Là loài cá ăn tạp thiên về động vật. Thành phần thức ăn của cá rô đồng khá phong phú
và đa dạng, gồm 37 loại đại diện cho 10 ngành động - thực vật khác nhau, chủ yếu là
các ngành động vật không xương sống và tảo phù du. Phổ thức ăn được mở rộng từ
nhóm cá có kích thước nhỏ đến nhóm cá có kích thước lớn (Trần Thị Thanh Hiền,
1999).
Phạm vi hoạt động của cá rô đồng rộng, trong thủy vực cá ăn tầng đáy cho đến tầng
mặt. Khi phân tích trong dạ dày cá rô đồng, người ta thấy 19% giáp xác, 3,5% côn
trùng, 6% nhuyễn thể, 9,5% cá con, 47% thực vật, 16% vật chất tiêu hóa (Nargis và
Hossain, 1987), pH trong dạ dày là 5,9-6,5 (Pendey, 1992). Theo Fulton (1902) và
Clark (1928) hệ số béo không có sự sai khác nhiều, chứng tỏ sức chứa nội quan không
lớn, nên là loài có độ béo cao, khá giàu dinh dưỡng và có giá trị thương phẩm
(Nguyễn Ngọc Phúc, 2000). Ở giai đoạn còn nhỏ cá ăn chủ yếu là động thực vật phù
du, mùn bả hữu cơ. Cá rô đồng có phạm vi hoạt động mạnh, ăn từ tầng đáy cho đến
mặt nước. (Dương Nhựt Long, 2003).
35 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2833 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Đánh giá ảnh hưởng của sự kết hợp các loại hormon trong sản xuất giống cá rô đồng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
................................................................... 24
5.2 Đề xuất.................................................................................................24
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................... 25
PHỤ LỤC.............................................................................................................
8DANH SÁCH BẢNG
Bảng 3.1 : Bố trí thí nghiệm...................................................................................11
Bảng 4.1 : Sự dao động của nhiệt độ (0C) ở các nghiệm thức. ............................... 13
Bảng 4.2 : Sự dao động của pH ở các nghiệm thức. .............................................. 15
Bảng 4.3 : Sự dao động của oxy hòa tan (mg/l) ở các nghiệm thức. ...................... 20
Bảng 4.4 : Sự dao động của Nitrite (mg/l) ở các nghiệm thức................................ 20
Bảng 4.5 : Sự dao động của NH3 (mg/l) ở các nghiệm thức. ................................. 23
9DANH SÁCH HÌNH
Hình 2.1 Hình dạng ngoại cá rô đồng (Anabas testudineu, Bloch, 1792)................2
Hình 2.2: Cá rô đồng cái và đực thành thục tốt...................................................... 4
Hình 3.1 : Bố trí cá rô đồng trong thùng mớp.........................................................11
Hình 4.1: Ảnh hưởng của liều lượng kích thích tố (HCG + Não thùy) lên các chỉ tiêu
sinh sản của cá rô đồng.......................................................................................... 15
Hình 4.2: Ảnh hưởng của liều lượng kích thích tố (HCG + Não thùy) lên sức sinh sản
tương đối của cá rô đồng....................................................................................... 16
Hình 4.3: Ảnh hưởng của liều lượng kích thích tố (LRH_a + Motilium) lên các chỉ
tiêu sinh sản của cá rô đồng................................................................................... 18
Hình 4.4: Ảnh hưởng của liều lượng kích thích tố (LRH_a + Motilium) lên sức sinh
sản tương đối của cá rô đồng................................................................................ 19
Hình 4.5: Ảnh hưởng của liều lượng kích thích tố (Não thùy + Motilium) lên các chỉ
tiêu sinh sản của cá rô đồng................................................................................... 21
Hình 4.6: Ảnh hưởng của liều lượng kích thích tố (Não thùy + Motilium) lên sức sinh
sản tương đối của cá rô đồng................................................................................. 22
10
CHƯƠNG I
ĐẶT VẤN ĐỀ
Ngành thủy sản nước ta nói chung và Đồng Bằng Sông Cửu Long nói riêng là một
trong những ngành kinh tế đem lại kim ngạch xuất khẩu cao, góp phần trong việc cải
thiện đời sống và nâng cao thu nhập cho người dân. Sau khi Việt Nam là thành viên
của tổ chức thương mại thế giới (WTO) mặt hàng thủy sản càng có điều kiện phát
triển thuận lợi hơn. Với điều kiện này thì sản phẩm thủy sản của ta đòi hỏi đạt số
lượng và chất lượng. Tuy nhiên nguồn giống thả trước đây hoàn toàn dựa vào tự nhiên
do đó việc cung cấp không đủ đáp ứng cho người dân. Những năm gần đây việc sử
dụng thuốc bảo vệ thực vật ảnh hưởng đến nguồn giống tự nhiên gần như cạn kiệt. Vì
vậy hiện nay nguồn giống chủ yếu từ nhân tạo.
Cá rô đồng là loài cá bản địa và được ưa chuộng trên thị trường do chất lượng thịt cá
ngon. Kể từ khi kỹ thuật sản xuất giống nhân tạo cá rô đồng được phát triển thì cá
được nuôi phổ biến ở nhiều loại hình thủy vực như ruộng lúa, ao nhỏ, sông (nuôi
trong lồng). Trong nuôi cá rô đồng thường bắt gặp sự chênh lệch về sinh trưởng nên
kích cỡ cá cái thường lớn hơn cá đực khi thu hoạch. Cá cái có thể đạt khối lượng từ
60-100 g/con trong khi cá đực chỉ đạt từ 30-50% khối lượng cá cái.
Hiện nay giống cá rô đồng đã cung cấp đủ cho người nuôi ở các tỉnh như: Đồng Tháp,
An Giang, Cần Thơ, Sóc Trăng, Vĩnh Long, Kiên Giang. Tuy nhiên, tùy theo kinh
nghiệm và cũng tùy theo điều kiện cụ thể mà các cở sở sản xuất giống cá sử dụng
nhiều loại hormon khác nhau, liều lượng hormon cũng biến đổi rất lớn. Có một vấn đề
mà phần lớn các cơ sở sản xuất giống ít quan tâm đến đó là việc sử dụng kết hợp các
loại hormon khi kích thích cá sinh sản, nếu sử dụng hợp lý thì sẽ nâng cao được hiệu
quả khi kích thích cá đẻ. Từ những nguyên nhân trên, đề tài “Đánh giá ảnh hưởng
của sự kết hợp các loại hormon trong sản xuất giống cá rô đồng (Anabas
testudineus)” đã được thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu trên.
1.1 Mục tiêu nghiên cứu
Nhằm xác định sự phối hợp các loại kích thích tố trong sản xuất giống cá rô đồng để
đem lại hiệu quả cao.
1.2 Nội dung nghiên cứu
Nghiên cứu sự ảnh hưởng của việc kết hợp các loại hormon lên các chỉ tiêu sinh sản.
Đồng thời theo dõi một số chỉ tiêu thủy - lý - hóa trong sản xuất giống cá rô đồng.
11
CHƯƠNG II
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1 Đặc điểm sinh học của cá rô đồng
2.1.1 Hình thái phân loại
Theo Mai Đình Yên và csv,1992 thì cá rô đồng được phân loại như sau:
Giới: Animalia
Ngành: Chordata
Lớp: Actinopterygii
Bộ: Percifomes
Phân bộ: Anabantoidei
Họ: Anabantidae
Giống: Anabas
Loài: Anabas testudineus, Bloch, 1792
Hình 2.1: Hình dạng ngoài cá rô đồng (Anabas testudineus, Bloch, 1792)
(Nguồn: Dương Nhựt Long, 2003)
2.1.2 Hình thái cấu tạo
Rất dễ nhận dạng có vây lưng XVI-XVIII/ 8-11. Vây hậu môn VIII-X-19-22. Vẩy trên
đường bên 15-19/ 10-14. Thân cá kéo dài dẹp bên về phía sau. Chiều dài cá rô không
kể đuôi gấp 3-4 lần chiều cao thân. Đầu rộng, chiều dài đầu bằng chiều cao thân.
Mõm ngắn, đầu mõm tròn. Miệng ở tận cùng, nghiêng chẻ sâu. Răng hàm xếp thành
hàm rộng, ngắn và nhọn. Có 2 mắt lớn. Đỉnh và hai bên đầu có vảy. Cạnh của nắp
mang khía răng cưa. Đường bên thành hai hàng. Vây lưng và vây hậu môn dài, có
những gai khỏe. Vây đuôi tương đối tròn. Cá có màu nâu, mặt bụng sáng hơn. Hai bên
thân có các chấm đen xếp thành hàng ngang đều hoặc không đều. Có một chấm đen
12
lớn, tròn ở góc vây đuôi. Vây lưng, vây hậu môn và vây đuôi màu nâu, các vây khác
màu nhạt (Mai Đình Yên và csv, 1979).
Ngoài ra cá rô đồng còn có cơ quan hô hấp phụ ở cung mang thứ nhất còn gọi là mê lộ
(Cơ quan này giúp cho cá hô hấp được trực tiếp khí trời).
2.1.3 Đặc điểm phân bố
Cá rô đồng là loài cá sống trong môi trường nước ngọt ở vùng nhiệt đới. Cá hiện diện
trong các thủy vực như ao đìa, đầm lầy, mương vườn và ruộng lúa ở Thái Lan,
Campuchia, Lào và Việt Nam (Trương Thủ Khoa và Trần Thị Thu Hương, 1993).
