Mặt khác, ở tản văn, chị đã có nhiều trang viết mượt mà, đẫm chất thơ.
Phải chăng, khi viết về quê hương, về những cảnh sắc quê nhà, về những sản
vật bình dị của một miền quê, chính cảm xúc từ trong sâu thẳm tâm hồn đã
dẫn dắt ngòi bút của Dạ Ngân trải nhẹ tênh, thênh thang trên tác phẩm?
Không chỉ ở tản văn, truyện ngắn và tiểu thuyết của chị cũng đã có những
trang tràn đầy thơ mộng.
Với một số lượng tác phẩm không nhỏ trong suốt hai mươi lăm năm cầm
bút, Dạ Ngân cũng có những thành công trên bình diện phương thức tự sự.
Từ những cảnh ngộ, tình huống trong cuộc đời mà chị đã quan sát hoặc
trải qua, Dạ Ngân đã khéo sáng tạo nên những tình huống trong tác phẩm của
mình, và sắc sảo trong khắc hoạ nhân vật. Để một cô Tư Ràng ung dung, thư
thái, quyền uy trong Miệt vườn xa lắm vẫn tiếp tục là một cô Tư Ràng quyền
uy, mạnh mẽ trong Gia đình bé mọn.
168 trang |
Chia sẻ: phamthachthat | Lượt xem: 2386 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Đặc điểm văn xuôi nghệ thuật dạ ngân, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ười thương. Và đương nhiên,
những người con trai ấy đã lỡ hẹn để hoa nát dưới gót giày và xuân cũng cạn
theo”[62, 185].
Ngôn ngữ văn xuôi nghệ thuật Dạ Ngân, ngoài tính chất tự sự, chính
luận, còn có một nét đặc sắc khác, đó là tính chất trữ tình. Ở truyện ngắn
Ngọn nến phập phồng, đã có đoạn tác giả viết rất dạt dào tình cảm: “ Có một
ngọn nến nhỏ trước mặt tôi, ngọn nến rất trắng đang cho tôi ánh sáng phập
phồng của lòng trắc ẩn. Tôi không thể rời bàn tay vun đắp ra khỏi nó được,
chỉ vì nó phải cháy lên cho cuộc đời nó và cho cả phần đời của tôi nữa “ [
56, 166 ].
Và rồi, cả trong tản văn, cũng xuất hiện những đoạn đậm tính trữ tình,
như trong Cây so đũa: Bông so đũa hình lưỡi hái, hình vành trăng khuyết, nó
không hương sắc nhưng đáy nhụy đầy mật, đặc biệt màu trắng của nó trông
thật gợi cảm, hiền lành . Bông xuất hiện thành chùm, nội trong tuần là đời
hoa kết thúc và trái hình thành, suông dài xanh rợn như những chiếc đũa giắt
trong ống trời rập rờn gió bấc.” [ 57, 52].
Dạ Ngân đã tinh tế khi nhận ra rằng: Sự gợi cảm, vẻ hiền lành của bông
so đũa trắng; để rồi sau đó, khi đã là trái, nó như những chiếc đũa trong ống
trời. Sức tưởng tượng của nhà văn đã dệt nên những ngôn từ giàu màu sắc,
thanh điệu, tràn cảm xúc.
Điểm qua như thế để thấy rằng: ngôn ngữ văn xuôi nghệ thuật Dạ Ngân
là một sự hài hoà giữa, đan xen giữa tự sự, trữ tình, chính luận. Chính sự đa
dạng như thế, đã tạo nét riêng trong sáng tác của chị, thu hút bạn đọc tìm đến
tác phẩm của chị.
3.2. Chất Nam Bộ đậm đặc trong lời văn nghệ thuật Dạ Ngân
Nói chung, sáng tác của các nhà văn Nam Bộ đều đậm chất Nam Bộ.
Trường hợp Dạ Ngân cũng thế. Là một nhà văn nữ giàu cá tính, nặng lòng
với quê hương, Dạ Ngân, đã tạo nên trong văn xuôi của chị một sắc thái
riêng. Đó là phong vị vùng miền trong cách gọi tên người, sự vật; trong cách
khai thác vốn từ ngữ địa phương, sử dụng thành ngữ; cách diễn đạt giàu tính
khẩu ngữ.
3.2.1. Cách gọi tên người, sự vật (đại từ, danh từ đậm sắc thái địa
phương) theo thói quen, nghi thức lời nói của cư dân vùng quê Nam Bộ
Người Nam Bộ, quen lối gọi tên kèm theo thứ đứng trước. Lời văn
nghệ thuật trong các tác phẩm của Dạ Ngân, vẫn luôn có cách gọi như vậy: cô
Tư Ràng, chú Tư Thọ, Hai Khâm trong tiểu thuyết Gia đình bé mọn; chị
Ba Niệm, chị Tư Khanh, chị Bảy Nghĩa trong truyện vừa Miệt vườn xa
lắm; Tư Tầm, Năm Gấm trong truyện ngắn Gặp ở Giáp nướcÚt Điệp,
Hai Hoành trong truyện ngắn Chiếc ban công trống; Má Ba Phối, Tư
Ruộng trong truyện ngắn Đường dây một người Cách gọi ấy, vừa thân
mật, gần gũi với người Nam Bộ; lại không phân biệt chức vụ, sang hèn.
Không chỉ có cách gọi tên người, cách gọi tên sự vật cũng mang đậm
chất Nam Bộ. Đó là những thẻo bờ, bông điên điển, dừa nước, nga nghễ,
tâm mức, rượng đáy, gió chướng, đặt lú, lục bình, trong tập tản văn Lục
bình mải miết. Đó là lẹ chưn, đầu ngàn với hậu vườn, giang đồng, biền
nhà, dớn, choại, ở tập tản văn Phố của làng. Đó là gương mặt nám đùm
nám đề, mái tóc còi chỉ còn nhúm bùi nhùi sau ót, tàu dừa nước úa xàu
quắt queo trước giông gió cuộc đời trong truyện ngắn Một khúc sôngĐó
còn là đất doi mà con bầy, như cái nùi giẻ, cái cà ràng bằng đất nung
trong truyện ngắn Muỗi mía.
Có thể nói gì về cách gọi tên người, sự vật mang đậm chất Nam Bộ
trong những sáng tác của Dạ Ngân? Trước hết, chị là một người con của quê
hương Nam Bộ. Bát cơm chị ăn, quê nhà chị lớn, cảnh sắc chị ngắm nhìn, tâm
trạng chị từng trải, tất cả, từ xứ sở quê hương. Dẫu có mười lăm năm sống
cùng chồng trên đất Bắc, thì tâm hồn chị, trái tim chị vẫn là của miệt vườn.
chị vẫn luôn tự hào về điều đó, và gởi gắm điều đó trong những tác phẩm của
mình.
3.2.2. Việc sử dụng từ láy, thành ngữ, điệp ngữ:
3.2.2.1. Việc sử dụng từ láy:
Nhà văn nữ của chúng ta đã sử dụng rất nhiều từ láy trong những sáng
tác của mình, ở mọi thể loại.
Ở truyện ngắn Đừng nói điều ơn nghĩa trong tập Quãng đời ấm áp,
với 18 trang sách, đã có đến 208 từ láy. Các từ láy ấy lại rất khác nhau, ít có
sự lặp lại, và phần lớn là những tính từ, động từ( 198 từ); chỉ có một tỉ lệ nhỏ
danh từ( 10 từ ).
Ở một truyện ngắn khác, Hôm ấy trời đẹp lắm, trong tập Nước nguồn
xuôi mãi, với 11 trang sách, cũng đã có đến 82 từ láy, trong đó, tính từ và
động từ vẫn chiếm phần lớn( 71 từ ), còn lại là danh từ ( 11 từ ).
Ngay cả trong tiểu thuyết Gia đình bé mọn, mật độ từ láy xuất hiện
cũng rất dày. Chương 11 là tiêu biểu. Với 16 trang sách, đã có đến 109 từ láy.
Những từ láy ấy, vẫn rất khác nhau, và hầu như ít có sự lặp lại.
Theo Hoàng Tuệ, Diệp Quang Ban: “ Láy của tiếng Việt phải được
hiểu là “ sự hoà phối ngữ âm có tác dụng biểu trưng hoá”(Hoàng Tuệ), tức
là tạo ra được một thứ ý nghĩa biểu trưng, ý nghĩa “ ấn tượng”[4, 52].
“ Láy không phải là sự lặp lại âm thanh một cách nguyên vẹn, mà là sự
lặp lại âm thanh có biến đổi và có tác dụng tạo nghĩa biểu trưng. Sự biến đổi
âm thanh ở hiện tượng láy là sự biến đổi đều đặn tạo thành những quy tắc
hoà phối ngữ âm khá chặt chẽ”[ 4, 56].
“ Nghĩa của từ láy được tạo thành nhờ đặc điểm âm thanh của tiếng và
sự hoà phối âm thanh giữa các tiếng. Trong trường hợp từ láy có tiếng có
nghĩa làm gốc, thì nghĩa của từ láy có thể có những sắc thái riêng so với tiếng
gốc như sắc thái biểu cảm, sắc thái giảm nhẹ hoặc nhấn mạnh,”[ 67, 42].
