Luận văn Đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài - Từ thực tiễn tỉnh Lâm Đồng

Kết hôn nói chung và kết hôn có yếu tố nước ngoài nói riêng là một quyền của con người được pháp luật ghi nhận và bảo vệ. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, Luật Hộ tịch và các văn bản hướng dẫn thi hành đã được Quốc hội, Chính phủ và các Bộ ngành ban hành nhằm sửa đổi, bổ sung và tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật để điều chỉnh quan hệ mới phát sinh trong thực tế, khắc phục những thiếu sót, bất cập để bắt kịp với xu thế phát triển kết hôn có yếu tố nước ngoài đang diễn ra. Trong phạm vi của Luận văn này, từ việc hệ thống hóa cơ sở lý luận và cơ sở pháp lý về đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài và phân tích thực trạng đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài tại tỉnh Lâm Đồng trong thời gian qua, luận văn đã đưa ra những nhận xét, đánh giá cả về ưu điểm cũng như hạn chế về thực trạng đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài. Trên cơ sở đó, luận văn đã đề xuất một số số giải pháp nhằm bảo đảm việc đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài cho các địa phương trên cả nước nhằm bảo đảm hoạt động này được triển khai đúng đắn trên thực tế, bảo đảm quyền con người, quyền công dân cũng như sự quản lý của Nhà nước.

pdf101 trang | Chia sẻ: yenxoi77 | Lượt xem: 743 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài - Từ thực tiễn tỉnh Lâm Đồng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
5/NĐ-CP và Luật Hộ tịch. Về nguyên tắc văn bản có hiệu lực pháp lý thấp hơn không đƣợc trái với văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn. Ngoài ra, chƣa có một văn bản pháp luật nào quy định chi tiết nhƣ thế nào là “khi cần thiết” cần thực hiện thủ tục phỏng vấn để xác minh rõ nghi vấn nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của hai bên đƣơng sự. Và trong trƣờng hợp hồ sơ có nhiều nghi vấn thì giải quyết nhƣ thế nào? Trong công tác quản lý Nhà nƣớc đối với đăng ký kết hôn có yếu tố nƣớc ngoài trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng trong thời gian vừa qua còn gặp khó khăn đó là khó xác định đƣợc trƣờng hợp nào khi đăng ký kết hôn là thông qua môi giới bất hợp pháp để có cơ sở tiến hành xác minh hoặc không chấp nhận. Các hoạt động môi giới hôn nhân bất hợp pháp ngày càng tinh vi, các tổ chức môi giới kết hôn chủ yếu ở Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh miền Nam vì vậy việc xác định các trƣờng hợp đăng ký kết hôn với công dân nƣớc ngoài, đặt biệt là Hàn Quốc và Đài Loan tại tỉnh Lâm Đồng, có thông qua môi giới hôn nhân hay không thì rất khó xác định để đánh giá một cách toàn diện về công tác quản lý Nhà nƣớc. Việc thực hiện luân chuyển cán bộ theo quy định tại Nghị định số 158/2007/NĐ-CP ngày 27 tháng 7 năm 2007 của Chính phủ quy định danh mục các vị trí công tác và thời hạn định kỳ chuyển đổi vị trí công tác đối với 67 cán bộ, công chức, viên chức đã đƣợc thực hiện tại tỉnh Lâm Đồng. Tuy nhiên việc bố trí cán bộ cần kết hợp với công tác bồi dƣỡng, nâng cao năng lực trình độ và phẩm chất đạo đức, việc bố trí luân chuyển cán bộ không làm ảnh hƣởng đến chất lƣợng công tác chuyên môn, trong đó có công tác hƣớng dẫn, tiếp nhận hồ sơ và giải quyết thủ tục đăng ký kết hôn có yếu tố nƣớc ngoài. Việc phụ nữ tỉnh Lâm Đồng kết hôn với ngƣời nƣớc ngoài, đặt biệt là công dân Trung Quốc (Đài Loan) và Hàn Quốc không nhiều nhƣng thông qua thực tế đăng ký kết hôn, một số lƣợng không nhỏ phụ nữ ở tỉnh Lâm Đồng đăng ký tạm trú tại các tỉnh, thành phố nhƣ: thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dƣơng do nhu cầu sinh sống (ví dụ nhƣ làm công nhân tại các khu công nghhiệp), học tập, làm việc. Quá trình quen biết có thể tự tìm hiểu hoặc thông qua môi giới hôn nhân, sau đó hoàn thiện hồ sơ và về tỉnh nơi có hộ khẩu thƣờng trú để đăng ký kết hôn, sau đó lại tiếp tục trở về nơi tạm trú. Việc nắm bắt, tìm hiểu về tình hình hôn nhân gia đình có yếu tố nƣớc ngoài đối với các đối tƣợng này cũng hạn chế, do không nhận đƣợc việc tuyên truyền và tƣ vấn tại địa phƣơng. Từ đó hoạt động quản lý Nhà Nƣớc về tình hình hôn nhân có yếu tố nƣớc ngoài chƣa thực sự triệt để và cũng rất khó để phát hiện các trƣờng hợp môi giới hôn nhân. Trung tâm tƣ vấn và hỗ trợ hôn nhân và gia đình có yếu tố nƣớc ngoài còn hoạt động theo chế độ kiêm nhiệm, chƣa triển khai sâu rộng các hoạt động tuyên truyền về vị trí, vai trò của Trung tâm trong việc giúp đỡ các trƣờng hợp phụ nữ Việt Nam kết hôn với ngƣời nƣớc ngoài. Theo quy định tại Khoản 4 điều 6 Thông tƣ số 22/2013/TT-BTP ngày 31 tháng 12 năm 2013 của Bộ Tƣ pháp Quy định chi tiết và hƣớng dẫn thi hành một số điều của Nghị định số 24/2013/NĐ-CP ngày 28 tháng 3 năm 2013 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Hôn nhân 68 và gia đình về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nƣớc ngoài. Thông tƣ này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 17 tháng 02 năm 2014. Trong việc kết hôn giữa công dân Việt Nam với ngƣời nƣớc ngoài, nếu đƣơng sự thuộc một trong các trƣờng hợp sau thì phải đến Trung tâm để đƣợc tƣ vấn, hỗ trợ: - Hai bên chênh lệch nhau từ 20 tuổi trở lên; - Ngƣời nƣớc ngoài kết hôn lần thứ ba hoặc đã kết hôn và ly hôn với vợ hoặc chồng là công dân Việt Nam; - Hai bên chƣa hiểu biết về hoàn cảnh gia đình, hoàn cảnh cá nhân của nhau; không hiểu biết về ngôn ngữ, phong tục, tập quán, văn hóa, pháp luật về hôn nhân và gia đình của mỗi nƣớc [2, Điều 6]. Nhƣ phân tích ở trên, Trung tâm tƣ vấn và hỗ trợ kết hôn, trong năm 2014, trung tâm đã tƣ vấn và cấp giấy xác nhận đối với 25 trƣờng hợp; năm 2015: 01 trƣờng hợp. Luật Hộ tịch năm 2014 có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2016, thì yêu cầu cấp giấy xác nhận công dân Việt Nam đã đƣợc tƣ vấn, hỗ trợ hôn nhân và gia đình có yếu tố nƣớc ngoài đối với các trƣờng hợp trên không còn là yêu cầu bắt buộc mà là sự tự nguyện của cá nhân, năm 2016 không có trƣờng hợp nào đến để đƣợc tƣ vấn và hỗ trợ kết hôn. Nhƣ vậy, với yêu cầu không bắt buộc phải có Giấy xác nhận đã đƣợc tƣ vấn và hỗ trợ hôn nhân có yếu tố nƣớc ngoài thì đƣơng sự sẽ không tới Trung tâm tƣ vấn, hỗ trợ hôn nhân và gia đình có yếu tố nƣớc ngoài để đƣợc tƣ vấn, hỗ trợ, để nâng cao sự hiểu biết về văn hóa, phong tục tập quán, pháp luật, đất nƣớc, con ngƣời của ngƣời mà mình dự định kết hôn hoặc có thể giúp đỡ các bên kết hôn tìm hiểu các vấn đề về hoàn cảnh cá nhân, gia