sự huyện Krông Nô, đặc 
biệt là Chấp hành viên phải thường xuyên học tập nâng cao trình độ nghiệp 
vụ, tu dưỡng đạo đức nghề nghiệp và bám sát cơ sở, địa bàn được phân công 
phụ trách, cương quyết trong việc tổ chức thi hành án. 
3.2.4. Các giải pháp khác 
- Đổi mới thủ thục thi hành án, đặc biệt là thủ tục cưỡng chế thi hành 
án. 
Theo pháp luật thi hành án dân sự hiện nay thì thủ tuc, thi hành án rất 
phưc tạp, để tổ chức thi hành bản án, quyết định của Tòa án thì phải trải qua 
86 
nhiều giải đoạn khác nhau, như nộp đơn yêu cầu thi hành án, thụ lý thi hành 
án, phân công chấp hành viên tổ chức thi hành, chấp hành viên tiến hành thiết 
lập hồ sơ thi hành án, thông báo thi hành án, động viên, thuyết phục thi hành 
án, xác minh điều kiện thi hành án, nếu người phải thi hành án có điều kiện 
thi hành mà không tự nguyện thì hành án thì xây dựng hồ sơ cưỡng chế thi 
hành án qua các bước cơ bản như trên cho thấy thủ tục thi hành án phải qua 
nhiều giai đoạn khác nhau, trong khi trước đó các cơ quan tiến hành tố tụng 
(Công an, Viện kiểm sát, Tòa án) đã thực hiện nhiều biện pháp nghiệp vụ 
khác nhau. Việc kéo dài thời gian thi hành án ảnh hưởng đến quyền lợi của 
người được thi hành án và giảm giá trị thực tiễn của bán án, quyết định của 
Tòa án. Theo quan điểm của tôi để nâng cao hiệu quả công tác thi hành án thì 
cần đổi mới thủ thục thi hành án, đặc biệt là thủ tục cưỡng chế thi hành án. 
- Phát huy vai trò của Thừa phát lại. Qua thời gian thí điểm thực hiện 
chế định thừa phát lại tại một số địa phương cho thấy, thừa phát lại có vai trò 
và ý nghĩa trong tiến hành tố tụng và công tác thi hành án dân sự. Trên cơ sở 
đó Quốc Hội đã ban hành Nghị quyết số 107/2015/QH13 ngày 26/11/2015 về 
thực hiện chế định thừa phát lại, theo đó Thừa phát lại được xem là một nghề 
và triển khai trên phạm vi cả nước, Thừa phát lại thực hiện việc tống đạt theo 
yêu cầu của Tòa án hoặc Cơ quan thi hành án dân sự; Lập vi bằng theo yêu 
cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức; Xác minh điều kiện thi hành án theo yêu 
cầu của đương sự; Trực tiếp tổ chức thi hành các bản án, quyết định của Tòa 
án theo yêu cầu của đương sự. 
Hiện nay trên địa bàn tỉnh Đắk Nông, cũng như huyện Krông Nô chưa 
có tổ chức thừa phát lại hoạt đông. Để nân cao hiệu quả công tác thi hành án 
nói chung và cưỡng chế thi hành án dân sự trên địa bàn huyện Krông Nô tôi 
đề nghị UBND tỉnh Đắk Nông tạo điều kiện để các tổ chức, cá nhân có nhiều 
87 
thuận lợi thực hiện, triển khai và phát triển dịch vụ thừa phát lại trên phạm vi 
toàn tỉnh. 
- Xử lý nghiêm đối với những trường hợp cản trở, không chấp hành án. 
Các cơ quan tư pháp đặc biệt là các cơ quan Công an, Viện kiểm sát, 
Tòa án cần kiên quyết đưa ra và xét xử nghiêm những trường hợp cản trở, 
chống đối và không chấp hành án nhằm lập lại kỷ cương thi hành án, góp 
phần tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Đúng như Chỉ thị số 20/CT-TTg 
ngày 11/9/2001 của Thủ tướng Chính phủ, về tăng cường và nâng cao hiệu 
quả công tác thi hành án dân sự đã nêu rõ: Các cơ quan, tổ chức kể cả các cơ 
quan nhà nước phải tự nguyện thi hành án, nếu không tự nguyện thi hành án, 
thì Cơ quan thi hành án áp dụng các biện pháp tổ chức thi hành án theo quy 
định của Pháp luật. Các cơ quan, tổ chức cá nhân cố tình dây dưa, cản trở hoạt 
động thi hành án, cần được xử lý nghiêm minh theo quy định của pháp luật. 
