Sản xuất bánh kẹo đang thả nổi, chưa có qui ho ạch của Nhà nước
nên việc phát triển chưa cân đối gây ra khó khăn cho các doanh nghiệp sản
xuất bánh kẹo. Đề nghị Nhà nước có những kế hoạch cụ thể điều hoà, điều
chỉnh lượng bánh kẹo sản xuất trong nước bằng cách chỉ cấp phát giấy phép
sản xuất bánh kẹo cho một số doanh nghiệp nhất định, xem xét lại việc liên
doanh ngành bánh kẹo, tránh tình trạng đầu tư tràn lan.
100 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2821 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Đầu tư nâng cao khả năng cạnh tranh của công ty bánh kẹo Hải Châu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tiếp tục phát triển và mở rộng thị trường về phía Nam, đặc biệt là
thực hiện được mục tiêu xây dựng và hoàn thiện hệ thống kênh phân phối trên
vùng thị trường này.
Để thực hiện tốt chiến lược phát triển thị trường của mình, Công ty đã
đề ra một số biện pháp sau:
Làm tốt công tác điều tra, thu thập, nắm bắt, xử lí kịp thời, đầy đủ
các thông tin về thị trường, về đối thủ cạnh tranh nhằm hoạch định chiến lược,
sách lược phù hợp về sản phẩm.
Hoàn thiện hệ thống chế độ, chính sách về tiêu thụ, đảm bảo linh
hoạt, kịp thời, phù hợp với diễn biến của thị trường. Tăng cường mối quan hệ
gắn bó với các đại lí để thúc đẩy hoạt động tiêu thụ của Công ty.
Đẩy mạnh hoạt động tiếp thị, bán hàng của cửa hàng giới thiệu sản
phẩm, văn phòng đại diện tại TP. HCM và Đà Nẵng, ưu tiên phát triển thị
trường đối với mặt hàng còn dư năng lực sản xuất.
II/ MỘT SỐ GIẢI PHÁP VỀ ĐẦU TƯ GÓP PHẦN NÂNG CAO KHẢ NĂNG CẠNH TRANH
CỦA CÔNG TY BÁNH KẸO HẢI CHÂU:
1. Giải pháp về vốn đầu tư:
Vốn là yếu tố quyết định hoạt động đầu tư của doanh nghiệp. Có vốn
để đầu tư và sử dụng vốn có hiệu quả là vấn đề Công ty bánh kẹo Hải Châu
đang phải đối mặt. Để giải quyết được vấn đề này, Công ty cần thực hiện một
số biện pháp sau:
Đa dạng hoá các nguồn vốn đầu tư:
Vay ngân hàng: Với các dự án đầu tư trên 5 tỉ đồng, Công ty thường tiến
hành vay Ngân hàng. Đây là nguồn vốn có thể huy động được nhiều nhất.
Tỉ lệ vốn vay Ngân hàng của Công ty hiện nay chiếm khoảng 40%. Bằng
77
việc sử dụng hiệu quả nguồn vốn này, Công ty đã trở thành bạn hàng đáng
tin cậy, đầy tín nhiệm, có quan hệ hợp tác làm ăn lâu dài với Ngân hàng
Đầu tư và phát triển Hà Nội. Công ty nên tận dụng mối quan hệ này để huy
động vốn. Tuy nhiên, vay Ngân hàng phải trả lãi cao, phải có tổ chức bảo
lãnh, có dự án kinh doanh khả thi và mất nhiều thời gian chờ xét duyệt nên
nhiều lúc không đáp ứng kịp thời về vốn cho sản xuất kinh doanh.
Nguồn vốn từ khấu hao: Hiện nay, khấu hao cơ bản hàng năm của Công ty
khoảng 10 tỉ đồng, trong đó lượng trích ra để đổi mới thiết bị công nghệ
khoảng 6 tỉ, chiếm 60%. Nhưng trong thời gian này Công ty áp dụng tỉ lệ
khấu hao tương đối thấp với những máy móc thiết bị cũ. Công ty có thể
tăng nguồn vốn khấu hao cơ bản bằng cách tăng tỉ lệ khấu hao mà vẫn đảm
bảo sản xuất có lãi và đúng theo qui định của Nhà nước ( các DNNN được
giữ lại toàn bộ khấu hao cơ bản TSCĐ thuộc nguồn vốn Nhà nước cấp để
đầu tư đổi mới thiết bị, có thể áp dụng tỉ lệ khấu hao nhanh đối với máy
móc thiết bị lên đến 20% cho những dự án đầu tư đổi mới công nghệ cần
khấu hao nhanh). Nhưng để áp dụng biên pháp này có hiệu quả, Công ty
cần điều chỉnh một tỉ lệ khấu hao hợp lí sao giá thành không tăng lên quá
cao.
Nguồn vốn từ lợi nhuận để lại: Hiện nay tổng lợi nhuận để lại của Công ty
khoảng 16 tỉ đồng và được phân phối vào quĩ đầu tư phát triển là 14 tỉ
đồng. Bổ sung vốn từ lợi nhuận là một giải pháp tốt để tăng tiềm lực vốn
tự có của Công ty.
Vay cán bộ công nhân viên chức: Đây là một trong những biện pháp huy
động vốn rất sáng tạo của Công ty. Nó giải quyết một cách kịp thời tình
trạng thiếu vốn cho hoạt động đầu tư, mặc dù nguồn vốn này chiếm một tỉ
lệ nhỏ. Để huy động tốt hơn nguồn này, Công ty cần: có những biện pháp
khuyến khích và động viên những người đã gửi tiền vào Công ty với số
lượng lớn và thời gian dài, tạo điều kiện nhận gửi và rút tiền nhanh chóng
cho CBCNV, thanh toán lãi đúng hạn...
Liên doanh - liên kết: Vốn thu hút từ bên ngoài thường có khối lượng lớn
và chất lượng cao (vốn công nghệ). Công ty có thể thông qua Nhà nước
kêu gọi các nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và nguồn vốn hỗ
trợ chính thức (ODA)... có thể bằng tiền mặt hoặc máy móc thiết bị công
nghệ mới.
78
Mặc dù thất bại ở lần liên doanh sản xuất sôcôla với Bỉ năm 1996,
nhưng so sánh tiềm lực của Công ty hiện nay cũng như yêu cầu nâng cao trình
độ công nghệ và kinh nghiệm quản lí trong sản xuất kinh doanh, Công ty có
thể xem xét thành lập liên doanh để tận dụng vốn đầu tư của đối tác nước
ngoài. Kinh nghiệm của một số doanh nghiệp sản xuất kinh doanh điển hình
trong ngành công nghệ thực phẩm như công ty bánh kẹo Hải Hà, công ty kĩ
nghệ thực phẩm Việt Nam cho thấy: họ rất chú trọng thu hút vốn đầu tư nước
ngoài từ liên doanh. Công ty bánh kẹo Hải Châu có thể lập một phân xưởng
kẹo liên doanh với đối tác nước ngoài để mở rộng qui mô sản xuất của mình,
nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm kẹo - loại sản phẩm yếu thế nhất của
Công ty- để có thể đưa sản phẩm này ra thị trường quốc tế, nói cách khác là
để quốc tế hoá sản phẩm như công ty kĩ nghệ thực phẩm Việt Nam đã làm và
đã thành công.
Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn:
Để sử dụng vốn có hiệu quả, Công ty cần nghiên cứu kĩ các cơ hội đầu
tư, làm tốt các công tác từ chuẩn bị đầu tư đến thực hiện đầu tư và đưa dự án
vào khai thác sử dụng. Đồng thời, cần đẩy mạnh tiêu thụ, tăng nhanh vòng
quay của vốn lưu động, giảm bớt các khoản nợ của đại lí. Xây dựng một mô
hình tồn kho hợp lí cả về dự trữ nguyên vật liệu lẫn thành phẩm nếu không sẽ
làm tăng chi phí và chậm vòng quay của vốn. Hạn chế tối đa sự lãng phí
nguyên vật liệu trong sản xuất. Nghiên cứu các biện pháp tái sản xuất phế
phẩm, phụ phẩm.
2. Giải pháp về thiết bị công nghệ:
Đối với một công ty đang trên đà phát triển như Bánh kẹo Hải Châu,
thiết bị công nghệ luôn được đặt ở vị trí tầm chiến lược. Để có thể phát triển
với tốc độ cao, xâm nhập được nhiều vùng thị trường mà vẫn bảo đảm sự tồn
tại lâu dài của Công ty thì Công ty cần xem xét, đánh giá đúng mối quan hệ
giữa đầu tư chiều sâu và chiều rộng trong việc đầu tư vào thiết bị máy móc.