đình, xã hội của mỗi bên và các vấn đề khác liên quan mà các bên yêu cầu; tạo điều kiện để họ tiến tới hôn nhân tự nguyện, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc. Ngoài ra, trong trƣờng hợp công dân Việt Nam 69 hoặc ngƣời nƣớc ngoài có nhu cầu giới thiệu ngƣời nƣớc ngoài hoặc công dân Việt Nam để kết hôn thì Trung tâm thực hiện giới thiệu. Thực hiện chức năng quản lý nhà nƣớc về kết hôn có yếu tố nƣớc ngoài, Sở Tƣ pháp đã có Kế hoạch và thành lập đoàn kiểm tra, kiểm tra việc thực hiện thủ tục hành chính tại địa bàn các huyện, thành phố trên địa bàn tỉnh. Qua kiểm tra thực tế tại địa bàn các huyện, thành phố trên địa bàn tỉnh, Đoàn kiểm tra của Sở Tƣ pháp đã thực hiện kiểm tra ngẫu nhiên các hồ sơ đăng ký kết hôn, còn phát hiện một số sai sót trong giải quyết nhƣ: - Tại Ủy ban nhân dân huyện Đạ Tẻh, công chức tƣ pháp còn thu thêm một số giấy tờ ngoài quy định gồm: Giấy chứng tử, giấy chứng nhận kết hôn, bản án (hồ sơ đăng ký kết hôn số 01); 03 hồ sơ đăng ký kết hôn có yếu tố nƣớc ngoài thời gian giải quyết thực tế từ 01 đến 03 ngày (quy định 15 ngày), phiếu kiểm soát quá trình giải quyết thủ tục hành chính ghi thời gian thực hiện không trùng khớp với ngày ký và trả kết quả giải quyết thủ tục hành chính. - Tại Ủy ban nhân dân thành phố Bảo Lộc: Vẫn có hồ sơ đăng ký kết hôn có yếu tố nƣớc ngoài trễ hẹn (01 trƣờng hợp). Hồ sơ kết hôn chƣa có phiếu theo dõi quá trình công việc theo quy trình ISO. Về trình tự thực hiện thủ tục đăng ký kết hôn có yếu tố nƣớc ngoài, Phòng Tƣ pháp yêu cầu hai bên nam nữ ký vào Giấy chứng nhận kết hôn trƣớc khi trình Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố ký là chƣa đúng quy định theo Khỏan 3 Điều 38 của Luật Hộ tịch theo quy định. - Tại Ủy ban nhân dân huyện Bảo Lâm: Đối với các hồ sơ đƣợc kiểm tra (trong đó có hồ sơ đăng ký kết hôn) thì phần lớn các tờ khai chƣa đƣợc ghi đầy đủ ngày, tháng, năm. - Tại Ủy ban nhân dân huyện Đam Rông: Đối với hồ sơ có yếu tố nƣớc ngoài, không ký đầy đủ các bƣớc trong phiếu kiểm soát. 70 Qua việc xem xét Sổ đăng ký kết hôn từ năm 2011 đến nay, lƣu tại cơ quan, tôi thấy việc ghi chép còn có sai sót. Theo quy định Nghị định số 158/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005 của Chính phủ về đăng ký và quản lý hộ tịch nhƣ sau: Trong khi đăng ký, nếu có sai sót do ghi chép trong sổ hộ tịch, thì cán bộ Tƣ pháp hộ tịch, cán bộ Tƣ pháp của Phòng Tƣ pháp hoặc cán bộ hộ tịch của Sở Tƣ pháp phải trực tiếp gạch bỏ phần sai sót, viết lại xuống dòng phía dƣới, không đƣợc chữa đè lên chữ cũ, không đƣợc tẩy xóa để viết lại, cột ghi chú của sổ hộ tịch phải ghi rõ nội dung sửa; họ, tên, chữ ký của ngƣời đã sửa và ngày, tháng, năm sửa chữa. Cán bộ Tƣ pháp hộ tịch cán bộ Tƣ pháp của Phòng Tƣ pháp hoặc cán bộ hộ tịch của Sở Tƣ pháp đóng dấu vào phần đã sửa chữa. Nếu có sai sót trong các giấy tờ hộ tịch, thì hủy giấy tờ hộ tịch đó và viết lại giấy tờ hộ tịch khác [7, Điều 69]. Thông tƣ số 08a/2010/TT-BTP ngày 25 tháng 3 năm 2010 của Bộ Tƣ pháp về việc ban hành và hƣớng dẫn việc ghi chép, lƣu trữ, sử dụng sổ, biểu mẫu hộ tịch quy định: Trong khi đăng ký, nếu có sai sót do ghi chép trong sổ hộ tịch, thì ngƣời thực hiện phải trực tiếp gạch bỏ phần sai sót, không đƣợc chữa đè lên chữ cũ, không đƣợc tẩy xóa để viết lại. Cột ghi chú những thay đổi của sổ hộ tịch phải ghi rõ nội dung sửa; họ và tên, chữ ký của ngƣời đã sửa và ngày, tháng, năm sửa. Ngƣời thực hiện đóng dấu vào phần đã sửa chữa. Nếu có sai sót do ghi chép trong các giấy tờ hộ tịch, thì hủy giấy tờ hộ tịch đó và viết lại giấy tờ hộ tịch khác [1, Điều 11]. Tại trang số 171, 180, 187, 199 quyển số 03/2012 TP/HT-2010-KH; Tại trang số 10, 11, 30 quyển số 04/2012 TP/HT-2010-KH, có gạch nội dung sửa nhƣng không có chữ ký của ngƣời đã sửa. 71 Tại trang số 48 quyển số 04/2012 TP/HT-2010-KH, công chức của Sở Tƣ pháp viết sai, sau đó tẩy xóa và viết đè lên trên. Nguyên nhân của hạn chế: - Quy định pháp luật đối với vấn đề kết hôn có yếu tố nƣớc ngoài quy định còn chƣa rõ ràng, cụ thể. Mỗi quốc gia lại cấp một loại giấy để xác định tình trạng hôn nhân khác nhau. - Chất lƣợng của cán bộ tƣ pháp còn một số hạn chế nhất định. - Công tác tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật của các cơ quan, đoàn thể chƣa thu hút đƣợc đông đảo ngƣời dân, đoàn viên, hội viên đặc biệt các đối tƣợng là phụ nữ tham gia. 2.2. Các giải pháp bảo đảm đăng ký kết hôn có yếu tố nƣớc ngoài ở Việt Nam 2.2.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật về hôn nhân có yếu tố nước ngoài Để thực hiện tốt hôn công tác đăng ký kết hôn có yếu tố nƣớc ngoài thì trƣớc tiên phải hoàn thiện hệ thống pháp luật. Nhà nƣớc cần phải xây dựng một hệ thống pháp luật thống nhất, cụ thể, rõ ràng, minh bạch. Nâng cao hiệu quả điều chỉnh của pháp luật về kết hôn có yếu tố nƣớc ngoài. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 và Luật Hộ tịch năm 2014 đã quy định chuẩn mực pháp lý cho hành vi ứng xử của mỗi cá nhân, tạo cơ sở pháp lý để đảm bảo quyền và lợi ích của ngƣời kết hôn. Tuy nhiên, có một số quy định cần đƣợc sửa đổi, bổ sung để phù hợp. Cụ thể: - Về độ tuổi kết hôn Tính tới thời điểm hiện nay, Nhà nƣớc ta chƣa ban hành một văn bản pháp luật nào quy định về giới hạn độ tuổi chênh lệch giữa nam và nữ khi đăng ký kết hôn. Vì vậy, để hạn chế tình trạng kết hôn không phải xuất phát từ tình yêu chân chính và mong muốn xác lập quan hệ vợ chồng, xây dựng gia 72 đình hạnh phúc thì cần đƣa ra quy định về giới hạn độ tuổi kết hôn giữa nam và nữ cho phù hợp với tâm sinh lý và thuần phong mỹ tục của con ngƣời Việt Nam. - Nên quy định phỏng vấn hai bên trước khi tiến hành thủ tục đăng ký kết hôn là thủ tục bắt buộc. Trƣớc ngày 01 tháng 01 năm 2016, trƣờng hợp kết hôn có yếu tố nƣớc ngoài nhằm đảm bảo sự tự nguyện của hai bên khi tiến hành kết hôn thì quy định Sở Tƣ pháp tiến hành việc phỏng vấn hai bên nam, nữ trƣớc khi kết hôn (Nghị định số 69/2006/NĐ-CP ngày 21 tháng 7 năm 2006 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 68/2002/NĐ-CP ngày 10 tháng 7 năm 2002 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Hôn nhân và gia đình về quan hệ hôn nhân và gia đình có ngày 21/7/2006 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số Nghị định 68/2002/NĐ-CP ngày 10/7/2002 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Hôn nhân và gia đình về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nƣớc ngoài ngày 10/7/2002 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật hôn