Mục tiêu chủ yếu của APEC là tiến tới tự do hoá thương mại và đầu tư
vào năm 2010 đối với nước phát triển và vào năm 2020 đối với nước đang
phát triển. Để thực hiện mục tiêu đó, các nước APEC sẽ giảm hoặc loại bỏ
những hạn chế đối với đầu tư nước ngoài phù hợp với quy định của WTO,
các nguyên tắc không ràng buộc của APEC, các hiệp định quốc tế khác có
liên quan đến đầu tư và bất cứ hướng dẫn nào được thảo thuận trong nội bộ
APEC, đồng thời tăng cường ký kết các hiệp định đầu tư song phương giữa
các thành viên.
108 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2270 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Đầu tư trực tiếp nước ngoài của Singapo vào Việt Nam - Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ận lợi cho các doanh nghiệp; đồng thời đảm
bảo sự quản lý của Nhà nước đối với hoạt động tài chính của doanh nghiệp.
c. Bổ sung các chính sách ưu đãi có sức hấp dẫn cao đối với những
lĩnh vực, địa bàn và dự án ta cần thu hút vốn đầu tư nước ngoài của
Singapo.
Để thu hút được đầu tư nước ngoài của Singapo vào các lĩnh vực, địa
bàn và các dự án ưu tiên khuyến khích đầu tư, cần tạo dựng và công bố một
hệ thống ưu đãi, có sức cạnh tranh cao.
-Thực hiện chính sách miễn thuế nhập khẩu thực sự khuyến khích các
doanh nghiệp công nghệ cao sản xuất cơ khí, điện tử, thiết bị viễn thông, cơ
khí chế tạo, đặc biệt là công nghiệp sản xuất phụ tùng linh kiện.
-Bổ sung các ưu đãi cao hơn đối với các dự án chế biến nông, lâm,
thủy sản; đầu tư vào nông thôn và các địa bàn có điều kiện kinh tế-xã hội
khó khăn.
-Đối với một số hạn chế của những dự án đặc biệt quan trọng, cần xử
lý đặc cách và có chính sách hỗ trợ hợp lý trong khuôn khổ những cam kết
trong lộ trình hội nhập.
-Sử dụng các đòn bẩy kinh tế để khuyến khích các doanh nghiệp
hướng mạnh hơn nữa vào xuất khẩu (khuyến khích chế biến sâu, sử dụng
nguyên vật liệu sẵn có trong nước, tạo giá trị gia tăng cao).
d. Xử lý linh hoạt các hình thức đầu tư của Singapo.
Mỗi hình thức đầu tư (liên doanh, 100% vốn nước ngoài) tuy có vị trí,
74
đặc thù riêng, nhưng đều nằm trong quy hoạch kinh tế-xã hội, quy hoạch
ngành và lãnh thổ, quy hoạch các sản phẩm quan trọng; chịu sự điều chỉnh
của pháp luật Việt Nam, sự quản lý, giám sát, kiểm tra của các cơ quan
quản lý Nhà nước. Do đó, ngoài các dự án không cấp phép đầu tư, các dự
án do yêu cầu an ninh, quốc phòng, giữ gìn bản sắc văn hóa, thuần phong
mỹ tục và những dự án quốc kế dân sinh quan trọng, cần mở rộng danh
mục các dự án cho phép nhà đầu tư Singapo được lựa chọn các đầu tư xuất
phát từ hiệu quả sản xuất kinh doanh họ .
Đối với các liên doanh giữa hai bên hiện nay hoặc trong tương lai gần
làm ăn có lãi và những liên doanh quan trọng cần phải duy trì. Nhà nước
cần có chính sách hỗ trợ, tạo điều kiện tháo gỡ khó khăn, giải quyết dứt
điểm các vấn đề phát sinh, cho vay tín dụng để doanh nghiệp Việt Nam
trong liên doanh với Singapo nâng dần tỷ lệ góp vốn, tăng cường cán bộ có
năng lực góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất trong liên doanh.