2.1.4 Đặc điểm dinh dưỡng
Là loài cá ăn tạp thiên về động vật. Thành phần thức ăn của cá rô đồng khá phong phú
và đa dạng, gồm 37 loại đại diện cho 10 ngành động - thực vật khác nhau, chủ yếu là
các ngành động vật không xương sống và tảo phù du. Phổ thức ăn được mở rộng từ
nhóm cá có kích thước nhỏ đến nhóm cá có kích thước lớn (Trần Thị Thanh Hiền,
1999).
Phạm vi hoạt động của cá rô đồng rộng, trong thủy vực cá ăn tầng đáy cho đến tầng
mặt. Khi phân tích trong dạ dày cá rô đồng, người ta thấy 19% giáp xác, 3,5% côn
trùng, 6% nhuyễn thể, 9,5% cá con, 47% thực vật, 16% vật chất tiêu hóa (Nargis và
Hossain, 1987), pH trong dạ dày là 5,9-6,5 (Pendey, 1992). Theo Fulton (1902) và
Clark (1928) hệ số béo không có sự sai khác nhiều, chứng tỏ sức chứa nội quan không
lớn, nên là loài có độ béo cao, khá giàu dinh dưỡng và có giá trị thương phẩm
(Nguyễn Ngọc Phúc, 2000). Ở giai đoạn còn nhỏ cá ăn chủ yếu là động thực vật phù
du, mùn bả hữu cơ. Cá rô đồng có phạm vi hoạt động mạnh, ăn từ tầng đáy cho đến
mặt nước. (Dương Nhựt Long, 2003).
2.1.5 Đặc điểm sinh trưởng
Sau khi ương 45 ngày, trọng lượng cá giống đạt cao nhất dao động từ 2,04-3,05 g/con.
Sau 6 tháng nuôi cá đạt trọng lượng từ 60-100 g/con (Dương Nhựt Long, 2003).
Khối lượng trung bình của cá khai thác ở ĐBSCL dao động từ 60-120 g/con (Nguyễn
Văn Kiểm, 2004). Cá tự nhiên 1 năm đạt 50-80 g ở cá cái và 50-60g ở cá đực (Phạm
Văn Khánh, 1999).
2.1.6 Đặc điểm sinh sản
Cá rô đồng thành thục lần đầu sau 10 tháng tuổi (cỡ trung bình 50-60 g trở lên). Khi
cá phát dục có thể phân biệt cá đực, cá cái. Cá đực có gai sinh dục nhỏ và nhọn, cá cái
gai sinh dục lớn hơn, không nhọn đầu và hơi lồi, đỏ mọng. Mùa vụ sinh sản của cá rô
đồng trong tự nhiên tập trung vào các tháng đầu và giữa mùa mưa, cao nhất là tháng
13
6-7 dương lịch. Các tháng 11-1 là thời kỳ tuyến sinh dục đã đẻ xong hoặc trứng thoái
hóa trở về giai đoạn II, chuẩn bị cho mùa sinh sản mới (Nguyễn Tường Anh, 2005).
Hình 2.2: Cá rô đồng cái và đực thành thục tốt
(Nguồn: Dương Nhựt Long, 2003)
Cá sinh sản tự nhiên vào đầu mùa mưa (từ tháng 4-7) nhưng còn tùy thuộc vào điều
kiện sinh thái của từng nơi mà có sự biến động về thời điểm bắt đầu và kết thúc mùa
vụ sinh sản. Cá di chuyển từ nơi sinh sống đến những nơi vừa ngập nước sau những
đám mưa lớn đầu mùa như ruộng, ao, đìa, nơi có chiều cao cột nước 30-40 cm để sinh
sản. Cá không có tập tính giữ con. Sức sinh sản của cá rô đồng dao động từ 300.000-
700.000 trứng/kg cá cái. Cá có khả năng tái thành thục sau thời gian ngắn (1 tháng).
Trứng cá rô đồng thành thục có màu trắng ngà hoặc hơi vàng, đường kính trứng sau
khi trương nước là 1,2-1,3 mm. Trứng cá thuộc loại trứng nổi (Nguyễn Văn Kiểm,
2004). Nguyễn Thành Trung (2001), mùa vụ sinh sản của cá rô đồng ngoài tự nhiên từ
tháng 5-7 và theo Trương Thủ Khoa và Trần Thị Thu Hương, (1993) thì mùa vụ sinh
sản của cá rô đồng từ tháng 5-6.
Còn trong sinh sản nhân tạo cá hầu như đẻ quanh năm. Theo Pravdin (1973) thì điều
kiện khí tượng thủy văn không những chỉ làm thay đổi mùa vụ đẻ trứng mà còn làm
thay đổi cả khả năng thành thục của cá (trích dẫn bởi Mai Viết Văn, 2002).
Các kết quả nghiên cứu trên cho thấy sức sinh sản của cá rô đồng có sự khác biệt nhau
do sống trong những điều kiện khác nhau. Sức sinh sản của cá tăng theo kích cỡ và
trọng lượng cá. Ở điều kiện nuôi vỗ đầy đủ thức ăn, cá sẽ có sức sinh sản cao hơn cá
ngoài tự nhiên (Nguyễn Thành Trung, 1998).
14
2.2 Các loại kích tố sử dụng trong sinh sản nhân tạo
2.2.1 HCG (Human Chorionic Gonadotropine)
HCG có tên bằng tiếng việt nhưng ít được dùng là kích dục tố màng đệm hoặc kích
dục tố nhau thai, được Zondec và Aschheim phát hiện từ năm 1927 trong nước tiểu
phụ nữ có thai. HCG có tác dụng duy trì thể vàng sau khi rụng trứng do LH. (Nguyễn
Tường Anh, 1999). Cũng như các kích dục tố khác, HCG là một glycoprotein tan
trong nước.
Có thể nói HCG là loài kích dục tố dị chủng được dùng có hiệu quả cho nhiều loại cá
nhất. Ngoài các loài cá mè, các loài cá trê, HCG có tác dụng gây rụng trứng cho các
loài cá khác cá trôi, cá bống…. Ở nước ngoài, HCG còn được dùng cho cá chình
(Yamamoto, Nagahama, 1973), cá nheo mang túi Ấn Độ (Sundararaj, Goswami,
1966), cá vượt vằn (Stevens, 1967), cá sóc (Hyrose, 1972), cá bơn
(Zenzerov,1982)…(Nguyễn Tường Anh, 1999).
Nước ta đã nghiên cứu ứng dụng HCG kích thích thích sinh sản thành công trên nhiều
đối tượng. Cá Mè Trắng là 1500-2000 UI (chế phẩm HCG của Trung Quốc) theo quy
trình kĩ thuật nuôi cá nước ngọt (Vụ khoa học kỹ thuật, 1976), (trích, Nguyễn Tường
Anh. 1999). Cá Lóc (Ophicephalus striatus), liều sơ bộ 500 UI/kg, liều quyết định
1200 – 1500 UI/kg, tiêm cách liều sơ bộ từ 12-24h (Phạm Văn Khánh, 2005). Cá rô
đồng (Anabas testudineus) liều tiêm 1500-2000 UI/kg cá cái, cá đực bằng 50% liều
dùng cho cá cái, chỉ tiêm một lần.
Trong những năm gần đây HCG được nghiên cứu sinh sản nhân tạo một số đối tượng
có giá trị kinh tế cao. Kích thích cá lóc bông (Channa micropeltes) sinh sản, kích dục
tố HCG được tiêm 2000-3000 UI/kg cá đực và 500 UI cho cá cái, tiêm cá đực trước
khi tiêm cá cái (Bùi Minh Tâm, Nguyễn Thanh Phương và Dương Nhựt Long, 2008).
Lươn Đồng (monopterus albus) lươn bố mẹ được tiêm HCG liều 2000 UI/kg, tỷ lệ thụ
tinh cao 86%. Kết quả nghiên cứu ở cá vồ đém, kích dục tố HCG được sử dụng kích
thích sự rụng trứng ở cá, kích thích đường kính trứng phát triển bằng liều lượng thấp
500 UI/kg/ngày. Sau đó kích thích sự rụng trứng của cá với liều lượng cao 1500 và
2500 UI/kg cá. Sức sinh sản giao động 9.870-74.050 trứng/kg cá cái. Tỷ lệ thụ tinh
20,2-87,7% và tỷ lệ nở từ 50,6-63,7% (Đỗ Thị Thanh Hương và csv, 2008).
2.2.2 Não thùy cá chép
Não thùy thể (Cá chép) được lấy từ những cá chép thành thục còn tươi sống, càng gần
thời điểm sinh sản thì hoạt tính kích dục của não thùy càng cao.
Cá đẻ nhờ kích thích bằng GnRH hoặc các loại antiestrogen như clomiphen citrate,
tamoxifen thì não thùy hình như không còn hoạt tính kích dục. Kích dục tố nội tiết từ
tuyến yên chủ yếu đã tiết ra đẻ gây chín, rụng trứng hoặc tiết tinh cho chính nó.
15
Ngược lại cá đã sinh sản bằng kích dục tố ngoại sinh hoặc cá loại hormon steroid thì
não thùy vẫn còn hoạt tính kích dục. Việc định lượng não thùy cho cá bố mẹ tùy thuộc
vào nhiều yếu tố chất lượng hoạt tính của não thùy, mức độ thành thục của cá được
tiêm, nhiệt độ nước (Nguyễn Tường Anh, 1999).