Chương 11 của tiểu thuyết Gia đình bé mọn, chương viết về chuyến
ra Hà Nội của cô nhà văn Tiệp để gặp người yêu Đính, với những cảm nhận
ban đầu của một người con Miền Nam trước cảnh và người Hà Nội những
năm đất nước mới vừa ra khỏi cuộc chiến tranh, những sắc thái biểu cảm rõ
rệt, nhấn mạnh, đã được nhà văn sử dụng tối đa, với việc dùng những từ láy
sắc thái hoá và từ láy cách điệu. Nhâng nháo, ngất ngây, ngẩn ngơ, trắc trở,
khắc khổ, kham khó, buồn buồn, bải hoải, bủn rủn, vật vã, lì lợm, ngầy
ngà, tình tứ, thê thảm, giả lả, ầm ĩ, nhăn nhólà những minh chứng.
Sự hoà phối âm thanh giữa các tiếng trong từ láy đã tạo những sự du
dương, êm tai cho nhiều đoạn trong tác phẩm, trong đó có cả truyện ngắn và
tản văn.
Ở truyện ngắn Hôm ấy trời đẹp lắm, Dạ Ngân đã có những đoạn văn
nên thơ với nhiều từ láy được sử dụng. “ Anh đứng tư lự bên hậu vườn hương
hoả nhà mình, tầm mắt luôn hướng về phía đó trong nhiều ngày qua. Trìu
mến với tất cả. Thật sự có ý nghĩa mấy từ nghỉ ngơi, nhau rún, cội nguồn.
Anh không tìm thấy cái bờ ngàn, con kinh thủy lợi đã xẻ đôi cánh đồng của ký
ức anh. Ngày xưa mùa này đồng ruộng thông thống, hậu vườn của anh nhiều
dừa còn hậu vườn của người ấy nhiều tre, khoảng giữa là rơm rạ sáng rộm
lên và chỉ vướng cái bờ ngàn lúp xúp cỏ ống làm ranh giới lãnh thổ của cư
dân hai bên”[ 53,252]. Và “ Cái bờ kinh đã nhấn chìm cái bờ ngàn thương
nhớ của anh xuống bên dưới nó. Không còn biết đâu là đâu. Bông so đũa
trăng trắng đong đưa và nước đang lên óc ách mép bờ. Anh tần ngần hồi lâu,
nắng sớm như có mật ong, gió chướng có mùi nước bạc nhưng cái bờ ngàn
mãi mãi không còn. Anh nghe thấy tiếng trâu ăn cỏ, tiếng dế gáy, tiếng chó
sủa trong ngày trai tráng hai bên giang đồng ới nhau đi dặm chuột và
Chuyến bay nửa vòng trái đất, tâm trạng bập bềnh hàng tuần liền khi đã
đứng ngay trên quê cha đất tổ, khi tất cả các giác quan bỗng trở nên mẫn
cảm một cách lạ lùng thì anh lại thấy rõ ràng hơn nỗi niềm thường nhật của
mình, cái nỗi niềm không gì diễn tả đủ bằng mấy từ ly hương, xa xứ”[61,
254].
Từ láy được nhà văn sử dụng rất dày ở truyện ngắn này, trước hết, thể
hiện sự phong phú về mặt ngôn từ cuả Dạ Ngân. Với vốn từ đa dạng, chị đã
dễ dàng sáng tạo nên tác phẩm của mình. Từ láy là tính từ đã giúp chị diễn tả
ngày một sâu sắc hơn tâm trạng của nhân vật: tự lự, tần ngần, bập bềnh
lại có những từ láy làm rõ ý nghĩa cho những danh từ trước nó, như thông
thống, lúp xúp, óc ách Câu văn nhờ thế, đa dạng hơn, chuyển tải sâu sắc
hơn nội dung, dễ gây xúc động trong lòng bạn đọc.
Ở tản văn Bóng dừa đằng xa, nhà văn cũng đã dẫn dắt người đọc đến
với những đoạn văn giàu cảm xúc “ Càng đi xa bóng dừa, chúng tôi càng cảm
thấy bơ vơ, thật sự cảm giác đất khách quê người, xa lạ và bí hiểm một cách
không lường được. Như một đứa trẻ xa mẹ, luôn luôn thương nhớ và bất an,
cứ bồn chồn và muốn khóc. Cho đến khi quay về, lúc này Tổ quốc đang ở
ngay phía trước, chao ơi, xe vừa đi qua cột mốc, dừa ở đâu ra mà bạt ngàn,
thướt tha, hồn hậu, thảo thơm, cảm giác như được về lại trong bụng mẹ, diệu
kỳ”[60, 6].
Cũng với từ láy, Dạ Ngân đã dẫn dắt người đọc, mang tâm trạng bất an,
lo âu khi rời xa quê hương, Tổ quốc. Để rồi tâm trạng ấy đã được xoá đi, nhạt
nhoà dần, khi chị được nhìn thấy bóng dừa quê hương gần gũi, thân thương,
tạo sự an tâm trong dạ.
Ở một tản văn khác, chúng ta lại nghe những âm điệu du dương của
những câu văn với khá nhiều từ láy, tản văn Mùa phượng cháy “ Khi phượng
nhú bông thì nó càng đáng nể hơn, những chùm búp xanh non hăm hở như
những cô cậu học trò trong tâm trạng thư thái nhất. Rồi không ai chú ý mấy
nữa vì các cô cậu ấy còn bận bịu học ôn. Rồi bỗng dưng một ngày nhiều nắng
tháng Năm, phượng ta bỗng tóe bùng một màu đỏ thắm, rập rờn, náo nức.
Các nam thanh nữ tú bắt đầu thấy xao xuyến một cách vô cớ mà lạ kỳ, thế là
mùa thi đã đến thật rồi, cũng có nghĩa là sau những ngày này sẽ có chia tay,
người đỗ đạt, kẻ rớt lại, cái chính là tuổi công dân đã thật sự bắt đầu và phía
sau là một quãng học trò thần tiên không bao giờ có lại được nữa”[60, 66].
Từ láy dưới bàn tay sắp xếp của Dạ Ngân, đã phát huy rất hiệu quả
tác dụng của nó. Đó là những tâm trạng hăm hở, thư thái, náo nức, xao
xuyến của phượng mà cũng là của những cô cậu nam nữ học trò vào những
mùa thi. Đó còn là những rung động mạnh mẽ của những giờ chia tay, khi
những nam thanh nữ tú sắp để lại sau lưng quãng đời thơ mộng của thời cắp
sách.
Từ láy trong các sáng tác của Dạ Ngân phong phú và đa dạng, phần
lớn thuộc từ láy sắc thái hoá( Là từ láy mà trong đó phần gốc còn đủ rõ
nghĩa và chi phối nghĩa cơ sở của toàn bộ từ láy) , và từ láy cách điệu( Là từ
láy không chứa bộ phận còn đủ rõ nghĩa từ vựng) , đã góp phần tạo nên
những âm điệu du dương trong những trang viết của chị. Và cũng chính
những từ ấy, khi có mặt, đã dễ dàng tạo nên chất thơ trong những sáng tác của
nhà văn.
3.2.2.2. Việc sử dụng điệp ngữ:
Nhiều truyện ngắn của Dạ Ngân đã hiện diện điệp từ. Truyện ngắn Một
khúc sông, với điệp từ đương nhiên, được nhiều lần lặp lại. Cái sự đương
nhiên ấy thuộc về Lộc, con trai của một vị chủ tịch huyện, nhưng đằng sau
những từ đương nhiên ấy, là một sự ấm ức, một sự tức tối, một sự so sánh cho
thân phận của những con người. “Lộc, con trai ngài chủ tịch đương kim quả
là người của mọi sự đương nhiênMiếng vườn đương nhiên có hoa lợi, ngôi
nhà tường to nhất xóm đương nhiên mọc lên và anh ta cũng đương nhiên
thành ông chủ của Bời trong nhiều việc liên quan tới công xá”[52, 30].
Truyện ngắn Cõi nhà cũng đã xuất hiện những điệp từ. Cũng với mạch
tâm trạng canh cánh lo cho con của một người phụ nữ, trước những thay đổi
về tâm lý của con trai mình, chị đã viết: “Nó, đại biểu hồn nhiên và ưu tú của
thế hệ cứ muốn phắt sướng, lớn lên phải phắt giàu hoặc phắt thành lãnh đạo.
Giờ thì cứ phắt nổi điên!”[52, 94–95].
Người đọc cũng dễ dàng nhận thấy những điệp từ khác xuất hiện trong
truyện ngắn Nàng ở đâu ra, điệp từ hạnh phúc. “ Nàng đã mơ hồ hiểu rằng
hạnh phúc là phải sống cho người khác, là phải biết hy sinh cho đại gia đình
mà nàng, dù bé tí cũng phải cảm thấy tự hào mà vun vénHạnh phúc, đó là
lúc bà nội ngồi lùi sau mâm cơm tối bên ngọn đèn dầu vừa và trầu vừa tỉ tê
bài giảng về công đức của tổ tiên và người ông quá cố đã để lại cho con
cháuHạnh phúc, cái kén ấy thật kỳ diệu cho tuổi thơ nàng”[ 56, 88].