Đói với những cá nhân gây cản trở, chống đối việc thi hành án, mà có đầy đủ 
dấu hiệu cấu thành tội phạm, thì phải kiên quyết truy cứu trách nhiệm hình sự, 
tổ chức xét xử lưu động một số vụ điển hình để tuyện tuyền rộng rãi, làm 
gương cho những đối tượng khác. 
- Xây dựng quy chế phối hợp chặt chẽ, thông tin thường xuyên giữa Cơ 
quan thi hành án, người được thi hành án với cơ quan đăng ký quyền sở hữu, 
cơ quan đăng ký giao dịch bản đảm, cơ quan công chứng, các tổ chức tín 
dụng  nhằm phối hợp công tác, ngăn chặn kịp thời đương sự tẩu tán tài sản, 
tạo điều kiện thuận lợi cho Cơ quan thi hành án trong quá trình thực thi nhiệm 
vụ. 
- Tăng thêm thẩm quyền cho cơ quan thi hành án và Chấp hành viên 
như: Cho phép cơ quan thi hành án được áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời 
trước khi Tòa án thụ lý vụ án theo yêu cầu của đương sự trong trường hợp có 
dấu hiệu tẩu tán tài sản, với điều kiện người yêu cầu phải chịu trách nhiệm về 
88 
tính chính xác của sự kiện, phải thanh toán các chi phí cần thiết cũng như bồi 
thường thiệt hại xảy ra do yêu cầu không đúng; cho phép Chấp hành viên 
được áp dụng biện pháp chế tài với người thứ ba, trong trường hợp không 
thực hiện yêu cầu của Chấp hành viên. 
- Đẩy mạnh công tác giáo dục thuyết phục đối tượng phải thi hành án tự 
nguyện thi hành án; Thường xuyên rà soát phân loại án để có biện pháp xử lý 
kịp thời theo quy định của pháp luật; phân tích nguyên nhân và xác định rõ 
phương thức giải quyết đối với từng loại án; Tăng cường Chấp hành viên, 
Chuyên viên xuống địa bàn được phân công phụ trách để xử lý kịp thời các hồ 
sơ tồn đọng, hồ sơ có điều kiện thi hành mà đương sự không tự nguyện thi 
hành án. 
89 
KẾT LUẬN 
Hoạt động THADS là hoạt động hành chính - tư pháp, là giai đoạn cuối 
của quá trình tố tụng, nhằm đảm bảo bản án, quyết định của Tòa án, Hội đồng 
xử lý vụ việc cạnh tranh, Trọng tài thương mại ra thi hành trên thực tế. Xuất 
phát từ đặc điểm của quan hệ dân sự, nên quyền tự định đoạt dân sự, quyền tự 
thỏa thuận của đương sự là những quyền cơ bản được pháp luật thi hành án 
dân sự ưu tiên thực hiện, trong trường hợp các bên đương sự không tự nguyện 
thực hiện, không thỏa thuận được thì Cơ quan THADS áp dung các biện pháp 
cưỡng chế đảm bảo quyền, lợi ích người được THA, khôi phục lại tình trạng 
ban đầu của quan hệ xã hội bị xâm hại. 
Trải qua chặng đường hình thành và phát triển, ngành thi hành án dân 
sự nước ta ban đầu do Ban tư pháp xã đảm nhiệm, đến nay đã có cơ cấu tổ 
chức chặt chẽ từ Trung ương đến địa phương, đội ngũ cán bộ, công chức đáp 
ứng được yêu cầu trong thời kỳ mới, kết quả công tác ngày một khởi sắc. Đạt 
được những thành quả đó trước hết là nhờ sự quan tâm sâu sắc của Đảng và 
Nhà nước, sự đoàn kết, phấn đấu của tập thể cán bô công chức, các quy định 
pháp luật thi hành án ngày một hoàn thiện, trong đó các biện pháp cưỡng chế 
thi hành án cũng được quy định chặt chẽ hơn, đảm bảo quyền lợi chính đáng 
cho đương sự, người có liên quan. Tuy biện pháp cưỡng chế thi hành án là 
biện pháp nghiêm khắc, trực tiếp tác động đến tài sản, hành vi của người phải 
thi hành án, nhưng đây là biện pháp cần thiết để buộc người phải thi hành án 
thực nghĩa vụ thi hành án, góp phần đảm bảo hiệu quả, hiệu lực Bản án, quyết 
định của Toà án được thi hành, tôn trọng; Bên cạnh đó, biên pháp cưỡng chế 
THADS còn mang ý nghĩa tuyên truyền, giáo dục, răn đe chung cho xã hội 
trong việc THADS. 