Đầu tư chiều sâu đổi mới công nghệ có trọng điểm, thay thế dần
máy móc thiết bị lạc hậu, đồng bộ hoá dây chuyền sản xuất:
79
Đổi mới công nghệ là điều kiện bắt buộc, có ý nghĩa sống còn với các
doanh nghiệp Việt Nam hiện nay, bởi thông qua đó, sản phẩm (đặc biệt là các
sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao) có chất lượng đủ sức cạnh tranh trong
thị trường nội địa và xâm nhập vào thị trường quốc tế. Để nâng cao chất
lượng sản phẩm tiến tới hạ giá thành sản phẩm cũng có thể dựa vào trình độ
quản lí, kỉ luật lao động... song những biện pháp này không làm thay đổi một
cách đáng kể. Riêng về sản phẩm bánh kẹo thị hiếu luôn luôn thay đổi, sản
phẩm mới ra đời rất nhanh chóng nhưng chu kì sống của nó cũng rất ngắn.
Nếu cứ bám lấy phương pháp sản xuất lạc hậu, máy móc cũ kĩ, mặt hàng hết
mốt, thị trường không mở rộng thì sẽ bị thất bại. Vì vậy, máy móc thiết bị
công nghệ là yếu tố quyết định sự tồn tại của sản phẩm trên thị trường qua sự
chấp nhận của người tiêu dùng, quyết định sự tồn tại và khả năng cạnh tranh
của doanh nghiệp, là yếu tố duy nhất cho phép doanh nghiệp có thể thu được
lợi nhuận siêu ngạch.
Yêu cầu nâng cấp, hiện đại hoá dây chuyền sản xuất của Công ty là cần
thiết nhưng do hiện nay khả năng tài chính của Công ty còn hạn chế nên chưa
thể đổi mới toàn bộ công nghệ mà cần phải đổi mới dây chuyền có trọng
điểm.
Trước hết phải xác định khâu trọng điểm để đổi mới công nghệ. Hiện
Công ty có những dây chuyền công nghệ sau:
- Dây chuyền sản xuất bánh Hương Thảo
- Dây chuyền sản xuất các loại bánh qui Hải Châu
- Dây chuyền sản xuất bánh kem xốp
- Dây chuyền phủ sôcôla
- Dây chuyền sản xuất kẹo mềm
- Dây chuyền sản xuất kẹo cứng
- Dây chuyền sản xuất sôcôla
- Dây chuyền sản xuất bột canh thường
- Dây chuyền sản xuất bột canh iốt
Vấn đề đặt ra là phải xác định được trong giai đoạn hiện nay dây
chuyền nào thích hợp để đổi mới công nghệ. Theo tôi, Công ty nên tập trung
80
đổi mới công nghệ cho dây chuyền sản xuất bánh qui Hải Châu và bánh
Hương Thảo vì các lí do sau:
Thứ nhất: Các loại bánh qui và bánh Hương Thảo là những sản phẩm
truyền thống của Công ty. Hơn nữa, các sản phẩm này lại chiếm tỉ trọng khá
lớn trong tổng sản lượng của Công ty (năm 2001 chiếm 21,9%). Hiện nay,
vào mùa lạnh, Công ty luôn lâm vào tình trạng thiếu sản phẩm để bán, nhất là
trong các dịp lễ tết. Nguyên nhân là do dây chuyền sản xuất quá cũ và lạc hậu
(dây chuyền Hương Thảo có từ năm 1965), trong quá trình sản xuất thường
xảy ra hỏng hóc nên năng suất giảm, không đủ cung cấp ra thị trường. Do
vậy, đầu tư đổi mới thiết bị công nghệ dây chuyền sản xuất các loại bánh qui
Hải Châu và Hương Thảo là điều nên làm. Nó giúp cho Công ty tăng năng
suất, nâng cao chất lượng sản phẩm, duy trì được thị phần mà Công ty đã có,
không tạo ra những khoảng trống để đối thủ cạnh tranh len vào, từ đó nâng
cao khả năng cạnh tranh của Công ty.
Thứ hai: Với hai dây chuyền sản xuất bánh kem xốp và bánh phủ, đây
là những dây chuyền Công ty mới nhập của CHLB Đức. Hai dây chuyền này
cho năng suất cao và chất lượng tốt, đảm bảo việc cung cấp bánh ra thị
trường. Mặt khác, Công ty cũng mới đầu tư nâng công suất dây chuyền bánh
kem xốp vào năm 2001 vừa qua. Do đó, việc thay đổi thiết bị công nghệ dây
chuyền chưa mang tính cấp thiết. Công ty tạm thời chưa tiếp tục đầu tư vào
đây.
Thứ ba: Với Công ty, kẹo chưa phải là có thế mạnh, tỉ trọng chiếm
trong sản lượng bánh kẹo là ít. Năm 1996, Công ty đã nhập hai dây chuyền
sản xuất kẹo cứng và kẹo mềm của CHLB Đức nhưng rất ít khi tận dụng được
hết công suất. Với hai dây chuyền này, Công ty yên tâm về chất lượng và số
lượng kẹo sản xuất ra. Muốn nâng cao được sức cạnh tranh của sản phẩm kẹo
thì Công ty cần quan tâm hơn nữa ở khâu công thức làm kẹo như lựa chọn,
phối trộn nguyên liệu, nấu kẹo... chứ chưa cần thay đổi thiết bị công nghệ.
Thứ tư : Hai dây chuyền sản xuất bột canh mặc dù có nhiều khâu thủ
công, lạc hậu nhưng do yêu cầu về mặt xã hội là đảm bảo việc làm cho người
lao động nên việc hiện đại hoá phải tính toán nhiều mặt: về thời gian (tốc độ)
tiến hành, mức độ hiện đại hoá... Vả lại, bột canh vẫn là sản phẩm có uy tín
trên thị trường, chất lượng tốt, tốc độ tiêu thụ mạnh, có sức cạnh tranh lớn nên
thời gian tới chưa cần tập trung đầu tư.
81
Qua phân tích ở trên ta thấy rằng việc thay đổi dây chuyền bánh qui
Hải Châu và bánh qui Hương Thảo là cần thiết nhất đối với Công ty lúc này.
Và việc đầu tư vào đây sẽ mang lại hiệu quả kinh tế cao.
Tuy vậy, để tiến hành đổi mới công nghệ có hiệu quả, tránh được
những rủi ro có thể xảy ra, Công ty cần xác định được một số điểm sau:
? Mua dây chuyền ở đâu.
? Công suất và mức tiêu hao năng lượng của máy.
? Hình thức và cách thức mua như thế nào.
? Tổng mức vốn mà Công ty cần phải đầu tư vào dây chuyền là bao
nhiêu, số vốn này huy động từ đâu.
? Thời gian, địa điểm, phương thức thanh toán.
Theo tôi, Công ty nên mua dây chuyền sản xuất bánh qui Hải Châu và
bánh Hương Thảo của ITALIA, với công suất khoảng 3 - 3,5 tấn/ ca. Đây là
dây chuyền hiện đại nhất Việt Nam hiện nay. Muốn thực hiện được dự án
này, Công ty nên kí kết hợp đồng trao đổi bánh kẹo của Công ty với dây
chuyền sản xuất của họ vì người Italia rất thích những sản phẩm bánh kẹo
mang hương vị nhiệt đới, giá cả của Việt Nam lại rẻ. Hiện nay họ cũng đã
nhập khẩu một số sản phẩm của Công ty bánh kẹo Hải Hà. Thực hiện tốt giải
pháp này sẽ giúp Công ty không phải trả một khoản tiền lớn ngay một lúc mà
có thể trả dần. Đặc biệt vào các tháng nóng ở Việt Nam, nhu cầu tiêu thụ
trong nước thấp, Công ty có thể đưa bánh kẹo sang Italia vì ở đây thời tiết
quanh năm mát mẻ, nhu cầu tiêu dùng hầu như không đổi theo mùa. Điều đó
sẽ mang lại cho Công ty một phần lợi nhuận trong số sản phẩm mang đi đổi
làm cho giá mua thực tế của dây chuyền sản xuất giảm, sản phẩm của Công ty
có cơ hội thâm nhập vào thị trường mới.
Hơn nữa, thực hiện thành công dự án trên sẽ đem lại hiệu quả thiết thực
cho Công ty ở chỗ, chất lượng sản phẩm được nâng cao, giá thành sản phẩm
hạ, ưu thế cạnh tranh của Công ty so với các đối thủ khác được nâng lên.
