Luận văn Đánh giá thực trạng đạo đức kinh doanh của các doanh nghiệp tại Việt Nam

Chúng ta cần ý thức rằng, không có ranh giới cố định nào đạo đức mà đạo đức là một phạm trù mà con người luôn cần vươn lên để đạt đến nó. Rất khó kiểm soát đạo đức vì nó vượt xa hơn việc tuân thủ pháp luật rất nhiều. Với đạo đức kinh doanh, vấn đề còn phức tạp hơn vì việc tuân thủ đạo đức trong ngắn hạn thường không đem lại lợi nhuận cho doanh nghiệp, trong khi lợi nhuận mới là mục đích chính của doanh nghiệp. Vì vậy, các cơ quan hữu quan cần có những biện pháp để khuyến khích doanh nghiệp có thành tích trong đạo đức kinh doanh như trong các giải Sao Vàng Đất Việt, Bông Hồng Vàng có thể đưa việc có thành tích trong đạo đức kinh doanh là một tiêu chuẩn để xét. Các cơ quan thông tin đại chúng có thể đăng bài tôn vinh những doanh nghiệp đạt tiêu chuẩn này

pdf36 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 7115 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Đánh giá thực trạng đạo đức kinh doanh của các doanh nghiệp tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
vấn đề bảo vệ người lao động. Người lao động có quyền làm việc trong một môi trường an toàn. Mặt khác xét từ lợi ích, khi người làm công bị tai nạn, rủi ro thì không chỉ ảnh hưởng xấu đến bản thân họ mà còn tác động đến vị thế cạnh tranh của công ty. Tuy nhiên, việc cung cấp những trang thiết bị an toàn cho người lao động (hệ thống cứu hỏa, dây an toàn, găng tay và ủng cách điện cho thợ điện, đèn và đèn pha cho thợ mỏ), chi phí cho tập huấn và phổ biến về an toàn lao động,... đôi khi cũng tốn kém nguồn lực và thời gian nên một số công ty không giải quyết thấu đáo, dẫn đến người lao động gặp rủi ro, điều này đáng lên án về mặt đạo đức. Các vấn đề còn tồn đọng về đạo đức kinh doanh đối với người lao động tại các doanh nghiệp Việt Nam Không trang bị đầy đủ các trang thiết bị an toàn lao động cho người lao động, cố tình duy trì các điều kiện nguy hiểm và không đảm bảo sức khỏe tại nơi làm việc. Đánh giá thực trạng đạo đức kinh doanh của các doanh nghiệp tại Việt Nam GVHD: Trương Hòa Bình - 13- SVTH: Trần Văn Thiết Che dấu thông tin về mối nguy hiểm của công việc, làm ngơ trước một vụ việc có thể dự đoán được và có thể phòng ngừa được. Bắt buộc người lao động thực hiện những công việc nguy hiểm mà không cho phép họ có cơ hội từ chối, bất chấp thể trạng, bất chấp khả năng và năng lực của họ. Không phổ biến kỹ lưỡng các quy trình, quy phạm sản xuất và an toàn lao động cho người lao động. Không thường xuyên kiểm tra các thiết bị an toàn lao động để đề ra các biện pháp khắc phục. Không thực hiện các biện pháp chăm sóc y tế và bảo hiểm. Không tuân thủ các quy định của ngành, quốc gia, quốc tế về an toàn. Bảo vệ người lao động còn liên quan đến một vấn đề đạo đức rất nhạy cảm đó là vấn đề quấy rối tình dục nơi công sở. Đó là hành động đưa ra những lời tán tỉnh không mong muốn, những lời gạ gẫm quan hệ tình dục và các hành vi, cử chỉ, lời nói mang bản chất tình dục ở công sở, làm ảnh hưởng một phần hoặc hoàn toàn đến công việc của một cá nhân và gây ra một môi trường làm việc đáng sợ, thù địch hoặc xúc phạm. Kẻ quấy rối có thể là cấp trên của nạn nhân, đại diện của cấp trên, giám sát viên trong một lĩnh vực khác hoặc là một đồng nghiệp.  Thuế Tiền thuế được thu để phục vụ trở lại xã hội và duy trì bộ máy nhà nước để quản lý và phục vụ xã hội. Do đó, hành vi trốn thuế dù dưới bất kỳ hình thức nào thì cũng đã vi phạm "đạo đức kinh doanh", chỉ có điều là nhiều hay ít. Còn trốn thuế như thế nào thì nó muôn hình vạn trạng, vụ mới nhất là ô tô VAN, nếu để nguyên chiếc thì chịu thuế ngất trời vì là xe hơi, nhưng nhà nhập khẩu chỉ cần tháo 1 chiếc ghế ra thì đã biến nó thành xe tải, được hưởng thuế ưu đãi. Ngoài trốn thuế như đã nêu trên thì tránh thuế là hành vi cũng liên quan tới vấn đề đạo đức kinh doanh. Một số hành vi gian lận thuế có thể kể tới như : + Gian lận sổ sách bằng cách tạo ra 2 hệ thống ghi + Trả lương bằng tiền mặt. Khi trả lương bằng tiền mặt thì không thể ghi nhận được các hoạt động này và thu nhập không phải báo cho thanh tra thuế. Đánh giá thực trạng đạo đức kinh doanh của các doanh nghiệp tại Việt Nam GVHD: Trương Hòa Bình - 14- SVTH: Trần Văn Thiết + Trao đổi hiện vật, khi trao đổi bằng hiện vật thì theo luật vẫn phải đánh thuế nhưng người ta ít khai báo dạng thu nhập này do khó theo dõi quy mô. Bằng việc làm khó các thanh tra thuế, hành vi tránh thuế được thực hiện. Ngoài ra còn có việc sử dụng các tài khoản ngân hàng không chính thức, rửa tiền, hoặc phân bổ vào các nguồn thu nhập không chính thức khác. 1.2 CÁC VẤN ĐỀ NẢY SINH TRONG ĐẠO ĐỨC KINH DOANH 1.2.1 Mối quan hệ giữa doanh nghiệp với khách hàng và xã hội 1.2.1.1 Thương hiệu doanh nghiệp và khách hàng Từ trước đến nay các nghiên cứu sự trung thành của khách hàng ở các nước cũng như ở Việt nam mới chỉ đánh giá sự trung thành về hành vi và nó không thể giải thích mối quan hệ bất đối xứng giữa sự thoả mãn và sự trung thành như: tại sao một khách hàng thoả mãn không phải lúc nào cũng trung thành và tại sao một khách hàng không thoả mãn đôi khi lại trung thành? Câu trả lời là thiếu sự cam kết. Một số nghiên cứu vài năm gần đây đã đề cập khái niệm sự cam kết như là yếu tố tâm lý phản ánh sức mạnh mối quan hệ khách hàng với thương hiệu và đo lường sự trung thành dựa trên sự cam kết giúp đánh giá thái độ và dự báo hành vi khách hàng trong tương lai. Các mô hình trung thành dựa trên sự cam kết bao gồm các yếu tố về liên kết chức năng ( sự thỏa mãn về chất lượng sản phẩm/dịch vụ) và liên kết cá nhân ( thuộc tâm lý như sự tín nhiệm, tình cảm) trong đó mức độ quan hệ tương tác giữa hành vi khách hàng và hành vi thương hiệu tạo nên chất lương quan hệ. Chất lượng quan hệ khách hàng-thương hiệu là nguyên nhân quyết định sức mạnh các liên kết chức năng và liên kết cá nhân. Mà thương hiệu là cái đi sâu vào tâm trí khách hàng cần được nuôi dưỡng và thông qua đạo đức kinh doanh của doanh nghiệp Đánh giá thực trạng đạo đức kinh doanh của các doanh nghiệp tại Việt Nam GVHD: Trương Hòa Bình - 15- SVTH: Trần Văn Thiết Hành vi thương hiệu Điều kiện quan hệ Cam kết gắn bó Hành vi khách hàng Tương tác thương hiệu và khách hàng Mô hình nghiên cứu thương hiệu và khách hàng Trong bối cảnh thị trường Việt nam đang trong giai đoạn chuyển từ bao cấp, độc quyền sang cạnh tranh mãnh liệt trong một nền kinh