2.2.3 LHRH_a
Ngoài ra còn có GnRH-A là những chất tổng hợp tương tự hormone phóng thích kích
dục tố từ tuyến yên. Trong nghề nuôi cá, người ta thường dùng mGnRH-A (hay còn
gọi là LHRH_a là chất tương tự GnRH-A của động vật có vú) sGnRH-A (chất tương
tự GnRH của cá hồi) và một chất kháng dopamin (Nguyễn Tường Anh, 1999). Có thể
nói tất cả các GnRH_a đều có tác dụng kích thích cá sinh sản cho tất cả các loài. Tính
đặc hiệu theo loài chỉ thể hiện ở mức hoạt tính, không có loại GnRH-A nào lại không
có hoạt tính trên cá. Ở cá bố mẹ, sau khi tiêm GnRH-A và đẻ xong thì tuyến yên
không còn kích dục tố. Não thùy cá bố mẹ sau khi đẻ nhờ được kích thích bằng
GnRH-A không còn hoạt tính kích dục và không thể làm chế phẩm kích dục cho cá
(Nguyễn Thành Trung, 1999).
2.2.4 Dom (Domperidone)
Là chất kết hợp với LHRH_a để ức chế sự tiết Dopamine. Motilium là một trong
những sản phẩm thương mại của Doperidone được sản xuất trong nước (Nguyễn Văn
Kiểm, 2004).
2.3 Tình hình nghiên cứu về sản xuất giống cá rô đồng
2.3.1 Những nghiên cứu về sản xuất giống cá rô đồng trên thế giới
Cá rô đồng (Anabas testudineus) là loài cá rất quan trong trong trong khu vực Đông
Nam Châu Á. Vì vậy việc nghiên cứu sản xuất giống trên đối tượng này đã và đang
được quốc gia trong khu vực này rất quan tâm.
Nghiên cứu đặc điểm cá rô đồng cho thấy cá rô đồng là loài cá thích ứng rộng với
điều kiện khí hậu nhiệt đới vào mùa khô thậm chí lúc thời tiết khô hạn cá cũng có thể
sống được (Potongkam, 1971).
Doolgindachabaporn (1994) đã nghiên cứu cho đẻ thành công cá rô đồng (Anabas
testudineus) và khuyến cáo rằng thức ăn có hàm lượng đạm 30,6% là thức ăn tốt nhất
cho sinh trưởng và tỉ lệ sống cá rô đồng giai đoạn cá giống. Yakupitiyage et al (1998)
nghiên cứu hoàn thiện quy trình sản giống cá rô đồng và từ đó hoàn toàn chủ động về
con giống cá rô đồng cho nhu cầu của người nuôi.
Doolgindachabaporn (1994) đã thử nghiệm nuôi cá rô đồng trong ao, sử dụng phụ
phẩm nông nghiệp và đạt năng suất và đạt năng suất khoảng 10 kg/100m2 sau 3 tháng
nuôi. Theo Ray và Patra (1989) đánh giá ảnh hưởng của thức ăn có hàm lượng đạm
16
35% phối hợp từ nhiều nguồn nguyên liệu khác nhau lên sinh trưởng cá rô đồng. Về
dinh dưỡng và thức ăn, Sangrattanakhul (1989) đánh giá ảnh hưởng của thức ăn có
hàm lượng đạm khác nhau lên sinh trưởng của cá rô đồng giai đoạn cá hương.
Potongkam (1972) và Mangklamance (1986) cho rằng thức ăn (cá tạp và thức ăn viên)
ảnh hưởng lên tốc độ tăng trưởng cá rô đồng 0,5-0,9 g/ngày trong nuôi ao đất.
2.3.2 Những nghiên cứu về sản xuất giống cá rô đồng ở Việt Nam
Để nâng cao hiệu quả sản xuất giống bằng cách sinh sản nhân tạo, đáp ứng nhu cầu
nuôi thì việc kích thích cá đẻ bằng các chế phẩm sinh học ngày càng được mở rộng,
trên thị trường hiện nay có nhiều loại hormon kích thích cá đẻ nhưng có một số loại
mang lại hiệu quả cao như não thùy, HCG (Human Chorionic Gonadotropin). Ngoài
ra còn có một số loại chế phẩm có tên thương mại như: Ovaprim (hỗn hợp của
LHRH_a hoặc sGnRH với Domperidone).
Nguyễn Thành Trung (1999) đã nghiên cứu cho đẻ thành công cá rô đồng và có thể
cung cấp khá chủ động nguồn cá giống cho nhu cầu nuôi thương phẩm cá rô đồng ở
nước ta. Hormon sử dụng kích thích cá rô sinh sản là gồm LRH_a + DOM với các liều
lượng tùy thuộc vào mức độ thành thục sinh dục của cá bố mẹ nuôi vỗ dao động từ
60-100 μg/kg cá cái và liều lượng hormon kích thích sinh sản dùng cho cá đực thường
bằng 1/3 liều dùng cho cá cái (Phạm Văn Khánh, 1999).
Theo Nguyễn Văn Triều (1999), nghiên cứu qui trình sản xuất giống cá rô đồng, kết
quả cho thấy để kích thích cá sinh sản đạt sức sinh sản cao, tỷ lệ thụ tinh và tỷ lệ nở
cao với liều lượng hormon như: Não thùy cá chép (8 mg/kg), HCG (3000 UI/kg),
LHRH_a (50 g/kg).
Theo Đàm Bá Long (2005) nghiên cứu đặc điểm sinh học và thử nghiệm đẻ nhân tạo
cá rô đồng tại Khánh Hòa đã kết luận: cá rô đồng thành thục ngoài tự nhiên có khối
lượng trung bình 26,89 g ở cá cái và 16,16 g ở cá đực. Mùa sinh sản của cá rô đồng
ngoài tự nhiên kéo dài quanh năm, hệ số thành thục sinh dục của cá cái đạt 6,27±2,34
% và ở cá đực là 1,09±0,24 %, sức sinh sản tuyệt đối là 16.016±3.767 trứng/cá cái. Cá
nuôi vỗ trong giai với mật độ 0,5-1 kg/m3 thành thục sau 20-25 ngày nuôi, thời gian
nuôi tái phát dục là từ 12-15 ngày, tỉ lệ thành thục đạt 95,24 % ở cá đực và 76,50 % ở
cái. Với liều lượng 50 μg LRH_a + 5 mg DOM/kg cá cái, những cá cái đẻ trong bể xi
măng có thời gian hiệu ứng kích dục tố dao động từ 7h-7h30. Sức sinh sản thực tế của
cá rô đồng thành thục ngoài tự nhiên là 935 trứng/g cá cái sai khác có ý nghĩa (P <
0,05) sức sinh sản thực tế của cá rô đồng thành thục trong điều kiện nhân tạo (đạt 807
trứng/g cá cái). Cá rô đồng thành thục ngoài tự nhiên cũng cho các chỉ tiêu: tỉ lệ thụ
tinh, tỉ lệ nở của trứng cao hơn cá rô đồng thành thục trong điều kiện nhân tạo.
Hiện nay nhiều người đã sử dụng nhiều loại hormon để kích thích cá rô sinh sản và
đạt hiệu tương đối tốt như dùng HCG với liều 3000 UI/kg, nhiệt độ 25 0C cá đẻ 100%
17
thời gian hiệu ứng thuốc là 7-13 giờ, tỉ lệ thụ tinh 97,2%, tỉ lệ nở 98,56% hoặc khi sử
dụng LHRH_ a liều 70 µg ở nhiệt độ 25,5 0C cá đẻ 100%, thời gian hiệu ứng thuốc
6,15 giờ, tỉ lệ thụ tinh 96,7%, tỉ lệ nở 99,32% (Nguyễn Văn Triều, 2001).
Theo nghiên cứu của Nguyễn Ngọc Phúc (2000) dùng HCG ở liều lượng 2500 UI/kg,
thời gian hiệu ứng thuốc 22,5 giờ, sức sinh sản đạt 458,982 trứng/kg cá cái, tỉ lệ thụ
tinh 83%, tỉ lệ nở 94,3%. Khi sử dụng LHRH_ a ở liều 40 µg ở nhiệt độ 21-22 0C thời
gian hiệu ứng thuốc 23,55 giờ, tỉ lệ thụ tinh 52,5%, tỉ lệ nở 85%.
Nghiên cứu của Trần Thị Trang (2001) khi cho cá sinh sản nhân tạo bằng HCG với
liều 3000 UI/kg cá cái thì cá có sức sinh sản 658.864 trứng/kg cá cái, tỉ lệ thụ tinh
97,16%, tỉ lệ nở là 99,87%. Khi sử dụng não thùy ở liều 8 mg/kg cho tỉ lệ đẻ 100%,
sức sinh sản 822,416 trứng/kg cá, tỉ lệ thụ tinh 89,96%, tỉ lệ cá bột 96,9%.