Tiểu thuyết Gia đình bé mọn cũng đã có những trang viết nhấn mạnh
ý, thể hiện cảm xúc mạnh mẽ của nhân vật chính, nữ nhà văn Tiệp. Chương 2
của tác phẩm đã có điệp từ goá. Dạ Ngân đã làm người đọc khó quên cảnh
goá bụa của những người phụ nữ trong gia đình mình khi chị viết: “ Vòng vây
của nàng là những bà goá, cô goá, má goá, chị goá, cô em út cũng goá, bốn
bức tường gương mà nếu nàng soi vào thì nàng phải lập tức quên tuổi trẻ và
khát vọng của mình đi để nhớ rằng không thể so sánh nỗi bất hạnh nào với
nỗi bất hạnh của những người goá bụa”[59, 22].
Một sự nhấn mạnh khác, nhấn mạnh về những khuôn phép mà cô Tư
Ràng dạy cho Tiệp từ những ngày chị còn thơ ấu. Điều ấy đã ăn sâu, thật sâu
vào ký ức của chị. “Từ hồi con Tám Tiệp đèo đẹt biết tự tay gài nút áo và chải
đầu thì đã phải thuộc lòng những bài học về sự đàng hoàng của thủ lĩnh Tư
Ràng. Con gái con lứa nhớ sáng ra việc đầu tiên là phải cầm lược chải gỡ
đàng hoàng; người lớn có gọi có bảo phải dạ thưa cho đàng hoàng, khi trả
lời phải đứng ngay ngắn lại nhìn thẳng vào người hỏi để nói năng cho đàng
hoàngTrong giáo trình của cô Ràng và người thừa nhiệm mẫn cán Hai
Hoài thì Danh dự là đàng hoàng, mà đàng hoàng là thể diện, thể diện là tốt
khoe, xấu che”[59, 79–80].
Ở những trang văn khác trong Gia đình bé mọn, lại là những nỗi niềm
cảm xúc của Tiệp khi hồi tưởng một quãng đời đẹp đẽ lúc ở Cứ. “ Ông( Chú
Tư Thọ) là thủ trưởng trực tiếp của Tiệp, hai chú cháu có năm năm bên n hau
ở Cứ, đã chia sẻ với nhau từng thước đường kênh rạch, chia nhau từng đêm
trăng sao, chia nhau từng bài hát từng bài thơ trên đài qua cái radio Nhật
nhỏ như quyển vở để trên sạp xuồng, chia nhau cả những lần hụt chết, như
cha con, như thầy trò, như bạn bè, như mọi người tri kỷ yêu dấu nhau”[59,
112].
Người đọc cũng dễ dàng tìm thấy những điệp từ, điệp ngữ khác trong
các tản văn của Dạ Ngân. Ở tản văn Một người cha thì như thế nào, Chị đã
nhấn mạnh mặt này để nhằm mục đích chỉ ra sự thiếu thốn của mặt kia “Tuổi
thơ tôi có tất cả, chỉ thiếu một người. Tôi có ông nội quắc thước và mẫu
mựcTôi có bà nội hát bội rất hay và biết làm nhiều thứ bánh ngon. Tôi có
bà má nhẫn nại bền gan mà lại có thêm người cô út trí tuệ, can cường. sáng
rỡ. Tôi có chị có anh và có mảnh vườn quanh năm cây lành trái ngọt, không
phải thèm khát thứ gì. Tôi chỉ khát thèm mùi mồ hôi của cha, đôi bàn tay cha,
sự ân cần của cha, tất cả, những thứ mà tôi không thể tìm thấy ở ông nội hay
anh trai của mình”[63, 78–79].
Ở tản văn Tuổi thơ của mỗi người, ta cũng sẽ bắt gặp những điệp ngữ
nhấn mạnh những trải nghiệm của nhà văn “Thế nhưng khi ta đi nhiều, biết
nhiều và suy ngẫm nhiều thì ta mới vỡ lẽ, càng rộng dài thiên lý đất trời càng
trập trùng, càng tiếp xúc càng thấy con người trúc trắc, càng khám phá càng
thấy thế gian thật bí ẩn” [52, 122].
Quả tình là, Dạ Ngân đã khéo sử dụng những điệp từ, điệp ngữ để nhấn
mạnh những cảm xúc của mình, làm nổi bật ý mà mình muốn gởi gắm
trong tác phẩm. Người đọc khó quên những bài học đầu đời mà Tiệp được
dạy dỗ bởi cô Tư Ràng. Người đọc cũng không thể nào quên cảnh goá bụa
của những người phụ nữ trong gia đình chị. Và còn nữa, những cảnh xếp hàng
của người Hà Nội, cùng bao điều khó quên khác khi những tác phẩm của chị
đến với bạn đọc, do chị đã sử dụng đúng nơi, đúng chỗ điệp ngữ, điệp từ.
3.2.2.3. Thành ngữ Nam Bộ cũng được Dạ Ngân sử dụng nhiều
Hiểu một cách đơn giản nhất, thì “Thành ngữ là loại cụm từ có cấu tạo cố
định, biểu thị một ý nghĩa hoàn chỉnh. Nghĩa của thành ngữ có thể bắt
nguồn trực tiếp từ nghĩa đen của các từ tạo nên nó nhưng thường thông qua
một số phép chuyển nghĩa như ẩn dụ, so sánh
Thành ngữ ngắn gọn, hàm súc, có tính hình tượng, tính biểu cảm cao”
[67, 144].
Trong các sáng tác của mình, Dạ ngân đã sử dụng nhiều thành ngữ. Gia
đình bé mọn đã xuất hiện những thành ngữ: cơm lành canh ngọt, đứng núi
này trông núi nọ, trống đánh xuôi kèn thổi ngược, chạy trời không khỏi
nắng, góc biển chân trời, trói gà không chặt, trốn chúa lộn chồng, quân
lệnh như sơn, ngàn cân treo sợi tóc, ăn tươi nuốt sống, cơm thừa canh cặn,
rổ rá cạp lại, thân cô thế cô.
Đã có 14 thành ngữ được sử dụng ở đây. Trong đó, có những thành ngữ để
chỉ về mối quan hệ vợ chồng (cơm lành canh ngọt, trốn chúa lộn chồng, rổ
rá cạp lại), cùng những thành ngữ dạng khác. Những thành ngữ được nhà
văn sử dụng, vừa hàm súc, ngắn gọn, lại rất giàu hình ảnh, mang tính biểu
cảm cao.
Thành ngữ được sử dụng đúng chỗ, đã phát huy hiệu quả của nó, làm bật
được ý của đoạn văn, câu văn, làm tăng sức biểu cảm của tác phẩm.
Ở tập Nhìn từ phía khác, nhà văn cũng đã sử dụng nhiều thành ngữ, nào
là tay hòm chìa khoá, cạn tàu ráo máng, ngàn cân treo sợi tóc, lên bờ
xuống ruộng,
Với phép chuyển nghĩa ẩn dụ, so sánh, thành ngữ đã làm tăng tính biểu
cảm của đoạn văn, những câu văn của Dạ Ngân, nhờ thế, được nhấn mạnh
thêm, tăng hiệu quả tác động đến người đọc.
3.2.3. Cách diễn đạt giàu chất khẩu ngữ – văn nói mang truyền
thống ngôn ngữ văn chương Nam Bộ
Từ xưa, truyện thơ của các nhà thơ miền ngoài như Nguyễn Du, Phạm
Thái, Nguyễn Huy Tự, thường có vẻ đẹp của truyện đọc, thơ ngâm; truyện
thơ của các tác giả miền trong mà tiêu biểu là Nguyễn Đình Chiểu lại mang
vẻ đẹp khác vẻ đẹp của thơ kể, văn nói. Sau này, sự khác biệt đó trong văn
chương có thu hẹp đi. Song trong sáng tác văn chương của các tác giả Nam
Bộ hiện đại vẫn lưu lại nhiều dấu vết thơ kể, văn nói của truyền thống quê
hương. Từ góc độ ngôn từ có thể thấy trong tác phẩm của Dạ Ngân một số
dấu vết của truyện kể, văn nói như thế.
3.2.3.1. Lời của những nhân vật trong tác phẩm của Dạ Ngân giàu chất
khẩu ngữ
Là người con của miệt vườn Nam Bộ, Dạ Ngân luôn nhớ về mảnh đất
mình đã được sinh ra và lớn lên. Chị luôn tự hào mình là một cô gái miệt
vườn. Trên mảnh đất ấy, bao người thân yêu quanh chị, trong mái nhà với
nhiều người phụ nữ goá bụa, với xóm làng, với thân tộc, với những người
cùng chung một chiến hào, và cả những con người của bên kia chiến tuyến.
Tất cả những sự gặp gỡ đó, đã để lại trong chị nhiều dấu ấn, khó phai. Trong
đó, có lời lẽ của mỗi người. Chị đã lặng lẽ quan sát họ, lắng nghe họ, cùng
sống với họ, cùng buồn vui trăn trở bên họ. Để những nhân vật trong các tác
phẩm của chị nên vóc nên hình. Và cũng thật tự nhiên, nó đậm đà lời của
những con người Nam Bộ. Làm sao có thể quên lời chị Liệt dặn dò trước khi
chị hướng dẫn đồng chí mình qua lộ: “ Bà con đồng chí mình nhớ cho, khi áp
lộ, phải đi nhón chân trong nước, đi kiểu ba lê này nàyNói là nói vậy chứ
đây là lộ liên tỉnh, lộ Bốn mới gay, ở đây tụi bảo an vừa nhát vừa làm biếng,
rất ít khi đi phục nên cung đường này ít tổn thất nhất”[56, 72–73].