tế thị trường, việc giữ chân khách hàng là nhiệm vụ sống còn của các nhà cung cấp. 1.2.1.2 Doanh nghiệp và xã hội Khi cạnh tranh thương trường ngày càng khốc liệt, những yêu cầu, đòi hỏi từ khách hàng ngày càng cao và xã hội do đó có cái nhìn ngày càng khắt khe hơn đối với doanh nghiệp về bổn phận, trách nhiệm trước cộng đồng, xã hội thì các doanh nghiệp muốn phát triển bền vững phải luôn tuân thủ không chỉ những chuẩn mực về bảo đảm sản xuất - kinh doanh phải có lợi nhuận, thậm chí siêu lợi nhuận mà cả những chuẩn mực về bảo vệ môi trường thiên nhiên, môi trường lao động, về thực hiện bình đẳng giới, an toàn lao động, quyền lợi lao động, quyền lợi đào tạo và phát triển của nhân viên, góp phần phát triển cộng đồng, bao hàm cả các hoạt động thực hiện an sinh xã hội như nhân đạo, từ thiện… Cụ thể tất cả nội dung trên trong thời hội nhập toàn cầu hoá kinh tế hiện nay có thể hiểu như sau: (i) Trách nhiệm với thị trường và người tiêu dùng; (ii) Trách nhiệm về bảo vệ môi trường; (iii) Trách nhiệm với người lao động Liên lết thương hiệu Thái độ nhận thức Thái độ tình cảm Tín nhiệm Thỏa mãn Liên kết cá nhân Liên kết chức năng Trung thành hành vi Trung thành cam kết Đánh giá thực trạng đạo đức kinh doanh của các doanh nghiệp tại Việt Nam GVHD: Trương Hòa Bình - 16- SVTH: Trần Văn Thiết (iv) Trách nhiệm chung với cộng đồng. Như vậy, nội hàm bao gồm nhiều khía cạnh liên quan đến ứng xử của doanh nghiệp đối với các chủ thể và đối tượng có liên quan trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp, từ người sản xuất, tiếp thị, tiêu thụ, tiêu dùng đến các nhà cung ứng nguyên liệu, vật liệu tại chỗ, từ đội ngũ cán bộ, nhân viên cho đến các cổ đông của doanh nghiệp. Trong đó, có cả trách nhiệm về bảo vệ tài nguyên, môi trường mà thực chất cũng là có trách nhiệm chung với lợi ích cộng đồng xã hội, bao gồm cả những hoạt động nhân đạo, từ thiện, hoạt động đóng góp cho sự phát triển chung của đất nước. Những người lãnh đạo doanh nghiệp thời nay do đó phải là những người có tầm nhìn xa trông rộng để hướng tới mục tiêu hoạt động toàn diện không chỉ giới hạn bởi thặng dư, lợi nhuận kinh tế đơn thuần. Thước đo thành công của họ bắt nguồn từ những tác động mà họ tạo ra đối với nhu cầu xã hội. Các doanh nhân này cần tìm kiếm những giải pháp để thay đổi xã hội theo chiều hướng ngày càng tốt hơn và ngược lại, các doanh nghiệp của họ sẽ có những điều kiện để phát triển bền vững hơn. Lợi ích dài hạn chủ yếu của CSR là cho chính nội bộ doanh nghiệp như cải thiện quan hệ trong công việc, giảm bớt tai nạn, giảm tỷ lệ nhân viên thôi việc, tăng năng suất lao động. Ngoài ra, còn giúp nâng cao uy tín của doanh nghiệp trong quan hệ với khách hàng và các đối tác, tạo ra ưu thế trong cạnh tranh và thuận lợi trong việc kêu gọi đầu tư, đặc biệt là đầu tư nước ngoài. 1.2.2 Vấn đề sở hữu trí tuệ 1.2.2.1 Thực trạng xâm phạm sở hữu trí tuệ Theo báo cáo sơ kết công tác phòng ngừa, đấu tranh chống sản xuất, buôn bán hàng giả và xâm phạm sở hữu trí tuệ của Bộ Công an, trong 5 năm (2002- 2007), lực lượng cảnh sát điều tra tội phạm kinh tế của 43 địa phương đã phát hiện 1092 vụ sản xuất, buôn bán hàng giả. Ngoài ra mỗi năm, các cơ quan chức năng đã phát hiện hàng ngàn vụ sản xuất, buôn bán hàng giả và xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ. Trong năm 2006, thanh tra chuyên ngành văn hoá – thông tin tiến hành kiểm tra 20.414 cơ sở kinh doanh dịch vụ văn hoá, phát hiện 5.647 cơ sở vi phạm; đã cảnh cáo 519 cơ sở; đình chỉ hoạt động của 289 cơ sở; tạm giữ giấy phép kinh doanh của 160 cơ sở; chuyển xử lý hình sự 09 trường hợp; xử phạt Đánh giá thực trạng đạo đức kinh doanh của các doanh nghiệp tại Việt Nam GVHD: Trương Hòa Bình - 17- SVTH: Trần Văn Thiết hành chính 10.891.780.000 đồng. Thanh tra chuyên ngành khoa học và công nghệ tiến hành thanh tra, kiểm tra 1.536 cơ sở về chấp hành các quy định sở hữu công nghiệp, xâm phạm quyền sáng chế, kiểu dáng công nghiệp và cạnh tranh không lành mạnh đã phát hiện 107 cơ sở sai phạm, buộc tiêu huỷ và loại bỏ các yếu tố vi phạm khỏi sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ và phạt tiền 224.900.000 đồng. Thanh tra Bộ Văn hoá – Thông tin tiến hành kiểm tra và phát hiện nhiều cơ sở kinh doanh máy tính lắp đặt, xây dựng các trang Web, cung cấp cho khách hàng các phần mềm Windows, Micrrosoft office, Vietkey… vi phạm pháp luật về bản quyền Xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ trong giai đoạn hiện nay được thực hiện bằng nhiều phương thức, thủ đoạn mới như áp dụng công nghệ cao, sử dụng các thiết bị hiện đại để sản xuất hàng hoá làm cho người tiêu dùng và cơ quan quản lý thị trường khó phát hiện thật - giả. Các hành vi vi phạm này ngày càng nguy hiểm hơn ở tính chất vi phạm, có tổ chức chặt chẽ không những trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam mà còn mở rộng đối với tổ chức và cá nhân nước ngoài. Ví dụ như, hàng năm sản lượng nước mắm Phú Quốc chỉ đạt tối đa 15 triệu lít, nhưng có tới hàng trăm triệu lít nước mắm mang tên Phú Quốc tung ra thị trường. Hoặc Công ty Unilever Việt Nam có thời điểm bị thiệt hại do hàng nhái, hàng giả và buôn lậu lên tới hàng chục triệu USD, trong đó đã xác định được 90% hàng giả theo các nhãn hàng của Unilever là có xuất xứ từ nước ngoài Nhóm tội phạm thuộc lĩnh vực sở hữu trí tuệ có đặc điểm rất phức tạp vì chủ thể của tội phạm hầu hết là những người có điều kiện kinh tế, trình độ chuyên môn, kỹ thuật, tay nghề cao, am hiểu những lĩnh vực mình đang quản lý, một số người còn có chức vụ, quyền hạn nhất định. Bên cạnh đó, sự bùng nổ của khoa học, công nghệ đã tạo nhiều thiết bị, công cụ, phương tiện phạm tội ngày càng tinh vi nên rất khó phát hiện. Các tội xâm phạm sở hữu trí tuệ đã gây ra hoặc đe dọa đến thiệt hại nền kinh tế của cả nước cũng như từng lĩnh vực, từng ngành, ảnh hưởng đến tài sản, sức khoẻ và tính mạng con người, tác động đến với cả cộng đồng, triệt tiêu sức sáng tạo và khiến giới đầu tư e ngại. Tuy nhiên, việc xử lý tội xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ còn gặp nhiều khó khăn và bất cập. Các vi phạm quyền sở hữu trí tuệ xảy ra ngày một gia tăng nhiều hơn nhưng khó bị phát hiện và khi bị phát hiện thì thường chỉ bị xử lý bằng Đánh giá thực trạng đạo đức kinh doanh của các doanh nghiệp tại Việt Nam GVHD: Trương Hòa Bình - 18- SVTH: Trần Văn Thiết các biện pháp dân sự hoặc hành