Từ những nghiên cứu của các giả trên cho thấy hiệu quả của các loại kích thích tố cho
cá sinh sản nhân tạo rất hiệu quả và để ngày càng hoàn thiện hơn trong sinh sản nhân
tạo cá rô bằng kích thích tố nghiên cứu này nhằm mở rộng ứng dụng sự kết hợp của
các loại kích thích kích tố ở liều lượng khác nhau nhằm xác định được ảnh hưởng của
các loại hormon ở các liều lượng khác nhau lên các chỉ tiêu sinh sản và tìm ra được
loại kích thích tố có liều lượng thích hợp ứng dụng trong sinh sản nhân tạo cá rô đồng.
18
CHƯƠNG 3
VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1 Thời gian và địa điểm nghiên cứu
Thời gian thực hiện
Đề tài được thực hiện từ 8/3/2010 đến 30/6/2010
Địa điểm thực hiện
Tại trại cá Danh Lợi - Ô Môn - Thành phố Cần Thơ
3.2 Vật liệu nghiên cứu
Kích dục tố kích thích sinh sản
Thùng mớp
Lưới, vợt vớt cá
Ống và kim tiêm
Cối, chày dùng để nghiền thuốc
Nước muối sinh lý
Máy sục khí
Khay ấp trứng
Ống đong trứng
Dụng cụ đo nhiệt độ, pH…và các trang thiết bị khác cần thiết cho nghiên cứu
sinh sản.
Kích thích tố sử dụng là: não thuỳ, LHRH_a, HCG và Motilium
3.3 Phương pháp nghiên cứu
3.3.1 Tiêu chuẩn chọn cá bố mẹ
Chọn cá rô có cơ thể khỏe mạnh, không dị tật, dị hình, không xây xát, kích thước
đồng đều đạt trọng lượng 10-15 con/kg. (Nguyễn Văn Kiểm, 2004).
Chọn cá đực: Cá đực thon dài, cá đực có kích thước nhỏ hơn cá cái cùng lứa tuổi, khi
phát dục cá rô đực có gai hậu môn dài hơn gai hậu môn của cá cái và màu sắc sặc sở
hơn, khi vuốt nhẹ gờ bụng thấy có tinh dịch màu trắng đục chảy ra.
Chọn cá cái: Cá cái thành thục tốt là cá có bụng to, mềm đều, lổ sinh dục hơi lồi có
màu hồng. Đồng thời có thể kết hợp với vuốt trứng để kiểm tra, trứng phải tròn đều,
kích thước từ 0,7-1 mm.
Nguồn cá bố mẹ được nuôi vỗ trong ao.
19
3.3.2 Pha thuốc và cách tiêm
Não thùy được lấy từ lọ đặt vào trong tờ giấy sạch, chờ cho bốc hơi hết acetone thì
cho vào trong cối sứ, dùng chày chà nhuyễn não thùy bột nhão dùng kim tiêm bơm
nước lọc vào pha trộn cho đều với thể tích cần dùng.
Khi dùng các loại kích tố như HCG, LHRH_a thì dùng bơm tiêm bơm nước lọc với
thể tích cần dùng vào lọ rồi lắc nhẹ. Đối với lọ chứa HCG ta dùng thêm một kim tiêm
xuyên qua nút đậy để thông hơi, thuận lợi cho quá trình pha và lấy thuốc ra.
Khi kết hợp HCG với não thùy thì pha HCG trước, sau đó dùng dung dịch HCG để
hoà tan và trộn với não thùy đã được ngà nhuyễn.
Vị trí tiêm cá: dùng khăn sạch và khô để bắt cá, để cá nằm ngửa trong lòng bàn tay và
tiêm ở dưới gốc vi ngực. Mũi kim tiêm hướng về phía đầu cá và tiêm sâu chừng 0,5-1
cm. Tiêm xong cho cá vào bể đẻ hoặc thau có chứa nước sạch.
Mực nước trong các dụng cụ cho đẻ trung bình 20-30 cm. Sau khi thả cá vào những
dụng cụ cho đẻ cần phải dùng lưới phủ lên trên tránh khi cá đẻ nhảy ra ngoài. Sau khi
tiêm thuốc khoảng 7-10 giờ cá sẽ đẻ trứng. Chờ cá đẻ xong, vớt trứng sang bể ấp ở
nơi khác.
3.3.3 Ấp trứng
Nguồn nước ấp trứng trong và mát, không bị ô nhiễm, và phải lọc qua vải mịn để loại
trừ sinh vật hại trứng.
Có thể dùng bồn composite, bể xi-măng để ấp trúng cá rô đồng. Mực nước ấp trứng
trung bình 40-60 cm. Do trứng cá rô đồng nổi trên mặt nước, do đó diện tích ấp trứng
chiếm 2/3 diện tích mặt nước. Trong quá trình ấp trứng cần bảo đảm oxy cho trứng,
lượng oxy hoà tan trung bình 3-4 mg/l.
3.3.4 Bố trí thí nghiệm
Đề tài gồm 3 thí nghiệm, mỗi thí nghiệm có 3 nghiệm thức, mỗi nghiệm thức được lặp
lại 3 lần với tỷ lệ đực cái 1:1. Liều lượng hormon dùng cho cá đực bằng 1/3 liều tiêm
cá cái (Nguyễn Văn Kiểm, 1999; Phạm Văn Khánh, 1999). Thí nghiệm được bố trí
trong thùng mớp, không sục khí và kích dục tố thực hiện được mô tả (Bảng 3.1).
20
Bảng 3.1: Bố trí thí nghiệm
Thí
Nghiệm
Hormon kết hợp
Nghiệm
thức
Liều lượng
I HCG (UI) + Não thùy (mg)
1 2000 UI + 12 mg
2 2500 UI + 12 mg
3 3000 UI + 12 mg
II LRH-a (µg) + Motilium (mg)
1 50 µg + 10 mg
2 100 µg + 10 mg
3 150 µg + 10 mg
III Não thùy (mg) + Motilium (mg)
1 4 mg + 5 mg
2 6 mg + 5 mg
3 8 mg + 5 mg
3.3.5 Tiến hành thí nghiệm
Sau khi tiêm kích dục tố xong, cá được cho vào thùng, với tỉ lệ đực cái là 1:1, mỗi
thùng gồm 2 cặp cá, dùng lưới đậy cận thận.
Theo dõi khi nào cá đẻ xong, vớt trứng đem ra bể ấp, trong quá trình ấp có sục khí.
Hình 3.1: Bố trí cá rô đồng sinh sản trong thùng mớp
21
3.4 Các chỉ tiêu nghiên cứu
3.4.1 Các chỉ tiêu môi trường
Các chỉ tiêu môi trường như: Nhiệt độ, pH, Oxy hòa tan, NH3, NO2, kiềm tổng được
kiểm tra bằng bộ test (Sera của Đức) thu thập lúc 8 giờ sáng và 14 giờ chiều trong
suốt thời gian thí nghiệm.
3.4.2 Các chỉ tiêu sinh sản
- Thời gian hiệu ứng thuốc: là thời gian tính từ lúc tiêm cá xong đến lúc phát hiện cá
đầu tiên rụng trứng, tại một nhiệt độ nước trung bình nào đó.
Số cá đẻ
- Tỉ lệ cá đẻ (%) = ------------------------ x 100 (3.1)
Tổng số cá cho tham gia sinh sản
Số trứng cá đẻ ra
- Sức sinh sản tương đối = ------------------------ (Số trứng/kg cá cái) (3.2)
Trọng lượng cá đẻ
Tổng số trứng thụ tinh
- Tỉ lệ thụ tinh (%) = ------------------------------- x 100 (3.3)
Tổng số trứng quan sát
Tổng số trứng nở
- Tỉ lệ nở (%) = ----------------------------- x 100 (3.4)
Tổng số trứng thụ tinh
Tổng số cá bột sau 3 ngày
- Cá bột thu được (%) = ------------------------------ x 100 (3.5)
Tổng số cá nở
3.5 Xử lý số liệu
Các phép tính trung bình độ lệch chuẩn của các số liệu được xử lý trên Excel.
22
CHƯƠNG 4
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
4.1 Kết quả yếu tốmôi trường trong thời gian thí nghiệm
4.1.1 Nhiệt độ
Nhiệt độ quá thấp hoặc quá cao cũng làm ảnh hưởng đến khả năng bắt mồi dẫn đến
chất dự trữ mỡ cạn kiệt mà tuyến sinh dục là nguồn dự trữ để duy trì sự sống của cá.
Trong trường hợp này, tuyến sinh dục ngưng phát triển và tiêu biến, sự sinh sản bị ảnh
hưởng xấu, đối với mỗi loài cá có khoảng nhiệt độ phù hợp cho tuyến sinh dục phát
triển và sinh sản. Ngoài ra nhiệt độ cũng ảnh hưởng tới thời gian hiệu ứng thuốc của
cá. (Nguyễn Tường Anh, 1985).
Trong suốt thời gian thí nghiệm, nhiệt độ trong các bể cá không biến động lớn, trại có
mái che và mực nước giữ ổn định. Nhiệt độ biến động giữa các nghiệm thức không
đáng kể, trung bình thấp nhất là 25±1,3 0C đến trung bình cao nhất là 26±1,5 0C (Bảng
4.1). Sự thay đổi này không ảnh hưởng đến kết quả thí nghiệm. Theo Trương Quốc
Phú (2006) thì nhiệt độ thích hợp cho các loài cá nhiệt đới là 25 – 30 0C.