Huyện Krông Nô là huyện cách xa trung tâm tỉnh Đắk Nông, kinh tế 
chậm phát triển, có cơ cấu dân cư đa dạng, nhưng có số lượng vụ việc thi 
90 
hành án lớn, phức tạp. Trong những năm qua công tác thi hành án dân sự trên 
địa bàn huyện Krông Nô tuy đạt và vượt chỉ tiêu do Bộ Tư Pháp giao, tuy vậy 
số lượng án tồn đọng năm trước chuyển sang năm sau còn cao, số lượng vụ 
việc phải áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án nhiều, việc áp dụng trình 
tự, thủ tục cưỡng chế, xử lý tài sản thi hành án chưa đảm bảo chặt chẽ, trong 
đó có cả nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan. 
Từ việc phân tích các vấn đề lý luận về cưỡng chế THADS, đanh giá 
thực trạng cưỡng chế THADS trên địa bàn huyện Krông Nô, tỉnh Đắk Nông 
luận văn đã phân tích, đánh giá đối với 06 biện pháp cưỡng chế THADS, 
đồng thời đề xuất những giải pháp nhằm tiếp tục đổi mới, hoàn thiện các quy 
định pháp luật về cưỡng chế thi hành án, nâng cao hiệu quả công tác THADS, 
những giải pháp cụ thể là: Tiếp tục hoàn thiện pháp luật về thi hành án dân sự; 
Xác định rõ trách nhiệm của các chủ thể trong cưỡng chế thi hành án dân sự; 
Nâng cao năng lực áp dụng pháp luật của Chấp hành viên; Xây dựng phương 
án kiểm soát tài sản của người THA; Áp dụng khoa học công nghệ vào công 
tác THDA; Thường xuyên rà soát, phân loại án; Nêu cao tinh thần trách 
nhiệm của Chấp hành viên; Đẩy mạnh công tác giáo dục thuyết phục đối 
tượng phải THA; Tranh thủ sự phối hợp công tác THADS; Lập danh sách 
người phải THA gửi từng địa phương. Trên cơ sở những giải pháp trên, luận 
văn cũng đã phân tích và có kiến nghị nhằm đảm bảo tính khả thi của các giải 
pháp trong thực tiễn. Hy vọng luận văn là tài liệu tham khảo có giá trị trong 
lĩnh vực cưỡng chế THADS nói chung, trên địa bàn huyện Krông Nô, tỉnh 
Đắk Nông nói riêng./. 
91 
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam (2002), Nghị quyết 
08-NQ/TW ngày 02 thảng 01 năm 2002 của Bộ Chính trị về một số 
nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới. Nxb chính trị 
quốc gia, Hà Nội. 
2. Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam (2004), Văn kiện Hội 
nghị lần thứ Chín Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX, Nxb 
chính trị quốc gia, Hà Nội. 
3. Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 
48-NQ/TW ngày 24 thảng 5 năm 2005 của Bộ Chính trị về chiến lược 
xây dựng và hoàn thiện hệ thống Pháp luật Việt Nam đến năm 2010, 
định hướng đến năm 2020, Hà Nội. 
4. Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 
49/NQ-TW ngày 2 tháng 6 năm 2005 của Bộ Chính trị về chiến lược 
cải cách Tư pháp đên năm 2020, Hà Nội. 
5. Bộ Chính trị (2014), Kết luận số 92-KL/TW ngày 12/3/2014 của Bộ Chính 
trị về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 
của Bộ Chính trị khóa IX về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 
2020. 
6. Bộ Tư pháp, Quyết định số 373/QĐ-BTP ngày 08 tháng 3 năm 2016 của 
Bộ trưởng Bộ Tư pháp, ban hành đề cương Tuyên truyền kỷ niệm 70 
năm ngày truyền thống Thi hành án dân sự (19/7/1946 - 19/7/2016). 