chính. Điều này cho thấy, công tác đấu tranh phòng chống tội xâm phạm sở hữu trí tuệ hiện còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu bảo quyền sở hữu trí tuệ một cách hiệu quả trước các hành vi xâm phạm ngày một gia tăng và phức tạp, cũng như trước các yêu cầu cấp thiết khi Việt Nam tham gia vào các điều ước quốc tế về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ trong tiến trình hội nhập thương mại quốc tế của mình. 1.2.2.2 Nguyên nhân Có nhiều nguyên nhân khác nhau dẫn đến tình trạng vi phạm sở hữu trí tuệ ngày một gia tăng. Thứ nhất, hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả, xâm phạm sở hữu trí tuệ luôn tạo ra “siêu lợi nhuận” nên rất có sức hút, lôi kéo được nhiều đối tượng tham gia, kể cả những người lao động thuần túy, trên nhiều địa bàn và nhiều lĩnh vực khác nhau. Thứ hai, trong quá trình hội nhập, ngoài những tác động tích cực góp phần làm nên những kết quả đáng kể trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, còn phát sinh những yếu tố tiêu cực xâm nhập vào nền kinh tế nhiều thành phần với tính cạnh tranh cao và diễn biến phức tạp của nước ta. Các mặt hàng nội địa tuy đa dạng, phong phú và có cải tiến nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu cho người tiêu dùng, nhất là trong điều kiện thu nhập bình quân thấp, giá hàng hoá sản phẩm phục vụ sinh hoạt cao tạo nên sự bất cân đối. Vì vậy, nhiều người tiêu dùng ưa lựa chọn những sản phẩm giả nhưng mẫu mã, kiểu dáng công nghiệp “như thật” mà lại có giá bán thấp. Lợi dụng tình trạng này, không ít doanh nghiệp thiếu ý thức tôn trọng pháp luật, thiếu sự tôn trọng người tiêu dùng, vì mục tiêu lợi nhuận sẵn sàng làm giả, làm nhái những sản phẩm được bảo hộ có uy tín, chất lượng, kiểu dáng để gây nhầm lẫn đối với người tiêu dùng. Vì vậy, việc sao chụp, mô phỏng, làm nhái các sản phẩm của nhau để giành giật thị trường trở thành hiện tượng phổ biến. Đây là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến sản xuất, buôn bán hàng giả và xâm phạm sở hữu trí tuệ tồn tại và ngày càng mở rộng quy mô hoạt động. Thứ ba, phần lớn các chủ sở hữu trí tuệ chưa thực sự chú ý đến việc bảo vệ quyền lợi của mình, chưa có ý thức cao trong việc đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá, trong khi trình độ và hiểu biết về tác hại của xâm phạm sở hữu trí tuệ đối với sức khoẻ, lợi ích của cộng đồng còn rất hạn chế. Hiện nay rất ít doanh Đánh giá thực trạng đạo đức kinh doanh của các doanh nghiệp tại Việt Nam GVHD: Trương Hòa Bình - 19- SVTH: Trần Văn Thiết nghiệp có bộ phận chuyên chăm lo về sở hữu trí tuệ, hầu như chưa có doanh nghiệp nào có chiến lược về sở hữu trí tuệ, coi vấn đề sở hữu trí tuệ là bộ phận trong chiến lược phát triển của mình. Tài sản trí tuệ chưa trở thành đối tượng quản lý như quản lý tài sản thông thường. Trong thời gian qua, các doanh nghiệp đã chú trọng vào việc xây dựng thương hiệu, kiểu dáng công nghiệp, tên gọi, chất lượng hàng hóa nhưng lại quên mất khâu đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá của mình ở những khu vực thị trường đã và sẽ phát triển. Nhiều doanh nghiệp chưa có ý thức trong việc phát hiện và ngăn ngừa việc làm giả các sản phẩm của mình, chưa chủ động phối hợp với các cơ quan chức năng trong việc kiểm tra, kiểm soát. Có những doanh nghiệp do sợ bị ảnh hưởng đến doanh số và mức tiêu thụ sản phẩm, không dám công khai về sản phẩm bị làm giả. Có những sản phẩm làm giả tinh vi đến mức chính doanh nghiệp sản xuất cũng không phát hiện được, đến khi biết, tuy có một số biện pháp khắc phục nhưng không đáng kể, coi như “chấp nhận sống chung với hàng giả”. Thứ tư, các quy định về sở hữu trí tuệ và hành vi xâm phạm sở hữu trí tuệ còn chưa tập trung, mà rải rác trong quá nhiều văn bản, như: Hiến pháp năm 1992, Bộ luật Dân sự, Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 1997 (sửa đổi bổ sung năm 2002, 2008), Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi bổ sung năm 2001), Luật Khoa học và Công nghệ năm 2000, Pháp lệnh Giống cây trồng năm 2004, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, Luật Tố tụng dân sự năm 2005, Luật Hải quan năm 2002… và trong nhiều văn bản hướng dẫn, thi hành các luật, pháp lệnh nêu trên. Trong khi đó, những quy định về sở hữu trí tuệ và hành vi xâm phạm sở hữu trí tuệ lại chưa thật đầy đủ, chưa đồng bộ, đặc biệt là những quy định về các biện pháp và chế tài xử lý mới chủ yếu dừng ở các hình thức xử lý hành chính, chưa phù hợp với tình hình thực tế, chưa đủ sức răn đe đối tượng vi phạm. Chế tài về hình sự chỉ được áp dụng với cá nhân, trong khi nhóm tội về sở hữu trí tuệ chủ yếu là do tổ chức thực hiện, vì vậy, không thể truy cứu trách nhiệm hình sự với pháp nhân được. Các quy định về yếu tố cấu thành của tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp, tội xâm phạm quyền tác giả, tội sản xuất, buôn bán hàng giả chưa cập nhật được những nội dung mới trong Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, chưa phù hợp với yêu cầu của các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc Đánh giá thực trạng đạo đức kinh doanh của các doanh nghiệp tại Việt Nam GVHD: Trương Hòa Bình - 20- SVTH: Trần Văn Thiết tham gia, như Hiệp định thương mại Việt-Mỹ và các hiệp định của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Thứ năm, trên thực tế, tổ chức và hoạt động của các cơ quan có trách nhiệm đấu tranh với các hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ còn thiếu đồng bộ và chồng chéo, nhiều tầng nấc xử lý khiến hiệu lực thực thi bị phân tán, phức tạp. Hiện có tới 6 loại cơ quan (UBND các cấp, thanh tra khoa học và công nghệ, thanh tra văn hóa, cảnh sát kinh tế, quản lý thị trường, hải quan) cùng có thẩm quyền xử phạt vi phạm. Theo thông lệ ở các nước trên thế giới thì tòa án phải đóng vai trò rất quan trọng trong việc xử lý các vi phạm về sở hữu trí tuệ, nhưng ở Việt Nam thì ngược lại, vai trò của tòa án rất mờ nhạt so với các cơ quan hành chính. Mỗi năm có tới hàng nghìn vụ vi phạm sở hữu trí tuệ được xử lý bởi các cơ quan hành chính, nhưng số vụ được đưa ra xét xử tại tòa án lại không quá 10 trường hợp. Chưa kể, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của phần lớn đội ngũ cán bộ làm công tác bảo vệ pháp luật còn hạn chế, đặc biệt là trong các lĩnh vực liên quan đến sở hữu trí tuệ, tài chính, ngân hàng, chứng khoán, công nghệ máy tính… Đánh giá thực trạng đạo