Bảng 4.1: Các chỉ tiêu môi trường trong thời gian thí nghiệm
Chỉ tiêu Nhiệt độ
(0C)
pH Oxy
(mg/l)
Nitrite
(mg/l)
NH3
(mg/l)
Kiềm
tổng
Sáng 25± 1,3 7,4 ± 0,4 4,2 ± 0,2 0,2 ± 0,3 0,6 ± 0,3 66,3 ± 4,1
Chiều 26 ± 1,5 7,5 ± 0,4 4,2 ± 0,2 0,2 ± 0,2 0,4 ± 0,3 67,2 ± 3,8
4.1.2 pH
pH là một trong những nhân tố môi trường ảnh hưởng lớn trực tiếp và gián tiếp đối
với đời sống thủy sinh vật như: sinh trưởng, tỉ lệ sống, sinh sản, dinh dưỡng. pH thích
hợp cho cá có thể thành thục và sinh sản dao động từ (6,8-8,5). Hầu hết trứng các loại
cá đều không có khả năng tồn tại trong môi trường pH quá cao hay quá thấp, quan
trọng nhất là pH phải ổn định, bất kỳ sự thay đổi nhỏ nào của pH cũng làm cho trứng
ngừng phát triển (theo Nguyễn Văn Kiểm, 2004).
Theo Đặng Ngọc Thanh (1974), pH có ảnh hưởng quan trọng đến hoạt động của động
vật thủy sản. Trong thời gian thí nghiệm pH không thay đổi đáng kể, pH giữa sáng và
chiều chỉ nằm trong khoảng 7,6±0,5 (Bảng 4.1). Kết quả này thích hợp cho sự sinh
sản của cá rô đồng.
23
4.1.3 Oxy hòa tan (DO)
Cá rô là loài cá có cơ quan hô hấp phụ nằm trong khoang mang nên có thể sống được
ở những nơi có hàm lượng O2 thấp (Dương Nhựt Long, 2003). Tuy nhiên nếu hàm
lượng oxy hòa tan thấp sẽ ảnh hưởng xấu tới sự thành thục và phẩm chất sinh dục.
Theo Nguyễn Văn Kiểm (2004), hàm lượng oxy hòa tan tối thiểu trong nước để đảm
bảo cho hoạt động bình thường cá phải từ 3-4 mg/l. Trong thời gian thí nghiệm khi cá
bắt đầu nở luôn được sục khí nên đảm bảo hàm lượng O2 tốt cho cá bột, hàm lượng
oxy hòa tan biến động giữa các nghiệm thức từ 4,3±0,3 mg/l. (Bảng 4.1 xem chi tiết ở
phụ lục B)
4.1.4 Nitrite (NO2)
Là dạng rất độc cho cá tôm nói chung. Độc tính của NO2 là do khả năng làm giảm
hoạt tính của hemoglobin trong máu cá gây bệnh thiếu máu cá. Theo Trương Quốc
Phú (2006), giá trị LC50 - 6h của nitrite đối với các loài cá nước ngọt là từ 0,66-200
mg/l. Theo kết quả phân tích, hàm lượng NO2 ở các bể thí nghiệm biến động cao nhất
từ 0,4±0,2 mg/l, thấp nhất 0,2±0,2 mg/l. (Bảng 4.1 xem chi tiết ở phụ lục B). Kết quả
kiểm tra NO2 tương đối tốt, không ảnh hưởng đến thí nghiệm.
4.1.5 NH3
Cũng là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến tỉ lệ sống, sinh trưởng đối với thủy sinh vật.
NH3 rất độc với thủy sinh vật (Downing và Markin, 1975 trích bởi Trương Quốc Phú,
2006). Theo Nguyễn Văn Kiểm (2004) NH3 thích hợp cho sinh sản cá nước ngọt là
0,1–0,5 mg/l.
Qua bảng 4.5 ta thấy hàm lượng NH3 trong suốt quá trình thí nghiệm dao động trong
khoảng cao nhất từ 0,6±0,3 mg/l. Tuy có phần hơi cao hơn so với nồng độ cho phép
nhưng tồn tại trong thời gian ngắn do các bể được sục khí thường xuyên nên ít ảnh
hưởng đến tỉ lệ sống của cá.
4.1.6 Kiềm tổng
Theo Lý Vĩnh Phước (2005) kiềm tổng thích hợp cho sinh sản và ấp trứng cá rô đồng
là 68-102. Theo kết quả bảng 4.6 ta thấy kiềm tổng trong thí nghiệm dao động các thí
nghiệm thấp nhất (63±3,6) và cao nhất (68±4,6). Tuy kết quả phân tích trong các thí
nghiệm có độ kiềm thấp hơn nhưng không đáng kể nên ít ảnh hưởng đến các chỉ tiêu
sinh sản. Theo Lê Văn Cát (2006), độ kiềm trong nước ít có tác động trực tiếp đến đời
sống của các loài thủy động vật mà tác động lên các yếu tố có liên quan và ảnh hưởng
trực tiếp hơn cũng như ảnh hưởng đến sinh thái của ao hồ.
24
4.2 Kết quả kích thích cá sinh sản
4.2.1 Kết quả kích thích cá sinh sản bằng (HCG + Não thùy)
Qua Bảng 4.2, Hình 4.1 và Hình 4.2 cho thấy, khi cho cá sinh sản bằng kích thích tố
(HCG + Não thùy) với 3 liều lượng khác nhau đều có tác dụng kích thích cho cá rô
sinh sản.
Bảng 4.2: các chỉ tiêu sinh sản của thí nghiệm HCG + Não thùy
Chỉ tiêu quan sát Nghiệm thức 1 Nghiệm thức 2 Nghiệm thức 3
2000 UI + 12 mg 2500 UI + 12 mg 3000 UI + 12 mg
Thời gian hiệu ứng thuốc (h) 15,5 15,30 15,25
Tỉ lệ cá đẻ (%) 100±0 100±0 100±0
Sức sinh sản (%) 338.834±683 414.220±1.334 717.148±2.189
Tỉ lệ thụ tinh (%) 95±1 94±0,6 86±1,5
Tỉ lệ nở (%) 95±1,5 92±1,5 90±0,6
Tỉ lệ sống (%) 99±1 99±1,5 98±1
HCG + Não thùy
95.0 94.3
86.3
95.3
92.3
89.7
99 98.7 98
100 100 100
75.0
80.0
85.0
90.0
95.0
100.0
105.0
2000 UI + 12 mg 2500 UI + 12 mg 3000 UI + 12 mg
Liều lượng
Tỷ
lệ
(
%
) Tỷ lệ thụ tinh
Tỷ lệ nở
Tỷ lệ sống
Tỷ lệ cá đẻ
Hình 4.1: Ảnh hưởng của liều lượng kích thích tố lên một số chỉ tiêu sinh sản của cá
rô đồng
Thời gian hiệu ứng thuốc của cá trong thí nghiệm dùng kích thích tố (HCG + Não
thùy) dao động từ 15h5-15h30. Khi so sánh với kết quả nghiên cứu của Nguyễn Ngọc
25
Phúc (2000), dùng ở liều lượng 2500 UI/kg, thời gian hiệu ứng thuốc 22h5, trong khi
kết quả nghiên cứu được tiến hành dùng HCG kết hợp với não thùy có thời gian hiệu
ứng thuốc ngắn hơn nhiều, nguyên nhân dẫn đến sự sai khác là do thí nghiệm của
Nguyễn Ngọc Phúc thực hiện vào cuối mùa sinh sản (tháng 10) còn thí nghiệm trên
được thực hiện đầu mùa sinh sản (tháng 4) cá thành thục tốt. Đồng thời do Nguyễn
Ngọc Phúc thực hiện thí nghiệm nhiệt độ (21-22 0C) và không kết hợp với não thùy
còn thí nghiệm trên được tiến hành lúc nhiệt độ dao động trong khoảng 25-26 0C nhiệt
độ này cũng tương đối thích hợp cho sinh sản cá rô đồng và có kết hợp với não thùy
nên kích thích quá trình chín và rụng trứng nhanh hơn.
Sau khi tiêm HCG + Não thùy, tỉ lệ đẻ cá rô đồng ở 3 liều (Bảng 4.2) rất cao đều đạt
100% là do nguồn cá bố mẹ được nuôi vỗ thành thục khá tốt, ngoài ra thí nghiệm còn
được tiến hành vào đầu mùa sinh sản. Theo Nguyễn Thành Trung (1999) HCG có tác
dụng gây rụng trứng ở nhiều loài cá và các yếu tố môi trường (Bảng 4.1) cũng tương
đối ổn định cho quá trình chín và rụng trứng vì theo Nguyễn Thành Trung (1999) yếu
tố môi trường ảnh hưởng đáng kể đến quá trình chín, rụng trứng và tiết tinh ở cá và
thời gian cho cá đẻ đầu mùa sinh sản (tháng 4).
HCG + Não thùy
338834.0
414220.3
717148.3
0.0
100000.0
200000.0
300000.0
400000.0
500000.0
600000.0
700000.0
800000.0
2000 UI + 12 mg 2500 UI + 12 mg 3000 UI + 12 mg
Liều lượng
số
l
ư
ợ
n
g
tr
ứ
n
g
Sức sinh sản tuơng đối
Hình 4.2: Ảnh hưởng của liều lượng kích thích tố (HCG + Não thùy) lên sức sinh sản
tương đối của cá rô đồng.