nhân và gia đình về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nƣớc ngoài; Nghị định số 24/2013/NĐ-CP ngày 28 tháng 3 năm 2013 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Hôn nhân và gia đình về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nƣớc ngoài ngày 28 tháng 3 năm 2013 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Hôn nhân và gia đình nghị định số 126/2014/NĐ-CP ngày 31 tháng 12 năm 2014 quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Hôn nhân và gia đình). Việc phỏng vấn là một bƣớc quan trọng giúp cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền thực hiện việc thẩm định sự tự nguyện của hai bên nam nữ, phát hiện ngay từ đầu những sai phạm về điều kiện kết hôn để kịp thời có biện pháp xử lí. Tuy nhiên, theo Luật Hộ tịch năm 2014 thì phỏng vấn không phải là thủ tục bắt buộc. Hiện nay, phòng Tƣ pháp 73 thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện tiến hành thẩm tra hồ sơ, làm rõ sự tự nguyện kết hôn của hai bên nam, nữ. Nhƣ vậy, việc đánh giá hồ sơ và xác định tính tự nguyện của hai bên nam nữ khi giải quyết vụ việc kết hôn có yếu tố nƣớc ngoài phụ thuộc rất nhiều vào ý chí chủ quan của cán bộ tƣ pháp phụ trách giải quyết hồ sơ. Vì chƣa có quy định cụ thể hƣớng dẫn về việc xác định tính tự nguyện của hai bên nam, nữ nên việc xác định này là không dễ dàng. Vì vậy, cần phải đƣa ra những quy định cụ thể hƣớng dẫn về việc xác định tính tự nguyện của hai bên nam nữ, tạo điều kiện thuận lợi cho cán bộ tƣ pháp có thể giải quyết hồ sơ một cách nhanh chóng, kịp thời. Vì vậy, cần bổ sung các quy định để đánh giá về sự hiểu biết lẫn nhau của hai bên nam nữ. - Về giấy xác nhận tình trạng hôn nhân Đề nghị Bộ Tƣ pháp cung cấp thêm danh mục các mẫu giấy tờ chứng minh tình trạng hôn nhân của các nƣớc trên thế giới để cán bộ tƣ pháp dễ dàng trong việc tiếp nhận hồ sơ của đƣơng sự và hạn chế tình trạng làm giả hồ sơ của đƣơng sự. Đề nghị Bộ Tƣ pháp kiến nghị sửa đổi Khoản 6 Điều 22 Nghị định số 123/2015/NĐ-CP ngày 15 tháng 11 năm 2015 của Chính phủ, nhằm tạo điều kiện thuận lợi để cán bộ tƣ pháp thực hiện cấp lại Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân trong trƣờng hợp cá nhân có yêu cầu. - Cần có sự quy định thống nhất về thời hạn giải quyết thủ tục đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài Cần đƣa ra quy định cụ thể vấn đề xác định có nghi vấn trong hồ sơ. Văn bản pháp luật chƣa quy định rõ ràng về việc xác định hồ sơ có nghi vấn. Cần giải thích rõ nhƣ thế nào là có nghi vấn để các cán bộ tƣ pháp của Phòng Tƣ pháp có thể áp dụng quy định pháp luật một cách phù hợp nhất. Trong quá trình thẩm tra hồ sơ, có quy định: “Căn cứ tình hình cụ thể, khi cần thiết, Bộ Tư pháp báo cáo Thủ tướng Chính phủ quy định bổ sung thủ tục phỏng vấn 74 khi giải quyết yêu cầu đăng ký kết hôn nhằm bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của các bên và hiệu quả quản lý Nhà nước”. Pháp luật chƣa giải thích rõ ràng nhƣ thế nào là trƣờng hợp cần thiết để xin cấp trên bổ sung thủ tục phỏng vấn khi giải quyết đăng ký kết hôn cho các bên đƣơng sự. Việc hoàn thiện quy định về pháp luật hộ tịch tạo điều kiện để cán bộ tƣ pháp áp dụng quy định pháp luật dễ dàng và thống nhất, không còn vƣớng mắc khi áp dụng. 2.2.2. Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật về đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài Công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật có vai trò to lớn trong việc giáo dục các tầng lớp nhân dân trong việc chấp hành các văn bản pháp luật của nhà nƣớc. Đây là hoạt động của tất cả các các cấp, các ngành. Để nâng cao hiệu quả của công tác tuyên truyền thì cần tăng cƣờng vai trò, trách nhiệm của các đoàn thể, các tổ chức chính trị - xã hội trong hoạt động phổ biến pháp luật nhƣ nhƣ Hội Liên hiệp phụ nữ tỉnh, Đoàn Thanh niên, Hội đồng phối hợp phổ biến giáo dục pháp luật tỉnh... Hiện nay, các đoàn thể đã thực hiện hoạt động tuyên truyền, phổ biến pháp luật về quan hệ hôn nhân có yếu tố nƣớc ngoài (trong đó có pháp luật về kết hôn có yếu tố nƣớc ngoài) nhƣng thực tế chƣa mang lại hiệu quả cao. Các đoàn thể, tổ chức xã hội này cần xây dựng kế hoạch tuyên truyền cho nhân dân, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em hiểu rõ mặt tích cực và tiêu cực của vấn đề kết hôn có yếu tố nƣớc ngoài. Đặc biệt đẩy mạnh công tác tuyên truyền đối với những vùng sâu, vùng xa, vùng kinh tế khó khăn. Nội dung tuyên truyền, phổ biến phải nhấn mạnh đƣợc những rủi ro do kết hôn với ngƣời nƣớc ngoài và những hệ lụy của việc kết hôn mà không xuất phát trên cơ sở tình yêu chân chính, từ mong muốn xây dựng gia đình hạnh phúc. Trên cơ sở này, giúp ngƣời dân và nhất là nam, nữ trong độ tuổi kết hôn tự quyết định và biết bảo vệ hạnh phúc gia đình của chính bản thân mình. 75 Sở Tƣ pháp với nhiệm vụ là cơ quan thƣờng trực của Hội đồng phổ biến giáo dục và pháp luật của tỉnh cần tăng cƣờng công tác tuyên truyền các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến hôn nhân và gia đình có yếu tố nƣớc ngoài đến ngƣời dân trên địa bàn tỉnh đặc biệt là phụ nữ. Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nƣớc tỉnh cần tăng cƣờng các hoạt động tuyên truyền, hỗ trợ pháp lý miễn phí đến các đối tƣợng thuộc diện đƣợc trợ giúp pháp lý đến các vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế khó khăn trên địa bàn tỉnh để nâng cao sự hiểu biết của ngƣời dân về hôn nhân và gia đình có yếu tố nƣớc ngoài, về hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, xây dựng gia đình hạnh phúc; tránh các tình trạng vì hoàn cảnh kinh tế khó khăn và sự hiểu biết hạn chế bị các đối tƣợng lợi dụng để kết hôn trái pháp luật. Việc tập huấn nghiệp vụ hộ tịch đƣợc xác định là nhiệm vụ cần thực hiện thƣờng xuyên của cơ quản lý nhà nƣớc về hộ tịch. Vì vậy, Bộ Tƣ pháp và Sở Tƣ pháp cần tăng cƣờng công tác tập huấn nghiệp vụ cho cán bộ tƣ pháp ở cấp huyện, cấp xã trong việc triển khai Luật Hộ tịch và các văn bản hƣớng dẫn thi hành. Sở Tƣ pháp cần chủ động trong việc tham mƣu Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xây dựng kế hoạch tập huấn, bồi dƣỡng nghiệp vụ, bố trí đội ngũ báo cáo viên có đủ năng lực tổ chức bồi dƣỡng nghiệp vụ hộ tịch thƣờng xuyên, phù hợp với yêu cầu của địa phƣơng cho đội ngũ công chức làm công tác hộ tịch trên địa bàn. Đối với Trung tâm tƣ vấn và hỗ trợ hôn nhân có yếu tố nƣớc ngoài của tỉnh: Trung tâm cũng nhƣ Hội Liên hiệp phụ nữ tỉnh cần tăng cƣờng công tác tuyên truyền, phổ biến để