Cổng thông tin điện tử Bộ Tư pháp. 
7. Bộ Nội vụ (2010), Thông tư số 10 /2010/TT-BNV ngày 28 tháng 10 năm 
2010 quy định mã số, tiêu chuẩn nghiệp vụ các ngạch công chức Chấp 
hành viên và Thư ký thi hành án dân sự. 
92 
8. Bộ Tư pháp (2010), Thông tư số 17/2010/TT-BTP ngày 11 tháng 10 năm 
2010 quy định phân cấp quản lý công chức, công chức lãnh đạo cơ 
quan quản lý Thi hành án dân sự và cơ quan Thi hành án dân sự. 
9. Bộ Tư pháp (2013), Thông tư số 01/2013/TT-BTP ngày 03/01/2013 của Bộ 
Tư pháp hướng dẫn Chế độ báo cáo thống kê thi hành án dân sự. 
10. Bộ Tư pháp, Bộ Công an, Tòa án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân 
dân tối cao (2013), Quy chế số 14 /2013/QCLN/BTP-BCA-TANDTC-
VKSNDTC ngày 09 tháng 10 năm 2013 về phối hợp liên ngành trong 
công tác thi hành án dân sự. 
11. Bộ Tư pháp, Bộ Công an, Bộ Tài chính, Toà án nhân dân tối cao và Viện 
kiểm sát nhân dân tối cao (2016), Thông tư liên tịch số 05/2016/TTLT - 
BTP - BCA - BTC -TANDTC - VKSNDTC ngày 19 tháng 5 năm 2016 
hướng dẫn hoạt động của Ban Chỉ đạo Thi hành án dân sự, Hà Nội. 
12. Bộ Tư pháp, Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao 
(2016), Thông tư liên tịch số 11/2016/TTLT-BTP-TANDTC-
VKSNDTC ngày 01/8/2016 quy định một số vấn đề về thủ tục thi hành án 
dân sự và phối hợp liên ngành trong thi hành án dân sự, Hà Nội. 
13. Chính phủ (2009), Nghị định 74/2009/NĐ-CP ngày 09 tháng 9 năm 2009, 
quy định chi tiết và hướng dẫn thỉ hành một sổ điều của Luật thi hành 
án dân sự. 
14. Chính phủ (2009), Nghị định số 58/2009/NĐ-CP ngày 13/7/2009, quy 
định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật thi hành án 
dân sự; 
15. Chính phủ (2010), Nghị định số 17/2010/NĐ-CP ngày 04/3/2010, quy 
định về bán đấu giá tài sản. 
16. Chính phủ (2011), Nghị định số 90/2011/NĐ-CP ngày 14/10/2011 về phát 
hành trái phiếu doanh nghiệp. 
93 
17. Chính phủ (2012), Nghị định số 11/2012/NĐ-CP ngày 22/02/2012 sưa 
đổi, bổ sung một số điều Nghị định số 163/20006/NĐ-CP, của Chính 
Phủ, về giao dịch bảo đảm. 
18. Chính phủ (2013), Nghị định số 110/2013/NĐ-CP ngày 24/9/2013 của 
Chính phủ, quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ 
tư pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân và gia đình, thi hành án dân sự, 
phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã. 
19. Chính phủ (2014), Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của 
Chính phủ, quy định chi tiết thi hành một số điều luật đất đai. 
20. Chính phủ (2013), Nghị định 125/2013/NĐ-CP ngày 14 tháng 10 năm 
2013 của Chính phủ sửa đỗi bổ sung một sổ điều của Nghị định số 
58/2009/NĐ-CP ngày 13 tháng 7 năm 2009 của Chính phủ quy định chi 
tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật thi hành án dân sự về 
thủ tục thi hành án dân sự. 
21. Chính phủ (2015), Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015, quy định 
chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều Luật Thi hành án dân sự. 
22. Chi cục thi hành án dân sự huyện Krông Nô, tỉnh Đắk Nông, Báo tổng kết 
công tác thi hành án dân sự huyện Krông Nô năm 2011, 2012, 2013, 
2014, 2015, 2016. 
23. Đảng cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần 
thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
24. Đại học Luật Hà Nội (2010), Giáo trình Luật thi hành án dân sự Việt 
Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. 
