Việc sử dụng nước thải trong sản xuất giúp tận dụng các chất dinh dưỡng
có trong nước thải, góp phần làm giảm gánh nặng về phân bón cho người nông
dân, từ đó tăng thu nhập cũng như tăng hàng loạt các phúc lợi khác kèm theo ; hạn
chế ô nhiễm môi trường do xả nước thải, góp phần thanh lọc một lượng nước thải
lớn; tiết kiệm được nước ngọt phải khai thác từ nguồn (sông Hồng). Tuy nhiên,
trong nước thải còn chứa các thành phần nguy hiểm: các mềm bệnh, các chất độc
hại (kim loại nặng, chất hữu cơ khó phân hủy ) ảnh hưởng đến sức khỏe người
sản xuất cũng như người tiêu dùng, và tác động xấu đến môi trường đất, nước
ngầm, không khí.
58 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2462 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Đánh giá hiệu quả của việc dử sụng nước thải trong sản xuất rau tại thôn Bằng B, Hoàng Liệt, Hoàng Mai, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
dệt nhuộm, giết mổ
gia súc...
Các chuyên gia phân tích, trong khu vực nội thành của các thành phố lớn
(Hà Nội, Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Huế...) hệ thống các hồ, ao, kênh, rạch và các
sông nhỏ chính là nơi tiếp nhận và vận chuyển nước thải của các khu công nghiệp,
dân cư. Hệ thống này hiện nay ô nhiễm nghiêm trọng vượt quá mức tiêu chuẩn
cho phép 5-10 lần, các hồ trong nội thành phần lớn ở trạng thái phú dưỡng, nhiều
hồ bị phú dưỡng hóa đột biến và tái nhiễm bẩn hữu cơ.
Trong nước dưới đất nhiều nơi còn thấy dấu hiệu ô nhiễm phốt phát và
asen. Tại Hà Nội, số giếng có hàm lượng cao hơn mức cho phép chiếm 71%.
Nước thải của thành phố Hà Nội với khối lượng khoảng 400.000 m3/ngày
đêm, trong đó khoảng 55% là nước thải sinh hoạt, 43% nước thải công nghiệp và
dịch vụ, 2% là nước thải bệnh viện (Sở Khoa học Công nghệ và Môi trường Hà
Nội, 2003) theo 4 con sông: Tô Lịch, Kim Ngưu, Lừ và Sét đổ vào hồ Yên Sở sau
đó được bơm ra sông Hồng.
1.1.2. Tình hình sử dụng nước thải trong sản xuất nông nghiệp
Trên thế giới:
Việc sử dụng nước thải cho sản xuất nông nghiệp là khá phổ biến trên thế
giới. Theo một khảo sát của Viện quản lý nguồn nước quốc tế cho 53 thành phố
trên thế giới cho thấy hầu hết các thành phố đang sử dụng nước thải không qua xử
lý hoặc xử lý một phần cho nông nghiệp, với 80% là có hơn một nửa diện tích đất
nông nghiệp sử dụng nước thải. Có khoảng 20 triệu hecta đất canh tác trên thế giới
được tưới bằng nước thải. Phương thức canh tác nói trên đang phát triển mạnh ở
châu Á, châu Phi và Nam Mỹ . Tại nhiều đô thị lớn đang phát triển nhanh, nước
sạch cực kỳ hiếm trong khi nước thải lại nhiều. Nước thải có lẽ là nguồn nước dồi
dào nhất của hoạt động canh tác nông nghiệp ở đô thị. Tại Hyderabad, thành phố ở
Ấn Độ, 100% cây trồng quanh thành phố phụ thuộc vào nước thải. Nguyên nhân
là không có sẵn các nguồn nước khác. Nói chung, thường ở những nước phát triển
ít có tình trạng nước thải chưa qua xử lý được sử dụng trong nông nghiệp. Đơn
giản là vì nông dân ở những nước này đã được tiếp cận với nguồn nước đã qua xử
lý. Họ thường sử dụng nước thải qua tái chế đã đáp ứng đủ các tiêu chuẩn về nước
uống. Ở Anh và Cộng hòa liên bang Đức ngay từ đầu thế kỷ 19 đã xây dựng
những cánh đồng chuyên tưới nước thải đã được xử lý cơ học. Sang đầu thế kỷ 20,
chỉ tính riêng Châu Âu đã có 80.000-90.000 ha đất nông nghiệp được tưới bằng
nước thải đô thị, ở Mỹ, hồ sinh học đang được sử dụng để xử lý nước thải công
nghiệp thực phẩm, giấy…, một phần nước thải sau khi xử lý ở hồ sinh học được
đổ vào sông hồ tự nhiên, một phần lớn còn lại được sử dụng vào mục đích tưới
tiêu. Ở Úc, toàn bộ nước thải của thành phố Melbourne được xử lý bằng hồ sinh
học, sau đó chúng được sử dụng tưới cây tại các khu đô thị và trồng cây cảnh. Ở
Mexico, Jordan, Israel và Tunisia, nước thải được xử lý đặc biệt nhằm loại bỏ các
mầm bệnh cũng như làm cho nó an toàn đối với tưới tiêu. Tuy nhiên, tại Ấn Độ,
Trung Quốc và Pakistan, nước cống hiếm khi được xử lý. Nó được dẫn vào cánh
đồng cùng với mầm bệnh và chất thải công nghiệp độc hại.
Theo ước tính của Viện quản lý nước quốc tế (IWMI), có tới 1/10 dân số
thế giới ăn nông phẩm được sản xuất từ nước thải tại thành phố.
Tại Việt Nam
Việt Nam là một nước nông nghiệp mà ở đó phân và nước thải (của người
và gia súc, gia cầm) được sử dụng rất hiệu quả cho sản xuất nông nghiệp và nuôi
trồng thủy sản từ nhiều thế kỉ nay. Trong đó, điển hình là hệ thống VAC (Vườn –
Ao – Chuồng). Ở VAC, chu trình dinh dưỡng được khép kín và tất cả các dạng
chất thải được đưa vào sử dụng hiệu quả. Tuy nhiên, VAC là mô hình phát triển
chủ yếu ở nông thôn, còn đối với hoạt động nông nghiệp ở các đô thị, việc sử
dụng phân và nước thải không còn phổ biến, thay vào đó là nông dân dùng nguồn
nước chứa các chất thải từ các hộ gia đình, từ các cơ sở sản xuất, bệnh viện để
phục vụ cho nông nghiệp.
Theo khảo sát của DANIDA (Cơ quan phát triển quốc tế Đan Mạch) cho 60
tỉnh thành của cả nước, có tới 93% thành phố khảo sát sử dụng nước thải cho nông
nghiệp hoặc nuôi trồng thủy sản hoặc cả hai. Loại cây trồng tưới nước thải phổ
biến ở Việt Nam là lúa. Diện tích tưới nước thải (sử dụng trực tiếp chưa qua xử lý
hoặc ô nhiễm nặng) chiếm 0.5 – 5% tổng diện tích đất nông nghiệp ở các thành
phố (trung bình 1.56%), 70% trong tổng các thành phố có 1 – 2% diện tích đất
nông nghiệp tưới nước thải. Như vậy, cả nước có khoảng 6000-9500 ha diện tích
đất nông nghiệp được tưới bằng nước thải. Cũng theo khảo sát này, các lí do khiến
người dân sử dụng nước thải cho sản xuất nông nghiệp được thống kê như sau: vì
không có cách nào khác, đây là nguồn nước tưới duy nhất tại khu vực (chiếm
khoảng 60%); do thiếu nước sạch nên phải sử dụng thêm nước thải (35%); và vì
nước thải có giá trị dinh dưỡng cho cây trồng (15%).
Tại Hà Nội
Với vành đai sản xuất, cung ứng rau xanh gồm 4 huyện ngoại thành, toàn
thành phố hiện có 112/117 xã, phường tham gia sản xuất rau. Tổng diện tích rau
năm 2007 là 8.000 ha, cung cấp khoảng 490 tấn rau củ /ngày, tương đương 40%
nhu cầu của người dân. Tuy nhiên, trong 8.000 ha rau chỉ có 43 ha được đầu tư
nhà lưới, kênh mương tưới tiêu; 3 cơ sở có giếng khoan công suất lớn, nguồn nước
đảm bảo cho quy trình sản xuất rau an toàn, còn lại hầu hết là giếng khoan nhỏ
hoặc dùng nước sông. Trong khi hầu hết các con sông ở Hà Nội đều bị ô nhiễm,
thì việc sử dụng nước thải đô thị cho nông nghiệp trở nên phổ biến. Nước thải đã
và đang được sử dụng để trồng lúa, rau, và nuôi cá ở vùng ngoại thành Hà Nội,
đặc biệt là vùng Thanh Trì (phía Nam TP. Hà Nội). Hầu hết các cánh đồng lúa,
rau nằm dọc hai bên bờ 4 con sông nêu trên ở quận Hoàng Mai, huyện Thanh Trì
đều được tưới bằng nước thải đô thị.