Chúng ta có thể lấy ví dụ hiệu quả mang lại đối với sản phẩm bánh
Hương Thảo:
Năm 2001, sản lượng bánh Hương Thảo là 1.206.396 kg. Ta có thể dự
kiến mức tăng lợi nhuận do đổi mới dây chuyền công nghệ mang lại qua công
thức sau:
82
P = ( G1 - Z1 ) * Q1 - ( G0 - Z0 ) * Q0
Trong đó: P: mức tăng lợi nhuận do áp dụng công nghệ mới.
G0 : giá bán một đơn vị sản phẩm trước khi đổi mới công nghệ
Z0 : giá thành một đơn vị sản phẩm trước khi đổi mới công nghệ
Q0 : sản lượng sản xuất trước khi đổi mới công nghệ
G1 : giá bán một đơn vị sản phẩm sau khi đổi mới công nghệ
Z1 : giá thành một đơn vị sản phẩm sau khi đổi mới công nghệ
Q1 : sản lượng sản xuất sau khi đổi mới công nghệ
Dự kiến mức tăng lợi nhuận của bánh Hương Thảo do đổi mới thiết bị
công nghệ là:
Trước khi đổi mới công nghệ Sau khi đổi mới công nghệ
G0 (đồng) Z0 (đồng) Q0 (kg) G1 (đồng) Z1 (đồng) Q1 (kg)
10.240 10.040 1.206.396 10.200 9.540 1.800.000
P = (10.200 - 9.540) *1.800.000 - (10.240 -10.040) *1.206.396
= 946.720.800 (đồng)
Như vậy, nếu Công ty thay đổi dây chuyền sản xuất bánh Hương Thảo
thì mức lợi nhuận sẽ tăng là 946.720.800 đồng; nâng cao được số lượng, chất
lượng sản phẩm, giảm sản phẩm hỏng và hạ giá thành xuống 40 đồng/ kg.
Ngoài việc đổi mới các dây chuyền sản xuất cũ như bánh Hương Thảo,
Hải Châu, Công ty có thể hiện đại hoá các dây chuyền sản xuất các loại sản
phẩm khác. Nhưng chiến lược đổi mới thiết bị phải xuất phát từ khả năng
cạnh tranh :
+ Lựa chọn thiết bị công nghệ thích hợp: Mức độ hiện đại hoá phù hợp
với điều kiện doanh nghiệp hiện nay (về tài chính, trình độ tiếp nhận của
CBCNV...).
+ Công ty có thể nhập các thiết bị hiện đại để nâng cao chất lượng sản
phẩm, sau đó đầu tư mở rộng. Có thể mua sắm các thiết bị lẻ để giải quyết các
công đoạn xung yếu nhất ( như đã làm với dây chuyền kẹo). Bên cạnh đó, đầu
tư cho thiết bị phải tính toán xem khả năng sản xuất có đủ sức khấu hao và
83
ảnh hưởng tới giá thành hay không. Các bộ thiết bị đều phải tính đến khả
năng mở rộng công suất.
+ Công ty có thể kết hợp bước đi tuần tự và không tuần tự. Một mặt
phải tranh thủ công nghệ hiện đại mang tính ĐÓN ĐẦU, đẩy mạnh những
công nghệ tạo ra sản phẩm tiêu dùng có chất lượng cao. Mặt khác hiện đại
hoá công nghệ truyền thống, đòi hỏi vốn không lớn, thu hút nhiều lao động.
+ Đầu tư chiều sâu đối với máy móc thiết bị đòi hỏi một lượng vốn và
có độ rủi ro cao. Nhưng không vì ham công nghệ rẻ mà bỏ quên tính đồng bộ
của nó. Nghĩa là phạm vi đổi mới công nghệ phải bao gồm cả 4 thành phần
công nghệ (trang thiết bị, kỹ năng con người, thông tin, tổ chức thể chế) có
như vậy hiệu quả đầu tư mới cao. Theo thống kê của thế giới: " Nếu chỉ chú ý
đến 1 trong 4 thành phần của công nghệ thì khả năng thành công của công
nghệ chỉ đạt khoảng 20%, nếu chú ý tới 2 thành phần thì mức độ thành công
lên đến 45%. Muốn khả năng thành công là chắc chắn phải nghiên cứu kĩ
lưỡng cả 4 thành phần và quan hệ giữa chúng".
Đầu tư chiều rộng: có thể tiến hành các cách sau:
Mở rộng quy mô sản xuất các sản phẩm của Công ty trong khu vực
địa bàn Công ty hiện nay. Với các sản phẩm tiêu thụ nhiều nhưng lãi không
lớn như lương khô và bột canh, Công ty cần tiếp tục mở rộng sản xuất để đáp
ứng nhu cầu thị trường. Các sản phẩm này tuy không đem lại lợi nhuận cao
nhưng sự có mặt của chúng làm đa dạng hoá sản phẩm, duy trì hoạt động sản
xuất của Công ty khi cầu thị trường về các sản phẩm khác giảm, giúp Công ty
phân tán rủi ro. Mặt khác, đây là các sản phẩm truyền thống và có uy tín.
Trong khi đó, tạo dựng niềm tin của khách hàng vào sản phẩm và Công ty
không phải là dễ, đó là cả một nỗ lực lớn trong thời gian dài - Công ty cần
phải biết gìn giữ và khai thác. Một khi khách hàng đã biết đến một vài sản
phẩm có uy tín thì các sản phẩm khác (hiện có và chưa có) sẽ nhờ đó mà dễ
dàng nổi tiếng theo.
Công ty nên lắp đặt dây chuyền thiết bị sản xuất sản phẩm của mình
ở các tỉnh thành khác, đặc biệt là miền Nam và miền Trung - nơi bánh kẹo
Hải Châu đang muốn chiếm lĩnh thị trường. Thực tế các doanh nghiệp bánh
kẹo khác đã làm: Hải Hà có nhà máy chế biến ở Việt Trì, Kinh Đô vào cuối
năm 2002 cho xây dựng nhà máy ở Bình Dương. Xây dựng các nhà máy ở
các tỉnh khác, đặc biệt là vùng nông thôn sẽ tiết kiệm được chi phí vận chuyển
84
và bảo quản nguyên vật liệu, chi phí vận chuyển hàng hoá, chi phí nhân công
thấp... Nếu có nhà máy ở miền Trung và miền Nam sẽ tiết kiệm được chi phí
vận chuyển hàng hoá tới các thị trường này, xâm nhập thị trường kịp thời hơn,
có các cơ hội canh tranh với các sản phẩm của Kinh Đô, Biên Hoà...
3. Đầu tư cho đào tạo nguồn nhân lực và bộ máy quản lí:
Về vấn đề con người, Công ty cần tiếp tục đổi mới quan điểm tư duy về
công tác quản trị con người trong doanh nghiệp. Trên cơ sở những chính sách
vĩ mô của Nhà nước, cần có quan điểm rõ ràng về vấn đề lao động và quản trị
nguồn nhân lực. Trước hết phải coi con người là nguồn tài nguyên quí giá
nhất của hoạt động kinh doanh, là yếu tố quyết định sự thành bại của Công ty.
Khi khai thác nguồn nhân lực phải chú ý cả hai mặt: hiệu quả kinh tế và hiệu
quả xã hội. Chuyển đổi việc quản trị nhân sự từ quan điểm "tiết kiệm chi phí
lao động để giảm giá thành, tăng hiệu quả" sang quan điểm "đầu tư vào nguồn
nhân lực để có lợi thế cạnh tranh cao hơn, có lợi nhuận cao hơn và hiệu quả
cao hơn".
Nâng cao năng lực làm việc của đội ngũ lao động: Đây là giải pháp
nhằm không ngừng nâng cao chất lượng của đội ngũ lao động thông qua việc
tuyển dụng, đào tạo và phát triển nhân sự. Công ty phải coi vấn đề lựa chọn
trong tuyển dụng là vấn đề then chốt trong giai đoạn hiện nay. Tổ chức thi
tuyển công khai và nghiêm túc nhằm lựa chọn được người theo đúng yêu cầu
công việc. Kiên quyết gạt bỏ những người không có năng lực vào làm việc
trong bất cứ vị trí nào của Công ty, tránh tình trạng tuyển dụng chỉ dựa vào
các quan hệ tình cảm cá nhân hoặc các động cơ tiêu cực khác. Công ty nên
xây dựng một hệ thống tiêu chuẩn nhân sự rõ ràng trên cơ sở phân tích công
việc có khoa học và thực tế. Việc đào tạo nhân sự phải dựa trên các định
hướng nghề nghiệp, các nguyện vọng khả năng phát triển từng nhân viên. Từ
đó lựa chọn hình thức và phương pháp đào tạo thích hợp cho từng đối tượng.