đức kinh doanh của các doanh nghiệp tại Việt Nam GVHD: Trương Hòa Bình - 21- SVTH: Trần Văn Thiết CHƯƠNG 2 PHÂN TÍCH SỰ ẢNH HƯỞNG CỦA ĐẠO ĐỨC KINH DOANH ĐẾN XÃ HỘI VÀ DOANH NGHIỆP 2.1 SỰ ẢNH HƯỞNG CỦA ĐẠO ĐỨC KINH DOANH ĐẾN XÃ HỘI 2.1.1 Đạo đức kinh doanh đối với con người Ở góc độ doanh nghiệp, nhiều doanh nghiệp quan niệm trách nhiệm xã hội chỉ là san sẻ lợi ích vật chất với cộng đồng thể hiện qua việc làm từ thiện. Thậm chí nhiều doanh nghiệp còn sử dụng việc làm từ thiện như một “kênh” để quảng bá sản phẩm và thương hiệu. Quan niệm như thế chưa đúng và chưa đầy đủ. Lợi nhuận đúng là động lực phát triển doanh nghiệp nhưng không thể tách rời khỏi lợi ích của cộng đồng trong mối tương quan với môi trường xã hội (Nhà nước, đối tác, người tiêu dùng). Doanh nghiệp phải dự đoán tác động về xã hội trong hoạt động của mình, có chính sách nhất quán, phương pháp hiệu quả để hạn chế tiêu cực. Cách nhìn nhận vấn đề như vậy mới giúp doanh nghiệp phát triển bền vững trong một môi trường có lợi cho con đường xây dựng doanh nghiệp lâu bền.. Chẳng hạn, doanh nghiệp sản xuất đồ chơi trẻ em phải tính toán việc pha trộn hóa chất vào sản phẩm nhựa có ảnh hưởng đến sức khỏe trẻ em hay không. Chủ đầu tư các cơ sở sản xuất giấy, bột ngọt... phải xem xét việc xử lý nước thải có ảnh hưởng đến môi trường sống chung quanh khu vực nhà máy hay không.... Đây là trách nhiệm tự nguyện của doanh nghiệp đề ra để định hướng hoạt động của mình, thể hiện cái chúng ta gọi là đạo đức kinh doanh. Rà soát lại các doanh nghiệp, hiện nay có bao nhiêu doanh nghiệp hoạt động theo mô thức đó? Chắc chắn là không nhiều.. 2.1.2 Đạo đức kinh doanh đối với môi trường Việc Bộ Tài nguyên - Môi trường xử lý nhẹ tay với Công ty Vedan (chỉ xử phạt, không đình chỉ sản xuất) làm nhiều người thất vọng, không đủ sức răn đe với những doanh nghiệp đang hủy hoại môi trường. Mặt khác, trong bối cảnh bộ khung luật pháp về môi trường còn nhiều thiếu sót, việc thực thi còn lơi lỏng, xã hội cần nhấn mạnh cả trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp như một công cụ Đánh giá thực trạng đạo đức kinh doanh của các doanh nghiệp tại Việt Nam GVHD: Trương Hòa Bình - 22- SVTH: Trần Văn Thiết bổ sung để ngăn chặn sự xuống cấp đang diễn ra nhanh chóng trong môi trường sống của người dân  Thực trạng ô nhiễm môi trường: - Môi trường đất: Môi trường đất là nơi trú ngụ của con người và hầu hết các vi sinh vật cạn và là nền móng cho các công trình xây dựng, đặc biệt là một nước Nông nghiệp như Việt Nam đất rất quan trọng trong việc canh tác, trồng trọt. Tuy nhiên hiện nay bên cạnh việc tăng tăng dân số quá nhanh thì các khu công nghiệp mọc lên nhằm phục vụ cho sản xuất làm cho diện tích canh tác ngày càng bị thu hẹp, diện tích đất bình quân trên đầu người giảm. Cần có biện pháp can thiệp của nhà nước nhằm cân bằng giữu nông và công nghiệp trong việc sử dụng tài nguyên đất. - Môi trường nước: Các doanh nghiệp nhằm tối thiểu hóa chi phí một cách tối đa đã không ngần ngại xả những chất độc hại trực tiếp hủy hoại tài nguyên nước cùng những sinh vật sống trong môi trường này, không những vậy, môi trường nước bị ô nhiễm sẽ ảnh hưởng rất lớn đến người dân sinh sống quanh khu vực bị ô nhiễm, đặc biệt tệ hại hơn nếu quanh khu vực bị ô nhiễm phần lớn người dân làm nông nghiệp thì vấn đề sử dụng nước dể tưới tiêu sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Vedan – là minh chứng tiêu biểu cho sự việc hủy hoại môi trường nước và khiến cho người dân xung quang phải ghánh chịu trực tiếp hậu quả này. - Môi trường không khí: Hàng năm con người thải ra môi trường không khí rất nhiều với những khói, bụi, điều này làm cho không khí ngày càng bị ô nhiễm và gần đây vấn đề rất được dư luận quan tâm đó là tình hình nóng lên của trái đất do hiện tượng hiệu ứng nhà kính mà nguyên nhân phần lớn đó là do các chất thải của các nhà máy, xí nghiệp với những máy móc cũ kỹ, tiêu hao nhiên liệu. Vì vậy muốn hạn chế chất thải ra không khí thì các doanh nghiệp cần đầu tư vào trang thiết bị nâng cao năng suất sản phẩm, qua đó hạn chế thải ra ngoài không khí những khói bụi độc hại như vậy mới có thể bảo vệ được môi trường không khí đang Đánh giá thực trạng đạo đức kinh doanh của các doanh nghiệp tại Việt Nam GVHD: Trương Hòa Bình - 23- SVTH: Trần Văn Thiết 2.2 SỰ ẢNH HƯỞNG CỦA ĐẠO ĐỨC KINH DOANH ĐẾN DOANH NGHIỆP 2.2.1 Ảnh hưởng của đạo đức kinh doanh đến khách hàng của doanh nghiệp Khách hàng là cội nguồn của sự tồn tại và phát triển của công ty. “Đạo đức kinh doanh là hành vi đầu tư vào tương lai. Khi doanh nghiệp tạo tiếng tốt sẽ lôi kéo khách hàng. Và đạo đức xây dựng trên cơ sở khơi dậy nét đẹp tiềm ẩn trong mỗi con người luôn được thị trường ủng hộ” - đó là định nghĩa đang được sử dụng rộng rãi của khái niệm đang là “thời thượng” của các doanh nghiệp. Hãy nhìn lại những gì mà công ty thực phẩm Vedan đã làm. Việc thả chất thải độc hại đã trực tiếp “giết chết” sông Thị Vải bên cạnh thiệt hại về kinh tế và sức khỏe của người dân sống quanh vùng, Vedan đã và đang bị cộng đồng trừng phạt. Các đối tác lớn phân phối sản phẩm của Vedan như các hệ thống siêu thị: Coop Mart, Vinatext, Citimart, Maximart từ chối phân phối cho tất cả các sản phẩm của Vedan. Bên cạnh đó, người tiêu dùng cũng phẫn nộ không kém và hành động bằng cách tảy chay sản phẩm của họ. Vẫn biết tiết kiệm chi phí để tăng lợi nhuận nhưng không vì thế mà doanh nghiệp lại suy đồi đạo đức, tìm cách lách luật. Quay sang tập đoàn Mai Linh, ở đây ta nói về lĩnh vực vận tải, với đội ngũ nhân viên chuyên nghiệp luôn đưa khách hàng lên hàng đầu , tận tình phục vụ. Bên cạnh không ngừng thực hiện những cộng việc vì môi trường và xã hôi. Vì vậy luôn được sựu ưu ái, và tin tưởng từ khách hàng. 2.2.2 Ảnh hưởng của đạo đức kinh doanh đến các nhà đầu tư của doanh nghiệp Đây là vấn đề còn rất mới mẻ ở Việt Nam do thị trường chứng khoán Việt Nam còn rất non trẻ nên những quy định về tính trung thực trong báo cáo tài chính, công khai thông tin với các nhà đầu tư của doanh nghiệp,… vẫn còn chưa chặt chẽ. Vì vậy, thời gian qua đã xuất hiện hiện tượng các doanh nghiệp đưa ra những thông tin chưa chính xác để trục lợi, gây lao đao cho nhiều nhà đầu tư. Vụ việc nghiêm trọng đầu tiên là việc Joint stock Bien Hoa Confectionery Company (Bibica) gian dối trong việc khai báo kết quả kinh doanh năm 2002 và 6 tháng đầu năm 2003. Bibica là một trong 21 