Ở một truyện ngắn khác, Câu chuyện nhiều năm, lại là những lời
thoại đậm phong cách khẩu ngữ Nam Bộ: “ Người nhà Việt cộng hả, rõ ràng
hồi nãy có người từ đây chạy xuống mí vườn!”. Bà má đứng giữa toán lính
xanh môi xanh miệng nhưng cố vung tay làm già: “ Ngồi trên trực thăng cái
gì cũng thành Việt cộng! Hai đứa nhỏ này, đã biểu về đồng dặm lúa rải phân
tới chiều, có ở đêm được đâu mà quần quần áo áo đồ ăn thức uống lùm xùm.
Vìa nhà, biết tay tao!”. “ Bà già xạo! Rõ ràng mấy thứ này để tiếp tế cho Việt
cộng đây!”. “ Nếu đồ tiếp tế thì để dưới ghe chứ đem lên đồng dây chi, mấy
chú!”[49, 22].
Tiểu thuyết Gia đình bé mọn cũng đã có những đoạn văn, câu văn giàu
chất khẩu ngữ. “ Giọng cô Ràng gay gắt:
- Kêu trời thì giải quyết được cái gì chị Ba? Em đã mời chị lên xúm vô
giác đác khuyên bảo thêm cho nó mà chị đâu có chịu. Còn nói như con Hoài,
Tư cũng thấy nghịch nhĩ lắm. Gì thì gì cũng phải nghĩ tới cái danh dự, thử
nghĩ coi ông bây, ba bây, cô bây đây không xả thân ra thì liệu tụi bây có được
n hư ngày hôm nay không?”[59, 23].
Ngôn ngữ văn chương Nam Bộ đã có những nét riêng, phản ánh những
cảnh và người Nam Bộ. Ngôn ngữ trong sáng tác của Dạ Ngân cũng đã rất
gần gũi với những phong tục tập quán của mảnh đất Nam Bộ, với những cách
nói năng suy nghĩ của con người Miền Nam, những người luôn quanh chị,
cùng sống, cùng làm lụng, cùng chịu nhiều mất mát đau thương như chị.
Chính vì thế, dẫu sau này, khi đã có 15 năm sống tại Hà Nội, thì trong lời văn
nghệ thuật mà chị sáng tác , vẫn mang hơi hướng của mảnh đất chị sinh ra,
lớn lên, với bao buồn vui, kỷ niệm. Miệt vườn Nam Bộ máu thịt ấy, chắc chắn
vẫn sẽ còn trên những trang viết của chị dài lâu. Và cũng nhờ thế, bạn đọc
vẫn tìm thấy những nét riêng của Dạ Ngân ở chính những đóng góp cho đời
của chị, bằng những tác phẩm văn xuôi nghệ thuật của mình.
3.2.3.2. Diễn ngôn của người kể chuyện và của cái tôi trữ tình trong sáng
tác của Dạ Ngân có nét tự nhiên
- Diễn ngôn của người kể chuyện trong truyện ngắn, tiểu thuyết của Dạ
Ngân có vẻ tự nhiên, ít trau chuốt.
Ở truyện ngắn Thi vi cuộc đời, đã có nhiều đoạn, người kể chuyện dẫn dắt
mạch truyện một cách bình dị, không trau chuốt. Lời dẫn chuyện có thể là
“Đám nhậu nhìn ra, cùng reo lên, ồn ào mời Tâm nhập bọn”, “Tâm ngồi sà
xuống mâm nhậu, lấy đôi đũa của ai đó, gắp miếng thịt rắn bỏ vô miệng nhai
ngon lành”; “ Chị sẽ đi. Người ta sinh ra cái miệng không phải chỉ để ăn, để
nói mà còn để kêu, và đôi chân không chỉ để làm lụng, rong chơi, mà còn để
đến những nơi cần đến!” [49, 80 – 81 – 93].
Cứ thế, lời dẫn chuyện vẫn cứ như lời nói thường ngày, những ngôn từ
bình dân, giản dị. Với Dạ Ngân là thế, ít trau chuốt. Có lẽ, chị chỉ trau chuốt
cho lời dẫn của mình khi thật sự cần.
Lại một truyện ngắn khác, Người của mỗi người, phản ánh mặt trái của
những gia đình, khi con dâu coi mẹ chồng chỉ là một thứ “đồ ăn hại”. Lời
dẫn cũng thật trần trụi, giống tình huống dẫn tới một kết cuộc khó có thể khác
hơn. “Con mèo bỗng thành cái bia để họ nhắm bắn nhau, hạ sát nhau và mặc
cho bà mẹ can gián, trong trớn giật điên cuồng, nàng dâu giật con tam thể
trong tay con gái, dụng hết công lực như vận động viên ném nó vào tường
trong tiếng kêu thất thanh của đứa trẻ. Cùng tiếng tru hể hả: Chết đi, đồ ăn
hại, chết bớt đi!” [51, 56]. Phải chăng, chính từ đời sống khó khăn, đã khiến
con dâu có thái độ, lời lẽ bóng gió với mẹ chồng. Hay đây lại là sự đảo lộn
trật tự của nền nếp gia phong, mà nhà văn muốn gióng lên hồi cảnh báo.
Hài kịch cuối đời là một truyện ngắn khác của Dạ Ngân. Ở đó, diễn ngôn
của người kể chuyện đã mang ít nhiều “dấm ớt”, hình ảnh của một người cán
bộ nhàn rỗi, vô tích sự nhưng vẫn là người có quyền ăn nói trước mọi người
dưới ngòi bút của nhà văn như dự báo một hành động không hay “Khi ấy ông
ngồi vặt râu trong cuộc họp với một cơ quan hành chính đang mắc căn bệnh
thời đại là đấu tranh nội bộ, mà ông phải nói lên tiếng nói phân giải cuối
cùng của nhà tổ chức, bỗng nghe người rùng xuống bần thần như trúng gió
và hình ảnh mà ông vụt loé lên sắt nét, nhói đau rồi biến nhanh như một tia
chớp” [52, 136].
Ở Cùng trời cuối đất, Dạ Ngân đã viết: “Gã ta cũng không khéo chọn
chỗ để trốn chạy lắm đây. Không khí mùa khô đất Tây Nam dễ chịu. Đã nghe
thấy hơi núi giác chiều, trời sẫm đỏ thứ hoàng hôn mà gã từng viết Thật
đáng mặt cái thứ hoàng hôn cuối trời của gã!” [61, 240]. Cách gọi nhân vật
của mình cũng đã là một sự bỗ bã; cách nhìn về nơi đến của nhân vật, cùng
với cách gọi một hành động của nhân vật đã giúp người đọc nhận ra: Lời
người dẫn truyện như chẳng có một sự trau chuốt nào, nó tự nhiên vào mạch
truyện.
Gia đình bé mọn cũng với lối diễn ngôn của người kể chuyện mang đậm
mùi vị “dấm ớt”. Ý thức luôn phán xét của một người viết văn, nhìn sự việc ở
cả hai mặt của nó, đã dẫn dắt Dạ Ngân viết lên những dòng “Công việc hàng
tuần của chồng nàng là chạy sang mấy cái ngành lính – lúa – lương để lấy số
liệu gọi là tiến độ trong tuần, ngoài ra còn phải tập tọng viết diễn văn cho
mấy ông lãnh đạo đi hỡi hỡi ở các cuộc mít tinh và tổng kết” Sự gian khổ,
lận đận, sự vất vả, lo toan, sự đắng cay, đau khổ như dồn nén lại, để người
dẫn truyện viết nên “Bất chấp những nguyên do nổi chìm thế nào, cuối cùng
họ vẫn đến, những ông nhũng bà đằng đằng sát khí ấy vẫn đến, như cơn bão
đã hình thành thì chỉ còn nước ngồi đợi xem sức gió của nó thuộc cấp mấy”
[59, 190]. Nhưng dầu nhũng xúc động mãnh liệt, thì lời dẫn vẫn là những lời
tự nhiên, không thấy dấu dụng công.
- Cũng như thế, trong diễn ngôn của cái tôi trữ tình ở tản văn Dạ Ngân ít
thấy sự làm duyên, làm đẹp lộ liễu, mà thấy nét đẹp mộc, tự nhiên, hầu như
không điểm trang son phấn, nghĩ sao nói vậy.
Dạ Ngân đã viết nhiều tản văn. Trong số đó, không ít tản văn mang đậm cá
tính cùng những tình cảm sâu nặng của chị, về quê hương, về những cảnh sắc,
về những hương vị, về những con người chị đã từng gặp, từng làm việc, từng
chung một chiến hào.