Đối với lao động quản lí (gồm các cán bộ kĩ thuật và kinh tế) : Hằng
năm cử đi học bổ sung kiến thức tại các trung tâm, viện, trường. Những người
chọn đi học phải là những người có khả năng và trung thành với Công ty. Chi
phí đào tạo sẽ do Công ty thanh toán, nhưng trước khi cử đi học, Công ty cần
kí hợp đồng với họ để đảm bảo sau khi học những người đó vẫn tiếp tục làm
việc cho Công ty. Thời gian học có thể vào các buổi tối theo lịch do Công ty
sắp xếp với các trung tâm đào tạo.
85
Đối với công nhân sản xuất : Quan tâm đến tay nghề công nhân bằng
cách tổ chức các cuộc kiểm tra trình độ thợ, tiến hành nâng bậc thợ hằng năm,
đào tạo nâng tay nghề cho người lao động. Về đào tạo, có thể tiến hành dưới
các hình thức sau:
+ Giới thiệu công nghệ và phương pháp sản xuất mới: Công ty có thể
tổ chức các lớp học cho người lao động do các chuyên gia về công nghệ đảm
nhận nhưng cũng có thể do chính cán bộ trong Công ty giảng dạy. Nhược
điểm của biện pháp này là lãng phí thời gian vì công nhân phải bỏ sản xuất để
tham gia lớp học, Công ty phải tốn một khoản kinh phí không nhỏ để thuê
chuyên gia về giảng.
+ Trong trường hợp chỉ cần nâng cao tay nghề trên thiết bị công nghệ
cũ thì có thể áp dụng biện pháp hướng dẫn ngay tại phân xưởng. Các công
nhân có kinh nghiệm có thể hướng dẫn cho những người ít kinh nghiệm hơn
tại dây chuyền sản xuất. Biện pháp này vừa tiết kiệm được chi phí và thời
gian mà lại đạt hiệu quả cao do người lao động có thể kết hợp giữa lí thuyết
và thực hành một cách nhanh chóng.
Đầu tư cải tạo môi trường làm việc, tạo điều kiện làm việc thoải mái,
nâng cao năng lực làm việc cho người sản xuất. Hiện nay, Công ty đã làm rất
tốt công tác bảo hộ lao động, bảo đảm an toàn trong sản xuất. Sắp tới, Công ty
cần lập quĩ khấu hao hợp lí để có thể tái đầu tư nâng cấp nhà xưởng, sữa chữa
mua mới máy móc thiết bị, tạo điều kiện cho người lao động được tiến hành
sản xuất trong điều kiện hiện đại nhất có thể.
Bên cạnh đầu tư cho chất lượng lao động là việc hoàn thiện bộ máy tổ
chức. Để có thể hoàn thành tốt công tác kinh doanh thì Bộ máy quản lí của
Công ty phải được tổ chức chặt chẽ, khoa học, gọn nhẹ và phù hợp với mục
tiêu chiến lược kinh doanh. Có thế thì việc truyền đạt thông tin và phối hợp
hành động giữa các bộ phận mới hiệu quả. Việc phân chia nhiệm vụ và quyền
hạn phải rõ ràng, đúng với chức năng của từng bộ phận, tránh tình trạng một
bộ phận phải thực hiện nhiều chức năng như hiện nay. Chẳng hạn như phòng
Kế hoạch vật tư phải thực hiện nhiều nhiệm vụ khác nhau: quản lí vật tư, đưa
ra các kế hoạch sản xuất- tiêu thụ, quảng cáo... nên hiệu quả công việc chưa cao.
4. Đầu tư cho mở rộng thị trường và tăng cường các hoạt động Marketing:
4.1. Tăng cường công tác điều tra nghiên cứu thị trường:
86
Ngày nay, trong một môi trường cạnh tranh gay gắt, để tồn tại và phát
triển thì trước khi chế tạo ra một sản phẩm mới hay thâm nhập vào một môi
trường kinh doanh mới, người sản xuất phải nghiên cứu kĩ lưỡng thị trường để
xác định xem:
Thực tế thị trường có tồn tại nhu cầu về sản phẩm đó hay không?
Nghiên cứu có đúng đắn không?
Qui mô của khu vực có thể coi là thị trường như thế nào?
Luôn luôn đánh giá thị trưòng là điều cốt tử vì không có thị trường nào
là tĩnh cả. Sự hiểu biết thị trường sâu sắc sẽ tạo điều kiện cho các nhà sản xuất
phản ứng với những biến động của thị trường một cách nhanh nhạy, đồng thời
nhận biết được những cơ hội xuất hiện trên thị trường. Trên cơ sở nghiên cứu
thị trường bao gồm cả đối thủ cạnh tranh, Công ty có thể nhận thấy cơ hội nào
phù hợp , hấp dẫn để tiến hành khai thác.
Công ty bánh kẹo Hải Châu đã có những quan tâm nhất định đến vấn
đề này song chưa đạt hiệu quả cao. Trong khi lập chiến lược kinh doanh cho
những năm tới, Công ty cần xác định chính xác thị trường trọng điểm và xây
dựng Marketing hỗn hợp cho thị trường đó. Trên cơ sở thị trường hiện có,
Công ty tiến hành nghiên cứu kĩ lưỡng về các thị trường đó để xác định xem
khu vực thị trường nào cần đầu tư phát triển.
- Khu vực thị trường như Hà Nội khối lượng tiêu thụ tương đối lớn,
nhưng sản phẩm chủ yếu đáp ứng nhu cầu người thu nhập thấp và trung bình.
Công ty đã có những sản phẩm cao cấp để phục vụ người tiêu dùng có thu
nhập cao nhưng lượng tiêu thụ không lớn do chưa thích ứng được với nhu
cầu. Tiến tới, Công ty nên tiến hành nghiên cứu đưa ra sản phẩm phục vụ
nhóm khách hàng tiềm năng này.
- Khu vực các tỉnh phía Bắc tiêu thụ của Công ty tương đối đồng đều
các sản phẩm. Miền Trung là thị trường tiềm năng của Công ty. Thị trường
miền Nam đang trong giai đoạn xâm nhập. Sức mua của các thị trường này rất
lớn , sản phẩm của Công ty hoàn toàn có thể đáp ứng được yêu cầu của người
tiêu dùng, do đó Công ty nên tiến hành nghiên cứu các chiến lược Marketing
hỗn hợp với 4 tham số chính là sản phẩm, giá cả, phân phối và xúc tiến phù
hợp với đặc điểm của từng khu vực thị trường.
87
Để thực hiện thành công những mục tiêu đó, Công ty nên thành lập bộ
phận nghiên cứu thị trường thuộc phòng Thị trường. Hiện tại, công tác nghiên
cứu thị trường do phòng kế hoạch vật tư đảm nhiệm. Phòng KHVT thực hiện
nhiều chức năng khác nhau như lập kế hoach sản xuất, tiêu thụ, đảm bảo vật
tư cho sản xuất... nên hiệu quả nghiên cứu thị trường không cao, thông tin thu
thập kém chính xác. Thành lập phòng thị trường hay phòng Marketing sẽ tạo
thuận lợi cho công tác lập kế hoạch sản xuất và kế hoạch tiêu thụ trong những
năm sau. Phòng này có nhiệm vụ thu thập, xử lí thông tin có liên quan đến
hoạt động tiêu thụ, dự báo nhu cầu và xu hướng tiêu dùng trên thị trường.
Trên cơ sở các thông tin thu thập được, ban lãnh đạo Công ty đưa ra các quyết
định đúng, phù hợp với điều kiện thực tế.
Ngoài ra, Công ty cũng cần sự đầu tư thích đáng cho cán bộ nghiên cứu
thị trường, tuyển dụng những cán bộ có trình độ chuyên môn, năng động,
nhiệt tình. Thường xuyên tổ chức cho cán bộ đi khảo sát, điều tra thị trường,
thu thập thông tin từ phía các đại lí, người tiêu dùng và cả các khách hàng
tiềm năng của Công ty.
Hình thức thu thập thông tin thông qua các phiếu điều tra cũng được
thực hiện nhưng mới chỉ gửi cho các đại lí cấp 1 của Công ty và như vậy chưa
có những thông tin từ người tiêu dùng cuối cùng. Công ty có thể điều tra
người tiêu dùng về mức độ am hiểu về Công ty sản phẩm của Công ty, đối
tượng có thể là học sinh, sinh viên.