Cần có chính sách và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp ngoài quốc
doanh liên doanh với doanh nghiệp Singapo, đồng thời đa dạng hơn nữa
hình thức đầu tư để khai thác thêm các kênh đầu tư mới. Hiện nay, luật
pháp ta cũng quy định doanh nghiệp Việt Nam được quyền mua cổ phần
của các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài quan trọng. Chính phủ cũng đã có
chủ trương thực hiện thí điểm cổ phần hoá các doanh nghiệp đầu tư nước
ngoài, trong đó có các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Đề nghị chính
phủ sớm triển khai chủ trương mở rộng và đa dạng hoá hình thức tổ chức
doanh nghiệp theo hướng cho phép doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
được cổ phần hoá, chuyển đổi thành Công ty cổ phần được phép phát hành
cổ phiếu.
Bên cạch đó, một số nhà đầu tư nước ngoài cũng đề nghị Chính phủ
nên coi việc nhà đầu tư nước ngoài góp vốn mua cổ phần (theo quy định
NĐ51) là một hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài.
75
e. Mở rộng thu hút FDI của Singapo vào khu công nghiệp, khu chế
xuất.
Nhiệm vụ trọng tâm là thu hút đầu tư của Singapo vào các khu công
nghiệp đã được thành lập.
Ngoài các khu công nghiệp nhỏ, các cụm công nghiệp đã giãn mật độ
và dịch chuyển các nhà máy tại các thành phố lớn, cần xem xét chặt chẽ
việc thành lập các khu công nghiệp mới. Trước mắt cần rà soát các khu
công nghiệp không đủ yếu tố khả thi, chỉ thành lập khu công nghiệp mới
khi hội đủ điều kiện.
Để tạo thuận lợi cho việc thu hút đầu tư nước ngoài của Singapo vào
khu công nghiệp, cần thực hiện nghiêm túc thủ tục cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất cho các doanh nghiệp Singapo ở khu công nghiệp; đảm
bảo các công trình cơ sở hạ tầng kỹ thuật (đường, điện, nước, thông tin liên
lạc) đến tận hàng rào của các khu công nghiệp; ưu đãi ở mức cao nhất các
dự án phát triển hạ tầng xã hội đồng bộ với khu công nghiệp (nhà ở cho
công nhân, trường học, trường dạy nghề, cơ sở chữa khám bệnh, thương
mại và các dịch vụ đời sống của các thành phần kinh tế).
Bổ sung quy định chế độ báo cáo với Ban Quản lý Khu công nghiệp
(hiện nay các báo cáo trong khu công nghiệp chỉ gửi về cơ quan quản lý
đầu tư ở TW và địa phương).
Quy hoạch Khu công nghiệp cần gắn với quy hoạch Khu dân cư. Đề
nghị có chính sách ưu đãi cần thiết đối với việc xây dựng các công trình
ngoài hàng rào, nhà ở cho công nhân, chuyên gia của hai nước.
Đề xuất Phương án về việc cho thuê đất và công trình hạ tầng trong
Khu công nghiệp, theo đó, công ty phát triển hạ tầng chỉ cho thuê công
trình hạ tầng; doanh nghiệp trực tiếp thuê đất của Nhà nước. Cần có đại
diện của các cơ quan công an, hải quan tại Khu công nghiệp, Khu chế xuất,
đồng thời có chính sách miễn các loại chi phí đối với các cơ quan công an,
76
hải quan nằm trong Khu công nghiệp, Khu chế xuất. Đơn giản hoá thủ tục
cấp phép của Ban Quản lý Khu công nghiệp đối với những dự án đặc biệt
ưu đãi, không có những vấn đề phức tạp về môi trường, hoặc đối với những
dự án đã có tiền lệ.
3. Hoàn thiện pháp luật.
a. Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật đầu tư nước ngoài.