Hãy đọc những dòng chị viết trong Nơi tận cùng bờ cõi “Cầu Tháng
Giêng Bảy Chín ban đêm trông uy nghi hơn nhiều sau giờ đóng cửa khẩu
Một cây số rộng phía bờ bắc là đường biên, thật rạch ròi của ý nghĩa bờ và
cõi, thả chân chầm chậm trên chiếc cầu quan trọng ngang với Kỳ Lừa chót
vót ở Lạng Sơn, hẳn ai cũng sẽ thấy tâm hồn tràn ngập nỗi niềm thế sự”
[55,20]. Là một người đã từng đi qua chiến tranh, hiểu những nỗi khổ của
chiến tranh, chị yêu quý Tổ quốc, quý trọng từng tấc đất quê hương một cách
chân tình, mộc mạc.
Hãy đọc lại tản văn Tết miệt vườn của Dạ Ngân để thấy chị có cái duyên
lôi cuốn người đọc đến với những trang viết của mình: “Vâng, không khí bắt
đầu từ những gốc mai ấy đấy. Khoảng giữa tháng chạp là người ta dứt lá cho
mai và sau đó, con người bỗng đọc thấy giữa những cành nhánh trơ trụi của
nó có cái gì trọng đại sắp bắt đầu” [55, 74]. Cái duyên ấy, đến tự nhiên như
mạch nghĩ suy và tấm lòng của chị đối với Tết quê nhà.
Ánh đuốc tuổi thơ, một tản văn khác của chị, cũng có lối dẫn chuyện tự
nhiên mà hợp lý đến vậy. Đi từ sản vật mộc mạc đến tình người, đơn sơ mà
gần gũi, bình dị mà không kém nên thơ. “Xứ này là dừa nhiều lắm, nhiều vô
kể. Có lẽ vậy mà người trong ấp xóm rất hay đi lại với nhau. Đi để củng cố
tình giao hảo láng giềng. Đi để chia sẻ nổi niềm mà ngày thường chỉ có thể
trò chuyện với cây cối hiu quạnh, đi để đánh lên trong đêm ánh đuốc lá dừa
làm át đi ánh sáng của lũ đom đóm và bóng tối u hoài bên sông Cái”[57, 36].
Có khi, lại là lời gợi mở để người đọc hình dung về những sản phẩm rất
lâu đời của quê hương, mang dáng dấp của văn hoá cội nguồn, nếu một lúc
nào đó thiếu vắng. Đó cũng là những diễn ngôn của cái tôi trữ tình ở tản văn
của Dạ Ngân, không nhiều lời, nhưng đằng sau đó, là đau đáu một nỗi niềm
về chiếc nón lá bình dị của dân tộc, ở tản văn Tôi thèm nón lá “Thử hình
dung, trên một thửa ruộng hay trên một dòng sông vào một ngày nào đó ta
bỗng dung không nhìn thấy bóng dáng chiếc nón lá đâu nữa. Cùng với chiếc
áo dài, chiếc nón lá là hiện thân của người phụ nữ Việt” [60, 26].
Ở tản văn Gánh hàng hoa, diễn ngôn của cái tôi trữ tình trong tản văn này
vẫn đẹp tự nhiên như vậy. Không nhiều lời, không làm duyên làm dáng,
nhưng người đọc vẫn có thể hình dung trong tâm trí mình vẻ đẹp nguyên sơ
của hoa ở Tây Hồ. Vẻ tươi tắn của hoa mạn Hồ Tây được Dạ Ngân chuyển tải
đến bạn đọc một cách chân chất, nhưng hết sức ấn tượng “Thích nhất vẫn là
những nhánh hoa trên xe đạp của các cô hay bán dạo quanh Tây Hồ. Hoa
này mới đích thị là hoa gốc, hoa din của đất làng hoa. Chúng tươi ròng ròng,
tươi đến độ không chút khả nghi về phẩm hạnh tươi của chúng. Bó nào và
loại nào cũng tươi tắn dâng hiến như nhau” [62, 230 – 231].
Cùng một lối viết như thế, Dạ Ngân còn có Những bông hồng cổ, Hoa
xoan lớp lớp, hay gần gũi với nó, là Mùa bông tràm, Ô môi đang mùa
Diễn ngôn của cái tôi trữ tình trong tản văn Dạ Ngân tiếp tục là nỗi niềm
khắc khoải khi nghĩ về những kỳ nhân, những người làm nên giá trị tinh thần
cho Sài Gòn, như móng của một toà nhà, ở tản văn Khoảng trống kỳ nhân
viết về nhà văn Sơn Nam. Diễn ngôn ấy, nhìn ở bề sâu, nhìn ở bề xa “Móng
nhà không là thứ lộ thiên Nhưng không có cái móng âm thầm ấy thì đã
không có một toà nhà” [63, 39].
Có thể nói, với những sáng tác của mình, Dạ Ngân đã có lối diễn đạt giáu
chất khẩu ngữ - văn nói mang truyền thống ngôn ngữ văn chương Nam Bộ.
Văn chị mang hơi hướng lời nói thường ngày nhưng vẫn ẩn chứa những phát
hiện những nét bản chất của mối quan hệ nhân sinh. Người đọc còn tìm đến
những sáng tác của chị bởi cái duyên ngầm của những diễn ngôn của người
kể chuyện trong truyện, của cái tôi trữ tình trong những tản văn chị đã mang
đến cho đời. Ngẫm cho cùng, sự giản dị trong diễn đạt, dẫu trong văn chương,
vẫn dễ đi vào lòng người, để văn của chị vẫn còn đọng mãi trong lòng bạn
đọc.
KẾT LUẬN
4.1. Những trải nghiệm của cuộc đời của một người phụ nữ đã là chất men
nồng để Dạ Ngân đến với những cảm hứng trong sáng tạo nghệ thuật, để từng
trang văn của chị ra đời. Những trải nghiệm ấy, phong phú, đa dạng, để những
cảm hứng trong sáng tác của chị cũng nhiều vẻ như chính cuộc đời của nhà
văn. Một Dạ Ngân của cái hôm qua và cái hôm nay. Một Dạ Ngân đã nhìn
cuộc sống ở nhiều góc cạnh: Những nét đẹp vẫn luôn ẩn chìm và hiện hữu ở
tâm hồn con người cả trong và sau chiến tranh, lẫn những mặt còn khuất tất
của những con người thời hậu chiến, và cả những niềm tin của một đời sống
tâm linh vẫn luôn đang hiện diện.
Trên tất cả, những sáng tác của Dạ Ngân vẫn là tiếng nói của lòng nhân
hậu và niềm tin. Dẫu có chua cay, dẫu có những khi oán hận; có khi là lời tự
trách, nhưng ở tầng sâu của những nỗi niềm mà nhà văn gởi gắm, vẫn tràn
ngập những tiếng nói trân trọng, cảm thương cho thân phận con người; những
con người trong chiến tranh, bước ra từ chiến tranh và trong muôn mặt đời
thường. Những tiếng nói ấy cất lên từ ký ức không dễ mờ phai của Dạ Ngân,
từ biết bao thao thức nghĩ suy về những nghịch cảnh và thân phận con người
của chị. Trong những phận người ấy, thân phận người phụ nữ của ngày hôm
qua và cả của ngày nay, vẫn còn bao điều nhà văn luôn suy tư, trăn trở.
Cảm hứng nghệ thuật của chị còn là những nỗi niềm với quê hương. Bàng
bạc trong các trang viết của chị, là một tình yêu quê hương sâu nặng. Những
vẻ đẹp bình dị, mộc mạc của miệt vườn của miền Tây Nam Bộ, những hương
vị của những sản vật dân dã mà sao quá đỗi đậm đà của quê hương, luôn thấp
thoáng trong những truyện ngắn, truyện vừa của chị ngày xưa, và trở về tràn
đầy trong những tản văn của chị gần đây. Trên nền của những cảnh sắc,
hương vị ấy, vẫn là con người Nam Bộ với những cá tính riêng mang đậm bản
sắc văn hoá của một vùng.
4.2. Nếu những cảm hứng nghệ thuật của Dạ Ngân đa diện, đa chiều, thì về
mặt thể loại và phương thức tự sự, nhà văn đã có những nét riêng và đóng
góp đáng kể.
Chị đã có những sáng tạo ở nhiều thể loại: Từ những truyện ngắn ban đầu,
đến tiểu thuyết, truyện vừa và những tản văn về sau. Bạn đọc cả nước nhớ đến
Dạ Ngân bởi nhiều truyện ngắn của chị. Sự sắc sảo của Dạ Ngân trong cách
nhìn về những cảnh ngộ của cuộc đời, về cách ứng xử của con người trước
những tình huống bất ngờ, đã tạo cho những trang viết của chị luôn hấp dẫn
người đọc.
Không chỉ ở sự từng trải, Dạ Ngân đã có những nét riêng khi thể hiện
những sáng tác của mình ở những phương thức khác nhau. Sự khắc họa tâm
trạng nhân vật một cách sâu sắc, ấn tượng đã để lại những tác phẩm đọng mãi
trong lòng người đọc. Đọc Gia đình bé mọn, người đọc không thể nào quên
những cảm giác, cảm xúc của Tiệp trong tình yêu, cũng như tâm trạng dằn vặt
của một người mẹ luôn mặc cảm không sống hết mình cho con. Những cảm
giác, tâm trạng ấy được Dạ Ngân thể hiện trên những trang viết của mình một
cách tinh tế, sâu sắc.