26
Sức sinh sản của cá rô đồng trong 3 liều lượng kích thích tố tương đối cao. Sức sinh
sản của cá ở liều (3000 UI + 12 mg) là 717.148 trứng/kg cá cái cao hơn hai liều lượng
còn lại là do liều lượng HCG thay đổi. Theo Nguyễn Tường Anh (1999) thì HCG
kích thích cá rụng trứng còn não thùy có tác dụng kích dục cho các loài cá sinh
sản vì vậy khi dùng liều (3000 UI + 12 mg) sức sinh sản của cá rô cao hơn ở 2
liều (2000 UI + 12 mg, 2500 UI + 12 mg) là hoàn toàn hợp lý.
Theo kết quả nghiên cứu của Trần Thị Trang (2001) sức sinh sản là 658864 trứng/kg
cá cái. Như vậy khi kết hợp HCG + Não thùy sẽ cho sức sinh sản của cá cao hơn vì
HCG kích thích cá rụng trứng còn não thùy cũng đồng thời và thúc đẩy trứng chín
đồng loạt.
Tỉ lệ thụ tinh của trứng cá rô đồng ở 3 liều lượng (2000 UI + 12 mg, 2500 UI +12 mg,
3000 UI +12 mg) đều cao, tỉ lệ thụ tinh của trứng cá cao nhất là ở liều (2000 UI + 12
mg) đạt tới 95%, thấp nhất ở liều (3000 UI +12 mg) là 86%. Nghiên cứu của Trần Thị
Trang (2001) cho tỉ lệ thụ tinh khi kích thích cá rô sinh sản nhân tạo cao nhất là
97,24%. Như vậy, tỉ lệ thụ tinh của thí nghiệm thấp hơn. Nguyên nhân có thể là do
điều kiện bố trí trong thùng có diện tích nhỏ nên dể tác động yếu tố bên ngoài như
tiếng động con người hay thao tác bắt cá khi tiêm cá dễ bị sây sát ảnh hưởng đến sức
sinh sản của cá.
Tỉ lệ nở của trứng cá ở 3 liều lượng trên cho thấy không có khác biệt lớn tỉ lệ nở của
trứng cá rô đều cao từ 90-95%. Các yếu tố môi trường ảnh hưởng trực tiếp đến các chỉ
tiêu sinh sản. Trong thời gian thí nghiệm các yếu tố môi trường cũng tương đối phù
hợp và ít biến động.
Tỉ lệ sống của cá rô đồng (Bảng 4.2) đạt ở mức cao nhất đạt 99% ở liều (2000 UI + 12
mg) thấp nhất 98% ở liều (2500 UI + 12 mg). Tỉ lệ sống cá bột ở 3 nghiệm thức khác
biệt không lớn và đều cao.
Qua các kết quả phân tích trên cho thấy ở 3 liều kích thích tố (2000 UI + 12 mg, 2500
UI + 12mg, 3000 UI +12 mg) thì liều hiệu quả cao nhất là 2000 UI + 12 mg, tuy ở liều
thấp nhất nhưng cho hiệu quả cao, về các chỉ tiêu thời gian hiệu ứng thuốc, tỉ lệ thụ
tinh, tỉ lệ nở.
27
4.2.2 Kết quả kích thích cá sinh sản bằng (LHRH_a + Motilium)
LRH_a + Motilium
94.7 94.3
93.3
88.3
86.7
85.5
97
99.7
98.3
100 100 100
75.0
80.0
85.0
90.0
95.0
100.0
105.0
50 µg + 10 mg 100 µg + 10 mg 150 µg + 10 mg
Liều lượng
T
ỷ
lệ
(%
)
Tỷ lệ thụ tinh
Tỷ lệ nở
Tỷ lệ sống
Tỷ lệ cá đẻ
Hình 4.3: Ảnh hưởng của liều lượng kích thích tố (LHRH_a + Motilium) lên một số chỉ tiêu
sinh sản của cá rô đồng
Qua bảng 4.3, hình 4.3 và hình 4.4 cho thấy ở 3 liều lượng của 3 nghiệm thức đều cho
kết quả các chỉ tiêu sinh sản cao.
Kết quả sau khi tiêm LHRH_a + Motilium ở các liều 50 µg + 10 mg, 100 µg + 10 mg
và 150 µg + 10 mg, thời gian hiệu ứng thuốc của 3 nghiệm thức dao động 8h45-8h50.
Theo Nguyễn Ngọc phúc (2000) thì thời gian hiệu ứng thuốc với kích tố của cá là 23
giờ 15 phút. Theo Nguyễn Tường Anh (1985) nhiệt độ ảnh hưởng tới thời gian hiệu
ứng thuốc. Điều này hoàn toàn hợp lý với kết quả nghiên cứu vì thí nghiệm của
Nguyễn Ngọc phúc thực hiện khi nhiệt độ 21-22 0C còn nghiên cứu được tiến hành
khi nhiệt độ dao động sáng và chiều 25-26 0C. Vì vậy thời gian hiệu ứng thuốc ngắn
hơn nhiều.
Tỉ lệ đẻ của cá rô đồng khi được tiêm kích dục tố LHRH_a + Motilium ở các liều 50
µg + 10 mg, 100 µg + 10 mg, 150 µg + 10 mg đều đạt tỉ lệ đẻ cao 100%.
Theo kết quả nghiên cứu của Dương Nhựt Long và csv (2006), tỉ lệ đẻ cá rô sinh sản
96,3±2,7% thấp hơn kết quả nghiên cứu của đề tài tỉ lệ cá đẻ là 100%.
28
LRH-a (µg)+ Motilium (mg)
755216.0
795148.3
416143.3
0.0
100000.0
200000.0
300000.0
400000.0
500000.0
600000.0
700000.0
800000.0
900000.0
50 µg + 10 mg 100 µg + 10 mg 150 µg + 10 mg
Liều lượng kích thích tố
S
ố
lư
ợ
ng
tr
ứ
ng
Sức sinh sản tương đối
Hình 4.4: Ảnh hưởng của liều lượng kích thích tố (LHRH_a + Motilium) lên sức sinh
sản tương đối của cá rô đồng
Sức sinh sản của cá ở 3 nghiệm thức có sự khác biệt giữa nghiệm thức 3 so với
nghiệm thức 1 và 2. Sức sinh sản cao nhất ở liều (100 µg + 10 mg) đạt 795148±3837
trứng/kg cá và thấp nhất là ở liều (150 µg + 10 mg) là 416143±2833 trứng/kg. Nguyên
nhân dẫn đến sự khác là do sự thành thục của cá bố mẹ không đồng đều giữa các
nghiệm thức và tác dụng của LHRH_a chủ yếu là chuyển hóa buồng trứng và chỉ gián
tiếp đến sự rụng trứng nên ở liều cao có thể ảnh hưởng đến quá trình chuyển hóa các
giai đoạn thành thục của trứng, vì vậy sức sinh sản lại thấp hơn nhiều.
Theo nghiên cứu của Nguyễn Ngọc Phúc (2000) sức sinh sản của cá rô đồng đạt
480285 trứng/ kg cá. Kết quả của Nguyễn Ngọc Phúc khi so sánh với kết quả nghiên
cứu có sự khác biệt, do ở liều (100 µg + 10 mg) tăng LHRH_a đã cho kết quả cao
hơn.
Tỉ lệ thụ tinh của cá trứng cá rô ở 3 liều lượng cho thấy chêch lệch không lớn và dao
động từ 93-94.6%. So sánh với nghiên cứu của Nguyễn Ngọc Phúc (2000) thì kết quả
thụ tinh của trứng cá rô chỉ đạt 51.5±3.06%. Điều này cho thấy khi tăng liều LHRH_a
vừa phải sẽ cho tỉ lệ thụ tinh cao hơn.
Theo kết quả nghiên cứu của Dương Nhựt Long và csv (2006), tỉ lệ thụ tinh của trứng
cá rô 93,37±2,7%. Kết quả so với kết quả nghiên cứu không có sự khác biệt lớn.
Trứng sau khi được vớt ra khỏi bể đẻ cho vào trong thùng với điều kiện sục khí liên
tục. Trong bể với nhiệt độ trung bình sáng và chiều trong khoảng 26±1,5 0C, pH dao
động từ 7,5-7,6 và hàm lượng oxy hòa tan trung bình đạt 4,2 mg/l. Sau thời gian ấp
29
khoảng 2 ngày trứng bắt đầu nở. Tỉ lệ nở của trứng cá rô ở 3 liều lượng (Bảng 4.3)
dao động từ 85,5 đến 88,3%. Theo Dương Nhựt Long và csv (2006) thì kết quả tỉ lệ
nở của trứng cá rô thu được là 86±1,85%. Kết quả này không khác biệt nhiều so với
kết quả nghiên cứu.
Tỉ lệ sống của cá bột phụ thuộc vào nhiều yếu tố trong đó yếu tố nhiệt độ là yếu tố
quyết định sự sống, nhìn chung tỉ lệ sống của cá bột ở nghiệm thức khác rất cao dao
động từ 97-99%.