công ty đăng ký lên sàn đầu tiên ở Đánh giá thực trạng đạo đức kinh doanh của các doanh nghiệp tại Việt Nam GVHD: Trương Hòa Bình - 24- SVTH: Trần Văn Thiết Việt Nam và là công ty niêm yết đầu tiên trong ngành bánh kẹo. Vì vậy, các nhà đầu tư trông đợi rất nhiều vào lợi nhuận của công ty sau khi niêm yết. Để nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường, thời gian này công ty đã đồng loạt triển khai các dự án đầu tư mới nhằm mở rộng sản xuất - kinh doanh, đầu tư phát triển các sản phẩm mới (bánh trung thu, Layer Cake, chocolate), xây dựng Nhà máy Bánh kẹo Biên Hòa 2… nên số nợ ngân hàng gia tăng. Thêm vào đó, giá nguyên liệu đầu vào tăng nhanh, tình hình nhân sự trong bộ phận Tài chinh - Kế toán có nhiều biến động đã làm gia tăng thêm các khó khăn cho công ty. Trước tình hình đó, công ty cần thu hút thêm các nhà đầu tư để gia tăng vốn nên đã đưa ra một báo cáo tài chính không chính xác. Khi vụ việc vỡ lở, các cổ đông được biết năm 2002, Công ty đã lỗ 10,086 tỷ đồng (tương đương 7.500.000 USD), gần gấp đôi con số lỗ 5,4 tỷ đồng mà công ty từng công bố. Hậu quả là giá cổ phiếu Bibica sụt thê thảm, gây thiệt hại lớn cho các cổ đông. Cùng thời điểm đó, Bibica phải đối mặt với hình phạt vì vi phạm luật quản lý chứng khoán của Ủy ban chứng khoán nhà nước (SCCI) và rơi vào tình trạng gần như phá sản. Nhưng do lợi nhuận trên thị trường chứng khoán quá lớn, nên những vụ việc tương tự vẫn tiếp diễn. Thiên Việt là một công ty chứng khóan mới thành lập đầu năm 2007, nhưng đã được các nhà đầu tư hết sức quan tâm vì Nguyễn Trung Hà, Chủ tịch của Thiên Việt là Phó TGĐ của một công ty hàng đầu Việt Nam và trong giấy tờ đăng ký kinh doanh, Phạm Kinh Luân, một chuyên gia nổi tiếng trong lĩnh vực tài chính, được nêu tên với tư cách là Tổng Giám đốc của Thiên Việt. Vì vậy mặc dù chưa niêm yết nhưng cổ phiếu của Thiên Việt đã được các nhà đầu tư săn lùng. Đặc biệt, từ khi Ban Giám đốc Thiên Việt đưa ra thông tin là họ đã ký hợp đồng liên doanh với Goldman Sachs, một tập đòan tài chính hàng đầu của Mỹ, thậm chí Thiên Việt còn đưa ra bản thỏa thuận hợp tác với chữ ký của Chủ tịch Goldman Sachs và Thiên Việt với các phương tiện thông tin đại chúng, thế nên giá cổ phiếu của Thiên Việt tăng rất nhanh, gấp nhiều lần so với giá niêm yết. Tuy nhiên, chỉ vài ngày sau các phương tiện thông tin đại chúng đã cung cấp thông tin rằng Goldman Sachs từ chối hợp tác với Thiên Việt. Thêm vào đó, ông Phạm Kinh Luân cũng cho biết ông chưa hề ký hợp đồng làm việc cho Thiên Việt. Vì vậy, Thiên Việt đã bị phạt nặng bởi Trung tâm giao dịch chứng khóan thành phố Hồ Chí Minh (HSTC) và Ủy ban chứng khoán nhà nước Đánh giá thực trạng đạo đức kinh doanh của các doanh nghiệp tại Việt Nam GVHD: Trương Hòa Bình - 25- SVTH: Trần Văn Thiết vì đưa ra thông tin không rõ ràng và không ngay thẳng. Người thiệt hại nhiều nhất ở đây chính là các nhà đầu tư, những người đã bị thu hút bởi những thông tin sai lệch mà Ban Giám đốc công ty Thiên Việt đưa ra. Vì vậy, những vụ việc như vậy vẫn có nguy cơ xảy ra bất cứ lúc nào vì luật pháp cũng như ý thức của các nhà kinh doanh Việt Nam về vấn đề này còn chưa đầy đủ. Trong kinh doanh việc gặp khó khăn hay rủi ro là khá thường xuyên. Khi gặp tình huống này, những công ty uy tín trên thế giới thường chọn cách thông báo rộng rãi cho các cổ đông để kêu gọi sự hợp tác của họ nhằm giúp công ty vượt qua khó khăn. Mặc dù tiềm ẩn nhiểu rủi ro nhưng cách này giúp công ty giữ được lòng tin của các nhà đầu tư, và thoát khỏi nguy cơ bị bỏ rơi khi thông tin bại lộ. Tuy nhiên các doanh nghiệp Việt Nam lại thường không làm như vậy. 2.2.3 Vấn đề thương hiệu và lợi nhuận 2.2.3.1 Giá trị thương hiệu và đạo đức kinh doanh Các thương hiệu luôn xuất hiện, cạnh tranh và tồn tại trong những phân khúc giá khác nhau. Bên cạnh đó vấn đề lợi nhuận và đạo đức trong kinh doanh luôn làm đau đầu các nhà lãnh đạo. Thương hiệu trong nền kinh tế thị trường: theo cơ chế cạnh tranh của thị trường tự do, trong bất cứ ngành hàng nào, từ hàng tiêu dùng nhanh, hàng điện máy, ngành quần áo thời trang hay các ngành dịch vụ,…các thương hiệu luôn xuất hiện, cạnh tranh và tồn tại trong những phân khúc giá khác nhau. Lấy ví dụ tại thị trường Việt Nam. Trong ngành dầu gội, giá bán của Clear đắt gần gấp 2 lần giá bán của dầu gội đầu Rejoice. Trong ngành điện máy, giá bán của tivi Sony đắt gấp đội so với giá của nhãn hiệu nội địa Darling. Trong ngành dịch vụ quảng cáo hay trong dịch vụ về luật, giá dịch vụ của các hãng nước ngoài đắt hơn từ 3 đến 10 lần so với giá của các công ty của Việt Nam. Tuy có mức chênh lệch giá rất lớn giữa các thương hiệu ở phân khúc thấp so với phân khúc cao cấp, nhưng càng ngày, chất lượng sản phẩm (hay dịch vụ) giữa các phân khúc càng bớt khác biệt. Ngày nay, nếu bỏ nhãn hiệu đi và cho người khách hàng dùng thử, nhiều loại sản phẩm và dịch vụ có giá rất chênh nhau những lại hầu như không tạo ra sự khác biệt. Trên thực tế các tập đoàn đa quốc gia đã chuyển khâu sản xuất của nhiều loại sản phẩm và các ngành dịch vụ Đánh giá thực trạng đạo đức kinh doanh của các doanh nghiệp tại Việt Nam GVHD: Trương Hòa Bình - 26- SVTH: Trần Văn Thiết sang các nước đang phát triển, nơi mà giá nhân công rẻ hơn tại thị trường tiêu thụ nhiều lần. 2.2.3.2 Vấn đề về lợi nhuận và đạo đức kinh doanh Hiện nay bất cứ nhà kinh doanh nào cũng đều muốn nâng giá của sản phẩm, hiện nay của dịch vụ lên càng cao càng tốt. Khi một sản phẩm có giá cao, rõ ràng khả năng mang lại lợi nhuận sẽ tăng đáng kể mà công sức và thời gian và chi phí kinh doanh sẽ giảm xuống. Còn gì bằng khi mà một chai bia Heineken có giá bán gần gấp 2 lần chai bia Sài Gòn (trên thực tế mức lợi nhuận sẽ chênh nhau đến cả chục lần). Tại sao một đôi giày thể thao Nike được sản xuất tại Việt Nam có giá xuất xưởng chưa tới 15 Đô-la Mỹ lại có giá bán gần 200 Đô-la Mỹ? Tất cả những người làm kinh doanh, những chuyên gia marketing và các giám đốc nhãn hiệu đều có chung một khát khao là làm sao có thể nâng được giá bán của sản phẩm lên thật cao ở mức đối đa, mà người tiêu dùng có thể chấp nhận.Một vấn đề lớn được đặt ra rằng liệu đã đến lúc phải làm rõ chuyện “bóc lột trắng trợn” của những người chủ thương hiệu đối với người tiêu dùng? Theo như những gì đang xảy ra, liệu các chủ thương hiệu có quá nhẫn tâm và tham lam khi nâng mức giá lên cao quá mức như vậy? đạo đức kinh doanh trong việc tìm cách bắt người tiêu dùng phải trả thêm tiền chỉ bởi sản phẩm được gắn thêm một cái tên “khác biệt”?  