4.2. Nâng cao chất lượng và đa dạng hoá sản phẩm:
Sản phẩm là vấn đề sống còn của doanh nghiệp. Doanh nghiệp có thể
tồn tại và phát triển hay không tuỳ thuộc vào sức sống của sản phẩm. Sản
phẩm chỉ có thể tiêu thụ được khi nó đáp ứng được nhu cầu của thị trường, lôi
cuốn được sự tò mò của khách hàng, từ đó thúc đẩy họ đến quyết định mua và
tiêu dùng sản phẩm. Vì vậy, vấn đề nâng cao chất lượng , cải tiến tính năng
của sản phẩm, chế tạo ra sản phẩm mới là vấn đề cực kì quan trọng.
a) Nâng cao chất lượng sản phẩm:
Ngoài các biện pháp về kĩ thuật công nghệ đã nêu ở phần trước còn có
một số biện pháp sau:
A1) NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG Ở KHÂU THIẾT KẾ:
88
Giai đoạn thiết kế sản phẩm là khâu đầu tiên quyết định chất lượng sản
phẩm. Muốn chất lượng ở khâu này được đảm bảo thì các nhân viên kĩ thuật
phải đưa ra được các chỉ tiêu thông số dựa trên các yêu cầu sau:
- Đáp ứng được nhu cầu của khách hàng.
- Thích hợp với khả năng của Công ty.
- Đảm bảo tính cạnh tranh.
- Tối thiểu hoá chi phí.
Chất lượng sản phẩm giờ đây là do người tiêu dùng đánh giá. Do đó,
công tác thiết kế phải bám sát tình hình thực tế để điều chỉnh những chỉ tiêu,
thông số kĩ thuật, qui trình sản xuất.
Với những sản phẩm truyền thống, mặc dù các loại sản phẩm này đã có
thị trường nhưng công tác xây dựng các tiêu chuẩn kĩ thuật cũng cần tiếp tục
hoàn thiện để đưa ra các sản phẩm có chất lượng cao hơn nữa, tạo uy tín và
gây ấn tượng cho khách hàng.
Đối với bánh Hương Thảo cần thiết kế loại có kích thước nhỏ hơn,
mỏng hơn; pha trộn cần cho thêm hàm lượng chất béo và hương liệu để bánh
có hương vị đặc trưng, hấp dẫn hơn, đồng thời mặt bánh sẽ bóng hơn nhờ có
lớp cramen và lớp cramen này sẽ chống lại khả năng hút ẩm của bánh, độ
giòn của bánh sẽ được bảo vệ lâu hơn.
Bánh quy Hải Châu và một số loại bánh khác được sản xuất trên dây
chuyền Đài Loan: cần được tăng thiết độ bóng và giảm độ hút ẩm bằng cách
tăng hàm lượng dinh dưỡng và chất béo ở công đoạn pha trộn nguyên liệu. Có
hàm lượng tinh dầu hợp lí để hạn chế tình trạng bánh dính khuôn. Mặt khác,
nguyên vật liệu pha trộn phải khô hơn, thời gian trộn nguyên vật liệu nên kéo
dài sẽ tạo độ dẻo làm cho hỗn hợp dóc khuôn hơn, sản phẩm đẹp hơn.
Sản phẩm kẹo mặc dù bao gói đẹp nhưng hình dáng viên kẹo còn
xấu, không có tính thẩm mĩ. Để viên kẹo sản xuất ra vuông hơn, có góc cạnh
Công ty nên thiết kế một hệ thống thiết bị làm nguội nhanh viên kẹo sau công
đoạn cắt. Kẹo sau khi cắt đi qua bộ phận này sẽ trở nên cứng hơn và không bị
biến dạng ở công đoạn bao gói.
Để nâng cao hơn nữa chất lượng sản phẩm trong khâu thiết kế, Công ty
cần đẩy mạnh phong trào phát huy sáng kiến cải tiến kĩ thuật. Những sáng
89
kiến có giá trị cao sẽ được hội đồng xét duyệt của Công ty đề nghị cấp bằng
lao động sáng tạo trong năm.
A2) NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG Ở KHÂU CUNG ỨNG:
Sản phẩm bánh kẹo có chất lượng cao phụ thuộc vào nguyên vật liệu và
chất lượng của công tác cung ứng các yếu tố đầu vào. Công ty cần đảm bảo
thu mua nguyên vật liệu có chất lượng cao, đủ chủng loại, số lượng và kịp
thời sản xuất. Đa dạng hóa nguồn hàng cung cấp để có thể chủ động trong
khâu cung ứng, tạo được sự đối trọng giữa khách hàng về giá cả, chất lượng,
phương thức và thời hạn thanh toán. Cân đối dự trữ nguyên vật liệu hợp lí,
nhất là các loại nguyên liệu có tính thời vụ, địa điểm cung ứng xa. Từng bước
qui hoạch và nâng cấp kho tàng để bảo quản tốt hơn nguyên vật liệu, thành
phẩm, tránh hư hỏng, mất mát, hao hụt.
A3) NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG Ở KHÂU SẢN XUẤT:
Thực chất của hoạt động này là công tác quản lí chất lượng để sản
phẩm sản xuất ra phù hợp với tiêu chuẩn thiết kế.
Quản lí chất lượng mà tiêu biểu là kiểm tra chất lượng phải được tiến
hành xuyên suốt các công đoạn sản xuất. Các cán bộ kĩ thuật phải tiến hành
kiểm tra từ khâu phối liệu cho đến nướng bánh và kiểm tra chất lượng sản
phẩm hoàn thành. Ở khâu phối liệu công tác kiểm tra gồm: xác định tỉ lệ các
loại nguyên vật liệu đưa vào và mức độ phối liệu tính theo thời gian. Công
đoạn nướng bánh cần thiết kiểm tra lò nướng, điều chỉnh nhiệt độ phù hợp và
toả đều khắp khay bánh, giảm tỉ lệ bánh già lửa, tỉ lệ sản phẩm sai hỏng.
Kiểm tra thành phẩm là công đoạn cuối cùng để đi đến quết định cho
sản phẩm nhập kho, bán cho khách hàng để ngăn ngừa vệc đưa sản phẩm kém
chất lượng ra thị trường ảnh hưởng xấu đến uy tín của Công ty. Kiểm tra chất
lượng sản phẩm theo các công đoạn sản xuất theo nguyên tắc 3 kiểm tra là hết
sức cần thiết. Vì vậy việc làm này đòi hỏi cán bộ kiểm tra có chuyên môn
giỏi, tinh thần trách nhiệm cao cũng như đội ngũ công nhân có ý thức tốt
trong lao động sản xuất.
Tóm lại, nâng cho chất lượng sản phẩm là một yêu cầu cần thiết để
Công ty tiếp tục giữ vững hình ảnh " Hải Châu chỉ có chất lượng vàng ".
b) Đa dạng hoá sản phẩm:
90
Chiến lược đa dạng hoá sản phẩm của Công ty phải thể hiện việc mở
rộng, phát triển danh mục sản phẩm, đổi mới hợp lí cơ cấu sản phẩm trên cơ
sở thực hiện tốt các vấn đề sau:
b1. Đa dạng hoá chủng loại sản phẩm:
Việc nghiên cứu tìm tòi tăng thêm các chủng loại hàng hóa sản phẩm
nhằm tạo ra sự phù hợp hơn đối với các nhóm đối tượng tiêu dùng, tạo điều
kiện cho Công ty mở rộng và phát triển thị trường, đồng thời góp phần làm
cho nguồn sản phẩm thay thế trở nên dồi dào hơn. Đa dạng hoá chủng loại sản
phẩm không cần đầu tư nhiều vốn cho khâu kĩ thuật. Trên dây chuyền sản
xuất hiện có, Công ty có thể nghiên cứu thêm sản phẩm mới và thực hiện trên
dây chuyền sản xuất đó dưới hình thức sản xuất chuyển loạt.
Hiện tại, Công ty đang có ưu thế về sản phẩm bánh các loại trên thị
trường, vì vậy đa dạng hoá sản phẩm bánh các loại sẽ rất thuận lợi. Công ty
có thể nghiên cứu và cho sản xuất thêm các loại bánh khác với kích thước,
hình dáng, mùi vị khác nhau, phù hợp với từng đối tượng. Để sản phẩm kẹo
tiêu thụ nhiều có thể cho thêm các hương liệu mang mùi vị đặc trưng như
dâu, xoài, sầu riêng... Đối với trẻ em, hình dáng ngộ nghĩnh của các viên kẹo
sẽ hấp dẫn hơn, do đó Công ty có thể tạo ra các sản phẩm mang hình các con
giống khác nhau, nghiên cứu các sản phẩm kẹo dẻo, kẹo béo, kẹo có vị chua
để phục vụ các em. Đa dạng hoá sản phẩm mới sôcôla như sôcôla sữa, lạc (hạt
điều), cà phê, quả cây, vitamin (sôcôla thuốc).