Diện tích trồng lúa và rau của quận Hoàng Mai và huyện Thanh Trì được
thống kê trong bảng sau:
Quận/huyện Diện tích trồng lúa
(ha)
Diện tích trồng rau
(ha)
Hoàng Mai 1284 264
Thanh Trì 3939 1116
Bảng 1.1. Diện tích trồng lúa và rau của quận Hoàng Mai và huyện
Thanh Trì
Nguồn: Niên giám Thống kê Hà Nội 2005
Ước tính khoảng 60% diện tích trồng rau và lúa của quận Hoàng Mai và
của huyện Thanh Trì được tưới bằng nước thải đô thị từ 4 con sông Tô Lịch, Kim
Ngưu, Lừ, Sét và các hồ chứa nước mưa và nước thải như hồ Yên Sở, hồ Linh
Đàm... Ngoài 4 con sông nêu trên cần phải kể đến sông Nhuệ là nguồn cung cấp
nước tưới cho trồng lúa, trồng rau vùng Từ Liêm, Thanh Trì. Sông Nhuệ là con
sông nối với sông Hồng tại cửa Liên Mạc và nhận nước thải từ các khu dân cư,
nhà máy xí nghiệp nằm dọc 2 bên bờ sông.
1.2. Đánh giá hiệu quả của việc sử dụng nước thải trong sản xuất rau
1.2.1. Khái niệm hiệu quả
Hiệu quả được hiểu là mối tương quan giữa kết quả đạt được và chi phí bỏ
ra. Ở đây, chúng ta đề cập đến hiệu quả kinh tế. Khái niệm hiệu quả kinh tế
thường bị nhầm lẫn với khái niệm hiệu quả tài chính. Việc phân biệt hiệu quả tài
chính hay hiệu quả kinh tế là tuỳ theo phạm vi xem xét là của cá nhân hay cả xã
hội. Hiệu quả tài chính được phân tích trên quan điểm lợi ích cá nhân; chỉ tính
toán những lời lãi thông thường trong phạm vi tài chính. Hiệu quả kinh tế thì được
phân tích trên lợi ích của toàn xã hội để xem xét sự phát triển chung của xã hội
như mức tăng trưởng, sự công bằng xã hội, sự phát triển cộng đồng, vấn đề môi
trường… Hay nói cách khác, trên quan điểm toàn diện, hiệu quả kinh tế phải được
xem xét trên cả ba khía cạnh: tài chính, xã hội và môi trường.
1.2.2. Phương pháp đánh giá hiệu quả
Phương pháp phân tích tài chính
Phân tích tài chính là quá trinh tính toán các lợi ích, chi phí trên góc độ
hạch toán kinh tế của cá nhân. Trên cơ sở đó xác định các chỉ tiêu phản ánh hiệu
quả tài chính của phương án hoạt động.
Đối với một hoạt động chưa thực hiện, phân tích tài chính cung cấp thông
tin cần thiết giúp người đầu tư đưa ra quyết định có nên đầu tư hay không. Vì mục
tiêu của cá nhân, tổ chức là lợi nhuận, một phương án chỉ được lựa chọn khi mang
lại lợi nhuận thích đáng. Ngay cả các tổ chức phi lợi nhuận thì phân tích tài chính
vẫn là một khía cạnh rất được quan tâm, các tổ chức này cũng mong muốn chọn
được những phương án có chi phí tài chính rẻ nhất mà vẫn đạt được mục tiêu của
mình. Còn đối với một hoạt động đã được thực hiện, phân tích tài chính giúp hạch
toán lại những lợi ích, chi phí, và đánh giá lời lãi của hoạt động, nhằm cung cấp
thông tin về hiệu quả tài chính của hoạt động.
Phân tích tài chính có thể hiểu đơn giản là đi so sánh lợi ích thu được và chi
phí bỏ ra được lượng hóa bằng tiền tệ đứng trên quan điểm cá nhân. Nếu lợi ích
thu được lớn hơn chi phí bỏ ra thì hoạt động được coi là mang lại hiệu quả tài
chính.
Sản xuất rau sử dụng nước thải để tưới mang lại những lợi ích và chi phí
sau:
Lợi ích: Thu nhập cho nông dân
Chi phí:
+ Các chi phí trực tiếp (chi phí liên quan trực tiếp đến quá
trình sản xuất, cấu thành nên giá): phân bón; thuốc BVTV; các công
cụ hỗ trợ; lao động; phí thủy lợi.
+ Chi phí gián tiếp (các chi phí nảy sinh trong quá trình sản
xuất, nhưng không được tính vào chi phí để cấu thành nên giá): chi
phí đối với sức khỏe của người nông dân.
Phương pháp phân tích kinh tế
Phân tích kinh tế là việc so sánh, đánh giá một cách hệ thống giữa chi phí
và lợi ích của dự án trên quan điểm toàn bộ xã hội. Trên góc độ cá nhân, thì lợi
nhuận là thước đo chủ yếu quyết định hành động. Còn đứng trên quan điểm lợi ích
xã hội, việc gia tăng phúc lợi của toàn xã hội sẽ được quan tâm hơn. Lợi ích của
hoạt động trên góc độ kinh tế là lợi ích có tính cộng đồng và đôi khi có thể mâu
thuẫn với lợi ích cá nhân. Một hoạt động mang lại lợi ích cho toàn xã hội lớn hơn
chi phí mà xã hội bỏ ra thì đạt hiệu quả kinh tế.
Sản xuất rau sử dụng nước thải xét trên quan điểm toàn xã hội mang lại những lợi
ích và chi phí sau:
Lợi ích:
+ Thu nhập cho nông dân
+ Các lợi ích xã hội, môi trường:
- Tạo công ăn việc làm cho người lao động
- Đảm bảo an ninh lương thực
- Tái sử dụng nước thải, từ đó tiết kiệm tài nguyên
- Tạo cảnh quan sinh thái lành mạnh.
Chi phí:
+ Các chi phí trực tiếp và gián tiếp như trong phân tích tài chính
+ Các chi phí xã hội và môi trường
- Chi phí đối với người tiêu dùng (thiệt hại về sức khỏe và tinh
thần)
- Ô nhiễm đất, nước, không khí.
Phân tích tài chính và phân tích kinh tế không tách rời nhau mà hỗ trợ cho
nhau. Về nguyên tắc, phân tích tài chính phải tiến hành trước làm cơ sở cho phân
tích kinh tế.
1.2.3. Một số phương pháp đánh giá chi phí, lợi ích sử dụng trong đánh
giá hiệu quả
Sau đây là một số phương pháp dùng trong đánh giá chi phí, lợi ích được
hai tác giả Barry Field và Nancy Olewiler trình bày trong “Environmental
Economics”:
Phương pháp đánh giá Ứng dụng
Phương pháp dùng giá thị
trường
1. Thay đổi năng suất
2. Chi phí chăm sóc sức
khỏe
3. Thiệt hại vốn nhân lực
4. Chi phí thay thế/phục
hồi thiệt hại tài sản, kinh doanh
- Ảnh hưởng ô nhiễm đến sức
khỏe, nông nghiệp, tài nguyên thiên
nhiên
- Ảnh hưởng ô nhiễm đến sức
khỏe
- Ảnh hưởng ô nhiễm đến sức
khỏe
- Thiệt hại do ô nhiễm gây ra
cho cơ sở vật chất, hệ sinh thái
Phương pháp không dùng
giá thị trường
1. Chi tiêu bảo vệ/giảm
thiệt hại
2. Đánh giá hưởng thụ
3. Thị trường đại diện (chi
phí du hành)
4. Đánh giá ngẫu nhiên
- Ảnh hưởng của ô nhiễm đến
con người, các ngành công nghiệp, hệ
sinh thái
- Ảnh hưởng của ô nhiễm đến
giá trị tài sản, sức khỏe
- Lợi ich giải trí
- Chất lượng môi trường hiện
tại và tương lai
Bảng 1.2. Các phương pháp dùng trong đánh giá chi phí, lợi ích
Nguồn: Barry Field và Nancy Olewiler
Trong phạm vi nội dung chuyên đề, xin được đi vào phân tích một số
phương pháp sau:
Chi phí chăm sóc sức khỏe:
Tất cả các dạng ô nhiễm đều có ảnh hưởng bất lợi đến sức khỏe. Có rất
nhiều yếu tố tác động đến sức khỏe con người ngoài yếu tố ô nhiễm môi trường
như tình trạng vệ sinh, ăn uống, tuổi tác… Vì thế, phải đưa tất cả các biến số vào
mô hình tính toán rồi tách biệt ra tác động của ô nhiễm. Thủ tục đánh giá thiệt hại
sức khỏe:
- Xem xét năng suất lao động giảm cùng với sức khỏe giảm và cuộc sống bị
rút ngắn làm giảm vốn nhân lực.