ngƣời dân hiểu đƣợc vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của mình; để nam, nữ tự nguyện đến Trung tâm để đƣợc tƣ vấn, hỗ trợ về các vấn đề có liên quan đến hôn nhân và gia đình có yếu tố nƣớc ngoài. Tăng cƣờng nội dung tuyên truyền trên sóng phát thanh, truyền hình; lồng ghép sinh hoạt của các câu Câu lạc bộ với việc cấp phát tờ gấp pháp luật 76 để tuyên truyền đến ngƣời dân ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Ngoài ra, mỗi gia đình phải có trách nhiệm giáo dục con cái về tƣ tƣởng, lối sống, hình thành nhân cách con ngƣời, để từng thành viên trong gia đình có trách nhiệm gìn giữ nếp sống và gia phong của gia đình mình. Gia đình cần giáo dục cho con có cái nhìn đúng đắn về hôn nhân về kết hôn vì tình yêu chân chính nhằm mục đích xây dựng gia đình hạnh phúc; hậu quả của việc kết hôn không phải vì tình yêu mà vì mục đích khác thì sẽ nhƣ thế nào. 2.2.3. Nâng cao năng lực, ý thức trách nhiệm của đội ngũ công chức tư pháp, hộ tịch Theo quy định tại khoản 3, Điều 72 Luật Hộ tịch năm 2014 thì “Công chức làm công tác hộ tịch tại Phòng Tư pháp phải có trình độ cử nhân luật trở lên và đã được bồi dưỡng nghiệp vụ hộ tịch”. Thông thƣờng năng lực công chức tƣ pháp, hộ tịch cơ bản đƣợc cấu thành từ 3 yếu tố: - Kiến thức: sự hiểu biết chuyên ngành về một lĩnh vực cụ thể. - Kỹ năng: là khả năng, sự thành thạo trong áp dụng các kỹ thuật, phƣơng pháp và công cụ để giải quyết công việc. Một năng lực có thể bao gồm nhiều kỹ năng. - Thái độ hành vi: là khả năng làm chủ thái độ, hành vi, trạng thái tinh thần của bản thân trong giải quyết công việc nhằm đạt mục tiêu đặt ra. Nhƣ vậy, năng lực của công chức tƣ pháp, hộ tịch bao gồm từ trình độ chuyên môn, lý luận chính trị, tác phong, phẩm chất đạo đức. mà ngƣời công chức vận dụng, sử dụng để hoàn thành đƣợc nhiệm vụ mà mình đảm trách một cách tốt nhất, hay đó là khả năng thực hiện công vụ của công chức trong lĩnh vực tƣ pháp, hộ tịch. 77 Để nâng cao năng lực, ý thức trách nhiệm của đội ngũ công chức tƣ pháp, hộ tịch trong hoạt động đăng ký kết hôn có yếu tố nƣớc ngoài, cần chú trọng những điểm sau đây: Thứ nhất, tiếp tục xây dựng phương pháp phân tích, mô tả công việc cho từng vị trí việc làm và chức danh cụ thể của đội ngũ công chức tư pháp, hộ tịch . Để nâng cao ý thức trách nhiệm của đội ngũ công chức tƣ pháp, hộ tịch đối với công việc đƣợc giao, cần nghiên cứu, xây dựng các bảng mô tả công việc cụ thể cho từng vị trí chức danh làm công tác đăng ký kết hôn có yếu tố nƣớc ngoài. Mỗi một vị trí, chức danh sẽ đƣợc quy định bằng văn bản về trách nhiệm, phận sự phải làm, xác định rõ làm những công việc gì, sản phẩm gì, số lƣợng và chất lƣợng cụ thể, thời gian hoàn thành, cần báo cáo với ai và trách nhiệm nhƣ thế nào nếu không hoàn thành nhiệm vụ. Trên cơ sở đó xây dựng lại cho phù hợp từng tiêu chuẩn theo yêu cầu của công việc thực tiễn, quy định tiêu chuẩn, chế độ công vụ, trách nhiệm và đạo đức công vụ của đội ngũ làm công tác đăng ký kết hôn có yếu tố nƣớc ngoài. Thứ hai, tăng cường công tác đào tạo bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ công chức từ tỉnh đến cơ sở trong lĩnh vực hành chính tư pháp. Theo quy định tại Điều 72 Luật Hộ tịch thì công chức làm công tác hộ tịch phải đƣợc bồi dƣỡng nghiệp vụ hộ tịch. Bộ Tƣ pháp đã ban hành Quyết định số 2247/QĐ-BTP ngày 25 tháng 12 năm 2015 về việc ban hành chƣơng trình bồi dƣỡng nghiệp vụ hộ tịch. Theo đó công chức làm công tác hộ tịch tại Ủy ban nhân dân cấp xã, cấp huyện phải tham gia chƣơng trình bồi dƣỡng nghiệp vụ với thời gian là 6 ngày, kết thúc khóa học có viết thu hoạch nếu đạt thì đƣợc cấp chứng chỉ. Nhƣng Bộ Tƣ pháp vẫn chƣa giao cho đơn vị nào đƣợc tổ chức bồi dƣỡng nghiệp vụ và cấp chứng chỉ cho ngƣời tham dự. Vì vậy, đề nghị Bộ Tƣ pháp sớm có hƣớng dẫn cụ thể. 78 Thứ ba, quan tâm bồi dưỡng về chính trị, tư tưởng, đạo đức nghề nghiệp cho đội ngũ công chức tư pháp, hộ tịch Việc tổ chức học tập, bồi dƣỡng về chính trị, tƣ tƣởng, đạo đức nghề nghiệp là biện pháp cần thiết trong công tác quản lý đối với đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức nói chung và đội ngũ công chức tƣ pháp hộ tịch làm công tác đăng ký kết hôn có yếu tố nƣớc ngoài nói riêng để phòng, chống hiện tƣợng nhũng nhiễu, tiêu cực trong công tác cấp giấy chứng nhận đăng ký kết hôn có yếu tố nƣớc ngoài. Song song đó, ngay trong từng đơn vị phải có kế hoạch thƣờng xuyên tổ chức các buổi sinh hoạt cơ quan định kỳ hàng tháng, hàng quý để động viên, nhắc nhở, nắm bắt tâm tƣ nguyện vọng, giáo dục chính trị, tƣ tƣởng, phổ biến, tuyên truyền, quán triệt các quy định pháp luật về những điều cán bộ, công chức, viên chức không đƣợc làm, nhằm nâng cao ý thức và tinh thần trách nhiệm trong phục vụ nhân dân của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, không đƣợc gây phiền hà cho nhân dân. Nội dung tuyên truyền phổ biến, quán triệt, gắn với việc học tập và làm theo tấm gƣơng đạo đức Hồ Chí Minh và phải cụ thể, sát với chức năng nhiệm vụ chính trị của từng cơ quan. Thứ tư, thực hiện luân chuyển cán bộ theo quy định Việc thực hiện luân chuyển cán bộ theo quy định tại Nghị định 158/2007/NĐ-CP ngày 27 tháng 7 năm 2007 của Chính phủ quy định danh mục các vị trí công tác và thời hạn định kỳ chuyển đổi vị trí công tác đối với cán bộ, công chức, viên chức. Tuy nhiên, việc luân chuyển, bố trí cán bộ cần kết hợp với công tác bồi dƣỡng, nâng cao năng lực trình độ và phẩm chất đạo đức của cán bộ, công chức; việc bố trí luân chuyển công chức tƣ pháp, hộ tịch không làm ảnh hƣởng đến chất lƣợng công tác chuyên môn, trong đó có công 79 tác hƣớng dẫn, tiếp nhận hồ sơ và giải quyết thủ tục đăng ký kết hôn có yếu tố nƣớc ngoài. 