Dấu vết cuộc đời của tác giả cũng đã được ghi lại những nét rất rõ trong
sáng tác của nhà văn. Từ Miệt vườn xa lắm đến Gia đình bé mọn là một sự
tiếp nối của cuộc đời chị, cũng là cuộc đời của cô Tiệp năm nào, giờ đã lớn
lên; với bao hạnh phúc, với nhiều khổ đau. Nếu ngày xưa, một cô bé Tiệp vô
tư, vô lự ở mảnh vườn của gia đình; thì nay, một cô Tiệp phải gồng mình
chống lại bao điều tiếng, bao sự bủa vây, từ trong gia tộc, đến cơ quan, để đến
với tình yêu thực sự của mình. Những chi tiết nghệ thuật trong sáng tác của
chị được chị phác họa đơn sơ nhưng với tài năng, với cách quan sát tinh tế
con người và sự việc, đã giúp Dạ Ngân làm nên những trang viết gây ấn
tượng với bạn đọc.
Mặt khác, ở tản văn, chị đã có nhiều trang viết mượt mà, đẫm chất thơ.
Phải chăng, khi viết về quê hương, về những cảnh sắc quê nhà, về những sản
vật bình dị của một miền quê, chính cảm xúc từ trong sâu thẳm tâm hồn đã
dẫn dắt ngòi bút của Dạ Ngân trải nhẹ tênh, thênh thang trên tác phẩm?
Không chỉ ở tản văn, truyện ngắn và tiểu thuyết của chị cũng đã có những
trang tràn đầy thơ mộng.
Với một số lượng tác phẩm không nhỏ trong suốt hai mươi lăm năm cầm
bút, Dạ Ngân cũng có những thành công trên bình diện phương thức tự sự.
Từ những cảnh ngộ, tình huống trong cuộc đời mà chị đã quan sát hoặc
trải qua, Dạ Ngân đã khéo sáng tạo nên những tình huống trong tác phẩm của
mình, và sắc sảo trong khắc hoạ nhân vật. Để một cô Tư Ràng ung dung, thư
thái, quyền uy trong Miệt vườn xa lắm vẫn tiếp tục là một cô Tư Ràng quyền
uy, mạnh mẽ trong Gia đình bé mọn.
Ký ức ngày xưa luôn luôn hiện về trong cuộc sống ngày nay, để tác phẩm
của Dạ Ngân vẫn là một dòng chảy đan cài giữa hiện thực và hoài niệm. Và
đêm đêm, bên chiếc máy đánh chữ của mình, nhà văn vẫn cứ thủ thỉ với mình,
để những lời thủ thỉ ấy, ngày sang ngày, đến được với công chúng, với bạn
đọc yêu mến những trang văn của chị, để rồi bạn đọc cùng nghĩ suy, cùng
buồn vui với chị.
4.3. Tài năng của Dạ Ngân, của một nhà văn nữ, đã được bạn đọc khẳng
định. Tài năng ấy được thể hiện rõ ở những ngôn từ nghệ thuật mà Dạ Ngân
đã viết nên. Những ngôn từ nghệ thuật ấy rất phong phú, đa dạng, tinh tế, diễn
tả chính xác những cảnh, những hình, những cung bậc của tình cảm.
Đã có một sự hài hoà giữa chất văn xuôi và chất thơ trong lời văn nghệ
thuật của Dạ Ngân. Có thể ở đây là những lời văn đầy góc cạnh, thông tục; thì
ở nơi khác, lời văn lại mang âm hưởng trữ tình, bay bổng, mượt mà. Chính sự
hoà hợp tự nhiên giữa chất văn xuôi và chất thơ đã tạo nên sự đa dạng thẩm
mỹ trong sáng tác của nhà văn. Ở tản văn, trong truyện ngắn, cả trong tiểu
thuyết, nhiều trang văn của Dạ Ngân giàu chất thơ, và đó đây, thể hiện những
suy tư, triết luận
Lời văn nghệ thuật của Dạ Ngân còn là sự hài hoà giữa ngôn ngữ toàn dân
và phương ngữ Nam Bộ; và còn là sự hài hoà giữa tự sự, trữ tình và chính
luận.
Bạn đọc cả nước dễ nhận ra chất Nam Bộ đậm đặc trong lời văn nghệ
thuật của Dạ Ngân. Cách gọi tên người, sự vật với những đại từ, danh từ
mang đậm sắc thái địa phương; cùng những lớp từ ngữ mang trầm tích văn
hoá Nam bộ; với sự vận dụng những điệp ngữ, thành ngữ trong tác phẩm của
mình, cách đặt câu, trình bày, diễn đạt giàu chất khẩu ngữ mang truyền thống
ngôn ngữ văn chương Nam Bộ, những trang viết đã mang dấu ấn Dạ Ngân.
Đặc biệt, Dạ Ngân đã sử dụng rất nhiều từ láy trong các tác phẩm của
mình. Những từ láy, vừa phong phú, đa dạng, chính xác mà hiệu quả trong
sáng tạo nghệ thuật đã góp phần cùng với những yếu tố khác của lời văn nghệ
thuật làm cho những lời văn nghệ thuật của Dạ Ngân có những nét rất riêng,
giàu tính nhạc, không lẫn với bất cứ một nhà văn nữ nào khác.
4.4. Quá trình sáng tác của Dạ Ngân diễn ra cùng thời với quá trình đổi
mới văn học theo hướng dân chủ hóa; chính những làn gió mạnh mẽ của công
cuộc đổi mới của Đảng đã mở ra một khung trời rộng, đã tạo điều kiện cho
những sáng tác văn học nghệ thuật mới ra đời, trong đó có những tác phẩm
của Dạ Ngân với những nét đặc sắc riêng. Với những sáng tạo ấy của chị, Dạ
Ngân đã lặng lẽ góp những đứa con tinh thần của mình vào nền văn học Việt
Nam đương đại. Chúng ta trân trọng với những đóng góp bền bỉ của Dạ Ngân,
trong suốt chặng đường một phần tư thế kỷ vừa qua.
THƯ MỤC THAM KHẢO
1. Vũ Tuấn Anh (1995), Đổi mới văn học về sự phát triển, Tạp chí Văn
học số 4/1995.
2. Phan Thị Vàng Anh (1995), Khi người ta trẻ, Nxb Hội Nhà văn, Hà
Nội.
3. Phạm Thanh Ba (1989), Về một chặng đường văn xuôi (lược thuật hội
thảo của Hội đồng văn xuôi mở rộng, Báo văn nghệ số 12, 13/1989.
4. Diệp Quang Ban (Chủ biên), Hoàng Văn Trung (2006), Ngữ pháp
Tiếng Việt, tập 1, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
5. Nguyễn Thị Bình (1996), Những đổi mới của văn xuôi nghệ thuật Việt
Nam sau 1975, Luận án Phó Tiến sĩ khoa học Ngữ văn.H. 1996.
6. Nguyễn Bính (1939), Tương tư, thơ, Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội
(Tái bản 2009).
7. Nguyễn Minh Châu (1981), Đôi điều về truyện ngắn, Văn Nghệ Quân
đội (số 8,1981).
8. Nguyễn Minh Châu (1983), Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành,
Nxb tác phẩm mới, Hà Nội.
9. Nguyễn Minh Châu (1987), Hãy đọc lời ai điếu cho một giai đoạn văn
nghệ minh họa, Báo Văn nghệ số 49,50/1987.
10. Nguyễn Minh Châu (1989), Cỏ lau, Nxb Văn học, Hà Nội.
11. Trương Chính, Đặng Đức Siêu (1978), Sổ tay văn hoá Việt Nam, Nxb
Văn hoá, Hà Nội.
12. Hoàng Thị Kim Cúc (2008), Phong cách truyện ngắn Dạ Ngân, Luận
văn Thạc sĩ Ngữ văn, Trường Đại học Vinh, Nghệ An;
13. Nguyễn Văn Dân (2006), Phương pháp luận nghiên cứu Văn học,
Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội;
14. Trần Ngọc Dung (2006), Đời sống thể loại văn học sau 1975, Nghiên
cứu Văn học số 2/2006.
15. Lê Tiến Dũng (2003), Giáo trình lý luận văn học, phần tác phẩm văn
học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
16. Phan Cự Đệ (1978), Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại (2 tập), Nxb Đại
học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội; Tái bản lần thứ ba (2001), Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
17. Phan Cự Đệ (chủ biên) (2004), Văn học Việt Nam thế kỷ XX, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
18. Phan Cự Đệ (chủ biên) (2007), Truyện ngắn Việt Nam – lịch sử – thi
pháp – chân dung, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
19. Dương Thị Lệ Giang (2005), Những nét đặc sắc trong tản văn của
Hoàng Phủ Ngọc Tường, Luận văn thạc sĩ ngữ văn, Trường ĐHSP Huế.
20. Lê Bá Hán – Trần ĐÌnh Sử – Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên) (2007),
Từ điển Thuật ngữ Văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
21. Nguyễn Văn Hạnh, Huỳnh Như Phương (1995), Lý luận văn học– vấn
đề và suy nghĩ, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
22. Hoàng Ngọc Hiến (1991), Thi pháp của truyện, Báo Văn nghệ số
31/1991.