Chiến lược thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của Singapo phải được
xây dựng trên một môi trường đầu tư có sức hấp dẫn và tính cạnh tranh
cao so với các nước trong khu vực. Do đó, cần sửa đổi, bổ sung một số điều
của Luật đầu tư nước ngoài hiện hành và các văn bản pháp luật liên quan,
với các yêu cầu:
-Bảo đảm một khung khổ pháp luật hấp dẫn, thông thoáng, rõ ràng, ổn
định, một hệ thống ưu đãi và khuyến khích mang tính cạnh tranh cao so với
các nước trong khu vực. Luật hoá, nâng lên mức các quy định của Luật, các
chính sách, quyết định của Chính phủ đã được kiểm nghiệm qua thực tế.
-Phù hợp đồng bộ với tiến trình xây dựng và hoàn thiện khung khổ
pháp Luật chung của nước ta, trước hết là Luật doanh nghiệp, Luật khuyến
khích đầu tư trong nước… nhằm tạo mặt bằng ưu đãi bình đẳng giữa các dự
án đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài.
-Bảo đảm sự ổn định của pháp luật và chính sách đối với đầu tư nước
ngoài, thực hiện nguyên tắc không hồi tố để giữ vững lòng tin của cộng
đồng các nhà đầu tư nước ngoài.
-Chủ động xử lý các vấn đề pháp lý liên quan đến việc thực hiện các
cam kết của nước ta trong lộ trình hội nhập kinh tế.
b. Sửa đổi một số điều khoản trong các văn bản pháp luật liên quan
đến đầu tư nước ngoài nhằm tháo gỡ khó khăn trong hoạt động của các
doanh nghiệp nước ngoài cũng như các doanh nghiệp Singapo.
-Các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài được thế chấp tài sản gắn với
77
giá trị quyền sử dụng đất tại các ngân hàng hoạt động tại Việt Nam (Ngân
hàng Việt Nam, Ngân hàng liên doanh, chi nhánh Ngân hàng nước ngoài)
nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp vay vốn.
-Các doanh nghiệp nước ngoài cũng như các doanh nghiệp trong
nước thuộc diện không phải nộp thuế giá trị gia tăng đối với các thiết bị,
máy móc để tạo tài sản cố định.
-Sửa đổi thuế thu nhập cá nhân đối với người lao động Việt Nam làm
việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư của nước ngoài để khuyến
khích sử dụng người Việt Nam giữ các vị trí quản lý và chuyên môn chủ
chốt.
4.Nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước đối với đầu tư trực tiếp nước
ngoài.
Sau khi xây dựng được môi trường pháp lý và cơ chế chính sách thông
thoáng, hấp dẫn, vấn đề then chốt có tính quyết định là việc chỉ đạo điều
hành tập trung, thống nhất và kiên quyết của Chính phủ, việc nghiêm túc
thực hiện của các Bộ, ngành và địa phương.
Xây dựng quy chế phối hợp chặt chẽ giữa các Bộ tổng hợp, các Bộ
quản lý ngành, Uỷ ban nhân dân tỉnh trong việc quản lý hoạt động đầu tư
nước ngoài theo đúng thẩm quyền, trách nhiệm của từng Cơ quan quản lý
Nhà nước. Bộ Kế hoạch và Đầu tư bảo đảm thực hiện đúng và đủ vai trò là
cơ quan quản lý Nhà nước về đầu tư nước ngoài, giúp Chính phủ quản lý
thống nhất hoạt động đầu tư nước ngoài, là đầu mối phối hợp giữa các Bộ,
các ngành và địa phương giải quyết những vấn đề phát sinh tronh hoạt
động của các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài. Các Bộ, ngành và địa
phương thực hiện quản lý Nhà nước về đầu tư nước ngoài theo đúng chức
năng, thẩm quyền đã quy định theo Luật Đầu tư nước ngoài, các Nghị định
của Chính phủ.
Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố và các Ban quản lý Khu công
78
nghiệp được phân cấp, uỷ quyền quản lý các hoạt động đầu tư nước ngoài
trên cơ sở đảm bảo nguyên tắc tập trung, thống nhất về quy hoạch, cơ cấu,
chính sách, cơ chế quản lý; tăng cường sự hướng dẫn và kiểm tra của các
Bộ, ngành trung ương; nâng cao kỷ cương và kỷ luật thực hiện để vừa phát
huy sức mạnh chủ động, sáng tạo của địa phương và cơ sở, vừa tránh phá
vỡ quy hoạch, tránh mọi sơ hở.
Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố phải chịu trách nhiệm về quản lý
Nhà nước đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trên địa bàn,
tập trung giải quyết các vấn đề phát sinh, giúp đỡ các doanh nghiệp giải
quyết các khó khăn và xử lý kịp thời các vi phạm pháp luật; giám sát, kiểm
tra các cán bộ thừa hành thực hiện nghiêm túc các quy định của luật pháp,
chính sách, chủ trương của Nhà nước, kịp thời xử lý các cán bộ cóhành vi
tham nhũng, sách nhiễu, tiêu cực.
Cần quy định cụ thể chế độ kiểm tra của các cơ quan quản lý Nhà
nước để chấm dứt sự kiểm tra tuỳ tiện, hết sức tránh hình sự hoá các quan
hệ kinh tế của doanh nghiệp; đồng thời vẫn đảm bảo giám sát được các
doanh nghiệp và áp dụng các chế tài đối với sự vi phạm pháp luật của các
doanh nghiệp.
Cần triệt để và kiên quyết hơn trong việc quy định rõ ràng, minh bạch
các thủ tục hành chính ở mọi khâu, mọi cấp; công khai các quy trình, thời
hạn, trách nhiệm xử lý các thủ tục hành chính nhằm tạo nên sự chuyển biến
căn bản, mạnh mẽ về cải cách hành chính trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài;
duy trì thường xuyên các cuộc gặp gỡ, đối thoại với cộng đồng các nhà đầu
tư.
Áp dụng cơ chế đăng ký cấp giấy phép đầu tư đối với những dự án có
quy mô nhỏ, tính chất đơn giản, đã được xác định trong các quy hoạch về
ngành, địa bàn, thị trường.
79
Tiếp tục tăng cường phân cấp uỷ quyền cho địa phương và Ban quản
lý Khu công nghiệp (Hải Phòng đề nghị phân cấp đến 10 triệu USD) để
tăng tính chủ động cho địa phương trong việc thu hút đầu tư. Đặc biệt đối
vơi những dự án đã có tiền lệ, không có những vấn đề phức tạp về môi
trường thì nên bỏ cơ chế trước khi cấp giấy phép đầu tư phải thoả thuận với
Bộ Kế hoạch và Đầu tư .
Cải tiến mạnh các thủ tục đầu tư theo hướng tiến tới áp dụng rộng rãi
chế độ đăng ký đầu tư-thay thế dần chế độ cấp giấy phép đầu tư. Đề nghị
các Bộ, ngành cần xử nhanh những khó khăn của doanh nghiệp như về hải
quan, thuế và hoàn thuế, đồng thời nghiên cứu để giảm thiểu một số thủ tục
hành chính hiện nay còn rất phức tạp, dặc biệt là các thủ tục liên quan đến
thuế đất, xây dựng cơ bản, giải phóng mặt bằng, xuất nhập cảnh, xuất nhập
khẩu.
Tiếp tục phân cấp cho các địa phuơng trong việc miễn thuế nhập khẩu
đối với nguyên liệu. Quy định việc lập báo cáo đánh giá tác động môi
trường được thực hiện sau khi cấp giấy phép đầu tư nhằm đơn giản hoá hồ
sơ dự án cũng như giảm thiểu thời gian và chi phí cho nhà đầu tư trong quá
trình hình thành dự án.
5. Đổi mới và đẩy mạnh công tác vận động, xúc tiến đầu tư.