- Chi tiêu chăm sóc sức khỏe gia tăng.
Phương pháp đánh giá dùng giá thị trường không hoàn toàn đánh giá được
hết các thiệt hại, luôn ở dưới giá trị thực. Ví dụ phương pháp ước lượng thiệt hại
sức khỏe chỉ tính thông qua giảm năng suất và chi phí y tế, nó không tính đến các
chi phí khác như: những đóng góp phi thị trường mà một người khỏe mạnh tạo ra
cho người thân, bạn bè họ; hoặc sự khó chịu khi mắc các bệnh… Như vậy, chi phí
thực có thể cao hơn trong nhiều tình huống. Và các phương pháp không dùng giá
cả được sử dụng nhằm tính được các chi phí đó, một trong số đó là phương pháp
đánh giá ngẫu nhiên.
Đánh giá ngẫu nhiên:
Là phương pháp đánh giá chất lượng môi trường bằng cách phỏng vấn trực
tiếp người dân một cách ngẫu nhiên về giá sẵn lòng trả của họ cho hàng hóa môi
trường. Trên cơ sở các phiếu đánh giá, sử dụng các phương pháp thống kê để ước
lượng giá trị chất lượng môi trường ở khu vực cần đánh giá.
Bảng phỏng vấn của CVM được thiết kế để người được phỏng vấn nghĩ về
các đặc điểm môi trường và lựa chọn sẵn lòng chi trả (WTP)/sẵn lòng chấp nhận
(WTA) cho các đặc điểm môi trường đó. Bảng phỏng vấn bao gồm các nội dung:
mô tả các đặc điểm môi trường cần đánh giá; các câu hỏi về thông tin cá nhân của
người được phỏng vấn (thu nhập, nơi sinh sống, tuổi tác, …); các câu hỏi về
WTP/WTA của người được phỏng vấn.
Hạn chế của CVM
- Lệch giá trị:
Người trả lời có thể không biết hoàn toàn về sự ưa thích của mình, cũng
như không có ý tưởng gì về giá sẽ trả cho hàng hoá môi trường - loại hàng hóa có
thể họ chưa một lần trả giá. Hoặc giả định họ biết về sự ưa thích của mình, nhưng
có thể họ sẽ nói ít đi WTP nếu họ đoán rằng câu trả lời của mình được sử dụng để
lập nên mức giá cho hàng hoá môi trường này. Theo kinh nghiệm, số tiền mà họ
nói sẵn lòng trả chỉ bằng khoảng 70-90% số tiền mà cuối cùng họ thực sự trả.
- Sự khác biệt giữa WTP và WTA: Dù cùng một người hỏi, nhưng kết quả
WTP và WTA là khác nhau. WTA thường cao hơn WTP rất nhiều. Có thể là do cá
nhân cảm giác được “chi phí của việc mất mát” (WTA) mạnh mẽ hơn là “lợi ích
của việc đạt được” (WTP). Hay có ý kiến cho rằng WTA không bị giới hạn bởi
thu nhập như WTP nên WTA sẽ cao hơn WTP. Nếu trong thực tế, hai cách đo
lường này khác nhau thì các quy định chính sách phải có đề cập đến WTP và
WTA.
- Thiên lệch về điểm khởi đầu: Việc lựa chọn mức tiền ban đầu có ảnh
hưởng đến WTP sau cùng của người được hỏi., với WTP ban đầu cao thì có thể
cho kết quả WTP sau cùng cao hơn.
1.2.4. Tác động của việc sử dụng nước thải trong sản xuất rau
Trước nhất, việc sử dụng nước thải trong sản xuất rau mang lại lợi ích
chung như lợi ích của tất cả các hoạt động nông nghiệp: đảm nhận chức năng bảo
đảm nhu cầu lương thực thực phẩm; tạo ra thu nhập và công ăn việc làm cho
người nông dân; là nền tảng cho sự phát triển của các nền văn hóa - xã hội khác
nhau; đóng góp vào sự tái tạo và hạn chế sự suy thoái của môi trường (nếu được
đầu tư đúng hướng và sử dụng các công nghệ thân thiện với môi trường), góp
phần vào phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn. Ngoài ra, hoạt động này còn có
những tác động điển hình khác. Sau đây, chúng ta sẽ đi xét tác động của việc sử
dụng nước thải trong sản xuất rau cho từng đối tượng liên quan:
Đối với người sản xuất
Nước thải vốn chứa nhiều chất dinh dưỡng như Nitơ, Photpho, Kali. Vì thế,
nông dân có thể tận dụng nguồn dinh dưỡng này, không cần bón nhiều phân bón
mà cây vẫn rất phát triển. Nhất là trong điều kiện giá phân bón ngày càng tăng lên
một cách chóng mặt như hiện nay thì sử dụng nước thải thực sự giúp người dân
giảm đi gánh nặng về phân bón rất nhiều.
Tuy nhiên, nước thải đô thị chứa nhiều hóa chất độc hại, các loại khuẩn gây
bệnh, trứng giun… gây ra các bệnh về da, hô hấp, các bệnh đường ruột khi người
sản xuất thường xuyên tiếp xúc nước thải mà không có các biện pháp giảm thiểu
tác động.
Đối với người tiêu dùng:
Việt Nam là một nước đang phát triển, thu nhập người dân còn thấp, kể cả
những người sống tại các đô thị lớn: Hà Nội, Hồ Chí Minh, …Mặc dù người dân
bắt đầu có những nhận thức về rau an toàn, nhưng thu nhập thấp đã hạn chế người
dân tiếp cận các sản phẩm đó, cộng với việc các cơ sở sản xuất rau sạch chưa
nhiều, phần vì thiếu vốn, phần vì thiếu kiến thức kĩ thuật, thiếu thị trường, dẫn đến
tiêu thụ các loại rau không an toàn – giá rẻ vẫn rất phổ biến. Hay nói cách khác,
sản xuất rau sử dụng nước thải vẫn góp phần thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng cho một
số lượng lớn những người dân tại thành phố.
Dĩ nhiên, sử dụng các loại rau tưới bằng nước thải sẽ gây ra nguy cơ cao đối với
sức khỏe của người tiêu dùng. Việc khảo sát nước tưới tại một số xã ngoại thành
Hà Nội, lấy mẫu nước ở đầu nguồn - sông Tô lịch, kênh dẫn, hồ cá, vườn rau của
dự án “Đơn bào đường ruột ở Việt Nam - Các khía cạnh vệ sinh an toàn thực
phẩm và sức khỏe con người”, giai đoạn 2004-2007 do Việt Nam và Đan Mạch
hợp tác đã chứng tỏ rằng: Ở tất cả các mẫu đều chứa vi khuẩn do nhiễm phân
E.coli với mật độ trung bình 10 ngàn đến 100 ngàn khuẩn trong 100 millilit, vượt
giới hạn cho phép của WHO là dưới 1 ngàn khuẩn trong 100 ml đối với nước thải
dùng trong chăn nuôi và trồng trọt. Với trứng giun, kết quả khảo sát là có từ 10 –
100 trứng trong 1 lít, trong lúc quy định của WHO là không được quá 1 trứng
trong 1 lít. Vì thế, người tiêu dùng có thể mắc các bệnh về đường ruột nếu không
rửa sạch, nấu chín rau trước khi ăn. Kết quả khám sức khỏe 110 người dân của
phường Hoàng Liệt của nhóm tác giả của Trường Đại học Y Hà Nội (1996) cho
thấy số người có 1-1.000 trứng giun/1gam phân chiếm 21,81%; 1.000-10.000
trứng giun/1gam phân chiếm tỷ lệ cao nhất (62,72%) và trên 10.000 trứng
giun/gam phân là 15,45%.
Rau sử dụng nước thải còn có thể bị nhiễm kim loại nặng. Một số kim loại
nặng với hàm lượng thích hợp sẽ có lợi cho cơ thể nhưng nếu vượt quá mức cho
phép sẽ gây ngộ độc. Ngoài ra, một số kim loại khác xâm nhập vào cơ thể ảnh
hưởng đến thần kinh, tóc, răng, da và có thể gây ung thư.
Có thể khái quát cách thức tác động của việc sử dụng nước thải đô thị trong
sản xuất rau tới những người dân đô thị theo sơ đồ sau:
Hình 1.2. Nước thải đô thị trong tương tác nông thôn - đô thị
Nguồn: VESDI
Đối với môi trường
Dùng nước thải cho nông nghiệp, nhìn ở khía cạnh khác, còn có thể được
coi là việc tái sử dụng nước thải thay cho các cơ sở sản xuất, cơ sở y tế và các hộ
gia đình. Giảm được một khối lượng nước thải nhất định thải ra môi trường, từ đó
giảm ô nhiễm, suy thoái môi trường ở một nơi khác. Hơn nữa, tái sử dụng nước
thải tức là không cần nguồn nước mới, việc đó làm giảm gánh nặng về cung cấp
nước, góp phần đảm bảo an ninh năng lượng vì nông nghiệp được đánh giá là
ngành sử dụng nhiều nước nhất trong nền kinh tế.