23. Đỗ Đức Hiểu, Nguyên Huệ Chi, Phùng Văn Tửu, Trần Hữu Tá (Chủ
biên) (2004), Từ điển Văn học, Nxb Thế giới, Hà Nội.
24. Tô Hoài, Tản mạn Miệt vườn xa lắm của Dạ Ngân.
25. Phạm Hổ (2005), Chuyện hoa chuyện quả, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.
26. Hội đồng Quốc gia chỉ đạo biên soạn Từ điển Bách Khoa Việt Nam
(2005), Từ điển Bách Khoa Việt Nam, tập 4, Nxb Từ điển Bách Khoa, Hà
Nội.
27. Cao Thị Huệ (2006), Sáng tác của Dạ Ngân, Luận văn Thạc sĩ ngữ
văn, Trường ĐHSP Hà Nội, Hà Nội;
28. Nguyễn Thanh Hùng (2008), Đọc hiểu tác phẩm văn chương trong
nhà trường, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
29. Mai Hương (1991), Truyện ngắn của Dạ Ngân, Tạp chí Nghiên cứu
Phụ nữ số 2/1991.
30. Chu Huy (1986), Quãng đời ấm áp, Báo văn nghệ số 48/1986.
31. Nguyễn Khải (1982), Gặp gỡ cuối năm, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội.
32. Nguyễn Khải (1985), Thời gian của người, Nxb Tác phẩm mới, Hà
Nội.
33. Nguyễn Khải (2009), Tác phẩm chọn lọc, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
34. Ma Văn Kháng (1986), Mùa lá rụng trong vườn, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
35. Chu Lai (1994), Nghĩ về hơi văn một vùng sông nước, Văn nghệ Quân
đội số 4/1994.
36. Lý Lan (2009), Bày tỏ tình yêu, Nxb Văn nghệ, Tp.HCM.
37. Tôn Phương Lan (1994), Chiến tranh qua những tác phẩm văn xuôi
được giải, Tạp chí Văn học số 12/ 1994.
38. Tôn Phương Lan (2001), Một vài suy nghĩ về con người trong văn xuôi
thời kỳ đổi mới, Tạp chí Văn học số 9/2001.
39. Phong Lê (2005), Nguời trong văn, Nxb Văn hoá Sài Gòn, Tp.HCM.
40. Nguyễn Văn Long (2003), Văn học Việt Nam thời đại mới, Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
41. Nguyễn Văn Long – Lã Nhâm Thìn (đồng chủ biên) (2006), Văn học
Việt Nam sau 1975– Những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy, Nxb Giáo
dục, Hà Nội
42. Lê Lựu (1986), Thời xa vắng, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội.
43. Phương Lựu (chủ biên) (2003), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà
Nội;
44. Trần Thuỳ Mai (2001), Quỷ trong trăng, Nxb Trẻ, Tp.HCM.
45. Nguyễn Đăng Mạnh (2000), Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của
Nhà văn, Nxb Giáo dục, Hà Nội (Tái bản lần thứ hai).
46. Nguyễn Đăng Mạnh (2001), Nhà văn tư tưởng và phong cách, Nxb Đại
học Quốc gia Hà Nội (Tái bản).
47. Nguyễn Đăng Mạnh – Bùi Duy Tân – Nguyễn Như Ý (đồng chủ biên)
(2009), Từ điển tác giả tác phẩm văn học Việt Nam dùng cho nhà trường,
Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội;
48. Hoài Nam (2005), Bốn lời bình cho Gia đình bé mọn, Báo người đại
biểu nhân dân ngày 25/7/2005.
49. Dạ Ngân (1986), Quãng đời ấm áp, Nxb Phụ Nữ, Hà Nội.
50. Dạ Ngân (1989), Ngày của một đời, Nxb Văn nghệ TP Hồ Chí Minh.
51. Dạ Ngân (1990), Con chó và vụ ly hôn, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
52. Dạ Ngân (1993), Cõi nhà, Nxb Thanh Niên, Hà Nội.
53. Dạ Ngân (1995), Truyện ngắn chọn lọc, Nxb Văn học, Hà Nội.
54. Dạ Ngân (1997), Truyện ngắn chọn lọc (in chung với Nguyễn Quang
Thân), Nxb Phụ nữ.
55. Dạ Ngân (2000), Mùa đốt đồng, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.
56. Dạ Ngân (2002), Nhìn từ phía khác, Nxb Hà Nội.
57. Dạ Ngân (2002), Lục bình mải miết, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.
58. Dạ Ngân (2003), Miệt vườn xa lắm, Nxb Kim Đồng, Bản in lần thứ ba,
Nxb Kim Đồng, 2006.
59. Dạ Ngân (2005), Gia đình bé mọn, Nxb Phụ nữ, Hà Nội; Nxb Thanh
niên 2010 (tái bản lần 5).
60. Dạ Ngân (2006), 100 tản mạn hồn quê, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
61. Dạ Ngân (2008), Nước nguồn xuôi mãi, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
62. Dạ Ngân (2010), Phố của làng, Nxb Thanh niên, Hà Nội .
63. Dạ Ngân (2010), Gánh đàn bà, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
64. Vương Trí Nhàn (2001), Sổ tay truyện ngắn, Nxb Văn nghệ, TP Hồ Chí
Minh;
65. Nhiều tác giả (2010), Văn mới 5 năm 2006–2010, Nxb Hội Nhà văn, Hà
Nội.
66. Bảo Ninh (2005), Thân phận của tình yêu, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
67. Nguyễn Khắc Phi (Tổng Chủ biên) (2011), Ngữ văn 7, tập 1, Nxb Giáo
dục, Hà Nội (Tái bản lần thứ tám).
68. Băng Sơn (2005), Thú ăn chơi người Hà Nội, Nxb Văn hoá Thông tin,
Hà Nội.
69. Trần Đình Sử (1993), Một số vấn đề thi pháp học hiện đại, Bộ Giáo
dục và Đào tạo, Hà Nội.
70. Trần Đình Sử (chủ biên) (2004), Tự sự học – một số vấn đề lý luận và
lịch sử, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.
71. Quách Thanh Tạng (2011), Đặc điểm truyện của Dạ Ngân, Luận văn
thạc sĩ Ngữ văn, Trường Đại học Cần Thơ.
72. Ngô Thảo & Lại Nguyên Ân (biên soạn) (1995), Nhà văn Việt Nam
chân dung tự họa tập 1, Nxb Văn học, Hà Nội;
73. Bùi Việt Thắng (2000), Truyện ngắn – Những vấn đề lý thuyết và thực
tiễn thể loại; Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
74. Bùi Việt Thắng (2008), Phía trước của tiểu thuyết, trích từ Tuyển tập
các bài viết về Tiểu thuyết ở Việt Nam thế kỷ XX, Nxb Giáo dục, Hà Nội. .
75. Nguyễn Thành Thi (2000), Phong cách Văn xuôi nghệ thuật Thạch
Lam, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn.
76. Nguyễn Thành Thi (2010), Văn học – Thế giới mở, Nxb trẻ, Tp.HCM.
77. Nguyễn Huy Thiệp (2010), Giăng lưới bắt chim, Nxb Thanh niên, Hà
Nội.
78. Huỳnh Công Tín (2007), Từ điển từ ngữ Nam bộ, Nxb Khoa học Xã
hội, Hà Nội.
79. Ngô Đức Thịnh (Chủ biên) (1993), Văn hoá vùng và phân vùng văn
hoá ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
80. Lê Ngọc Trà (2007), Văn chương, thẩm mỹ và văn hoá, Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
81. Truyện ngắn ba tác giả nữ đồng bằng sông Cửu Long (2005), Nxb
Văn học.
82. Nguyễn Tuân (1988), Cảnh sắc và hương vị đất nước, Nxb Tác phẩm
mới, Hà Nội.
83. Nguyễn Tuân (2009), Tác phẩm chọn lọc Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà
Nội.
84. Nguyễn Văn Tùng (2008), Tuyển tập các bài viết về Tiểu thuyết ở Việt
Nam thế kỷ XX, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
85. Nguyễn Ngọc Tư (2008), Biển của mỗi người, Nxb Văn hoá Sài Gòn,
Tp.HCM.
86. Hoàng Thị Văn (2001), Đặc trưng truyện ngắn Việt Nam từ 1975 đến
đầu thập niên 90, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn.
87. Chế Lan Viên (2009), Những tác phẩm chọn lọc, Nxb Giáo dục Việt
Nam, Hà Nội.
88. Viện Ngôn ngữ học (2006), Từ điển từ láy Tiếng Việt, Nxb Văn hoá
Sài Gòn, Tp.HCM.
89. Nguyễn Anh Vũ (2005), Đọc truyện ngắn ba tác giả nữ đồng bằng
sông Cửu Long, Báo Văn nghệ số 27/2005.
90. Nguyễn Như Ý (2009), Từ điển thành ngữ học sinh, Nxb Giáo dục
Việt Nam.