2.2.4. Tăng cường mối quan hệ phối hợp giữa các ngành, các cấp liên quan Thứ nhất, các cấp chính quyền, cùng ngành Lao động Thƣơng binh và Xã hội quan tâm hơn nữa đến việc phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo, tổ chức dạy nghề, tạo công ăn việc làm giúp phụ nữ có việc làm tại chỗ, cải thiện đời sống, góp phần hạn chế các trƣờng hợp kết hôn do đời sống khó khăn, đặc biệt đối với những ngƣời ở vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số và những ngƣời bị buôn bán hoặc do hôn nhân bất hạnh trở về quê hƣơng làm ăn sinh sống. Thứ hai, ngành Tƣ pháp phối hợp cùng ngành Công an các cấp chính quyền tăng cƣờng công tác quản lý Nhà nƣớc trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình có yếu tố nƣớc ngoài trên địa bàn tỉnh; xác minh hồ sơ đăng ký kết hôn trong trƣờng hợp nghi vấn hoặc có khiếu nại, tố cáo về việc kết hôn giả tạo, lợi dụng việc kết hôn nhằm mục đích mua bán phụ nữ, kết hôn vì mục địch trục lợi khác. Thứ ba, cơ quan Tƣ pháp phối hợp Công an cùng cấp, các ban, ngành của địa phƣơng tuyên truyền phổ biến pháp luật về hôn nhân và gia đình, tình hình phụ nữ bị lƣờng gạt buôn bán thông qua con đƣờng kết hôn và thông tin cảnh báo cho phụ nữ, các bậc cha mẹ về những rủi ro có thể gặp phải khi kết hôn với ngƣời nƣớc ngoài, góp phần tạo chuyển biến cơ bản trong nhận thức của nhân dân về vấn đề này. 2.2.5. Tăng cường vai trò, trách nhiệm của các đoàn thể, các tổ chức xã hội đối với đoàn viên, hội viên Bên cạnh các giải pháp trên thì cần tăng cƣờng vai trò, trách nhiệm của các đoàn thể, các tổ chức xã hội nhƣ Liên hiệp phụ nữ tỉnh, Đoàn Thanh 80 niên đối với đoàn viên, hội viên của mình. Ngoài việc thực hiện chức năng tuyên truyển để đoàn viên, hội viên của mình hiểu đƣợc những mặt tích cực và tiêu cực của việc kết hôn có yếu tố nƣớc ngoài thì các tổ chức này có thể tạo công ăn việc làm, phát triển kinh tế, khuyến khích đoàn viên, hội viên của mình không ngừng học tập, tìm hiểu pháp luật để nâng cao sự hiểu biết cho bản thân và gia đình mình. Để hạn chế tình hình môi giới kết hôn bất hợp pháp, Chính phủ đã cho quy định nghĩa vụ của Trung tâm tƣ vấn, hỗ trợ hôn nhân và gia đình có yếu tố nƣớc ngoài có nghĩa vụ: ”Trường hợp công dân Việt Nam hoặc người nước ngoài có nhu cầu giới thiệu người nước ngoài hoặc công dân Việt Nam để kết hôn thì Trung tâm thực hiện giới thiệu” (Điểm g Khoản 1 Điều 55 Nghị định số 126/2014/NĐ-CP ngày 31 tháng 12 năm 2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều và biện pháp thi hành Luật Hôn nhân và gia đình). Nhƣ vậy Trung tâm cũng nhƣ các cơ quan, đoàn thể trong khi thực hiện việc tuyên truyền các văn bản pháp luật về hôn nhân và gia đình có yếu tố nƣớc ngoài thì cũng nên tuyên truyền nghĩa vụ này của Trung tâm để ngƣời dân đƣợc biết; góp phần lành mạnh hóa và ổn định cho các cuộc hôn nhân giữa công dân Việt Nam với ngƣời nƣớc ngoài. Đây cũng là yếu tố để tăng cƣờng hiệu quả hoạt động của Trung tâm hỗ trợ kết hôn, có sự định hƣớng rõ ràng, chuẩn bị tốt hơn cho công dân Việt Nam khi kết hôn với ngƣời nƣớc ngoài, tránh những hậu quả do va chạm, bất đồng trong cuộc sống hôn nhân. Ngoài ra, Trung tâm cũng nên bố trí ít nhất một ngƣời thực hiện nhiệm vụ chuyên trách tƣ vấn, hỗ trợ hôn nhân và gia đình có yếu tố nƣớc ngoài. 2.2.6. Cải thiện hoạt động của trung tâm hỗ trợ kết hôn tại Việt Nam Các trung tâm hỗ trợ kết hôn trực thuộc Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam thực sự có vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ cho chị em phụ nữ có nhu cầu 81 kết hôn, nhất là kết hôn có yếu tố nƣớc ngoài. Tuy nhiên qua những năm hoạt động các Trung tâm này chƣa phát huy đƣợc hiệu quả làm việc của mình cũng nhƣ sự quan tâm của những ngƣời có nhu cầu trong xã hội, chính vì thế cần có những cải thiện tích cực cho những hoạt động của Trung tâm, để giúp Trung tâm này không chỉ làm tốt vai trò của mình mà còn giúp cho xã hội định hƣớng tình hình kết hôn có yếu tố nƣớc ngoài. Điều đầu tiên nên cải thiện đó là khả năng tài chính của trung tâm. Từ trƣớc đến nay chúng ta luôn nhìn nhận mức độ hoạt động của các trung tâm hỗ trợ kết hôn là phi lợi nhuận, là nhân đạo. Điều này thực sự phù hợp với ý nghĩa truyền thống hôn nhân của ngƣời Việt Nam nhƣng nó hơi cứng nhắc trong thực tế. Vì khi không đủ khả năng tài chính thì trung tâm sẽ đảm bảo nguồn lực hoạt động cho mình nhƣ cơ sở vật chất, đội ngũ nhân viên phục vụ cho công việc, vì vậy, nên đến các trung tâm hoạt động theo nguyên tắc tự thu, tự chi và có lợi nhuận nhƣ những trung tâm dạy nghề dƣới sự giám sát của Hội Liên hiệp phụ nữ và sự quản lý của Bộ Tài chính điều này giúp cho các trung tâm có điều kiện tạo nên cơ sở vật chất đầy đủ thu hút nguồn nhân lực có năng lực chuyên môn làm việc và tạo nguồn nhân lực trong việc tìm kiếm đối tác trong kết hôn với nhu cầu của xã hội hoặc cho thành lập các trung tâm môi giới hôn nhân tƣ nhân một cách hợp pháp để hạn chế đƣợc tình trạng môi giới kết hôn bất hợp pháp nhƣ hiện nay cũng nhƣ đảm bảo hơn cho quyền của ngƣời kết hôn. Vì nếu thành lập các trung tâm môi giới hôn nhân hợp pháp để thực hiện môi giới trong quan hệ này thì các trung tâm đó phải có trách nhiệm với khách hàng của mình và trách nhiệm trƣớc pháp luật trong việc đăng ký kinh doanh ngành nghề này và nếu đƣợc xem nhƣ là một ngành nghề kinh doanh hợp pháp thì các trung tâm sẽ cạnh tranh lành mạnh với nhau nhằm phục vụ tốt cho khách hàng (ngƣời có nhu cầu kết hôn với ngƣời nƣớc ngoài) để lôi kéo khách hàng về phía mình. Vì thế sẽ tạo điều kiện hành lang pháp lý thuận lợi 82 cho việc kết hôn có yếu tố nƣớc ngoài và hạn chế đƣợc tình trạng môi giới bất hợp pháp nhƣ hiện nay. Mặc dù phần nhiều các cuộc hôn nhân có yếu tố nƣớc ngoài đạt đƣợc mục đích hôn nhân nhƣng gần đây tình trạng phụ nữ Việt Nam kết hôn với ngƣời nƣớc ngoài thông qua hoạt động môi giới bất hợp pháp diễn biến ngày càng phức tạp, khiến hàng ngàn phụ nữ sau khi kết hôn lâm vào hoàn cảnh khó khăn, bị ngƣợc đãi, bị buôn bán với mục đích mại dâm, thậm chí bị đánh đập dẫn đến thƣơng tật suốt đời hoặc tử vong. Trào lƣu kết hôn không mang tính tự nguyện, kết hôn vì mục đích kinh tế: Theo kết quả nghiên cứu về tình hình phụ nữ Việt Nam lấy chồng nƣớc ngoài của Viện Khoa học, Lao động và Xã hội cho thấy chỉ có hơn 7% chị em phụ nữ lấy chồng ngoại vì tình yêu, 93% còn lại lấy chồng nƣớc ngoài vì nhiều lí do khác nhau. Đa số phụ nữ Việt Nam lấy chồng nƣớc ngoài là do hoàn cảnh kinh tế khó khăn chiếm 60,1%; 30,1% thuộc gia đình có điều kiện kinh tế trung bình; 6,8% thuộc trung bình khá trở lên [40, tr. 44]. Điều này không chỉ làm tăng nguy cơ mất cân bằng giới tính ở độ tuổi kết hôn, xúc phạm nhân phẩm phụ nữ Việt Nam mà còn ảnh hƣởng sâu sắc đến tình hình an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội, thuần phong mỹ tục và mối quan hệ đối ngoại giữa Việt Nam với quốc gia, vùng lãnh thổ mà phụ nữ Việt Nam đã kết hôn. Tuy nhiên nhiều mục tiêu đề ra đã không đạt đƣợc nhƣ việc chấm dứt nạn môi giới hôn nhân bất hợp pháp, đảm bảo hôn nhân tự nguyện, tiến bộ. “Chúng ta không khuyến khích những cuộc hôn nhân “4 không”: Không biết văn hóa, phong tục tập quán, ngôn ngữ, không biết về bản thân ngƣời hôn phối, không biết hoàn cảnh gia đình bạn đời và không có tình yêu. Tuy nhiên, 83 cần