Bên cạnh đó, sử dụng nước thải làm lan rộng ô nhiễm nước ngầm, ô nhiễm
đất và không khí. Các chất kim loại nặng có thể tích lũy trong đất làm giảm năng
suất một số loại cây trồng. Sự di chuyển của nước thải tại khu vực sản xuất được
thể hiện trong sơ đồ sau:
Đô thị Nước thải Tưới rau Sản phẩm
Bán buôn, bán lẻ (tại ruộng, chợ)
Hình 1.3. Sự di chuyển của nước thải đô thị tại khu vực sản xuất nông nghiệp
(thôn Bằng B)
Nguồn: VESDI
Nước thải
Vào cây
rau
Đất trũng
Đất trồng lúa, rau
Nước ngầm
Thấm xuống đất
Bốc hơi, rò rỉ
CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG SỬ DỤNG NƯỚC THẢI TỪ SÔNG TÔ
LỊCH TRONG SẢN XUẤT RAU TẠI THÔN BẰNG B, HOÀNG LIỆT,
HOÀNG MAI
2.1. Khái quát về sông Tô Lịch
Hình 2.1. Bản đồ vị trí các thôn của phường Hoàng Liệt, Hoàng mai
2.1.1. Vị trí địa lí
Vị trí bắt đầu của sông có thể được xem là từ cống Phan Đình Phùng (quận
Ba Đình), chạy dọc đường Bưởi, đường Láng, Kim Giang, Đại Kim, Thịnh Liệt
về phía Nam thành phố. Tới khu vực Nhà máy Sơn Hà Nội, sông Tô Lịch rẽ
nhánh, một nhánh chảy sang hướng Đông về phía hồ Yên Sở, một nhánh chảy
xuôi theo hướng Nam đổ vào sông Nhuệ. Đối với nhánh sông Tô Lịch chảy về
phía hồ Yên Sở, sông chảy qua địa phận của các thôn: Văn (xã Thịnh Liệt); Bằng
A, Bằng B (phường Hoàng Liệt); Huỳnh Cung, Tựu Liệt và Yên Ngưu (xã Tam
Hiệp). Tại khu vực thôn Yên Ngưu, sông lại tiếp tục rẽ thành 2 nhánh, một nhánh
chạy tiếp về hướng Đông đổ vào hồ Yên Sở, nhánh kia chạy theo hướng nam qua
địa phận các xã Tứ Hiệp, Vĩnh Quỳnh, Ngũ Hiệp (huyện Thanh Trì) và cuối cùng
cũng đổ vào sông Nhuệ.
2.1.2. Tình trạng ô nhiễm
Trước năm 1990, sông Tô Lịch là một vùng sinh thái lành mạnh. Trong
khoảng thời gian từ năm 1990 đến năm 1998 bắt đầu có hiện tượng ô nhiễm dần
dần. Đặc biệt từ năm 1998 cho đến nay thì tình trạng ô nhiễm đã trở nên trầm
trọng: nước có màu đen kịt, đặc quánh các chất hữu cơ; COD thường từ 150-350
mg/l; BOD từ 50-100 mg/l; nồng độ NH4+ thường từ 20-40 mg/l; nồng độ NO2-
thường thấp không đáng kể (dưới 1); nồng độ NO3
- dao động trong khoảng từ 1-10
mg/l, đôi khi vượt quá 15 mg/l; độ đục cao; coliform dao động từ 35.000-130.000
MNP (most probable number - số lượng chắc chắn nhất có thể)/100ml; độ pH
thường từ 7,5-8,5 do có quá nhiều amoniac tự do.
Sông Tô Lịch với tổng diện tích lưu vực vào khoảng 6.820 ha, hàng ngày
tiếp nhận một lượng nước thải đô thị từ 330.000-350.000 m3 vào mùa khô. Thành
phần nước thải sông Tô Lịch tiếp nhận hàng ngày bao gồm: nước thải sinh hoạt
(từ hoạt động sinh sống của hơn 3 triệu dân nội thành, từ hàng nghìn nhà hàng,
khách sạn, khu chợ…); nước thải công nghiệp (từ các nhà máy, xí nghiệp, doanh
nghiệp, cơ sở sản xuất với tất cả các loại hình như hóa chất, dệt may, thực phẩm,
cơ khí…); nước thải bệnh viện (từ các bệnh viện lớn và hàng trăm cơ sở dịch vụ y
tế đóng trên địa bàn thành phố Hà Nội). Loại hình và lưu lượng thải được thể hiện
ở bảng sau:
T Loại nước thải Lưu lượng
T m3/ngày %
1 Sinh hoạt 188,000 54.5
2 Công nghiệp và dịch vụ 150,000 43.5
3 Bệnh viện và các cơ sở
dịch vụ y tế
7,000 2.0
Tổng cộng: 345,000 100
Bảng 2.1. Loại và lượng nước thải của TP. Hà Nội
Nguồn: Sở khoa học - công nghệ và môi trường Hà Nội, 2001
Nước thải của TP. Hà Nội rất giàu chất dinh dưỡng, cùng với các chất gây ô
nhiễm như hóa chất độc hại, fecal coliforms, COD, BOD, chất rắn tổng số, NH4-N
và nhiều kim loại nặng như Ni, Cu, As và Pb.
2.1.3. Chất lượng nước tưới cho cây rau
Hàm lượng chất dinh dưỡng trong nước khá cao. Hàm lượng N, P, K cao
trong nước thải là nguồn cung cấp dinh dưỡng quan trọng cho cây rau trồng ở
Bằng B và các cánh đồng nằm dọc theo các sông dẫn nước thải đô thị Hà Nội. So
với TCVN 5942-1995 loại B, các chỉ tiêu N-NH4, N-NO2 trong nước tưới (nước
mặt) đều vượt nồng độ Nts và K trong nước của các ruộng rau, còn hàm lượng Pts
không khác nhau nhiều.
Hàm lượng của một số kim loại nặng trong nước tưới rau ở Bằng B như Chì
(Pb), Thủy ngân (Hg), Cadimi (Cd), Crôm (Cr) đều nằm trong giới hạn cho phép
theo TCVN 5942-1995 (loại B). Không có sự khác nhau nhiều về nồng độ của các
kim loại nặng trong nước của các kênh dẫn xi măng, kênh đất và các thửa ruộng
trồng rau.
Với thời gian nước sông (nước thải) lưu lại trong kênh dẫn và trong ruộng
sau rút một ngày , nồng độ các chất ô nhiểm đã giảm đi đáng kể . Độ đục giảm đi
2-3 lần BOD giảm từ 4-5 lần , COD giảm từ 14 đến gần 15 lần , N giảm 4-5 lần, K
giảm khoảng 1,5 lần. DO tăng đáng kể từ 3-8,6 lần .
2.2. Tình hình sử dụng nước thải từ sông Tô Lịch trong sản xuất rau tại
thôn Bằng B
2.2.1. Khái quát về thôn Bằng B
Vị trí địa lý
Bằng B là một trong 5 thôn (Pháp Vân, Tứ Kỳ, Linh Đàm, Bằng A, Bằng
B) của phường Hoàng Liệt, quận Hoàng Mai. Bằng B nằm cách trung tâm thành
phố Hà Nội khoảng 10km về phía Nam.
Hình 2.2. Bản đồ thể hiện vị trí của thôn Bằng B
Nguồn: Dự án Rubifarm
Điều kiện tự nhiên
Mang đặc điểm chung của khí hậu miền Bắc Việt Nam: nhiệt đới gió mùa
ẩm, mùa hè nóng, mưa nhiều và mùa đông, ít mưa, quanh nǎm tiếp nhận lượng
bức xạ Mặt trời rất dồi dào và có nhiệt độ cao. Có độ ẩm và lượng mưa khá lớn:
1,600 – 1,800 mm/năm, trung bình 114 ngày mưa một năm. Mùa mưa chính kéo
dài từ tháng 6 - 9, chiếm khoảng 80-90% tổng lượng mưa hàng năm.Mùa nóng
kéo dài từ tháng 5 tới tháng 9, kèm theo mưa nhiều, nhiệt độ trung bình 29,2ºC.
Từ tháng 11 tới tháng 3 năm sau là khí hậu của mùa đông với nhiệt độ trung bình
15,2ºC. Cùng với hai thời kỳ chuyển tiếp vào tháng 4 và tháng 10.