Sự thật phía sau những cảm nhận đắt giá Số liệu thực tế cho thấy, sự trung thành của người tiêu dùng (hay nói cách khác là sự lệ thuộc của họ) vào các thương hiệu đắt tiền luôn bền vững và ngày càng tăng. Theo bài nghiên cứu “ Thực trạng và giải pháp đạo đức kinh doanh tại Việt Nam” của Tiến sĩ Nguyễn Hoàng Ánh, khi trả lời cho câu hỏi: “nếu được thoải mái lựa chọn thì bạn sẽ chọn loại bia nào?”, hơn 70% người được hỏi đã trả lời Heineken. Quả thật là các thương hiệu mạnh luôn có giá cao hơn hẳn những đối thủ cạnhtranh cùng ngành hàng. nếu tìm hiểu kỹ lưỡng thì sẽ thấy rằng, các sản phẩm “cao cấp” đắt tiền luôn được ưa chuộng, và ngày càng được ưa chuộng hơn. Trong một đợt phỏng vấn bỏ túi với khoảng 60 phụ nữ được hỏi ý kiến, tất cả mọi người đều chọn Sunsilk làm dầu gội thay vì chọn một nhãn dầu nội địa khác có chất lượng tốt và giá rẻ hơn. Dựa trên những phân tích về giá trị của sản phẩm và giá trị của thương hiệu, chúng ta dễ thấy được là một sản phẩm mang Đánh giá thực trạng đạo đức kinh doanh của các doanh nghiệp tại Việt Nam GVHD: Trương Hòa Bình - 27- SVTH: Trần Văn Thiết thương hiệu sẽ tạo ra 2 loại giá trị khác biệt rất rõ ràng: giá trị lý tính và giá trị cảm tính. Giá trị lý tính Đây chính là những lợi ích mà một loại hàng hóa, hay một loại dịch vụ mang lại cho người tiêu dùng. Cà phê đơn thuần là một loại thức uống gây nghiện và giúp người uống tỉnh táo hơn, sảng khoái hơn. Uốn tóc là một dịch vụ giúp cho các bà các cô có mái tóc kiểu cách và đẹp hơn. Nếu một sản phẩm không có thương hiệu, nó được gọi là hàng hóa. Giá trị cảm tính Là một loại giá trị do các thương hiệu mang lại. Khi một loại hàng hóa với những đặc điểm cụ thể tạo nên sự khác biệt, người bán hàng sẽ được gắn thêm tên gọi cho hàng hóa đó để người tiêu dùng dễ phân biệt, dễ nhận biết. Chính cái tên mà người bán hàng gắn cho loại sản phẩm có những đặc điểm khác biệt là lý do để cho chúng ta phải trả thêm tiền để mua sản phẩm đó. Nói một cách khác, sản phẩm đó có kèm theo thương hiệu. Thương hiệu cà phê Black & White có giá trên dưới gần 20 ngàn một ly, trong khi ly cà phê của “dì Ba” bán ở góc đường cũng ngon không kém thì giá chỉ có 6 ngàn đồng. Tuy nhiên sự khác biệt về giá cả không chỉ bởi cái tên thương hiệu. Trên thực tế, sự chênh lệch về giá còn thể hiện ở mức độ cảm nhận, hay nói cánh khác là lượng cảm xúc tốt mà người khách hàng có được từ sản phẩm hay dịch vụ có cái tên đặc thù đó. Đánh giá thực trạng đạo đức kinh doanh của các doanh nghiệp tại Việt Nam GVHD: Trương Hòa Bình - 28- SVTH: Trần Văn Thiết CHƯƠNG 3 GIẢI PHÁP ĐỂ NÂNG CAO ĐẠO ĐỨC TRONG KINH DOANH Ở VIỆT NAM 3.1 GIẢI PHÁP VỀ CHÍNH TRỊ Muốn cho doanh nhân Việt Nam chứng tỏ được tài năng, đạo đức của họ cần phải xây dựng một chế độ dân chủ thực sự, một nhà nước pháp quyền đúng nghĩa của nó. Nhà nước phải là người đại diện quyền lợi của toàn xã hội, là người điều chỉnh các lợi ích chính đáng của mọi cá nhân, mọi thành phần kinh tế. Từ đó Nhà nước phải ban hành những văn bản pháp luật, có những chính sách công bằng, hợp lý để giúp cho Doanh nhân được tự do “cạnh tranh lành mạnh”, “phát triển bình đẳng”, “phục vụ trung thực”. Hiện nay chúng ta có đến ba bộ luật về doanh nghiệp: Doanh nghiệp Nhà nước, Doanh nghiệp nước ngoài, Doanh nghiệp tư nhân, chưa thật bình đẳng, chưa thật hợp lý. Pháp luật cần chặt chẽ, chính xác, quy định những điểm doanh nhân được làm tức là những điều pháp luật không cấm. Vừa qua có những vụ án, các nhà kinh doanh, buôn bán bị quy vào tội danh “lợi dụng kẽ hở” của pháp luật. Đồng thời cũng cần xác định vấn đề hình sự và hoạt động kinh doanh buôn bán, không hình sự hóa những vấn đề phức tạp của hoạt động này. Ban hành pháp luật là quan trọng, nhưng người thực thi pháp luật mang tính quyết định. Do vậy, cần phải chống tiêu cực trong bộ máy quyền lực của Đảng và bộ máy Nhà nước, loại bỏ những phần tử thoái hóa, biến chất ra khỏi bộ máy Đảng và Nhà nước từ Trung ương đến các địa phương, các ngành, các cấp. Doanh nhân Việt Nam cần phải tham gia vào cuộc đấu tranh chống tham nhũng hiện nay, việc làm này rất khó khăn nhưng có ý nghĩa rất to lớn. 3.2. GIẢI PHÁP VỀ KINH TẾ Phải xác định rõ thể chế kinh tế và chế độ sở hữu ở nước ta trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội hiện nay. Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là thế nào? Trong đó lợi ích của doanh nhân đến đâu? lợi ích xã hội đến đâu? Vấn đề chế độ sở hữu cần được làm rõ, vấn đề sở hữu tư nhân có được thừa nhận và bảo vệ, bảo đảm tồn tại lâu dài trong xã hội xã hội chủ nghĩa Đánh giá thực trạng đạo đức kinh doanh của các doanh nghiệp tại Việt Nam GVHD: Trương Hòa Bình - 29- SVTH: Trần Văn Thiết không? Vấn đề sở hữu như một động lực thúc đẩy hoạt động của doanh nhân. Từ vấn đề này dẫn đến xác lập quan hệ đạo đức và giá trị, chuẩn mực đạo đức trong xã hội, đây là những vấn đề có liên quan đến đạo đức của Doanh nhân. Theo Forbes thì “Việc không có một nhà tỷ phú nào cho thấy quốc gia đó còn nhiều hạn chế trong việc khuyến khích làm giàu. Tại đó còn tồn tại nhiều chính sách chưa hợp lý, hệ thống tài chính – thuế khóa chưa minh bạch, cơ chế với sự phát triển của doanh nhân còn bó buộc”. 3.3 VẤN ĐỀ NHẬN THỨC VÀ TƯ TƯỞNG Liên quan đến đạo đức xã hội và đạo đức doanh nhân là vấn đề “bóc lột” hiện nay. Cần hiểu rõ thế nào là “bóc lột” (hay là sử dụng sức lao động) và quan trọng hơn là “bóc lột” trong điều kiện nước ta hiện nay còn có ý nghĩa nhân văn, nhân bản, ý nghĩa đạo đức không? Bởi hiện nay có rất nhiều người lao động (ở nông thôn và thành thị), họ không có công ăn việc làm để nuôi sống bản thân và gia đình, họ cần được “bán” sức lao động. Nếu các doanh nhân tạo cho họ công ăn việc làm, đem tài năng và vốn liếng vào việc tạo ra của cải vật chất cho xã hội, cho bản thân thì đó chính là hành vi đạo đức. Điều này cần được khẳng định, cần được làm rõ ý nghĩa đạo đức tích cực của việc “bóc lột”, bởi do tính tất yếu kinh tế - xã hội hiện nay. Đồng thời cần phải khẳng định giá trị của doanh nghiệp, doanh nhân trong giai đoạn xây dựng đất nước hiện nay. Nếu trước đây trong sự nghiệp chiến đấu bảo vệ độc lập dân tộc, thống nhất đất nước vai trò của các quân đoàn, binh đoàn bộ đội, vai trò của các tướng lĩnh quyết định thắng lợi trên chiến trường, thì ngày nay