Lương khô hiện nay được tiêu thụ với khối lượng lớn và có 4 loại khác
nhau: tổng hợp, dinh dưỡng, đậu xanh và cacao, có thể đưa thêm loại lương
khô có vị mặn, lương khô sữa để phục vụ người tiêu dùng.
Khai thác tối ưu sản phẩm bánh kem xốp - loại sản phẩm được người
tiêu dùng đánh giá cao. Là sản phẩm bánh cao cấp, ngoài hương vị sôcôla và
hoa quả hiện nay, Công ty có thể nhập các loại tinh dầu quí hiếm, hương vị
hấp dẫn để sản xuất các loại bánh mới lạ phục vụ đoạn thị trường có thu nhập
cao và có khả năng cạnh tranh với hàng ngoại.
b2. Đa dạng hoá mặt hàng kinh doanh:
91
Hiện tại Công ty đang sản xuất kinh doanh 3 mặt hàng chủ yếu là bánh,
kẹo và bột canh. Theo giấy phép kinh doanh được cấp ngày 9/11/1994 thì
Công ty còn có thể kinh doanh một số mặt hàng khác và có thể xuất khẩu trực
tiếp. Từ năm 1996 trở về trước, Công ty đã sản xuất các mặt hàng như rượu,
bia, mì ăn liền, sữa đậu nành... nhưng do sản xuất kinh doanh không hiệu quả
nên ngừng hoạt động.
Trong điều kiện hiện nay, với khả năng tài chính, thiết bị công nghệ ,
kinh nghiệm của mình, Công ty có thể tiến hành khảo sát, nghiên cứu nhu cầu
thị trường để mở rộng mặt hàng kinh doanh, tạo điều kiện cho Công ty tồn tại
và phát triển trên thị trường.
Ví dụ, với năng lực máy móc thiết bị hiện nay, Công ty có thể sản xuất
thêm MỨT các loại vào các dịp lễ tết. Sản xuất mứt mang tính chất mùa vụ rõ
rệt nên có thể tận dụng máy móc thiết bị hiện đại đa năng sẵn có của Công ty.
Tận dụng nước rỉ đường và nước rửa nồi nấu kẹo, Công ty có thể trở lại kinh
doanh mặt hàng rượu, tập trung sản xuất thêm các mặt hàng rượu vang, Sâm -
panh vì các loại rượu này thị trường Việt Nam đang có nhu cầu cao.
Ngoài ra, có thể đầu tư sản xuất thêm các loại bánh phục vụ mục đích
tiêu dùng khác nhau đang được tiêu thụ mạnh hiện nay như mục đích thưởng
thức có bánh snack, bim bim..., mục đích dinh dưỡng: các loại bánh cao cấp
Chocopie, bánh trứng..., dùng thay thế một phần thức ăn hàng ngày, phục vụ
bữa ăn công nghiệp: bánh tươi, bánh mặn, bánh mì các loại.
c) Cải tiến bao bì mẫu mã:
Mẫu mã bao gói là người bán hàng im lặng. Do đó, chất lượng bao gói
phải hết sức chú trọng. Theo ý kiến của các khách hàng lớn tham dự Hội nghị
khách hàng của Công ty, bao bì mẫu mã các loại kẹo đã thay đổi nhiều, phù
hợp hơn với người tiêu dùng nhưng sản phẩm bánh hầu như không thay đổi.
Sự thay đổi màu sắc trên bao bì sản phẩm bánh qui từ màu đỏ sang màu tím
và vàng đã không được người tiêu dùng chấp nhận nên không tiêu thụ được.
Hay thay đổi trọng lượng thùng kẹo từ 5,5 kg lên 7,5 kg và 9 kg cũng làm
cho sản phẩm khó bán. Bánh Hương Cam trọng lượng gói giảm xuống 175 gr,
nhỏ quá nên không bán được, đặc biệt là ở thị trường Ninh Bình.
Đối với các sản phẩm bánh kẹo hiện nay, Công ty nên tăng cường các
loại bao gói có hình thức sang trọng, lịch sự: giảm bao gói bằng túi ni lông,
tăng các loại hộp giấy, hộp sắt. Bánh nên có khay nhựa bên trong vừa bảo vệ
92
được sản phẩm, lại làm cho gói bánh có vẻ to hơn, nhiều hơn, dễ bán. Các loại
bánh kẹo được đựng trong các loại hộp có khối lượng lớn cần có nhiều chủng
loại khác nhau. Ví dụ: Hộp kẹo tổng hợp các loại, bánh qui tổng hợp các
loại...
Bột canh ngoài bao gói bằng túi ni lông có thể thêm hộp đựng bằng
nhựa, bên ngoài có in biểu tượng của Hải Châu vừa tiện cho khách hàng khi
sử dụng vừa có tác dụng quảng cáo trong thời gian dài.
Bao gói, qui cách sản phẩm hiện đang là điểm yếu của Công ty bánh
kẹo Hải Châu nhưng hoàn toàn có thể khắc phục được trong thời gian tới.
4.3. Sử dụng giá cả làm vũ khí cạnh tranh:
Đối với hàng hoá thông thường và thị trường có thu nhập thấp thì công
cụ giá bán có vai trò to lớn trong công tác tiêu thụ sản phẩm cũng như khả
năng cạnh tranh trên thị trường của Công ty. Nói chung trong ngành sản xuất
bánh kẹo thì các công ty thường cạnh tranh nhau bằng chính sách định giá
thấp. Công ty Hải Châu tuy có một số mặt hàng có giá bán thấp nhưng một số
mặt hàng khác giá vẫn còn cao. Vì vậy, trong tương lai, Công ty cần tiếp tục
tăng cường quản lí chi phí để có chính sách giá cả hợp lí hơn nữa, thông qua
các biện pháp giảm giá thành sản phẩm và giảm các khoản chi phí khác.
a) Giảm giá thành sản phẩm:
Giảm chi phí về nguyên vật liệu (NVL) :
Các sản phẩm bánh kẹo chi phí NVL chiếm tỉ trọng rất lớn trong giá
thành. Sản phẩm kẹo chi phí này thường chiếm 72 - 73 %. Do đó, giảm chi
phí NVL là hết sức quan trọng. Công ty có thể thực hiện các biện pháp
sau:
Tổ chức tốt công tác thu mua NVL: Nên chọn các nhà cung ứng ổn
định, giá cả phù hợp. Nghiên cứu, tìm tòi các nguồn cung ứng trong nước để
hạ giá thành. Đồng thời khi thu mua phải tính toán đến các chi phí vận
chuyển, lượng hao hụt để tổng chi phí thu mua là nhỏ nhất.
Giảm chi phí bảo quản, dự trữ NVL: Tồn kho vừa đủ đáp ứng sản
xuất, xác định định mức tiêu dùng NVL để từ đó xây dựng mức dự trữ tối ưu,
thực hiện tốt các biện pháp bảo quản và dự trữ trong kho, gồm: công tác tiếp
nhận NVL, bảo quản, cấp phát.
93
Sử dụng NVL thay thế: nhưng vẫn đảm bảo chất lượng sản phẩm.
Ngoài việc dùng dầu ăn thay bơ, mạch nha thay glucôza, Công ty có thể khai
thác các loại hương liệu chiết xuất từ các loại hoa quả có sẵn trong nước.
Giảm chi phí cố định, chi phí điện nước:
Với chi phí cố định là khấu hao TSCĐ: có thể giảm khoản chi phí này
trong đơn vị sản phẩm bằng cách tăng khối lượng sản phẩm sản xuất ra và
tìm biện pháp tiêu thụ với phương châm sản xuất đến đâu tiêu thụ đến đó.
Muốn vậy thì:
Trong đầu tư:
- Tiến hành nghiên cứu kĩ thị trường trước khi lựa chọn công
nghệ.
- Đầu tư có trọng điểm nâng cao hiệu quả của vốn cố định.
Trong sản xuất:
- Thường xuyên kiểm tra bảo dưỡng máy móc thiết bị để tránh
xảy ra sửa chữa lớn, làm tăng chi phí và ngừng trệ sản xuất.
- Tăng ca sản xuất, tận dụng triệt để công suất thiết bị.
Tiến hành thanh lí, nhượng bán TSCĐ không còn dùng để thu
hồi giá trị còn lại, đầu tư vào các thiết bị có lợi khác.