Điều kiện kinh tế xã hội
Tổng diện tích của thôn Bằng B là 537,543 m2, trong đó đất ở là 51,988 m2
chiếm 9,67%, còn lại là đất cho nông nghiệp chiếm đến hơn 90% (485,555 m2)
với 60% (291,600 m2) dùng cho trồng lúa; 24% trồng rau (117,000 m2); 4% diện
tích là các ao, hồ nuôi cá (19,800 m2); còn lại là cho các mục đích khác: kênh
mương, đê điều…
60%24%
4%
12%
lúa
rau
nuôi cá
khác
Hình 2.3. Biểu đồ thể hiện cơ cấu sử dụng đất nông nghiệp của thôn
Bằng B, 2002
Thôn Bằng B có 368 hộ gia đình với số dân là 1,381; trong đó 785 người
trong độ tuổi lao động (56.8%).
Có 303 hộ gia đình tham gia sản xuất nông nghiệp, trong đó 200 hộ dựa
hoàn toàn vào sản xuất nông nghiệp, còn lại là có nghề phụ khác: đồ gỗ, bán đồ
điện…
Thu nhập: Năm 2002, tổng thu nhập của thôn là 5.4 tỷ VNĐ, trong đó thu
nhập từ nông nghiệp là 1 307 125 000 đồng (chiếm gần 25%), từ hoạt động công
nghiệp, thủ công, thương mại, dịch vụ là 4 tỷ đồng.
25%
75%
nông nghiệp
công nghiệp và dịch vụ
Hình 2.4. Biểu đồ thể hiện cơ cấu thu nhập của thôn Bằng B năm 2002
Thu nhập từ trồng lúa năm 2002 là 361 triệu đồng, trồng rau và các loại ngũ
cốc là 650 triệu đồng, chăn nuôi lợn và gia cầm là 246 triệu đồng, cá là 50 triệu
đồng.
28%
19%
49%
4%
lúa
chăn nuôi
rau
cá
Hình 2.5. Biểu đồ thể hiện cơ cấu thu nhập từ các hoạt động nông nghiệp của
thôn Bằng B, 2002
2.2.2. Tình hình sử dụng nước thải trong sản xuất rau
Từ những năm 80 của thế kỷ trước, Hoàng Liệt đã từng là nơi cung ứng một
lượng lớn rau thường xuyên và uy tín sang thị trường Đông Âu và các nước thuộc
Liên Xô cũ. Ngày nay, đất canh tác của Hoàng Liệt đã giảm phần nhiều nhường
chỗ cho các công trình xây dựng nhà ở, may. Sau khi Nhà nước thu hồi đất làm dự
án khu đô thị X2 Bắc Linh Đàm (khoảng 10 ha) thì không chỉ diện tích đất canh
tác của Hoàng Liệt bị thu hẹp mà chính phần đất của dự án đang "bỏ hoang" cho
chuột bọ có chỗ lưu trú để phá hại lúa khiến bà con đều chuyển từ trồng lúa sang
trồng rau màu.
Diện tích cơ cấu cây trồng:
Tổng diện tích đất trồng rau của thôn là 120.000m2, trong đó diện tích rau
nước (rau sống trong môi trường nước, ngập liên tục với mực nước khoảng 5 –
25cm) chiếm tới 2/3 tổng diện tích (khoảng 80.000m2), phổ biến là rau rút, rau
muống, rau cần, rau cải xoong. Còn lại là các loại rau khô (rau sống liên tục trên
đất khô, nước chỉ được tưới để duy trì độ ẩm cho đất) như hành, rau cải xanh, rau
mùng tơi, ngải cứu, các loại rau thơm, rau diếp và rau xà lách.
Loại
rau
Tên rau Diện tích (m2)
Rau
nước
Rau rút 30.000
Rau muống 21.000
Rau cần 18.000
Rau cải xoong 12.000
Rau cạn Hành 9.000
Rau cải xanh 10.000
Rau mùng tơi 8.000
Ngải cứu 3.000
Rau diếp 2.000
Rau xà lách 2.000
Các loại rau thơm 6.000
Bảng 2.2. Các loại rau chính trồng tại thôn Bằng B
Nguồn: VESDI
Diện tích rau chiếm khá lớn trong tổng diện tích đất trồng trọt, đặc biệt diện
tích rau nước chiếm đáng kể (khoảng 70%). Vì vậy, nhu cầu dùng nước tưới là rất
lớn. 60% dân Hoàng Liệt sử dụng nước sông Tô Lịch cho mục đích nông nghiệp
và tới 45% trong số đó sử dụng để trồng trọt với hình thức chủ yếu là dùng máy
bơm (93%).
Tiêu thụ:
Rau trồng tại thôn bằng B được người dân bán trực tiếp cho người dùng
hoặc bán cho những người bán buôn bán lẻ khác. Các khu vực tiêu thụ rau của
thôn là: Tam Hiệp, Văn Điển, Mai Động, Long Biên, Tựu, Đông Xuân, Trương
Định, Linh Đàm, trong đó Mai Động là nơi tiêu thụ rau chính.
Cách thức sử dụng nước thải trong sản xuất nông nghiệp
Hình 2.6. Hướng di chuyển của nước thải đô thị tới khu vực sản xuất
Nước thải công nghiệp
Nước thải sinh hoạt
Nước thải bệnh viện
Thoát nước đô thị (cống, kênh, mương, hồ và các sông)
Hồ Yên Sở
3 sông (Kim Ngưu, Sét, Lừ)
Sông Tô Lịch hạ nguồn
Sông Tô Lịch (thượng
lưu)
Sông Nhuệ
Sông Hồng
Ao cá, cánh đồng lúa
và ruộng rau
Ao, cánh
đồng lúa,
ruộng rau
nông nghiệp
Nguồn: VESDI
Trạm bơm nằm giữa thôn Bằng A và Bằng B làm nhiệm vụ bơm nước sông
Tô Lịch vào hệ thống kênh, mương xi măng và mương đất để cấp nước cho các
thửa ruộng rau và lúa của 2 thôn. Trạm bơm được xây dựng từ năm 1980, với 2
máy bơm có công suất 1000m3/h và một máy bơm công suất 540m3/h. Hoạt động
của trạm bơm tùy thuộc vào thời tiết và yêu cầu của nông dân. Hệ thống kênh
mương có tổng chiều dài là 2400m làm nhiệm vụ dẫn nước vào và tiêu thoát nước
tháo ra từ các cánh đồng khi mưa lớn để tránh gây ngập úng. Nước được bơm sau
đó chảy qua các kênh dẫn đến các thửa ruộng; hoặc được người dân lấy trực tiếp
từ sông Tô Lịch; hoặc lấy từ các kênh dẫn bằng thùng chứa. Khối lượng nước tưới
được lấy từ sông Tô Lịch lên trong một năm là khoảng 700.000m3/năm, trung
bình một sào đất canh tác một năm sử dụng khoảng 600m3 nước tưới (nước thải).
Người nông dân phải trả phí thủy lợi là 900.000 – 940.000 đồng/ha/năm.
CHƯƠNG III: ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ VIỆC SỬ DỤNG NƯỚC
THẢI TỪ SÔNG TÔ LỊCH TRONG SẢN XUẤT RAU TẠI THÔN BẰNG B
3.1. Hiệu quả về tài chính
3.1.1. Xác định các chi phí
Chi phí trực tiếp, gồm:
- Chi phí phân bón
- Chi phí cho thuốc BVTV
- Phí thủy lợi
- Chi phí lao động
Ngoài ra đối với rau rút còn cần có chi phí cho các công cụ như dây, cọc.
Các số liệu sau đây được tổng hợp từ điều tra thực tế của tác giả tại thôn
Bằng B và từ kết quả nghiên cứu của dự án PAUSSA về kĩ thuật trồng một số loại
rau nước ở vùng ven đô Hà Nội (trang web của dự án: www.paussa.org)
Sau đây là bảng tính toán chi phí trực tiếp (chưa tính phí thủy lợi) trung
bình/1 sào (360m2) cho từng loại rau trong một vụ:
Rau rút
Được trồng từ tháng đầu tháng 4 đến tháng 9, trung bình một vụ được 3 lứa.
Lứa đầu tiên cấy phải mua giống, những lứa sau có thể hái các nhánh con để cấy
lại.
Hạng mục Đơn vị Lượng Đơn giá (VNĐ) Chi phí (VNĐ)
Giống ngọn 1000 4.000 4.000.000
Đạm kg 6 8.000 48.000
Dây cân 1 35.000 35.000
Cọc 30.000
Lao động ngày 90 30.000 2.700.000
Tổng 6.813.000
Rau muống
Được trồng từ tháng 3 đến tháng 12, trung bình một vụ 10 lứa, sau 5 lứa thu
hoạch có thể làm đất và cấy lại.