nhìn nhận việc kết hôn với ngƣời nƣớc ngoài là quyền tự do, không thể cấm đoán và việc các ban ngành kiên quyết thực hiện là ngăn chặn, đẩy lùi hiện tƣợng tiêu cực, lành mạnh hóa tình trạng kết hôn với ngƣời nƣớc ngoài. Đồng thời thực hiện nhiều giải pháp chăm lo cho những phụ nữ đã lấy chồng nƣớc ngoài, giúp họ có cuộc sống hạnh phúc, bình yên trên nƣớc bạn và ở cả Việt Nam. Chuyển mô hình “4 không” sang mô hình “5 biết”: Biết văn hóa, phong ngôn ngữ (lập các mô hình tƣ vấn tại chỗ hoặc chỉ định các công ty làm công tƣ vấn); Biết luật pháp Việt Nam về hôn nhân gia đình; Biết phong tục tập quán, văn hóa của nƣớc bạn; Biết điển hình thành công và thất bại trong lấy chồng nƣớc ngoài tại địa phƣơng mình. Biết về ngƣời mình sẽ cƣới. Biết gia đình, hoàn cảnh của chồng tƣơng lai” 2.2.7. Tăng cường thanh tra, kiểm tra hoạt động đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài Thứ nhất: Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra Các cấp, các ngành cần phải thƣờng xuyên duy trì và tăng cƣờng công tác thanh tra, kiểm tra định kỳ theo kế hoạch hàng năm đối với các cơ quan, tổ chức có liên quan trong việc tham mƣu giải quyết hồ sơ đăng ký kết hôn có yếu tố nƣớc ngoài, tránh tình trạng chỉ thanh tra theo chỉ đạo của cấp trên hoặc chỉ khi có đơn tranh chấp, khiếu nại, tố cáo mới tiến hành thanh tra, kiểm tra. Công tác thanh tra, kiểm tra tập trung vào các nội dung: tinh thần thái độ, ý thức trách nhiệm trong thực thi công vụ của đội ngũ cán bộ, công chức tƣ pháp, hộ tịch và các cơ quan, đơn vị và có liên quan; tiến độ giải quyết hồ sơ và tình trạng trễ hạn, tồn đọng hồ sơ của công dân; công tác công khai, minh bạch các loại thủ tục hành chính, các khoản thu phí, lệ phí liên quan đến hoạt động đăng ký kết hôn có yếu tố nƣớc ngoài; kiểm tra hồ sơ đã đƣợc cấp giấy chứng nhận thực hiện hàng năm. Từ đó thống kê đƣợc số liệu đã cấp, mức độ hoàn thành, số lƣợng tỉ lệ đã đƣợc cấp là bao nhiêu, 84 ƣu điểm, nhƣợc điểm, điểm mạnh, điểm yếu của từng bộ phận, từng công đoạn để báo cáo cơ quan có thầm quyền kịp thời chấn chỉnh nếu chƣa hoàn thành và khen thƣởng nếu đã hoàn thành đúng chỉ tiêu hoặc vƣợt chỉ tiêu hoạch đề ra. Thứ hai, thiết lập đường dây nóng tiếp nhận kịp thời những phản ánh của người dân trong việc tiếp nhận, giải quyết và hoàn trả hồ sơ đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài. Nhanh chóng thiết lập và duy trì đƣờng dây nóng của để tiếp nhận kịp thời những phản ánh của ngƣời dân về những hành vi tiêu cực, nhũng nhiễu của đội ngũ công chức tƣ pháp hộ tịch là công tác đăng ký kết hôn có yếu tố nƣớc ngoài. Đây cũng là kênh thông tin quan trong nhằm phát hiện, xử lý, ngăn ngừa tình trạng nhũng nhiễu, tiêu cực của đội ngũ cán bộ công chức làm công tác đăng ký kết hôn có yếu tố nƣớc ngoài. Sau khi xác định có hành vi tiêu cực, nhũng nhiễu trong bất kỳ khâu nào, bƣớc nào trong quá trình đăng ký kết hôn có yếu tố nƣớc ngoài sẽ đƣa ra mức xử lý, kỉ luật phù hợp. Việc này có ý nghĩa quan trọng góp phần răn đe, phòng chống hành vi tham nhũng tiêu cực trong bộ máy cấp giấy chứng nhận đăng ký kết hôn, đảm bảo quá trình cấp giấy chứng nhận đúng trình tự thủ tục theo quy định của pháp luật, phục vụ tốt nhu cầu đăng ký kết hôn có yếu tố nƣớc ngoài của ngƣời dân, đảm bảo thực hiện tốt việc quản lý nhà nƣớc về đăng ký kết hôn có yếu tố nƣớc ngoài. Thứ ba, đẩy mạnh việc xử lý, khen thưởng sau thanh tra, kiểm tra Sau khi thanh tra, kiểm tra phát hiện những yếu kém, sai phạm, cần chấn chỉnh kịp thời; đƣa ra những chế tài để xử lý một cách nghiêm túc các trƣờng hợp vi phạm. Mặt khác, cần kiên quyết xử lý triệt để đối với các cán bộ công chức làm công tác đăng ký kết hôn có yếu tố nƣớc ngoài cố ý gây phiền hà, khó khăn, nhũng nhiễu nhân dân, làm chậm tiến độ công tác cấp 85 giấy chứng nhận cũng nhƣ hạn chế tối đa tình trạng bao che, đùn đẩy, né tránh trách nhiệm, không có tinh thần tự giác khi để xảy ra sai phạm trên thực tế. Bên cạnh đó, cần quan tâm đến công tác khen thƣởng những cá nhân có nhiều cố gắng, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ đƣợc giao và không để xảy ra sai phạm trong quá trình thực thi nhiệm vụ. 2.2.8. Giải pháp riêng đối với tỉnh Lâm Đồng Ngoài các giải pháp trên thì tỉnh Lâm Đồng cần thực hiện thêm các giải pháp sau: Đối với Phòng Tư pháp Thứ nhất, phối hợp chặt chẽ với Công an cấp huyện để xác minh làm rõ các trƣờng hợp kết hôn có nghi vấn, đấu tranh có hiệu quả đối với hoạt động môi giới kết hôn bất hợp pháp. Thứ hai, không tiếp nhận những hồ sơ kết hôn nộp qua ngƣời thứ ba; tiến hành xác minh, thành lập Hội đồng phỏng vấn để trực tiếp phỏng vấn các bên đƣơng sự. Trong trƣờng hợp nghi vấn hoặc có khiếu nại, tố cáo kết hôn giả, lợi dụng kết hôn nhằm mục đích mua bán phụ nữ, kết hôn vì mục đích trục lợi hoặc xét thấy có vấn đề cần làm rõ về nhân thân của đƣơng sự hoặc giấy tờ trong hồ sơ đăng ký kết hôn thì tiến hành xác minh làm rõ để góp phần loại trừ những trƣờng hợp kết hôn không bảo đảm nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ. Thứ ba, đối với trƣờng hợp kết hôn với ngƣời nƣớc ngoài có độ tuổi chênh lệch cao, dị tật, kết hôn nhiều lần, Phòng Tƣ pháp vận động đƣơng sự và gia đình rút hồ sơ đăng ký kết hôn hoặc kéo dài thời gian để hai bên nam nữ tìm hiểu nhau nhiều hơn. 86 Thứ tư, tiến hành rà soát đội ngũ cán bộ trực tiếp làm công tác giải quyết việc đăng ký kết hôn giữa công dân Việt Nam với ngƣời nuớc ngoài, trên cơ sở đó tăng cƣờng quản lý và tiến hành củng cố, luân chuyển và bố trí đội ngũ cán bộ có đủ năng lực, phẩm chất đạo đức và trình độ chuyên môn làm công tác này. Thứ năm, tổ chức triển khai thực hiện việc cải cách hành chính theo cơ chế „một cửa" trong lĩnh vực hộ tịch; đồng thời, thiết lâp đƣờng dây nóng trong lĩnh vực này. Thứ sáu, tham mƣu cho Ủy ban nhân dân cấp huyện về tình hình thực hiện việc giải quyết các vấn đề về quan hệ hôn nhân giữa công dân Việt Nam với ngƣời nƣớc ngoài và kịp thời đề xuất giải pháp khắc phục những vƣớng mắc, tồn tại nhằm tăng cƣờng hiệu lực quản lý nhà nƣớc đối với công tác này trên địa bàn tỉnh. Đối với Công an cấp huyện: Tăng cƣờng các biện pháp để theo dõi, phát hiện và xử lý kịp thời, nghiêm khắc đối với các tổ chức, cá nhân có hoạt động kinh doanh môi giới kết hôn bất hợp đối với những trƣờng hợp có dấu hiệu cấu thành tội phạm, kiên quyết khởi tố để xử lý về hình sự; phối hợp tốt với Phòng Tƣ pháp trong việc thẩm tra xác minh các trƣờng hợp kết hôn có nghi vấn. Để công tác đấu tranh đạt