PHỤ LỤC 1
THỐNG KÊ TỪ LÁY
Truyện ngắn: Đừng nói điều ơn nghĩa
(Tập “Quãng đời ấm áp” – NXB Phụ Nữ 1986)
Trang
(của
truyện)
Các từ láy Số
lượng
Từ láy là
Danh
từ
Động,
tính từ
1 dữ dội, ngượng nghịu, lóng ngóng, chúm
chím, xẻn lẻn, lúng búng. 6 6
2
sượng sùng, xác xơ, song song, rậm rì, lau
lách, lé đé, lực lưỡng, thành thạo, lụp bụp,
chốc chốc, bực bội, mên mến.
12 2 10
3 tíu tít, rải rác, điêu đứng, gồng gánh, dìu dắt, ngao ngán, lặt vặt, xoay xở, đơn độc. 9 9
4
mò mẫm, vĩnh viễn, nấu nướng, nghìn nghịt,
dạn dĩ, vất vả, vo ve, lóng ngóng, nhút nhát,
lo lắng, hùng hục, cày cục, chu chu, đăm
đăm, nhỏ nhắn.
15 15
5
sáng sủa, cao cả, sắm sửa, háo hức, nhấp
nhỏm, tỉnh tảo, cẩn thận, hin hỉn, hun hút, chu
chu
10 10
6
chúm chím, ngượng nghiụ, lóng ngóng, vụng
về, hun hút, chu chu, cần cù, dửng dưng, nhút
nhát, săm soi, lâu lắc, mênh mông, uyển
chuyển, hờ hững, xinh xinh, khe khẽ, đinh
ninh, rủ rỉ.
18 18
7 đùng đục, run run, rối rắm, nghiêm nghị, bối
rối, bực bội, cau có, phũ phàng, luống cuống. 9 9
8
dạt dào, gấp gáp, âm thầm, tinh tế, trắng trẻo,
mịn màng, tán tỉnh, vụng về, thảm thương,
khinh khỉnh, đắm đuối, thẫn thờ.
12 12
9
hả hê, nhẹ nhàng, lục tục, vất vả, sàm sỡ,
căng thẳng, nặng nề, liên miên, loáng thoáng,
chình ình , đủng đỉnh.
11 11
10 cơ sở, lực lượng, lụm cụm, tíu tít, săm soi,
bàn tán, lớn lao, nghêu ngao, khấp khởi, vời
18 2 16
vợi, thiên thanh, bồi hồi, lả lướt, xao xác, chết
chóc, dữ dội, rú rít, xèn xẹt.
11
ngoan ngoãn, thác lác, lực lưỡng, sơ sài, tới
tấp, ào ào, ấm áp, ngượng nghiụ(2 lần), rụt rè,
cứng cỏi, lởn vởn.
12 12
12
tò mò, độc địa, mệnh lệnh, nhẹ nhàng, lấp
lánh, sôi nổi, trang trọng, hồi hộp, hào hứng,
thủ thuật, nghỉ ngơi, hầm hố, chống chọi,
hung hăng, hộc tốc.
15 3 12
13
tất bật, đồ đạc, chồm hỗm, lồng lộn, rôm rốp,
hậm hực, tè tè, lắc lư, dẹp lép, nóng nảy, căng
thẳng.
11 1 10
14
lùm lùm, gay go, đớt đát, nho nhỏ, bồng
bông, lé đé, hoảng hốt, căng thẳng, nồng
nồng, cầu cứu, gởi gắm.
11 1 10
15
dáo dác, chống chọi, đơn độc, lụm cụm, vu
vơ, vĩnh viễn, lất phất, mù mịt, mòng mọng,
lát lát, sụt sùi, lều bều, ào ào, đủng đỉnh, lập
cập.
15 1 14
16 nhỏ nhắn, lố nhố, sùm sụp, lảo đảo, khủng
khiếp, thiêng liêng, lào xào, run run. 8 8
17
lặng lẽ, lầm lũi, xanh xao, vật vã, nghỉ ngơi,
ngắn ngủi, thanh thản, đau đớn, thì thào, ân
hận, phũ phàng.
11 11
18 lòng khòng, lực lưỡng, xinh xắn, vững vàng,
nồng nàn. 5 5
Tổng cộng 208 10 198
PHỤ LỤC 2
THỐNG KÊ TỪ LÁY
Truyện ngắn “Hôm ấy trời đẹp lắm” (12/ 2005)
(Tập “Nước nguồn xuôi mãi” – NXB Phụ Nữ, 2008)
Trang
(của
truyện)
Các từ láy Số
lượng
Từ láy là
Danh
từ
Động,
tính từ
1 tư lự, hương hoả, nghỉ ngơi, thông thống, lúp
xúp, đổ xô, rậm rạp, đất đai, hăm hở, lụi đụi. 10 2 8
2 săn sóc, dỗ dành, quày quả, ngon ngót, bần
thần, cao ráo, lóp ngóp, man mát, ngồ ngộ. 9 9
3
trầm trồ, trăng trắng, đong đưa, óc ách, tần
ngần, mãi mãi, trai tráng, bập bềnh, lạ lùng, rõ
ràng, nỗi niềm, chần chừ.
12 2 10
4 quen quen, dễ dàng, thiếu thốn, biền biệt, bùi
nhùi, chắc chắn. 6 6
5 ngơ ngẩn, lẳng lặng, ráo rảnh, rạo rực, cần cù. 5 5
6
vòng vàng, học hành, dần dừ, sứt sẹo, xót xa,
thỉnh thoảng, thanh tân, thân thiết, huỷ hoại,
thân thể.
10 4 6
7 ngặt nghèo, rầu rầu, mịt mù, sức sống. 4 1 3
8 lóng ngóng, hui hút, vui vẻ, dân dã. 4 4
9 êm đềm, đất đai, thờ ơ, sơ sài, đối đáp, vội
vàng, rời rạc, lúng túng. 8 1 7
10
đinh ninh, thông thường, sột soạt, đàng hoàng,
hôi hám, lấm láp, lính quýnh, lấm lét, bực bội,
bải hoải.
10 10
11 tức tưởi, hoàng hôn, sững sờ, chập chờn. 4 1 3
Tổng cộng 82 11 71
PHỤ LỤC 3
THỐNG KÊ TỪ LÁY
Tiểu thuyết “Gia đình bé mọn” (Chương 11 – gồm 16 trang)
Trang
(của
truyện)
Các từ láy Số
lượng
Từ láy là
Danh
từ
Động,
tính từ
127 lóng nhóng, nhâng nháo. 2 2
128 ngất ngây, mù mịt, phì phò. 3 3
129 đo đỏ, xì xào, vung vãi, nhịp nhàng, tôi tối, lung
linh, triền miên. 7 7
130
ngẩn ngơ, thướt tha, nền nã, luộm thuộm, thiêng
liêng, bơ vơ, trắc trở, suôn suôn, khắc khổ, hô
hố, thánh thót
11 11
131 chầu chực, mảnh khảnh, vòng vòng, nền nã, tràn
trề, xoay xở, kham khó, buồn buồn, vất vả. 9 9
132 chớp chớp, lục lọi, phân phối, thịt thà. 4 1 3
133
dai dẳng, bải hoải, tuổi tác, chầy chống, vẻn ven,
thừa thãi, bủn rủn, hơi hướng, linh tính, nghi
ngờ.
10 3 7
134 chì chiết, run rẩy, vật vã, gặp gỡ, lăm le, thánh
thót, lăng xăng, lù lù. 8 8
135
lì lợm, khúc khích, phừng phừng, mảnh khảnh,
tình tứ, đồ đạc, lích kích, nhộm nhoạm, chòng
chành, hí hí.
10 1 9
136 ngầy ngà, tuổi tác, thơm tho, sóng sánh, hoàn
toàn, khớ khớ. 6 1 5
137 chần chừ, nhủn nhẳn, lặng lẽ, đồ đạc, lèo tèo, thê
thảm, thăng bằng, tha thẩn. 8 1 7
138 lẹp xẹp, lóc cóc, lặng lẽ, thủ thỉ. 4 4
139 ngập ngừng, giả lả, cẩn thận, dữ dằn, chật chội,
thiếu thốn. 6 6
140 ầm ĩ, lùm đùm, bộc bạch, nghe ngóng. 4 4
141 vàng vàng, lởm khởm, hành hung, thịt thà, lưu
cửu, chen chúc. 6 1 5
142
vung vãi, xương xóc, xanh xanh, bưng bê, ngắc
ngứ, liều lĩnh, lấn cấn, rõ rệt, meo méo, nhăn
nhó, đột ngột.
11 1 10
Tổng cộng 109 9 100
PHỤ LỤC 4
THỐNG KÊ CÁC ĐIỆP TỪ & ĐIỆP NGỮ
Tiểu thuyết: Gia đình bé mọn
STT Chương Trang Điệp từ, điệp ngữ đã dùng
1 6 không còn
11 sẽ
2 18 không có, đến
22 goá
23 bây
7 74 bận
79 đàng hoàng
8 99 khóc
9 112 chia nhau
10 124 những
125 muốn
13 160 có, như (đồng điệp từ)
161 yên tâm
167 mẹ
174 thành
14 184 những
15 196 từ
199 mẹ nó
16 218 chia tay
220 nhớ mãi
19 270 - 271 có
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tvefile_2012_08_21_1053125356_4488.pdf