Công tác vận động, xúc tiến đầu tư cần được đổi mới về nội dung và
phương thức thực hiện, theo một kế hoạch và chương trình chủ động, có
hiệu quả. Trước hết, cần xác định xúc tiến đầu tư cũng như xúc tiến
thương mại, là nhiệm vụ và trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước, của các
Bộ, ngành, các tỉnh, Ban quản lý các Khu công nghiệp. Ngân sách Nhà
nước cần dành một khoản kinh phí thoả đáng cho công tác vận động, xúc
tiến đầu tư.
Thực hiện chủ trương đa phương hoá các đối tác đầu tư nước ngoài để
80
tạo thế chủ động trong mọi tình huống. Cùng với việc tiếp tục thu hút các
nhà đầu tư truyền thống ở Châu Á, ASEAN vào các dự án mà họ có kinh
nghiệm và thế mạnh như chế biến nông sản, sản xuất hàng tiêu dùng xuất
khẩu ... cần chuyển hướng sang các đối tác Tây Âu, Bắc Âu, Bắc Mỹ nhằm
tranh thủ tiềm lực vốn, công nghệ, kỹ thuật hiện đại để nâng cao năng lực
cạnh tranh của nền kinh tế; chú ý các dự án lớn, dự án vừa và nhỏ nhưng
công nghệ hiện đại.
Trên cơ sở quy hoạch ngành, sản phẩm, lãnh thổ và danh mục dự án
kêu gọi đầu tư được phê duyệt; các ngành, các địa phương cần chủ động
tiến hành vận động, xúc tiến đầu tư một cách cụ thể, trực tiếp đối với từng
dự án, trực tiếp với từng tập đoàn, công ty, nhà đầu tư có tiềm năng .
Bộ Kế hoạch và Đầu tư , Bộ Ngoại giao, Bộ Thương mại tổ chức phối
hợp nghiên cứu tình hình kinh tế, thị trường đầu tư, chính sách của các
nước, các tập đoàn đa quốc gia, các tập đoàn và công ty lớn để có chính
sách vận động, thu hút đầu tư phù hợp; nghiên cứu Luật pháp, chính sách,
biện pháp thu hút đầu tư nước ngoài của các nước trong khu vực để kịp thời
có các đối sách thích hợp.
Cần tập trung chỉ đạo và hỗ trợ kịp thời các nhà đầu tư Singapo hiện
đang có dự án hoạt động, giúp họ giải quyết tốt các vấn đề phát sinh, đó là
biện pháp có ý nghĩa rất quan trọng để vận động có hiệu quả và có sức
thuyết phục nhất đối với các nhà đầu tư mới.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư cần hỗ trợ mạnh mẽ các địa phương trong
công tác xúc tiến đầu tư như: tăng cường các hoạt động trao đổi thông tin;
làm đấu mối giới thiệu dự án, đối tác; hỗ trợ xây dựng các trương trình
hành động xúc tiến đầu tư của địa phương; xây dựng các tài liệu tuyên
truyền vận động đầu tư; xây dựng mạng thông tin điện tử để xúc tiến đầu
tư. Nghiên cứu khả năng xây mô hình quỹ xúc tiến đầu tư. Mục tiêu của
quỹ xúc tiến đầu tư là nhằm hỗ trợ trong việc xây dựng quy hoạch, xây
81
dựng cơ sở dữ liệu về FDI.
Các cơ quan quản lý Nhà nước về đầu tư nước ngoài cần thiết lập
quan hệ trực tiếp với cơ quan đại diện ngoại giao các nước và tăng cường
đối thoại thường xuyên với các nhà đầu tư và doanh nghiệp.
Nghiên cứu xây dựng một tổ chức xúc tiến đầu tư chuyên trách ở
trung ương và địa phương; xây dựng chương trình, chiến lược quốc gia về
xúc tiến đầu tư.
Bố trí ngân sách Nhà nước phù hợp với hoạt động xúc tiến đầu tư,
khắc phục tình trạng ngân sách xúc tiến đầu tư vẫn nằm trong danh sách
hành chính thông thường như hiện nay.