hiệu quả, lực lƣợng Công an các cấp tăng cƣờng đẩy mạnh các biện pháp nghiệp vụ nhƣ điều tra cơ bản giáo dục về truyền thống hôn nhân và gia đình cho số phụ nữ bị buôn bán trở về gắn với việc tập trung đấu tranh, giải quyết các băng nhóm, vụ việc có liên quan đến hoạt động buôn bán phụ nữ trẻ em. Đối với Hội Liên hiệp Phụ nữ cấp tỉnh: 87 Ban Thƣờng vụ Tỉnh Hội thƣờng xuyên xây dựng kế hoạch chỉ đạo các cấp Hội chọn các địa bàn có đông phụ nữ kết hôn với ngƣời nƣớc ngoài làm điểm chỉ đạo. Xây dựng các Câu lạc bộ "Gia đình hạnh phúc". Phòng, chống buôn bán phụ nữ và trẻ em”, “Tìm hiểu pháp luật tiền hôn nhân". "Gia đình trẻ‟‟... đồng thời, phối hợp Sở Văn hoá Thể thao và Du lịch triển khai mô hình “Can thiệp nhằm giảm tiêu cực của tình trạng phụ nữ kết hôn với ngƣời nƣớc ngoài": thành lập các Câu lạc bộ gia đình phát triển bền vững và tổ tƣ vấn nhằm đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến cho các tầng lớp nhân dân thấy đƣợc những tiêu cực xảy ra từ tình trạng phụ nữ kết hôn với ngƣời nƣớc ngoài, nhằm giảm thiểu kết hôn vì mục đích vụ lợi, bảo đảm hôn nhân tiến bộ, hạnh phúc. Các hoạt động này cung cấp thông tin cảnh báo cho phụ nữ và các bậc cha mẹ nâng cao vai trò trách nhiệm của phụ nữ và gia đình trong việc giữ gìn phát huy truyền thống tốt đẹp của phụ nữ Việt Nam, ngăn chặn các cuộc hôn nhân vì mục đích vụ lợi; lồng ghép nội dung phòng chống mua bán phụ nữ và trẻ em. Chƣơng trình các lớp bồi dƣỡng nghiệp vụ của Hội để tập huấn cho cán bộ phụ nữ cơ sở. Tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật hôn nhân và gia đình, giáo dục lối sống, tình yêu, hôn nhân tiến bộ, tình trạng môi giới kết hôn bất hợp pháp, tình hình phụ nữ bị lƣờng gạt buôn bán thông qua con đƣờng kết hôn; đồng thời, thông tin cảnh báo cho phụ nữ và các bậc cha mẹ về những rủi ro có thể gặp phải khi chấp nhận kết hôn với ngƣời nƣớc ngoài, cuộc sống của phụ nữ sau kết hôn tại nƣớc ngoài (bất đồng về ngôn ngữ, phong tục tập quán, nghề nghiệp, việc làm) nhằm giúp chị em hiểu biết đầy đủ, khách quan và chính xác về vấn đề này. 88 Song song với công tác truyền thông, Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh cần tích cực bảo vệ quyền lợi chính đáng của phụ nữ và trẻ em thông qua các phƣơng tiện thông tin đại chúng, mạnh dạn lên án các hành vi vi phạm danh dự, nhân phẩm của phụ nữ và trẻ em gái; đồng thời, phối hợp các ngành chức năng can thiệp kịp thời những trƣờng hợp phụ nữ và trẻ em gái bị lƣờng gạt. Kịp thời hƣớng dẫn, chỉ đạo Uỷ ban nhân dân cấp xã thực hiện nghiêm túc các quy định và chịu trách nhiệm trƣớc pháp luật trong việc ký xác nhận các loại giấy tờ phục vụ cho việc đăng ký kết hôn giữa công dân Việt Nam với ngƣời nƣớc ngoài và tăng cƣờng công tác kiểm tra báo cáo về tình hình đăng ký kết hôn giữa công dân Việt Nam với ngƣời nƣớc ngoài trên địa bàn tỉnh. Tăng cƣờng chức năng quản lý nhà nƣớc đối với quan hệ hôn nhân có yếu tố nƣớc ngoài, phối hợp chặt chẽ với các cơ quan liên quan ngăn chặn xử lý kịp thời các tổ chức, cá nhân sai phạm, chấm dứt tình trạng môi giới kết hôn bất hợp pháp, góp phần làm lành mạnh hóa các quan hệ hôn nhân có yếu tố nƣớc ngoài, loại trừ từng trƣờng hợp kết hôn có tính chất vụ lợi, thực dụng, hƣởng các quan hệ hôn nhân này ngày càng phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của chế độ hôn nhân gia đình Việt Nam: tự nguyện, tiến bộ, nhằm mục đích xây dựng gia đình hạnh phúc, bền vững, phù hợp với thuần phong mỹ tục của dân tộc. 89 KẾT LUẬN Kết hôn nói chung và kết hôn có yếu tố nƣớc ngoài nói riêng là một quyền của con ngƣời đƣợc pháp luật ghi nhận và bảo vệ. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, Luật Hộ tịch và các văn bản hƣớng dẫn thi hành đã đƣợc Quốc hội, Chính phủ và các Bộ ngành ban hành nhằm sửa đổi, bổ sung và tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật để điều chỉnh quan hệ mới phát sinh trong thực tế, khắc phục những thiếu sót, bất cập để bắt kịp với xu thế phát triển kết hôn có yếu tố nƣớc ngoài đang diễn ra. Trong phạm vi của Luận văn này, từ việc hệ thống hóa cơ sở lý luận và cơ sở pháp lý về đăng ký kết hôn có yếu tố nƣớc ngoài và phân tích thực trạng đăng ký kết hôn có yếu tố nƣớc ngoài tại tỉnh Lâm Đồng trong thời gian qua, luận văn đã đƣa ra những nhận xét, đánh giá cả về ƣu điểm cũng nhƣ hạn chế về thực trạng đăng ký kết hôn có yếu tố nƣớc ngoài. Trên cơ sở đó, luận văn đã đề xuất một số số giải pháp nhằm bảo đảm việc đăng ký kết hôn có yếu tố nƣớc ngoài cho các địa phƣơng trên cả nƣớc nhằm bảo đảm hoạt động này đƣợc triển khai đúng đắn trên thực tế, bảo đảm quyền con ngƣời, quyền công dân cũng nhƣ sự quản lý của Nhà nƣớc. 90 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bộ Tƣ pháp (2010), Thông tư số 08a/2010/TT-BTP ngày 25 tháng 3 năm 2010 về việc ban hành và hướng dẫn việc ghi chép, lưu trữ, sử dụng sổ, biểu mẫu hộ tịch, btp-ve-viec-ban-hanh-va-huong-dan-viec-ghi-chep-lu-tru-su-d-10850- download.aspx. 2. Bộ Tƣ pháp (2013), Thông tư số 22/2013/TT-BTP ngày 31 tháng 12 năm 2013 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định số 24/2013/NĐ-CP ngày 28 tháng 3 năm 2013 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Hôn nhân và gia đình về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài, TT-BTP-huong-dan-24-2013-ND-CP-quan-he-HNGD-co-yeu-to-nuoc- ngoai-218735.aspx. 3. Bộ Tƣ pháp (2015), Thông tư số 15/2015/TT-BTP ngày 16 tháng 11 năm 2015 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Hộ tịch và Nghị định số 123/2015/NĐ-CP ngày 15 tháng 11 năm 2015 của Chính phủ Quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Hộ tịch, TT-BTP-huong-dan-Luat-ho-tich-va-Nghi-dinh-123-2015-ND-CP- 292654.aspx. 4. Bộ Tài chính (2015), Thông tư số 179/2015/TT-BTC ngày 13 tháng 11 năm 2015 sửa đổi, bổ sung Thông tư số 02/2014/TT-BTC ngày 02 tháng 01 năm 2014 của Bộ Tài chính hướng dẫn về phí và lệ phí thuộc thẩm quyền quyết định của Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, 91 Phi/Thong-tu-179-2015-TT-BTC-sua-doi-02-2014-TT-BTC-phi-le-phi- tham-quyen-Hoi-dong-nhan-dan-truc-thuoc-trung-uong-295983.aspx. 5. Chính phủ (2014), Nghị định số 126/2014/NĐ-CP ngày 31 tháng 12 năm 2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều và biện pháp thi hành Luật Hôn nhân và gia đình, l.aspx?itemid=30185. 