Bảng 4.3: Các chỉ tiêu sinh sản của thí nghiệm LHRH_a+ Motilium
Chỉ tiêu quan sát Nghiệm thức 1 Nghiệm thức 2 Nghiệm thức 3
50µg + 10mg 100µg + 10mg 150µg + 10mg
Thời gian hiệu ứng thuốc (h) 8h50 8h45 8h50
(Tỉ lệ cá đẻ%) 100±0 100±0 100±0
Sức sinh sản (%) 755.216± 4240 795.148±3.837 416.143±2.833
Tỉ lệ thụ tinh (%) 94,6±1,5 94±1 93±1
Tỉ lệ nở (%) 88±1,5 86,6±3 85±1,5
Tỉ lệ sống (%) 97±1 99,6±0.5 98±0,6
Như vậy qua kết quả nghiên cứu dùng (LHRH_a + Motilium) với 3 liều lượng khác
nhau thì ở liều (100 µg + 10 mg) mang lại hiệu quả cao về các chỉ tiêu sinh sản.
4.2.3 Kết quả kích thích cá sinh sản bằng (Não thùy + Motilium)
Bảng 4.4: Các chỉ tiêu sinh sản của thí nghiệm: Não thùy + Motilium.
Chỉ tiêu quan sát Nghiệm thức 1 Nghiệm thức 2 Nghiệm thức 3
4 mg + 5 mg 6 mg + 5 mg 8 mg + 5 mg
Thời gian hiệu ứng thuốc (h) 8h40 8h40 8h40
(Tỉ lệ cá đẻ%) 100±0 100±0 100±0
Sức sinh sản (%) 414.689±5253 410.440±7.922 408.700±9.668
Tỉ lệ thụ tinh (%) 93.6±2.5 85±1 92±1.5
Tỉ lệ nở (%) 83.6±1.5 83.6±2.5 84±1.5
Tỉ lệ sống (%) 98±1 98±1.5 98±1
Qua kết quả bảng 4.4, hình 4.5 và hình 4.6 cho thấy ở 3 liều lượng kích thích tố khác
nhau điều kích thích cá rô đồng sinh sản.
Thời gian hiệu ứng thuốc của 3 nghiệm thức 8h40 không có sự khác biệt. Khi so sánh
với kết quả của Trần Thị Trang (2001), thời gian hiệu ứng thuốc 5h45, trong khi kết
quả nghiên cứu dùng Não thùy + Motilium ở thí nghiệm này thì dài hơn thời gian
hiệu ứng thuốc là 8h40. Nguyên nhân dẫn đến sự sai khác là do thí nghiệm của Trần
Thị Trang thực hiện thí lúc nhiệt độ (27,5 0C) nhiệt độ này tương đối tốt hơn, dẫn đến
30
thời gian gian hiệu ứng thuốc ngắn hơn, so với thí nghiệm trên được tiến hành lúc thời
tiết có mưa nên nhiệt độ hơi thấp 25-26 0C.
Cá rô đồng được tiêm Não thùy + Motilium có tỉ lệ đẻ của cá ở 3 liều lượng (4 mg
Não thùy + 5 mg Motilium, 6 mg Não thùy + 5 mg Motilium, 8 mg Não thùy + 5 mg
Motilium) đều đạt tối đa 100%. Nghiên cứu của Nguyễn Ngọc Phúc (2000) cho tỉ lệ
đẻ của cá rô là 33,3% vì thí nghiệm Nguyễn Ngọc Phúc thực hiện vào cuối mùa sinh
sản (tháng 10) nên cho tỉ lệ đẻ thấp hơn so với kết quả đề tài nghiên cứu.
Theo kết quả nghiên cứu của Trần Thị Trang (2001), sức sinh sản đạt tới 822416
trứng/kg. So với kết quả nghiên cứu trên thì có sự chênh lệch đáng kể. Nguyên nhân
có thể do nguồn cá bố mẹ được nuôi vỗ khác nhau dẫn đến khả năng thành thục cũng
khác nhau.
Não thùy + Motilium
89.7
85.0
99.0
83.7 83.7 84.3
98 98.3 98
100 100 100
75.0
80.0
85.0
90.0
95.0
100.0
105.0
4 mg + 5 mg 6 mg + 5 mg 8 mg + 5 mg
Liều lượng
Tỷ
lệ
(
%
) Tỷ lệ thụ tinh
Tỷ lệ nở
Tỷ lệ sống
Tỷ lệ cá đẻ
Hình 4.5: Ảnh hưởng của liều lượng kích thích tố (Não thùy + Motilium) lên một số
chỉ tiêu sinh sản của cá rô đồng
Tỉ lệ thụ tinh của trứng cá rô ở 3 nghiệm thức tương đối cao, tỉ lệ thụ tinh của trứng cá
cao nhất là ở nghiệm thức (4 mg + 5mg) đạt 93.6±2.5 % (Bảng 4.4). Nguyên nhân dẫn
đến sự sai giữa các nghiệm thức do sự phát triển tuyến sinh dục của cá không đồng
đều giữa các nghiệm thức nên ảnh hưởng tới tỉ lệ thụ tinh.
Theo nghiên cứu của Trần Thị Trang (2001) khi cho cá rô sinh sản nhân tạo bằng Não
thùy không kết hợp với Motilium và dùng ở liều lượng 8 mg thì tỉ lệ thụ tinh của cá rô
chỉ đạt 89,96% và của Nguyễn Ngọc Phúc (2000) 91,6%. Qua đó cho thấy tuy dùng
liều 8 mg Não thùy cao hơn so với kết quả nghiên cứu (6 mg Não thùy + 5 mg
31
Motilium) nhưng tỉ lệ thụ tinh của trứng cá rô lại thấp hơn. Theo Nguyễn Trung
Thành (1999), tránh dùng não thùy ở liều quá cao, nên dùng ở một chừng mực nhất
định, việc tăng liều khi tiêm có tác dụng rút ngắn thời gian hiệu ứng thuốc nhưng liều
não thùy quá cao gây rối loạn tình trạng sinh lý bình thường, gây chết cá mẹ và giảm
chất lượng trứng của chúng. Vì vậy tuy tiêm ở liều thấp nhưng cho kết quả tốt hơn.
Tỉ lệ nở của trứng cá rô đồng khi kích thích bằng hormon não thùy + Motilium ở 3
nghiệm thức không khác biệt nhau nhiều ở mức dao động 83,6-84%. Nghiên cứu Trần
Thị Trang (2001) cho ra tỉ lệ nở là 96,90% ở liều não thùy (8 mg/kg) thời gian thực
hiên thí nghiệm vào tháng 5. Như vậy kết quả tỉ lệ nở của trứng cá rô ở nghiên cứu
này là thấp hơn. Nguyên nhân dẫn đến sự sai lệch này có thể là do yếu tố chất lượng
não thùy và tình trạng sức khỏe cá bố mẹ và mùa vụ sinh sản do đề tài được nghiên
cứu vào đầu tháng 4. Theo Nguyễn Thành Trung (1999) thì việc định liều não thùy
cho cá bố mẹ các loài tùy thuộc vào nhiều yếu tố như chất lượng hoạt tính của não
thùy, tình trạng thành thục của cá bố mẹ, hệ số thành thục, nhiệt độ nước các điều kiện
khác của môi trường chứa cá sau khi được tiêm kích thích.
Tỉ lệ sống của cá rô đồng ở 3 mức liều lượng từ (4 mg não thùy + 5 mg Motilium, 6
mg não thùy + 5 mg Motilium, 8 mg não thùy + 5 mg Motilium) không có sự khác
biệt lớn là do môi trường nuôi dưỡng cá bột khá ổn định và tình trạng thành thục của
cá bố mẹ tương đối tốt.
Não thùy (mg) + Motilium (mg)
414689.3
410440.7
408700.3
405000.0
406000.0
407000.0
408000.0
409000.0
410000.0
411000.0
412000.0
413000.0
414000.0
415000.0
416000.0
4 mg + 5 mg 6 mg + 5 mg 8 mg + 5 mg
Liều lượng kích thích tố
S
ố
l
ư
ợ
n
g
tr
ứ
n
g
Sức sinh sản tương đối
Hình 4.6: Ảnh hưởng của liều lượng kích thích tố (Não thùy + Motilium) lên sức sinh sản
tương đối của cá rô đồng.
32
Sức sinh sản của cá rô đồng khi tiêm kích thích tố Não thùy + Motilium ở 3 liều lượng
(Bảng 4.4) đạt sức sinh sản cao nhất là ở liều (4mg + 5m) là 414.689±5.253 trứng/ kg
cá và thấp nhất là 408.700 ± 9.668 trứng/kg cá ở liều 8mg + 5mg.
4.2.4 So sánh tác dụng của 3 loại kích thích tố: HCG + não thùy, LRHa +
Motilium, Não thùy + Motilium ở liều lượng cho kết quả tốt nhất.
Bảng 4.5: Kết quả sử dụng HCG + não thùy, LHRH_a+ Motilium, Não thùy +
Motilium kích thích cá rô đồng sinh sản ở liều lượng cho kết quả tốt nhất
Chỉ tiêu sinh sản HCG + não thùy LHRH_a +
Motilium
Não thùy +
Motilium
2000 UI + 12 mg 100 µg + 10 mg 4 mg + 5 mg
Thời gian hiệu ứng thuốc (h) 15h5 8h45 8h40
(Tỉ lệ cá đẻ%) 100±0 100±0 100±0
Sức sinh sản (%) 338.834±683 795.148±3.837 414.689±5.253
Tỉ lệ thụ tinh (%) 95±1 94±1 93,60±2,5
Tỉ lệ nở (%) 95±1,5 86,6±3 83,6±1,5
Tỉ lệ sống (%) 99±1 99,6 ± 0,5 98±1
Kết quả thí nghiệm ở nghiệm thức LHRH_a+ Motilium (100 µg + 10 mg) và nghiệm
thức Não thùy + Motilium (4mg + 5mg) có thời gian hiệu ứng thuốc tương đối ngắn,
nhưng sức sinh sản cao nhất của nghiệm thức LHRH_a + Motilium là 795.148±3.837
trứng/kg, còn thí nghiệm HCG + não thùy thời gian hiệu ứng thuốc tương đối dài và
sức sinh sản thấp nhất trong 3 loại kích tố, điều này cho thấy từng loại kích thích tố
khác nhau sẽ ảnh hưởng đến các chỉ tiêu sinh sản khác nhau.