6.Chú trọng công tác cán bộ và đào tạo công nhân kỹ thuật, tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng, hoạt động của công đoàn và các tổ chức
đoàn thể trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Trong hoạt động đầu tư nước ngoài, công tác cán bộ đặc biệt quan
trọng vì cán bộ vừa tham gia hoạch định chính sách, vừa là người vận dụng
pháp luật, chính sách để xử lý tác nghiệp hàng ngày liên quan đến mọi hoạt
động đầu tư nước ngoài. Cán bộ quản lý Việt Nam trong các liên doanh
đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ lợi ích của Nhà nước Việt Nam,
của doanh nghiệp Việt Nam, của người lao động; đảm bảo cho doanh
nghiệp hoạt động theo đúng pháp luật. Do đó, phải đặc biệt chú trọng đến
công tác đào tạo năng cao phẩm chất chính trị, đạo đức, năng lực trình độ
chuyên môn của đội ngũ công chức Nhà nước các cấp, đội ngũ cán bộ và
lao động Việt Nam đi đôi với việc củng cố và năng cao chất lượng hoạt
động của các tổ chức đoàn thể (Đảng, công đoàn,…) trong các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Cần có chính sách đầu tư thích hợp để đầu tư phát triển nguồn nhân
lực đáp ứng nhu cầu hợp tác đầu tư với nước ngoài ở các địa phương như
việc đầu tư phát triển các cơ sở đào tạo nghề nhằm đảm bảo cung cấp một
82
đội ngũ lao động tại chỗ có chất lượng cao. Trước hết trong khuôn khổ dự
án đầu tư Đông Dương, tăng cường hợp tác với Bộ Kế hoạch và Đầu tư và
ESCAP để tạo nguồn nhân lực phục vụ cho công tác quản lý và xúc tiến
đầu tư.
Đề nghị bỏ cơ chế tuyển dụng lao động thông qua cơ quan cung ứng
lao động, cho phép doanh nghiệp được trực tiếp tuyển dụng lao động, trong
đó ưu tiên tuyển dụng lao động tại địa phương.
Với 6 giải pháp cụ thể đã nêu trên, phần nào đã làm an tâm các doanh
nghiệp đầu tư nước ngoài và cũng tạo điều kiện kinh doanh cho các doanh
nghiệp Singapo đầu tư vào Việt Nam, để các doanh nghiệp Singapo áp
dụng vào công việc kinh doanh của họ một cách có hiệu quả và nó cũng thể
hiện mối quan tâm của chính phủ Việt Nam trong việc cải thiện môi trường
đầu tư ngày càng trở nên tốt hơn.
KẾT LUẬN
Đầu tư trực tiếp của Singapovào Việt Nam đến nay được hơn 10
năm nhưng tốc độ đầu tư đã diễn ra khá nhanh. Trên thực tế, thời gian
qua đầu tư trực tiếp của Singapo vào Việt Nam đã góp phần đáng kể
83
trong việc cải tạo cơ sở hạ tầng, tạo công ăn việc làm cho người lao
động Việt Nam và thúc đẩy sự tăng trưởng của nền kinh tế.
Là một nước thành viên của Hiệp Hội các quốc gia Đông Nam Á
(ASEAN) Việt Nam cần tranh thủ chính sách tăng cường quan hệ với
các nước ASEAN của Singapo để thu hút vốn từ cường quốc kinh tế
này, phục vụ yêu cầu phát triển nền kinh tế trong thời kỳ đổi mới và
nhanh chóng rút ngắn khoảng cách với các nước trong khu vực, đồng
thời học tập và rút ra bài học kinh nghiệm của các nước láng giềng
trong quá trình phát triển kinh tế thị trường và quá trình thu hút và sử
dụng vốn đầu tư.