6. Chính phủ (2015), Nghị định số 123/2015/NĐ-CP ngày 15 tháng 11 năm 2015 quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật hộ tịch , 2015-ND-CP-huong-dan-Luat-ho-tich-282304.aspx. 7. Chính phủ (2005), Nghị định số 158/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005 về đăng ký và quản lý hộ tịch, dan-su/Nghi-dinh-158-2005-ND-CP-dang-ky-quan-ly-ho-tich- 8298.aspx. 8. Dƣơng Hiền Hạnh (2015), “Môi giới hôn nhân trái phép và vấn đề bất cân xứng thông tin trong hôn nhân xuyên quốc gia Đài Loan và Việt Nam”, Tạp chí nghiên cứu Gia đình và Giới, số 1, tr. 22-32. 9. Hoà Trang (2011), “Đăng ký kết hôn, nhận cha, mẹ, con có yếu tố nƣớc ngoài: Luật thoáng - Thực tế vƣớng!”, Dân chủ và pháp luật, số 01 (226), tr. 57-58. 10. Hoàng Anh (2013), Hỏi đáp pháp luật về hôn nhân gia đình có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam và văn bản mới hướng dẫn thi hành, Nhà xuất bản Lao động, Hà Nội. 11. Hoàng Huy Trƣờng (2015), “Giải pháp để tránh rủi ro khi việc kết hôn với ngƣời nƣớc ngoài gia tăng”, Dân chủ và pháp luật, số 10 (283), tr. 57- 60. 92 12. Hội đồng phối hợp phổ biến giáo dục pháp luật tỉnh Lâm Đồng (2016), Báo cáo số 243/BC-HĐPH ngày 29 tháng 12 năm 2016 về công tác phổ biến, giáo dục pháp luật năm 2016; phương hướng, nhiệm vụ trọng tâm công tác phổ biến, giáo dục pháp luật năm 2017 trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng, tr. 14. 13. Hội đồng phối hợp phổ biến giáo dục pháp luật tỉnh Lâm Đồng (2015), Báo cáo số 285/BC-HĐPH ngày 11 tháng 12 năm 2015 về công tác phổ biến, giáo dục pháp luật năm 2015; phương hướng, nhiệm vụ công tác phổ biến, giáo dục pháp luật năm 2016 trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng, tr. 8. 14. Hội Liên hiệp phụ nữ tỉnh Lâm Đồng (2015), Tham luận Biện pháp thu hút hội viên phụ nữ tham gia sinh hoạt Câu lạc bộ ”Phụ nữ với pháp luật” và thi tìm hiểu pháp luật ngày 29/12/2015, tr.2-4. 15. Hội liên hiệp phụ nữ tỉnh Lâm Đồng (2004), Quyết định số 22/QĐ-HPN ngày 15 tháng 7 năm 2004 về việc ban hành quy chế về tổ chức và hoạt động của Trung tâm hỗ trợ kết hôn tỉnh Lâm Đồng. 16. Hội Liên hiệp phụ nữ tỉnh Lâm Đồng (2010), Báo cáo số 02BC/HTKH ngày 13 tháng 01 năm 2010 5 năm tình hình hoạt động Trung tâm hỗ trợ kết hôn (2004 - 2009), tr.2-3. 17. Hội đồng quốc gia chỉ đạo biên soạn từ điển bách khoa Việt Nam, (2002), Từ điển bách khoa Việt Nam, tập 2, Nhà xuất bản từ điển Bách khoa, Hà Nội. 18. Huỳnh Thị Trúc Giang (2016), “Kết hôn giả tạo và hƣớng xử lý trong giai đoạn chuyển tiếp giữa luật hôn nhân và gia đình năm 2000 với luật hôn nhân và gia đình năm 2014”, Nhà nước và pháp luật, số 1, tr. 36-41. 19. Lê Thị Hoàng Thanh (2013), Pháp luật Việt Nam về quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài của, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. 93 20. Nguyễn Thị Thanh Tâm (2011), “Một số vấn đề xã hội của hiện tƣợng phụ nữ nông thôn Việt Nam lấy chồng nƣớc ngoài”, Tạp chí nghiên cứu Gia đình và Giới, số 5, tr. 44-58. 21. Nguyễn Hồng Bắc (2015), “Những điểm mới của pháp luật Việt Nam điều chỉnh quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nƣớc ngoài”, Tạp chí luật học, số 5, tr. 3-12. 22. Nguyễn Hữu Minh, Đặng Thị Hoa và Trần Thị Hồng (2015), “ Quản lý vấn đề hôn nhân xuyên biên giới ở Việt Nam hiện nay:Chính sách và thực tiễn”, Nghiên cứu Gia đình và Giới, số 5, tr. 15-27. 23. Nguyễn Lê Trang (2011), “Thấy gì qua những phụ nữ Việt Nam lấy chồng nƣớc ngoài trở về”, Tạp chí lao động và xã hội, số 405, tr. 29- 31. 24. Nguyễn Hồng Bắc (2003), Pháp luật điều chỉnh quan hệ gia đình có yếu tố nước ngoài ở Việt nam trong thời kì đổi mới và hội nhập của, Luận văn Thạc sỹ, Trƣờng Đại học Luật Hà Nội. 25. Nguyễn Cao Hiến (2011), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài theo quy định của pháp luật Việt Nam trong xu thế hội nhập, Luận văn Thạc sỹ, Khoa luật Đại học Quốc gia Hà Nội. 26. Nguyễn Văn Thắng (2011), “Giải pháp nào để tránh việc lợi dụng trong đăng ký kết hôn với ngƣời nƣớc ngoài hiện nay?”, Dân chủ và Pháp luật, số 4 (229), tr. 45-48. 27. Nông Quốc Bình, Nguyễn Hồng Bắc (2011), Quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài những vấn đề lý luận và thực tiễn, nhà xuất bản Tƣ pháp, Hà Nội. 28. Quốc hội (2016), Bộ luật Dân sự, Nhà xuất bản Tƣ pháp, Hà Nội. 29. Quốc hội (2015), Luật Hộ tịch, Nhà xuất bản Lao động, Hà Nội 94 30. Quốc hội (2016), Luật Hôn nhân và Gia đình, Nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà Nội. 31. Quốc hội (2014), Luật xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam, Nhà xuất bản Lao động - xã hội, Hà Nội. 32. Quốc hội (2014), Luật Quốc tịch Việt Nam và các văn bản hướng dẫn thi hành, Nhà xuất bản Lao động, Hà Nội. 33. Sở Tƣ pháp tỉnh Lâm Đồng (2016), Báo cáo số 238/BC-STP ngày 18 tháng 11 năm 2016 về tổng kết công tác tư pháp năm 2016 và nhiệm vụ, giải pháp công tác năm 2017, tr. 7. 34. Sở Tƣ pháp tỉnh Lâm Đồng (2010), Báo cáo số 157/BC-STP ngày 28/10/2010 của Sở Tư pháp tỉnh Lâm Đồng về tổng kết công tác tư pháp năm 2010 và giai đoạn 2007 – 2010, định hướng công tác giai đoạn 2011 – 2015, nhiệm vụ và giải pháp công tác năm 2011, tr. 20. 35. Sở Tƣ pháp tỉnh Lâm Đồng (2010), Giấy đăng ký hoạt động hỗ trợ kết hôn số 01/TP-ĐKHĐ ngày 18 tháng 3 năm 2010. 36. Trung tâm từ điển học (2015), Từ điển Tiếng Việt, Nhà xuất bản Đà Nẵng, Hà Nội. 37. Tòa án nhân dân tối cao - Viện Kiểm sát nhân dân tối cao - Bộ Tƣ pháp (2016), Thông tư liên tịch số 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC- BTP ngày 06 tháng 01 năm 2016 về hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật Hôn nhân và gia đình, ban/Quyen-dan-su/Thong-tu-lien-tich-01-2016-TTLT-TANDTC- VKSNDTC-BTP-huong-dan-thi-hanh-Luat-hon-nhan-gia-dinh- 293202.aspx. 38. Trần Văn Duy (2011), “Hoàn thiện pháp luật về quan hệ kết hôn có yếu tố nƣớc ngoài”, Dân chủ và pháp luật, số 2 (227), tr. 28-33. 95 39. Trần Thị Hồng (2015), “Thực trạng việc làm và mối quan hệ với hôn nhân ở khu vực biên giới”, Nghiên cứu Gia đình và Giới, số 5, tr. 116-129. 40. Trần Thị Liên (2016), kết hôn có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam, khóa luận tốt nghiệp, Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội. 41. Vũ Thị Thanh Nhàn (2016), “Bài học kinh nghiệm từ một số cuộc hôn nhân thất bại của các cô dâu Việt lấy chồng Đài Loan và Hàn Quốc”, Nghiên cứu Gia đình và Giới, số 1, tr. 27-36. 42. Viện Khoa học pháp lý - Bộ Tƣ pháp (2006), Từ điển Luật học, Nhà xuất bản Tƣ pháp, Nhà xuất bản từ điển Bách khoa, Hà Nội.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_van_dang_ky_ket_hon_co_yeu_to_nuoc_ngoai_tu_thuc_tien_t.pdf
Luận văn liên quan