Qua bảng kết quả các chỉ tiêu sinh sản trên cho thấy LHRH_a + Motilium ngoài thời
gian hiệu ứng thuốc ngắn và sức sinh sản cao còn các chỉ tiêu khác thì không khác biệt
nhiều so với 2 loại kích thích tố còn lại . Nhưng xét về mặt kinh tế cho thấy loại kích
tố LHRH_a + Motilium cho hiệu quả tốt hơn vì theo Peter et al (1988) LHRH_a có
tác dụng gây phóng thích kích dục tố tốt ở tất cả các loại cá, có giá rẻ và hoạt tính ổn
định. (Trích bởi Nguyễn Thành Trung, 1999)
33
CHƯƠNG 5
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
5.1 Kết luận
Trong thời gian thí nghiệm các chỉ tiêu môi trường tương đối ổn định. Nhiệt độ trung
bình sáng 25±1,3 0C chiều 26±1,5 0C, pH biến động từ 7,4-7,5, oxy hòa tan 4,2±0,2
mg/l, Nitrite 0,2±0,3 mg/l, NH3 0,6±0,3 mg/l, Kiềm tổng 66,3±4 mg/l, các chỉ tiêu
này phù hợp cho sinh sản cá rô đồng.
Kết quả kiểm tra các chỉ tiêu sinh sản bằng các loại kích thích HCG + não thùy,
LHRH_a + Motilium, Não thùy + Motilium ở các liều lượng khác nhau đều có tác
dụng kích thích cá rô đẻ trứng 100%. Sức sinh sản tương đối của cá rô đồng cao, dao
động trong khoảng 338.414 – 799.541 trứng/kg cá cái.
Trong 3 loại kích thích tố dùng thì LHRH_a (µg) + Motilium (mg) với liều lượng
(100 µg + 10 mg) cho hiệu quả sinh sản tốt.
5.2 Đề xuất
Thử nghiệm kết hợp các loại kích thích tố khác nhau với các liều lượng khác nhau.
Tiếp tục nghiên cứu kỹ thuật sinh sản cá rô đồng trong các tháng còn lại để khép kín
chu kỳ năm.
34
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
Bùi Minh Tâm, Nguyễn Thanh Phương và Dương Nhật Long, 2008. Ảnh hưởng của
liều lượng và phương pháp tiêm HCG đến sinh sản bán nhân tạo cá lóc bông
(channa micropeltes). Tập chí khoa học 2008 (2), trang 76- 81.
Dương Nhựt Long, (2003). Giáo trình kỹ thuật nuôi cá nước ngọt. Khoa Thủy sản
trường ĐHCT. Das. P. C, S. Ayyappan, J.K, Jena, B. K Das. 2004. Nitrite
toxicity in Cirrhius mrigala (Hamilton): acute toxicity and sublethal effect to
selected hematological parameter. Aquaculture 235, page 633 – 644.
Dương Nhựt Long, và Nguyễn Văn Triều, 2002. kỹ thuật sinh sản nhân tạo cá rô đồng.
Tuyển tập công trình nghiên cứu khoa học-khoa Thủy Sản, Trường Đại Học
Cần Thơ.
Đặng Ngọc Thanh, (1974). Thủy sản học đại cương. NXB Đại học và trung học
chuyên nghiệp Hà Nội. 215 trang.
Đỗ Thị Thanh Hương, Nguyễn Thị Hồng Thắm và Nguyễn Anh Tuấn, (2008). Kết
quả bước đầu về sản xuất giống nhân tạo Lươn đồng (Monoterus albus). Tập
chí khoa học 2008, quyển 2, trang 50-58.
Đàm Bá Long, (2005). Nghiên cứu sinh sản cá rô đồng tại khánh Hòa. Báo cáo tổng
kết đề tài khoa học cấp Trường.
Lê Văn Cát, (2006). Nước nuôi thủy sản chất lượng và giải pháp cải thiện chất lượng.
Nhà xuất bản khoa học và kỹ thuật Hà Nội, 424 trang.
Lý Vĩnh Phước, (2005). Những điều cần lưu ý trong sản xuất cá rô đồng.
Www.khuyennongtphcm.com.
Mai Đình Yên, Vũ Trung Tạng, Bùi Lai, Trần Mai Thiên, (1979). Ngư loại học.
Nhà xuất bản đại học và trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.
Mai Đình Yên, Nguyễn Văn Trọng, Lê Hoàng Yến và Hứa Bạch Loan, (1992).
Định loại các loài cá nước ngọt Nam Bộ. Nhà xuất bản khoa học và kỹ
thuật, Hà Nội.
Nguyễn Ngọc Phúc, (2000). Nghiên cứu sinh sản nhân tạo cá rô đồng (Annabas
testudineus). Luận văn tốt nghiệp đại học. Khoa Thủy sản trường ĐHCT
Nguyễn Thành Trung, (2001). Kỹ thuật nuôi cá rô đồng. Hội nghề cá Việt Nam, 26
trang.
Nguyễn Thành Trung, (1998). Một số đặc điểm sinh học sinh sản và kỹ thuật sản xuất
giống cá rô đồng. Luận văn cao học ngành nuôi trồng thủy sản. Trường ĐH
Thủy Sản Nha Trang.
Nguyễn Thành Trung, (1999). Một số vấn đề nội tiết học sinh sản cá. Nhà xuất bản
nông nghiệp Hà Nội, 238 trang.
35
Nguyễn Tường Anh, (1985). Tác dụng gây chín và rụng trứng của hỗn hợp HCG với
một số yếu tố hormon và phi hormon trên cá mè và cá dừa. Luận án P. Tiến sĩ
Trường ĐHTH Tp HCM.
Nguyễn Tường Anh, (2005). Kỹ thuật sản xuất giống một số loại cá nuôi. Nhà xuất
bản nông nghiệp.
Nguyễn Văn Kiểm, (1994). Kỹ thuật sinh sản nhân tạo một số loại cá nước ngọt vùng
Đồng Bằng Sông Cửu Long.
Nguyễn Văn Kiểm, (2004). Giáo trình kỹ thuật sản xuất giống – Khoa thủy sản -
ĐHCT.. Dương Nhựt Long, (2003). Giáo trình kỹ thuật nuôi thủy sản
nước ngọt, Khoa Thủy Sản, Trường Đại Học Cần Thơ.
Nguyễn Văn Triều, (1999). So sánh hiệu quả gây chín và rụng trứng của DOCA, HCG,
LHRHa trên cá trê vàng.
Phạm Văn Khánh, (1999). Một số đặc điểm sinh học – Kỹ thuật sản xuất giống và
nuôi thịt cá rô đồng.
Trần Thị Thanh Hiền, (1999). Nghiên cứu sử dụng cám gạo làm thức ăn cho cá.
Tuyển tập công trình nghiên cứu khoa học – Đại Học Cần Thơ.
Trần Thị Trang, (2001). Tiếp tục nghiên cứu kỹ thuật sinh sản nhân tạo và ương nuôi
cá rô đồng. Luận văn tốt nghiệp. Khoa Thủy sản trường ĐHCT
Trương Thủ Khoa và Trần Thị Thu Hương, (1993). Định loại cá nước ngọt vùng
Đồng bằng sông Cửu Long.
Tiếng Anh
Dooligindacchabaporn, S. D, 1988. Breeding of climbing perch, Anabas tetudineus
(bloch). Master Degree thesis.
Mangklamanee C, 1986. Culture strategies of climbing perch (Anabas testudineus) by
local farmers at the southern part of Thailand. J. Thai fisheries
Nagis, A. and M. A. Hossain (1987) food and feeding habits of koi fish (Anabas
testudineus, Bloch). Bangladesh J, Agric., Vol. 12(2): 121-127.
Pendey, A., P.K. srivastava, S. Adhikari and Singh D.K, 1992. pH Prilife of gut as an
index of food and feeding habits. J.Freshwater biology, 4(2); 75-79
Potongkam. K., 1971. biological characteristics of climbing perch, Anabas testudineus
(Bloch). Division of aquatic animals conservation. Department of fisheries
Bangkok, Thailand.
Ray, A. K, and B.C, Patra, 1989. Growth response, feed conversion and metabolic
rate ò the air-breading fish, Anabas testudineus (Bloch) to different dietary
protein sources. In s. de Silva (ed). Fish Nutrition Research in Asia. Proceeding
of the third Asian Fish Nutrition Network meeting. Asian Fish. Soc. Publ 4.
Sangrattanakhul, C., 1989. Effect of palletized diets containing various levels of
protein on growth and survival of climbing perch, Anabas testudineus (Bloch).
Master degree thesis. Kasetsart University, Bangkok, Thailand.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- lvtranvanhoa_0931.pdf