Tiến bộ của khoa học kĩ thuật ngày càng nhanh thì hao mòn vô hình
ngày càng lớn. Do đó, để chi phí TSCĐ là thấp nhất trên một đơn vị sản phẩm
đòi hỏi Công ty phải liên tục thực hiện công tác sản xuất, tiêu thụ tốt trong
những năm đầu của công nghệ.
Chi phí cố định là chi phí gián tiếp: có thể giảm tỉ lệ lao động gián tiếp
trong lực lượng lao động của Công ty, cơ cấu lại bộ máy quản lí sao cho
gọn gàng, hiệu quả.
Giảm chi phí nhiên liệu, điện nước:
Than nên mua loại có chất lượng cao, nhiệt lượng lớn để tăng
hiệu quả sử dụng. Bên cạnh đó cần trang bị thêm các thiết bị hiện đại, thay thế
các loại thiết bị sử dụng nhiên liệu đã lạc hậu, hao nhiên liệu, giữ nhiệt không
cao.
94
Điện sản phẩm chiếm chi phí với tỉ lệ cao. Để tiết kiệm, Công ty
nên lắp các công tơ điện và giao định mức sử dụng điện cho các dây chuyền
sản xuất. Khuyến khích mọi người tiết kiệm điện trong sản xuất và trong phục
vụ công cộng.
Cải tạo lại hệ thống dẫn nước, rò rỉ nước sạch ra ngoài và lắp đồng
hồ đo nước cho các phân xưởng, giáo dục mọi người ý thức tiết kiệm nước
sạch.
b) Giảm chi phí thương mại:
Giảm chi phí vận chuyển, bốc xếp:
Các chi phí tiêu thụ sản phẩm không tính vào giá thành nhưng là một
phần trong giá bán. Trong đó, chi phí vận chuyển bốc xếp chiếm một tỉ lệ khá
lớn. Công ty cần có các biện pháp vận chuyển linh hoạt, có thể áp dụng cho
các thị trường khác nhau.
Trước khi giao hàng cho khách, Công ty nên tham khảo ý kiến của họ
về phương thức vận chuyển. Nếu khách hàng có phương tiện vận chuyển và
có thể đảm bảo khâu bốc xếp thì Công ty nên trả cho họ chi phí đó. Nếu
khách hàng không có phương tiện vận chuyển thì Công ty tổ chức đưa hàng
đến tận nơi. Ngoài ra, có thể thành lập một đội xe lưu động theo các tuyến
khác nhau để đảm bảo hàng cho các đại lí tại Hà Nội.
Đối với các khu vực thị trường khác như miền Trung và miền Nam,
Công ty nên lựa chọn phương thức vận tải phù hợp, vừa đảm bảo về mặt thời
gian vừa tiết kiệm được chi phí. Mặt khác, do nhu cầu bánh kẹo vào thời kì
cuối năm chuẩn bị Tết và dịp đầu xuân, Công ty nên chủ động vận chuyển
trước thời kì mùa vụ để công tác vận chuyển đảm bảo kịp thời gian, giảm
được chi phí vận chuyển và cung cấp hàng hoá theo đúng hợp đồng cho các
đại lí.
Sử dụng hợp lí các chi phí quảng cáo, xúc tiến: Giảm chi phí cho lực
lượng bán hàng trực tiếp ở hai cửa hàng giới thiệu sản phẩm bằng cách bố trí
chặt chẽ, đúng số lượng cần thiết. Tính toán kĩ lưỡng việc mở thêm các đại lí:
Nếu số lượng đại lí quá nhiều mà mức tiêu thụ ở mỗi đại lí quá nhỏ thì không
những chi phí bán hàng tăng mà còn phát sinh nhiều chi phí thương mại liên
quan khác.
95
Tóm lại, Công ty nên tập trung mọi nỗ lực cho các khâu từ chuẩn bị,
cung ứng, thu mua, sản xuất, tiêu thụ để giảm bớt hao hụt, giảm chi phí, tạo
điều kiện hạ giá bán sản phẩm trên thị trường.
4.4. Tiếp tục xây dựng, củng cố hệ thống phân phối:
Hệ thống phân phối mà Công ty thiết lập được trên từng khu vực thị
trường hoạt động có hiệu quả và cần khai thác hết tiềm năng của hệ thống
này.
Tại thị trường Hà Nội, Công ty sử dụng kênh phân phối ngắn là chủ
yếu, thông qua cửa hàng giới thiệu sản phẩm trên đường Mạc Thị Bưởi và
Minh Khai để phân phối hàng cho các đại lí, khách hàng mua lẻ. Có thể thiết
lập một số cửa hàng giới thiệu sản phẩm nằm ở một số địa điểm khác ở Hà
Nội để tăng cường tiêu thụ. Ngoài ra, Công ty cũng cần quan tâm đến việc
phát triển hệ thống đại lí cấp 2,3, quản lí các đại lí này trong việc thực hiện tốt
các chính sách khuyến mại đến tận người tiêu dùng cuối cùng, đồng thời thu
nhận các thông tin phản hồi từ các đại lí và người tiêu dùng.
Tại khu vực thị trường các tỉnh, hệ thống phân phối của Công ty hoạt
động có hiệu quả ở một số tỉnh thông qua các đại lí cấp 1. Công ty thực hiện
các chính sách hỗ trợ đại lí để họ thực hiện các chương trình quảng cáo, giới
thiệu sản phẩm, tiêu thụ sản phẩm, thiết lập hệ thống các đại lí cấp 2, 3. Cần
hỗ trợ hơn nữa về chi phí tiếp thị, tăng chiết khấu theo doanh thu để họ tiêu
thụ sản phẩm nhiều hơn và thực hiện công tác tiếp thị tốt hơn. Mỗi vùng có
những đặc điểm khác nhau, nhân viên của Công ty lại phụ trách một số tỉnh
nên sự hiểu biết về các đặc điểm của thị trường không sâu bằng các đại lí nơi
đó. Do đó, tăng cường mối quan hệ với các đại lí sẽ giúp cho Công ty giảm
được chi phí thiết lập kênh phân phối ở khu vực đó.
Tại thị trường miền Nam, Công ty đang ở trong gian đoạn thiết lập hệ
thống kênh phân phối. Công ty Hải Châu xâm nhập thị trường này khi các đối
thủ cạnh trnh đã rất mạnh. Chẳng hạn, công ty Biên Hoà đã thiết lập được hệ
thống phân phối tương đối hoàn chỉnh. Hải Hà cũng đã thâm nhập được thị
trường miền Nam. Sản phẩm của Hải Châu mới xuất hiện tại một số siêu thị
của TP.HCM. Tiến tới Công ty cần hỗ trợ thêm nữa, tạo điều kiện thuận lợi để
văn phòng đại diện hoạt động có hiệu quả hơn.
96
Mặc dù thiết lập hệ thống cấp 2, 3 chủ yếu do đại lí cấp 1 nhưng Công
ty cần có các biện pháp để quản lí hệ thống đại lí nhỏ này, đảm bảo các chính
sách tiêu thụ của Công ty đến được người tiêu dùng. Điều này rất quan trọng
trong việc cạnh tranh với các đôí thủ. Có quản được các đại lí thì mới có thể
áp dụng một chính sách giá bán lẻ thống nhất trên các khu vực thị trường, bảo
vệ quyền lợi của người tiêu dùng. Đồng thời cần đối xử công bằng với mọi
đại lí, áp dụng triệt để các chính sách về tiếp thị, chế độ thưởng theo doanh
thu. Làm được điều đó, sản phẩm của Hải Châu sẽ ngày càng được người tiêu
dùng biết đến và uy tín của Công ty sẽ ngày càng được củng cố và phát triển.
Tóm lại, mở rộng đại lý là điều cần thiết song mở rộng phải đi đôi với
việc tăng cường quản lý, giúp các đại lý quản được vùng thị trường mà họ
đảm nhiệm; không nên mở rộng một cách ồ ạt để tránh tình trạng mất khả
năng kiểm soát, hoặc không có đủ hàng để cung cấp cho các đại lý, thị trường
sẽ mất ổn định và gây tổn thất cho Công ty.
4.5. Tăng cường các hoạt động quảng cáo, yểm trợ và xúc tiến bán
hàng.
Tăng cường quảng cáo trên các phương tiện thông tinđại chúng, pa nô
áp phích, trên các sản phẩm khuyến mại... lựa chọn một số tỉnh có khả năng
tiêu thụ mạnh để tổ chức quảng cáo. Nghiên cứu thiết kế nội dung chương
trình quảng cáo không chỉ đơn thuần cung cấp thông tin về các sản phẩm của
Hải Châu mà còn nên xây dựng một biểu tượng hấp dẫn về Hải Châu khiến
người tiêu dùng chú ý, quan tâm và quyết định mua sản phẩm. Chú ý hơn nữa
đến việc quảng bá, giới thiệu về sản phẩm mới.