Hạng mục Đơn vị Lượng Đơn giá (VNĐ) Chi phí (VNĐ)
Giống mớ 200 2.000 400.000
Đạm kg 50 8.000 400.000
Lân kg 200 4.000 800.000
Thuốc BVTV lọ 10 10.000 100.000
Lao động ngày 150 30.000 4500.000
Tổng 7.800.000
Rau cần
Được trồng từ tháng 9 đến tháng 3 năm sau, trung bình 3 lứa 1 vụ, xong
mỗi lứa đều phải làm đất và cấy lại.
Hạng mục Đơn vị Lượng Đơn giá (VNĐ) Chi phí (VNĐ)
Giống mớ 300 2.000 600.000
Sừng kg 60 2.500 150.000
Lân kg 15 4.000 60.000
NPK kg 60 10.000 600.000
Thuốc BVTV lọ 5 10.000 50.000
Lao động ngày 45 30.000 1.350.000
Tổng 2.810.000
Rau cải xoong
Rau cải xoong được trồng từ tháng tháng 9 đến tháng 3 năm sau, trung bình
4 lứa một vụ, sau mối lần thu hoạch phải làm đất và cấy lại.
Hạng mục Đơn vị Lượng Đơn giá (VNĐ) Chi phí (VNĐ)
Giống mớ 400 3.000 1.200.000
Đạm kg 12 8.000 96.000
Lân kg 80 4.000 320.000
Thuốc BVTV lọ 4 10.000 40.000
Lao động ngày 60 30.000 1.800.000
Tổng 3.456.000
Tổng hợp chi phí:
Loại rau Tổng diện tích
(m2)
Chi phí (VNĐ)/1sào
(360m2)
Tổng chi phí
(VNĐ)
Rau rút 30.000 6.813.000 567.750.000
Rau muống 21.000 7.800.000 455.000.000
Rau cần 18.000 2.810.000 140.500.000
Rau cải xoong 12.000 3.456.000 115.200.000
Tổng 81.000 1.278.450.000
Người dân phải nộp phí thủy lợi là 900.000 VNĐ/ha (10.000m2)/năm. Với
tổng diện tích của 4 loại rau nước là 81.000 m2 thì tổng phí thủy lợi nông dân phải
trả trong một năm là:
81.000*900.000/10.000 = 7.290.000 VNĐ
Vậy, tổng chi phí trực tiếp cho cả 4 loại rau trong 1 vụ (cũng là trong 1
năm) cho toàn thôn là:
1.278.450.000 + 7.290.000 = 1.285.740.000 VNĐ
Chi phí gián tiếp: Chi phí sức khỏe
Đối với các bệnh về da:
Nước thải đô thị (nước sông Tô Lịch, nước hồ Yên Sở...) là nước có chứa
các chất ô nhiễm với nồng độ rất lớn, vượt TCCP (TCVN 5942-1995). Các chất ô
nhiễm như các hóa chất độc hại (xút, váng sơn dầu) và vi khuẩn (coliform) có
trong nước thải thường dễ gây các bệnh ngoài da, thối móng tay, móng chân.
Để phòng tránh, chữa trị các bệnh ngoài da, người dân thường sử dụng các
biện pháp sau:
- Đi ủng, đeo găng tay khi làm việc, nhưng không thường xuyên, hoặc chỉ
đi ủng mà không đeo găng tay do bất tiện.
Thời gian Đi ủng Đi giày Đeo găng tay Tổng
3/2005 202 (84%) 1 (0,4%) 139 (57%) 242 (100%)
9/2005 170 (66%) 1 (0,4%) 97 (38%) 257 (100%)
12/2005 209 (81%) 0 124 (48%) 259 (100%)
Trung bình cả năm (581) 77% (2) 0% (360) 48% 758 (100%)
Bảng 3.1. Thống kê các biện pháp bảo vệ sức khỏe của nông dân
phường Hoàng Liệt
Nguồn: VESDI, 2005
Với 200 hộ tham gia sản xuất, trung bình một hộ có một lao động thường
xuyên, ủng trung bình 1 năm 1 đôi, găng tay 1 năm 2 đôi, thì số lượng ủng, găng
tay tiêu thụ trong một năm là:
Số lượng ủng = 77% * 200 = 154
Số lượng găng tay = 48% * 200 * 2 = 192
Với giá của 1 đôi ủng trung bình là 30.000 VNĐ, 1 đôi găng tay là 7.000
VNĐ thì chi phí cho ủng và găng tay 1 năm là:
154 * 30.000 + 192 * 7.000 = 5.964.000 VNĐ
- Tự chữa bằng các cách đơn giản như xát chanh, quất, cây cỏ lên tay chân,
rửa bằng xà phòng, ngâm tay chân vào nước phèn sau khi đi làm về, hoặc nếu
nặng hơn thì có thể mua thuốc mỡ để bôi.
Các bệnh về da tuy gây khó chịu và dai dẳng, nhưng không phải là bệnh
nghiêm trọng nên người dân thường không đến các cơ sở y tế để chữa trị. Do đó
không có thống kê về chi phí một cách chính thức. Tuy nhiên, có thể ước lượng
như sau:
+ 1 tuyp thuốc giá 10.000 VNĐ dùng trong 1 năm
+ Chi phí cho chanh, quất, phèn trung bình 20.000 VNĐ/1 năm
Như vậy, chi phí đối với bệnh ngoài da là 30.000 VNĐ/1 người/1 năm
Để tính được tổng chi phí, ta cần có số liệu về số nông dân mắc các bệnh về
da liên quan đến sử dụng nước thải cho sản xuất nông nghiệp. Chuyên đề này sử
dụng kết quả điều tra của dự án PAUSSA về tỉ lệ mắc các bệnh về da đối với nông
dân ở Hoàng Liệt (là nơi sử dụng nước thải) và Long Biên (không sử dụng nước
thải).
Thời gian Số người Tổng
3/2005 24 (20,2%) 119 (100%)
9/2005 33 (26%) 127 (100%)
12/2005 21 (16,2%) 130 (100%)
Trung bình cả
năm
78 (20,8%) 376 (100%)
Bảng 3.2. Tình hình mắc các bệnh về da đối với nông dân tại
Hoàng Liệt
Nguồn: VESDI, 2005
Với 200 hộ tham gia sản xuất nông nghiệp, trung bình một hộ có một người
sản xuất chính, thì số nông dân bị mắc bệnh về da do sử dụng nước thải là:
200 * 20,8% = 42 người
Tổng chi phí để chữa trị các bệnh ngoài da trong 1 năm là:
42 * 30.000 = 1.260.000 VNĐ
Chi phí trên chưa tính đến sự khó chịu khi mắc bệnh, cũng như thời gian
nghỉ lao động tránh tiếp xúc với nước thải.
Các bệnh hô hấp, tiêu hóa:
Theo kinh nghiệm của người dân, nước thải mới được bơm lên từ sông Tô
Lịch có màu đen, màu hồng nhạt hoặc có bọt trắng, nồng độ H2S cao gây mùi khó
chịu, khó thở, tức ngực cho người nông dân khi ở gần. Tuy nhiên, càng về các
thửa ruộng ở cuối mương, xa trạm bơm, hoặc thời gian nước lưu trong mương,
ruộng càng lâu thì tác động này càng được giảm nhẹ.
Nếu nông dân không vệ sinh sạch sẽ sau khi đi làm về thì sẽ có khả năng
mắc các bệnh về tiêu hóa do nhiễm các loại giun sán.
Chưa có số liệu thống kê về bệnh hô hấp cũng như các bệnh về đường ruột
do sử dụng nước thải trong canh tác nông nghiệp.
Nghiên cứu của DANIDA không chứng minh được nguy cơ gia tăng đối
với bệnh nhiễm giun sán từ việc phơi nhiễm với nước thải trong điều kiện sản xuất
nông nghiệp tại Nam Định. Hâu hết những người nhiễm giun sán đều xuất xứ từ
nhóm có điều kiện kinh tế - xã hội thấp, các hộ gia đình có điều kiện vệ sinh
không phù hợp và thói quen vệ sinh kém. Thậm chí trong trường hợp giun đũa,
giun tóc, nhóm điều tra còn thu được kết quả là nhóm người tiếp xúc thường
xuyên với nước thải có tỷ lệ nhiễm giun đũa thấp hơn nhiều so với những người
không tiếp xúc nước thải, còn đối với giun móc thì không có sự khác biệt nào.
Như vậy, mối quan hệ giữa việc gia tăng các bệnh về tiêu hóa đối với việc
sử dụng nước thải trong nông nghiệp là không rõ ràng.
Tổng chi phí gián tiếp trong 1 năm đối với tất cả nông dân của thôn là:
5.964.000 + 1.260.000 = 7.224.000 VNĐ
Vậy, tổng chi phí tài chính trong 1 năm là:
1.285.740.000 + 7.224.000 = 1.292.964.000 VNĐ
3.1.2. Xác định lợi ích
Lợi ích tài chính chính là thu nhập của người nông dân. Ta có bảng thu
nhập cho các loại rau trong 1 vụ (1 năm):
Loại rau Tổng diện
tích (m3)
Thu nhập
(VNĐ)/360m3/năm
Tỏng thu
nhập (VNĐ)
Rau rút 30.000 24.000.000 2.000.000.