trong xây dựng kinh tế vai trò của các doanh nghiệp (các tập đoàn kinh tế), vai trò của doanh nhân quyết định chiến thắng trên các thương trường... Do vậy, cần chuyển đổi các giá trị đạo đức cho phù hợp: nếu trước đây tinh thần yêu nước thể hiện ở giá trị đạo đức cao cả là phấn đấu cho độc lập tự do của dân tộc (Không có gì quý hơn độc lập tự do) thì ngày nay tinh thần yêu nước phải phấn đấu vì “dân giàu, nước mạnh” đó là một giá trị đạo đức cao đẹp – doanh nhân phải là người nêu cao giá trị đạo đức mới và là nhân vật tiêu biểu cho giá trị đó. Đánh giá thực trạng đạo đức kinh doanh của các doanh nghiệp tại Việt Nam GVHD: Trương Hòa Bình - 30- SVTH: Trần Văn Thiết 3.4 VẤN ĐỀ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC ĐỐI VỚI CÁC DOANH NHÂN Vấn đề giáo dục đạo đức cho doanh nhân là vấn đề của toàn xã hội và là vấn đề tự ý thức của chính giới doanh nhân. Đối với xã hội cần phải nâng cao nhận thức về vai trò của doanh nhân, giá trị xã hội của danh nhân bằng sự tôn vinh doanh nhân. Cần khắc phục những mặc cảm sai lầm về doanh nhân. Chúng ta cần nghiên cứu xây dựng văn hóa doanh nhân Việt Nam với những đặc trưng, đặc điểm mang tính đặc thù của Việt Nam như một thương hiệu Việt Nam trên trường quốc tế. Chúng ta cần phải bồi dưỡng lý tưởng, đạo lý, triết lý làm giàu cho các thế hệ người Việt Nam, đặc biệt thế hệ trẻ để họ trở thành những doanh nhân Việt Nam sánh vai cùng doanh nhân các cường quốc năm châu theo tinh thần Hồ Chí Minh. Đồng thời, phải xây dựng truyền thống Doanh nhân Việt Nam với sự tôn vinh Doanh nhân Việt Nam bên cạnh những giá trị cao đẹp khác của dân tộc. Tóm lại: trên đây là một số vấn đề cơ bản đặt ra đối với đạo đức kinh doanh tại Việt Nam hiện nay. Vấn đề trình bày ở đây như là một yếu tố của văn hóa doanh nhân, văn hóa kinh doanh hiện nay. Đánh giá thực trạng đạo đức kinh doanh của các doanh nghiệp tại Việt Nam GVHD: Trương Hòa Bình - 31- SVTH: Trần Văn Thiết PHẦN KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ I. KẾT LUẬN Hiểu biết của nhà kinh doanh cũng như người dân Việt Nam nói chung về đạo đức doanh còn rất hạn chế, hầu hết đều gắn khái niệm đạo đức kinh doanh với tuân thủ luật trong kinh doanh. Cách hiểu này đã thu hẹp đáng kể phạm vi áp dụng đạo đức doanh, hơn nữa tại một quốc gia mà hệ thống phát luật chưa đầy đủ và chặt chẽ như Việt Nam thì cách hiểu này càng làm ý thức về đạo đức kinh doanh khó phát huy tác dụng. Ý thức của người dân về những phạm trù như: Trách nhiệm của doanh nghiệp với xã hội, quan hệ giữa chủ doanh nghiệp và người lao động, nghĩa vụ và trách nhiệm về măt đạo đức của doanh nghiệp với các nhà đầu tư còn khá mơ hồ, lệ thuộc vào luật pháp chứ chưa ý thức được trách nhiệm của nhà kinh doanh với khách hàng và xã hội. Về lâu dài đây là vấn đề cần được lưu ý giải quyết để đảm bảo sự phát triển bền vững cho Việt Nam Từ khi Việt Nam mở của hội nhập và chúng ta muốn làm bạn, muốn trao đổi thương mại với tất cả các nước trên thế giới không phân biệt giàu nghèo. Điều đó được thể hiện ở chỗ chúng ta đặt mối quan hệ với 171 nước trên thế giới, ngày càng được các nước lớn trên thế giới tin tưởng đầu tư và hỗ trợ. Tiêu biểu cho việc hội nhập của Việt Nam đó là gia nhập Liên Hiệp Quốc, ASEAN, APEC mà gần đây nhất vào năm 2007 Việt Nam đã trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại thế giới WTO. Chúng ta còn có thể làm được nhiều hơn nữa nếu như các doanh nghiệp trong nước biết đặt chữ “tâm” lên hàng đầu. Hiện nay, có rất nhiều doanh nghiệp nước ngoài muốn đầu tư vào Việt Nam do môi trường chính trị ổn định, tiền nhân công rẻ, thị trường tiệu thụ rộng nhưng mà họ còn ái ngại cái cách kinh doanh thiếu tính trung thực của các doanh nghiệp tại Việt Nam, Vì vậy, các doanh nghiệp Việt Nam muốn thay đổi cái nhìn, muốn bạn bè quốc tế tôn trọng thì phải thay đổi cách làm ăn ngay từ bây giờ. Đánh giá thực trạng đạo đức kinh doanh của các doanh nghiệp tại Việt Nam GVHD: Trương Hòa Bình - 32- SVTH: Trần Văn Thiết II. KIẾN NGHỊ Một số đề xuất nhằm phát triển và hoàn thiện đạo đức kinh doanh ở Việt Nam Qua quá trình đánh giá ta có thể thấy hiểu biết về đạo đức kinh doanh của cả giới trí thức và giới doanh nghiệp ở Việt Nam đều có những thiếu sót nghiêm trọng. Những thiếu sót này không những đã gây tác hại cho người tiêu dùng, cho các nhà kinh doanh, cho xã hội mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến hình ảnh của doanh nghiệp, làm doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ và lâu dài sẽ ảnh hưởng đến hình ảnh quốc gia trên thị trường quốc tế. Để giải quyết và nâng cao vấn đề này thì chúng ta cần: Trước hết, cần nghiên cứu để bổ sung, hoàn thiện khung luật pháp Việt nam nhằm tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho đạo đức kinh doanh. Đây là biện pháp tiên quyết, vì luật pháp chính là khung dễ thấy nhất cho đạo đức kinh doanh. Cần hoàn thiện các Bộ Luật có liên quan như Luật Đầu tư, Luật Lao động, Luật Doanh nghiệp, Luật Bảo vệ Người tiêu dùng, Luật Môi trường… Một nguyên nhân quan trọng cho tình trạng yếu kém của đạo đức kinh doanh ở Việt Nam hiện nay xuất phát từ sự thiếu hoàn thiện trong pháp luật Việt nam. Nếu luật pháp quy định chặt chẽ hơn, hợp lý hơn sẽ tránh được tình trạng doanh nghiệp nệ vào sự sơ hở của luật pháp mà trốn tránh nghĩa vụ đạo đức của mình. Một trong những nguyên nhân của tình trạng trên là pháp luật về bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng tại Việt Nam chưa được thực thi một cách hiệu quả. Theo bà Vũ Thị Bạch Nga, Trưởng Ban Bảo vệ người tiêu dùng (Cục Quản lý cạnh tranh), hiện chỉ có hai văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến vấn đề này là Pháp lệnh Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng (năm 1999) và Nghị định 55/2008/NĐ - CP ngày 24/4/2008 quy định chi tiết thi hành pháp lệnh này. Tuy nhiên, các quy định của pháp lệnh lại chưa phát huy được hiệu lực trên thực tế. Quyền và trách nhiệm của người tiêu dùng đang được quy định rất chung chung. Các quy định mới chỉ được “gọi tên” mà chưa đi sâu phân tích bản chất cụ thế của các quyền và trách nhiệm đó. Người tiêu dùng phải làm gì để được đảm bảo an toàn? Ngoài ra, còn tồn tại những bất cập trong quy định về quyền và trách nhiệm của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ. Luật Bảo vệ Người tiêu dùng cũng Đánh giá thực trạng đạo đức kinh doanh của các doanh nghiệp tại