Nâng cao uy tín và khuyến khích tiêu dùng nhiều hơn sản phẩm của
mình như những hàng hoá khuyến dụng. Hiện tại Công ty đang kinh doanh
hai loại sản phẩm có thể trở thành hàng hoá khuyến dụng là Bột canh iốt và
Kẹo vitamin các loại. Công ty nên thường xuyên lồng ghép các chương trình
của Nhà nước vào quảng bá sản phẩm. Khi hàng hoá khuyến dụng đã thoả
mãn nhiều hơn một nhu cầu nào đó của người tiêu dùng thì khách hàng sẽ
mua sản phẩm đó với khối lượng lớn.
Tích cực tham gia các hội trợ triển lãm, tăng cường hoạt động chào
hàng, bán thử, vùa để khuếch trương Công ty vừa để tiếp cận khách hàng,
lắng nghe ý kiến của họ, từ đó có sự thay đổi, điều chỉnh, cải tiến cho phù
hợp.
97
Đa dạng hoá các hình thức khuyến mãi: đối với sản phẩm mới nên kích
thích người mua dùng thử bằng các mời khách hàng ăn thử hoặc tặng sản
phẩm mẫu; sử dụng hình thức phiếu trúng thưởng (xổ số), phiếu dự thi, phiếu
mua hàng được giảm giá để kích thích khách hàng tiêu dùng sản phẩm của
Công ty.
Ngoài ra, Công ty còn có thể tham gia các hoạt động để khuếch trương
uy tín của Công ty như tài trợ cho một số hoạt động thể thao, văn hoá, tổ chức
các cuộc giao lưu ca nhạc giữa các chi đoàn của Công ty và địa phương, cấp
học bổng cho học sinh, sinh viên nghèo học giỏi... tham gia các hoạt động này
giúp Công ty thiết lập được hình ảnh, uy tín của mình trong công chúng.
III/. MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ
Ngành công nghiệp nhẹ được đánh giá là một ngành mũi nhọn nên
được sự quan tâm sâu sắc của Nhà nước, tuy còn rất nhiều khó khăn, trở ngại
trên con đường phát triển của ngành. Xuất phát từ một số tồn tại, khó khăn
của ngành nói chung, của Công ty bánh kẹo Hải Châu nói riêng, Nhà nước
cần có những chính sách hỗ trợ để tạo một môi trường đầu tư thuận lợi và
cạnh tranh có hiệu quả:
Tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp trong việc vay vốn để đầu
tư, đổi mới trang thiết bị hiện đại. Nhà nước đã ban hành một số cơ chế chính
sách nhằm giúp các doanh nghiệp đỡ căng thẳng về vốn. Để doanh nghiệp
hoạt động có hiệu quả hơn, đề nghị Nhà nước tiếp tục xem xét để cấp bổ sung
vốn lưu động và có cơ chế ưu tiên trong việc giải quyết thủ tục vay dài hạn tại
ngân hàng.
Sử dụng hiệu quả đòn bẩy thuế để kích thích sản xuất bánh kẹo trong
nước và tăng cường bánh kẹo xuất khẩu. Thuế suất thuế thu nhập doanh
nghiệp 32 % hiện nay là quá cao đối với ngành bánh kẹo vì lợi nhuận của sản
phẩm bánh kẹo thấp, cho nên Nhà nước cần xem xét lại vấn đề này.
Các chính sách về bảo hộ hàng hoá trong nước:
Tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp nhậ máy móc thiết
bị công nghệ hiện đại.
98
Tạo điều kiện trong việc nhập khẩu nguyên vật liệu phục vụ cho
sản xuất như bột mì, hương liệu, váng sữa, sữa bột để sản phẩm sản xuất ra có
đủ sức cạnh tranh với hàng ngoại.
Sản xuất bánh kẹo đang thả nổi, chưa có qui hoạch của Nhà nước
nên việc phát triển chưa cân đối gây ra khó khăn cho các doanh nghiệp sản
xuất bánh kẹo. Đề nghị Nhà nước có những kế hoạch cụ thể điều hoà, điều
chỉnh lượng bánh kẹo sản xuất trong nước bằng cách chỉ cấp phát giấy phép
sản xuất bánh kẹo cho một số doanh nghiệp nhất định, xem xét lại việc liên
doanh ngành bánh kẹo, tránh tình trạng đầu tư tràn lan.
Nhà nước nên có kế hoạch điều phối lượng bánh kẹo ngoại nhập,
kiểm tra chặt chẽ việc nhập khẩu tránh tình trạng nhập lậu, trốn thuế ảnh
hưởng đến sự ổn định của thị trường trong nước, đặc biệt là bánh kẹo Trung
Quốc.
Nhà nước nên nghiên cứu và thành lập trung tâm nghiên cứu và
trợ giúp các doanh nghiệp trong việc nghiên cứu thị trường nước ngoài, định
hướng xuất khẩu. Từ đó , các doanh nghiệp giảm bớt được chi phí nghiên cứu
thị trường nước ngoài và giảm được rủi ro do không có thông tin chính xác.
KẾT LUẬN
Cạnh tranh và nâng cao khả năng cạnh tranh là một vấn đề xuyên suốt
mọi thời kỳ hoạt động của các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh trong cơ chế
thị trường. Một doanh nghiệp cho dù đã giành thắng lợi trong cạnh tranh hiện
tại sau đó vẫn có thể bị thất bại nếu như doanh nghiệp đó không biết tìm cách
nâng cao hơn nữa khả năng cạnh tranh của mình. Môi trường kinh doanh càng
có nhiều cơ hội và xuất hiện lắm nguy cơ thì cạnh tranh để tồn tại, cạnh tranh
để phát triển ngày càng trở nên gay gắt giữa các doanh nghiệp. Vì vậy, một
yêu cầu đặt ra đối với mỗi doanh nghiệp là không ngừng đầu tư và đầu tư cố
hiệu quả cho sản phẩm và chất lượng sản phẩm, giá cả cũng như các hoạt
99
động thị trường, tăng cường thế mạnh của mình trong cạnh tranh, vượt qua
thách thức và tận dụng triệt để các cơ hội kinh doanh.
Mặc dù đã từng bước đi lên và khẳng định mình trên thương trường,
nhưng nâng cao khả năng cạnh tranh của Công ty bánh kẹo Hải Châu là rất
cần thiết. Đề tài: " Đầu tư nâng cao khả năng cạnh tranh của công ty bánh
kẹo Hải Châu " là sự kết hợp các vấn đề lý luận và những tìm hiểu phân tích
về thực trạng đầu tư sản xuất kinh doanh cũng như khả năng cạnh tranh của
Công ty Bánh kẹo Hải Châu. Đồng thời các giải pháp đưa ra cũng là một sự
vận dụng các vấn đề lý thuyết vào thực tiễn quản trị kinh doanh, hi vọng góp
phần nâng cao vị thế của Công ty trên thương trường, xây dựng Công ty ngày
càng phát triển.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Vũ Thị Ngọc Phùng, Phan Thị Nhiệm
- Giáo trình Chiến lược kinh doanh - NXB Thống kê - 1999
2. Nguyễn Ngọc Mai - Giáo trình Kinh tế đầu tư
NXB Giáo dục - 1998
3. Jean Guiony - Cạnh tranh bằng giảm tối đa
phí tổn thương mại - NXB TP. HCM - 1994
4. Micheal E. Porter - Chiến lược cạnh tranh
NXB Khoa học kĩ thuật - 1996
5. Philip Kotler - Quản trị Marketing
100
NXB Thống kê - 1997
6. Trần Hoàng Kim & Lê Thụ - Vũ khí cạnh tranh thị trường
NXB Thống kê - 1992
7. Báo Diễn đàn doanh nghiệp ra ngày 21/2/2002, 5/3/2002
8. Báo Đầu tư ra ngày 7/1/2002, 25/1/ 2002
9. Tạp chí Công nghiệp số 6/1998, 19/2000, 13/2001
10. Tạp chí Nghiên cứu kinh tế số 4,5,11/2000
11. Tạp chí Phát triển kinh tế số 108, 112, 113
12. Các tài liệu từ Công ty bánh kẹo Hải Châu
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luận văn- Đầu tư nâng cao khả năng cạnh tranh của công ty bánh kẹo Hải Châu.pdf