000
Rau muống 21.000 12.000.000 700.000.0
00
Rau cần 18.000 3.600.000 180.000.0
00
Rau cải
xoong
12.000 4.800.000 160.000.0
00
Tổng 3.040.000.
000
3.1.3. Tính toán hiệu quả tài chính
Hiệu quả tài chính (HQTC) = Lợi ích tài chính – Chi phí tài chính
HQTC = 3.040.000.000 - 1.292.964.000 = 1.747.036.000 VNĐ
Như vậy, doanh thu của tất cả các hộ nông dân trong thôn Bằng B có được
từ trồng rau trong 1 năm là 1.747.036.000 VNĐ
Doanh thu > 0 chứng tỏ nông dân có lợi khi trồng rau sử dụng nước thải
làm nước tưới.
3.2. Hiệu quả kinh tế
3.2.1. Xác định chi phí
Ngoài các chi phí tài chính như trên, khi xem xét trên góc độ xã hội thì việc
sản xuất rau sử dụng nước thải còn có những chi phí như sau:
Chi phí đối với người tiêu dùng: chi phí sức khỏe
Nhiễm kim loại nặng:
Hiện nay, chưa có thống kê về số lượng người mắc bệnh do ăn rau bị
nhiễm kim loại nặng. Tuy nhiên, theo kết quả phân tích hóa học của Viện Công
nghiệp Thực phẩm (Bộ Công nghiệp) và của Viện Nông hóa Thổ nhưỡng (NISF)
cho thấy trong rau trồng ở Bằng B có chứa kim loại nặng nhưng hàm lượng của
chúng đều nằm trong TCCP của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (1998)
và của Bộ Y tế (1998)
Các bệnh đường ruột:
Theo nghiên cứu của Tôn Thất Bách và cộng sự (1996) trong nước thải và
bùn cặn của nó của các loại vi khuẩn gây bệnh, trứng giun sán. Trong 1 lít nước
thải có khoảng 7.000 vi khuẩn Salmonella, 6.000-7.000 vi khuẩn Shigella và 1.000
vi khuẩn Vibro cholera. Các loại trứng giun sán như Ancylostoma, Trichuris và
Taenia có thể tồn tại đến 1,5 năm.
Người ăn rau được trồng bằng nước thải đô thị có thể mắc bệnh đường ruột
như ỉa chảy, đau bụng nếu rau không được rửa sạch, khử trùng và nấu chín. Tuy
nhiên, cũng chưa có thống kê nào về các trường hợp này.
Chuyên đề sử dụng phương pháp CVM, hỏi về sẵn lòng chi trả đối với rau
dùng nước tưới là nước thải chưa qua xử lý tại các khu vực tiêu thụ rau chính của
thôn Bằng B (Mai Động, Trương Định, Linh Đàm...) và cả tại thôn Bằng B để tính
toán thiệt hại về sức khỏe, tinh thần (lo ngại khi ăn rau được tưới bằng nước thải)
đối với người tiêu dùng. Số lượng mẫu chọn là 50 người.
Kết quả phỏng vấn về WTP được nhập vào Exel, thực hiện lệnh Average
với cột chứa giá trị của WTP, ta có kết quả: trung bình một người dân sẵn lòng trả
cao hơn 1.200 đ/1kg cho rau không tưới bằng nước thải. Những người có thu nhập
cao sẵn lòng chi trả nhiều hơn, những người sống tại nơi sử dụng nước thải trong
sản xuất rau thì có xu hướng chi trả thấp hơn vì (theo như ý kiến của họ) hàng
ngày họ vẫn sử dụng các loại rau do chính họ hoặc những người trong thôn sản
xuất mà không thấy tác động xấu nào.
Với năng suất rau đạt khoảng 237 tạ/ha (năm 2004), với tổng diện tích
81.000 m2 (8,1 ha) rau nước, thì tổng khối lượng rau tiêu thụ là:
8,1 * 237 = 1.919,7 tạ = 1.919.700 kg
Tổng sẵn lòng trả là:
1.919.700 * 1.200 = 2.303.640.000 VNĐ
Như vậy, chi phí đối với người tiêu dùng trong 1 năm là 2.303.640.000
VNĐ.
Các chi phí môi trường
Đây là các chi phí rất khó lượng giá.
Tác động của việc sử dụng nước thải lên chất lượng đất
- Về hàm lượng các kim loại nặng trong đất:
Kết quả phân tích chất lượng đất cho thấy nồng độ của một số kim loại
nặng như Pb, Hg, Cd có trong đất trồng rau ở Bằng B đều thấp hơn TCCP (TCVN
7209-2002).
Sự khác biệt về hàm lượng kim loại nặng trong đất ở các thửa ruộng rau
nhận trực tiếp hoặc gián tiếp nước thải, ở các ruộng nằm xa hoặc gần nguồn nước
tưới, ở các ruộng được tưới ngập và các ruộng cạn là rất nhỏ, không đáng kể.
Nhìn chung, kim loại nặng tích tụ làm giảm năng suất rau, đồng thời làm
tích tụ kim loại nặng trong rau gây tác động không tốt đến sức khỏe người tiêu
dùng.
- Hàm lượng các chất dinh dưỡng trong đất:
Theo khảo sát của VESDI, trong tất cả các mẫu đất, hàm lượng Nts, Pts là
giàu, Kts trung bình. Hàm lượng chất dinh dưỡng cao có được nhờ sử dụng nước
thải làm tăng năng suất cây trồng.
Nhận xét sơ bộ về quan hệ giữa các hàm lượng dinh dưỡng, kim loại nặng
trong nước và trong đất tại thôn Bằng B:
Hàm lượng dinh dưỡng, kim loại nặng trong nước tỷ lệ thuận
với hàm lượng dinh dưỡng, kim loại nặng có trong đất.
Hàm lượng dinh dưỡng, kim loại nặng trong đất gia tăng theo
thời gian và các lần xả nước vào ruộng.
Không có sự khác biệt đáng kể về giá trị hàm lượng dinh
dưỡng, kim loại nặng trong nước và đất ở các thửa ruộng rau khác nhau về vị trí,
tiếp nhận nước.
Tác động lên nước ngầm:
Việc lưu nước thải trên hệ thống kênh mương, ruộng có thể gây ảnh hưởng
đến chất lượng nước ngầm. Đây là tác động lâu dài khó kiểm soát và đo lường.
Việc làm lan rộng ô nhiễm nước ngầm có thể gây ảnh hưởng đến sức khỏe các hộ
gia đình đang sử dụng nước khoan; các hộ đang sử dụng nước khoan có thể phải
chuyển hoàn toàn sang sử dụng nước máy.
Tác động lên môi trường không khí:
Quá trình bơm nước thải lên cũng như quá trình nước thải chảy về các
ruộng theo hệ thống kênh mương có thể làm lan truyền ô nhiễm không khí, nhưng
đây chỉ là ảnh hưởng mang tính chất cục bộ, thời điểm. Nước mới được bơm lên
từ sông Tô Lịch khiến người nông dân cảm thấy khó thở và tức ngực khi ở gần.
Tuy nhiên, nước chỉ được bơm khoảng 10 ngày 1 lần, nước sau khi lưu trên kênh
mương khoảng 1, 2 ngày thì mùi của nước đã giảm đi đáng kể.
3.2.2. Xác định lợi ích
Tương tự, ngoài các lợi ích tài chính như trên thì còn có các lợi ích về môi
trường và xã hội:
- Trung bình 1 ha 1 năm sử dụng 600 m3 nước, thì với tổng diện tích canh
tác 4 loại rau nước là 81.000 m2, lượng nước thải 1 năm tái sử dụng được:
81.000*600/10.000 = 4.860 m3
Cũng như giảm được một lượng tiêu thụ nước mới là 4.860 m3.
Với đơn giá hiện thời, chi phí để xử lý nước thải của Hà Nội khoảng 1,5 tỷ
đồng/ngày/500.000 m3 nước thải (Theo Báo Hà Nội mới, Môi trường ở Hà Nội bị
ô nhiễm nghiêm trọng: Làm gì? (kỳ 2), 07/04/2009). Như vậy, với 4.860 m3 nước
thải không phải xử lý thì thành phố đã tiết kiệm được:
4.860*1,5 tỷ/500.000 = 14.580.000 VNĐ
- Tạo cảnh quan sinh thái lành mạnh: Các ruộng rau cũng là một hệ sinh
thái giúp điều hòa khí hậu, điều tiết nước ngầm, mang lại những giá trị giải trí cho
người dân thành phố - nhất là trong điều kiện đất đai ngày càng bị thu hẹp,
nhường chỗ cho các công trình xây dựng như hiện nay.