Việt Nam GVHD: Trương Hòa Bình - 33- SVTH: Trần Văn Thiết không quy định các chế tài để xử lý hành vi vi phạm của tổ chức cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ như cân, đong sai, thông tin về dịch vụ hàng hóa thiếu trung thực... Điều 16 của Pháp lệnh quy định, tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ phải giải quyết kịp thời mọi khiếu nại của người tiêu dùng về hàng hóa, dịch vụ của mình khi chúng không đúng tiêu chuẩn, chất lượng, số lượng, giá cả đã công bố hoặc hợp đồng đã giao kết. Tuy nhiên, trình tự, thủ tục ra sao, hậu quả pháp lý mà cá nhân tổ chức phải gánh chịu khi không thực hiện yêu cầu này như thế nào lại không được nói tới, Đại diện Cục Quản lý cạnh tranh cũng cho rằng, những quy định về quyền và trách nhiệm của người tiêu dùng trong các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành vẫn còn mang tính chất “nghị quyết”, chưa thực sự đảm bảo cơ chế cho việc thực thi các quyền này. Theo đại diện Cục Quản lý cạnh tranh, những hạn chế trong các văn bản quy phạm pháp luật đã khiến cho người tiêu dùng Việt Nam chưa được bảo vệ tốt nhất về quyền lợi. Nếu dự luật vẫn được thiết kế theo cách cũ là tập trung xử phạt hành vi vi phạm, thì hiệu quả bảo vệ người tiêu dùng không cao. Yêu cầu đặt ra lúc này đối với thực tế ở Việt Nam là cần có luật về hội để tăng cường vai trò của các hội trong công tác bảo vệ người tiêu dùng. Nếu không nhanh chóng sửa đổi những thiếu sót này thì quyền lợi của người tiêu dùng vẫn chưa được đảm bảo. Cần nâng cao nhận thức về đạo đức kinh doanh ở Việt Nam. Cần lưu ý là không chỉ các nhà kinh doanh, các nhà nghiên cứu mới cần nắm được kiến thức về đạo đức kinh doanh mà cả xã hội cần ý thức điều này. Vì vậy, trước hết các phương tiện thông tin đại chúng nên tiến hành phổ cập các kiến thức về đạo đức kinh doanh nhằm định hướng hành vi của người dân, để người dân có thể nắm được nhằm tự bảo vệ quyền lợi cho mình và giám sát hoạt động của doanh nghiệp. Tiếp theo, các cơ quan Nhà nước chịu trách nhiệm quản lý, hướng dẫn doanh nghiệp như Bộ Công thương, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt nam, Sở Kế hoạch - Đầu tư ở các tỉnh, Thành phố cần quan tâm phổ biến những kiến thức chung nhất về đạo đức kinh doanh. Việc này có thể tiến hành bằng nhiều cách như tổ chức các lớp học cho doanh nghiệp về đạo đức kinh doanh, chọn lựa dịch và xuất bản một số sách có uy tín của nước ngoài về đề tài này… Nên lưu ý là sách cho doanh nghiệp cần ngắn gọn, nhiều tình huống thực tế, kiểu Cẩm nang về đạo đức kinh doanh chẳng hạn… Các Trường Cao đẳng, Đánh giá thực trạng đạo đức kinh doanh của các doanh nghiệp tại Việt Nam GVHD: Trương Hòa Bình - 34- SVTH: Trần Văn Thiết Đại học khối Kinh tế cũng cần đưa nội dung về đạo đức kinh doanh vào chương trình đào tạo của mình, có thể dưới dạng một môn riêng hay gài vào các môn học khác như quản trị nhân sự, nghiệp vụ kinh doanh… Vì bản quyền của các sách kinh doanh thường đắt và dịch thuật không dễ dàng, nên có thể tranh thủ sự trợ giúp của các tổ chức nước ngoài để đảm bảo hiệu quả cho việc làm này. Cần có những biện pháp khuyến khích doanh nghiệp nâng cao đạo đức kinh doanh của mình. Chúng ta cần ý thức rằng, không có ranh giới cố định nào đạo đức mà đạo đức là một phạm trù mà con người luôn cần vươn lên để đạt đến nó. Rất khó kiểm soát đạo đức vì nó vượt xa hơn việc tuân thủ pháp luật rất nhiều. Với đạo đức kinh doanh, vấn đề còn phức tạp hơn vì việc tuân thủ đạo đức trong ngắn hạn thường không đem lại lợi nhuận cho doanh nghiệp, trong khi lợi nhuận mới là mục đích chính của doanh nghiệp. Vì vậy, các cơ quan hữu quan cần có những biện pháp để khuyến khích doanh nghiệp có thành tích trong đạo đức kinh doanh như trong các giải Sao Vàng Đất Việt, Bông Hồng Vàng… có thể đưa việc có thành tích trong đạo đức kinh doanh là một tiêu chuẩn để xét. Các cơ quan thông tin đại chúng có thể đăng bài tôn vinh những doanh nghiệp đạt tiêu chuẩn này… Ngược lại, các cơ quan quản lý cũng cần có biện pháp phạt những doanh nghiệp vi phạm đạo đức kinh doanh với mức phạt tương xứng. Không thể tiếp tục tình trạng doanh nghiệp buộc người lao động làm thêm giờ 16 - 20h/ngày hàng tuần liền đến mức lao động ngất xỉu mà chỉ bị phạt vài triệu VND; Các doanh nghiệp vi phạm quy định bảo vệ môi trường như xả hóa chất ra sông làm cá chết hàng loạt, người dân không có nước sinh hoạt. mà lại được cho phép tiếp tục hoạt động trong khi tìm biện pháp xử lý…. Cũng như văn hóa, đạo đức nói chung và đạo đức kinh doanh nói riêng là những phạm trù phức tạp, cần nhiều thời gian và công sức để hoàn thiện và phát triển. Là một quốc gia đang phát triển, mới tham gia vào tiến trình toàn cầu hóa, những phạm trù như văn hóa kinh doanh, đạo đức kinh doanh còn khá mới mẻ ở Việt nam. Được biết trong thời gian tới, chính phủ Việt Nam đang có chủ trương nâng cao trình độ nhận thức cho người dân và doanh nghiệp về các vấn đề có liên quan đến hội nhập và toàn cầu hóa. Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng đang khuyến cáo các trường Đại học và Cao đẳng cần đổi mới chương trình đào tạo cho phù hợp với trình độ chung trên thế giới. Có được Đánh giá thực trạng đạo đức kinh doanh của các doanh nghiệp tại Việt Nam GVHD: Trương Hòa Bình - 35- SVTH: Trần Văn Thiết những yếu tố thuận lợi này và truyền thống đạo đức lâu đời của người Việt Nam, hy vọng là trong thời gian tới, nhận thức của người VN về đạo đức kinh doanh sẽ nhanh chóng được nâng cao, góp phần duy trì sự phát triển bền vững và nâng cao chất lượng đời sống cho người dân Việt Đánh giá thực trạng đạo đức kinh doanh của các doanh nghiệp tại Việt Nam GVHD: Trương Hòa Bình - 36- SVTH: Trần Văn Thiết Tài liệu tham khảo  Đạo đức doanh nhân Việt Nam hiện nay tID=16.  Đạo Đức Kinh Doanh của Doanh Nhân đối với Đối Tác và “Đối Thủ” :  Trúc Nam Sơn : “Đạo đức kinh doanh và sự chùn tay của luật pháp”, tay-cua-luat-phap.html  Phạm Kinh Bắc : “Báo động về đạo đức kinh doanh”-  Kim Thủy: “Bình ổn” đạo đức kinh doanh” - su/2011/05/1054571/binh-on-dao-duc-kinh-doanh/  TS.Hồ Tất Thắng Doanh nghiệp & đạo đức kinh doanh vì người tiêu dùng - &id=388:doanh-nghip-a-o-c-kinh-doanh-vi-ngi-tieu-dung&catid=67:kinh- doanh&Itemid=193  www.thesaigontimes.vn  Vneconomy.com.vn  www.vtv.vn  www.sgtt.com.vn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf6chuyendeqtkd_nucuoido_blogspot_9959.pdf
Luận văn liên quan