25. Đào Ngọc Tuấn (2002), Tính phổ biến và tính đặc thù trong xây dựng nhà 
nước pháp quyền Việt Nam, Luận án tiến sĩ Triết học, Hà Nội. 
94 
26. Đinh Trung Tụng (2006), Diễn văn khai mạc tại Hội thảo Quốc tế các mô 
hình tổ chức thi hành án trên thế giới, Hà Nội ngày 17 và 18 tháng 4 
năm 2006, Kỷ yếu Hội thảo Nhà PL Việt Pháp, Hà Nội 
27. Đinh Phạm Văn Minh(2016), Những quy định mới của Bộ luật Tố tụng 
dân sự năm 2015 tác động đến công tác thi hành án dân sự. Tạp chí 
Dân chủ và Pháp luật, số 8(293)/2016 
28. GS.Sakaii thuộc khoa sau Đại học Luật, trường Đại học Ritsumeikan, 
Nhật Bản (2005), Cấu trúc cơ bản của cơ chế THADS của Nhật Bản, 
Hội thảo tại Bộ Tư pháp ngày 28 tháng 7 năm 2005, nguồn Vụ PL dân 
sự kinh tế - Bộ Tư pháp, Hà Nội. 
29. Hội nghị Liên hợp quốc (1992), Báo cáo về Mội trường và Phát triển (Rio 
de Janeiro, 3-14/6/1992), Bản dịch tiếng Việt của Trung tâm Nhân 
quyền Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 
30. Hoàng Kim Chiến (2007), Quản lý Nhà nước về thi hành án dân sự, luận 
văn thạc sỹ luật học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. 
31. Lê Minh Tâm (2001), “Thử bàn mấy vấn đề lý luận về thi hành án”, Tạp 
chí Luật học, số 2/2001. 
32. Lê Anh Tuấn (2004), Đổi mới thủ tục thi hành án dân sự Việt Nam, Luận 
văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội. 
33. Đinh Phạm Văn Minh(2016), Những quy định mới của Bộ luật Tố tụng 
dân sự năm 2015 tác động đến công tác thi hành án dân sự. Tạp chí 
Dân chủ và Pháp luật, số 8(293)/2016. 
34. Nguyễn Doãn Phương(2016), Một số vướng mắc khi áp dụng các biện 
pháp cưỡng chế thi hành án dân sự. Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số 
tháng 8/2016. 
35. Bùi Thị Bình(2011), Cần bổ sung quy định về giải tỏa kê biên tài sản 
trong thi hành án. Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số tháng 3/2011. 
95 
36. Nguyễn Quang Thái (2003), Đổi mới tổ chức và hoạt động thi hành án 
dân sự ở Việt Nam, Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện Chính trị Quốc 
gia Hồ Chí Minh. 
37. Tổng cục Thi hành án dân sự, Báo cáo số 218/BC-TCTHADS ngày 22 
tháng 01 năm 2016 về tổng kết công tác năm 2015, giai đoạn 2011 - 
2015 và định hướng công tác 2016 - 2020, nhiệm vụ trọng tâm, giải 
pháp chủ yếu năm 2016. 
38. Phan Văn Khải (2003), “THADS có ý nghĩa rất quan trọng trong việc bảo 
vệ pháp chế, duy trì kỷ cương, phép nước”, Tạp chí Dân chủ và pháp 
luật, số đặc biệt 10 năm công tác THADS, Hà Nội. 
39. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2008), Luật Thi 
hành án dân sự năm 2008. 
40. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), Hiến pháp 
2013, Hà Nội. 
41. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2014), Luật sửa đổi, 
bổ sung một số điều của Luật Thi hành án dân sự. 
42. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2014), Bộ Luật dân 
sự năm 2015. 
43. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2014), Bộ luật tố 
tụng dân sự năm 2015. 
44. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2014), Bộ luật hình 
sự năm 2015. 
45. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2014), Luật đất đai 
năm 2013. 
46. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2014), Luật Ngân 
hàng Nhà nước Việt Nam năm 2010. 
96 
47. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2014), Luật các tổ 
chức tín dụng năm 2010. 
48. Viện ngôn ngữ học (2006), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 luan_van_cuong_che_thi_hanh_an_dan_su_tren_dia_ban_huyen_kro.pdf luan_van_cuong_che_thi_hanh_an_dan_su_tren_dia_ban_huyen_kro.pdf