- Tạo công ăn việc làm cho nông dân: hoạt động sản xuất rau đang tạo ra
công ăn việc làm thường xuyên cho 200 hộ gia đình, góp phần đáng kể vào cải
thiện thu nhập cho người dân. Trong điều kiện giá sinh hoạt đắt đỏ tại thành phố
thì nguồn thu nhập đó lại càng trở nên quan trọng, góp phần xóa đói giảm nghèo
cho nhiều dân nghèo đô thị.
- Đảm bảo an ninh lương thực cho thành phố, đồng thời là nguồn cung cấp
rau giá rẻ phù hợp với người có thu nhập trung bình – thấp tại Hà Nội.
3.2.3. Tính toán hiệu quả kinh tế
Hiệu quả kinh tế (HQKT) = Lợi ích kinh tế - Chi phí kinh tế
Với lợi ích kinh tế theo tính toán là:
3.040.000.000 + 14.580.000 = 3.054.580.000 VNĐ
Chi phí kinh tế là:
1.292.964.000 + 2.303.640.000 = 3.596.604.000 VNĐ
Như vậy:
HQKT = 3.054.580.000 - 3.596.604.000 = - 542.024.000 VNĐ
HQKT < 0 chứng tỏ hoạt động sản xuất rau sử dụng nước thải từ sông Tô
Lịch của thôn Bằng B không mang lại hiệu quả kinh tế, mặc dù mang lại hiệu quả
tài chính.
Kết luận và kiến nghị
Việc sử dụng nước thải trong sản xuất giúp tận dụng các chất dinh dưỡng
có trong nước thải, góp phần làm giảm gánh nặng về phân bón cho người nông
dân, từ đó tăng thu nhập cũng như tăng hàng loạt các phúc lợi khác kèm theo ; hạn
chế ô nhiễm môi trường do xả nước thải, góp phần thanh lọc một lượng nước thải
lớn; tiết kiệm được nước ngọt phải khai thác từ nguồn (sông Hồng). Tuy nhiên,
trong nước thải còn chứa các thành phần nguy hiểm: các mềm bệnh, các chất độc
hại (kim loại nặng, chất hữu cơ khó phân hủy…) ảnh hưởng đến sức khỏe người
sản xuất cũng như người tiêu dùng, và tác động xấu đến môi trường đất, nước
ngầm, không khí.
Chuyên đề đã khái quát được tình hình sử dụng nước thải trong sản xuất
nông nghiệp trên thế giới và tại Việt Nam trong chương 1, nêu lên tình hình thực
tế tại thôn Bằng B, và cố gắng lượng giá các chi phí và lợi ích của việc sản xuất
rau sử dụng nước thải làm nước tưới nhằm tính toán các hiệu quả tài chính và hiệu
quả kinh tế. Theo đó, đứng trên góc độ người dân thì việc sản xuất rau sử dụng
nước thải hoàn toàn mang lại hiệu quả. Nhưng khi xem xét trên góc độ xã hội, có
tính đến cả lợi ích chi phí xã hội và môi trường thì hoạt động này lại mang hiệu
quả âm (không hiệu quả).
Tuy nhiên, do trình độ có hạn, chuyên đề chưa lượng giá được hết các tác
động về khia cạnh xã hội và môi trường của hoạt động sản xuất, nên có thể kết quả
chưa được chinh xác. Rất mong nhận được ý kiến đóng góp để hoàn thiện đề tài.
Nhằm giảm thiểu những tác động có hại, tăng cường những tác động có lợi,
chuyên đề đưa ra một số kiến nghị sau:
- Tiến hành nghiên cứu đề xuất cách bón phân hợp lí nhất
để tận dụng tối đa các chất dinh dưỡng có trong nước thải.
- Nước trước khi sử dụng nên để lưu một thời gian trên
kênh, mương nhằm giảm tính độc hại
- Hạn chế tưới nước thải trong mùa thu hoạch
- Áp dụng kĩ thuật tưới phù hợp: tưới nhỏ giọt, tưới
ngầm, tưới vòi phun thay cho tưới bằng kênh hay tưới tràn.
- Người nông dân cần tích cực thực hiện các biện pháp
bảo vệ sức khỏe: dùng đồ bảo hộ khi lao động: đi ủng, đeo găng tay,
khẩu trang, vệ sinh sạch sẽ sau khi lao động.
- Người tiêu dùng cần thực hiện đúng các nguyên tắc về
an toàn vệ sinh thực phẩm: rửa sạch, khử trùng, nấu chín rau trước
khi ăn, hạn chế ăn rau sống, nếu ăn thì rau phải được khử trùng sạch
sẽ.
- Nghiên cứu các biện pháp giảm thiểu tác động tiêu cực
của nước thải: xây dựng hồ sinh học…
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Bộ môn Kinh tế tài nguyên và môi trường, Khoa Kinh tế phát triển, trường
ĐH Kinh tế TP HCM. Nhập môn phân tích lợi ích – chi phí. NXB Đại học Quốc
gia, TP HCM, 2003.
Barry Field & Nancy Olewiler. Kinh tế môi trường.
Báo cáo của dự án PAUSSA về Quy trình sản xuất rau nước ở 4 thành phố
Đông Nam Á
Chủ biên: PGS.TS. Nguyễn Bạch Nguyệt, Giáo trình lập dự án đầu tư.
NXB Thống kê, Hà Nôi, 2005.
Liqa Raschid-Sally, Jens Raunso Jensen, Nguyễn Công Vinh. Tái sử dụng
nước thải trong nông nghiệp ở Việt Nam. NXB Nông nghiệp, 2006
Viện Môi trường và Phát triển bền vững. Hướng dẫn về công cụ hỗ trợ
quyết định trong sử dụng hợp lý nước thải đô thị vào canh tác rau ở các vùng
ngoại thành thành phố Hà Nội, 6/2006
Các trang wep:
1. www.paussa.org
2. www.nea.gov.vn
3. www.vietnamnet.com
4. www.hanoimoi.com.vn
PHỤ LỤC
Bảng phỏng vấn
Hiện nay, một số khu vực trồng rau ở ngoại thành Hà Nội sử dụng nước
thải chưa qua xử lý làm nước tưới. Theo khảo sát của một số nhà khoa học, nước
tưới lấy từ sông Tô Lịch chứa khuẩn e.coli (loại khuẩn gây các bệnh tiêu chảy,
đường ruột…) cao gấp 10 – 100 lần và trứng giun cao gấp 10-100 lần so với giới
hạn cho phép của tổ chức y tế thế giới WHO. Điều này dẫn đến chất lượng của
những loại rau tưới bằng nước sông Tô Lịch không được đảm bảo. Người dân có
thể mắc các bệnh về đường ruột, tiêu hóa khi ăn các loại rau này. Những câu hỏi
sau đây được thiết kế nhằm nhằm phục vụ cho báo cáo chuyên đề tốt nghiệp,
ngoài ra không còn mục đích nào khác, rất mong nhận được sự hợp tác của quý vị!
1. Ông (bà) thường xuyên mua rau ở đâu?
a. Chợ gần nhà
b. Người quen
c. Cửa hàng rau sạch, siêu thị (mời chuyển sang câu 7)
2. Ông (bà) thường lựa chọn rau như thế nào?
……………………………………………………………………………
3. Ông (bà) có quan tâm rau được tưới bằng nguồn nước nào khi
lựa chọn rau hay không?
a. Có
b. Không
4. Ông (bà) có biết sử dụng rau được tưới bằng nước thải chưa
qua xử lý tác động đến sức khỏe như thế nào hay không?
a. Có, đó là …..
b. Không
5. Nếu biết là rau sử dụng nước thải chưa qua xử lý để tưới thì
ông (bà) có mua hay không?
a. Có, vì …..
b. Không
6. Trong trường hơp hai loại rau được trồng với kĩ thuật như
nhau (cách bón phân, dùng thuốc bảo vệ thực vật), ông (bà) có sẵn lòng trả
giá cao hơn cho rau được tưới bằng nước sạch so với rau tưới bằng nước
thải chưa qua xử lý?
a. Có (mời chuyển sang câu 7)
b. Không, vì….
Nếu a. mời chuyển sang câu 7
7. Ông (bà) sẵn lòng trả cho rau tưới bằng nước sạch cao hơn bao
nhiêu so với rau tưới bằng nước thải không qua xử lý?
a. 500 đ
b. 1000 đ
c. 1500 đ
d. 2000 đ
e. 2500 đ
f. 3000 đ
g. Số khác ………
Và sau đây là một số thông tin mong quý vị cung cấp để đảm bảo tính tin
cậy cho khảo sát.
Tên: Tuổi:
Nghề nghiệp: Nơi ở:
Thu nhập bình quân/năm:
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- lv_moi_truong_19__0078.pdf