Có thể nói quan hệ với Singapo là cần thiết cho sự nghiệp phát
triển kinh tế và công nghiệp hoá, hiện đại hoá của Việt Nam. Do đó,
để thu hút nhiều hơn nữa vốn đầu tư trực tiếp, Việt Nam cần phát huy
tối đa chính sách kết hợp sản xuất thay thế hàng nhập khẩu và sản xuất
hướng vào xuất khẩu hiện nay nhằm mở rộng cơ hội đầu tư cho các
nhà đầu tư nước ngoài nói chung và các nhà đầu tư Singapo nói riêng.
Quan hệ Việt Nam - Singapo đang phát triển, chắc chắn trong tương
lai quan hệ kinh tế Việt Nam - Singapo sẽ tiến triển hơn nữa nhất là
trong lĩnh vực đầu tư.
PHỤ LỤC 1.
HIỆP ĐỊNH
84
GIỮA CHÍNH PHỦ CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT
NAM VÀ CHÍNH PHỦ CỘNG HÒA SINGAPO
VỀ KHUYẾN KHÍCH VÀ BẢO HỘ ĐẦU TƯ.
Chính phủ Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam và Chính Phủ
Cộng Hoà Singapo (mỗi chính phủ sau đây được gọi là “Bên ký kết” ).
Nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc tăng cường hợp tác kinh tế
giữa hai nước, đặc biệt cho những đầu tư của các công dân và cônh ty
của nước này trên lãnh thổ của nước kia trên cơ sở nguyên tắc bình
đẳng và cùng có lợi.
Nhận thấy rằng, việc khuyến khích và bảo hộ những đầu tư đó sẽ
ảnh hưởng tích cực đến việc khuyến khích sáng kiến kinh doanh và
làm tăng sự thịnh vượng ở cả hai quốc gia.
Đã thoả thuận như sau:
ĐIỀU 1
ĐỊNH NGHĨA
Với mục đích của Hiệp định này:
85
1.Thuật ngữ “đầu tư ” nghĩa là mọi loại hình tài sản được mỗi Bên ký
kết thừa nhậnphù hợp với luật pháp và những quy định của Bên ký kết đó,
bao gồm chủ yếu:
a) Động sản,bất động sản và các quyền sở hữu khác như cầm cố,thế
chấp hoặc thế nợ;
b) Cổ phiếu, chứng khoán, phiếu ghi nợ và các quyền lợi tương tự
trong các công ty;
c) Chứng quyền về tiền hoặc về các hợp đồng có giá trị kinh tế;
d) Quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp, (bằng sáng chế, nhãn
hiệu thương mại, kiểu dáng công nghiệp), bí quyết, phương pháp kỹ thuật,
tên thương mại và đặc quyền kế nghiệp;
e) Tô nhượng thương mại theo luật định hoặc theo hợp đồng về thăm
dò, nuôi trồng, chiết suất hoặc khai thác các tài nguyên thiên nhiên.
2.Thuật ngữ “thu nhập” nghĩa là những khoản thu nhập từ đầu tư bao
gồm lợi nhuận, lãi, các khoản tăng vốn, lãi cổ phần, tiền bản quyền hoặc
phí.
3.Thuận ngữ “công dân” nghĩa là:
a)Về phía Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, thể nhân là công dân
của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam theo pháp luật Việt Nam .
86
b)Về phía Cộng Hòa Singapo, bất kỳ công dân nào của Cộng Hòa
Singapo theo Hiến pháp của Cộng Hòa Singapo.
4.Thuật ngữ “Công ty” nghĩa là:
a)Về phía Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, một công ty hoặc
một pháp nhân được hợp nhất hay thành lập trên lãnh thổ của Việt Nam
theo pháp luật Việt Nam.
b)Về phía Cộng hoà Singapo, bất kỳ công ty, hãng, hiệp hội hoặc tổ
chức có hay không có tư cách pháp nhân được hợp nhất, thành lập hoặc
đăng ký theo pháp luật hiện hành của Cộng hoà Singapo.
ĐIỀU 2
ÁP DỤNG HIỆP ĐỊNH
1.Hiệp định sẽ chỉ áp dụng:
a)Về đầu tư trên lãnh thổ công hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam,
những đầu tư do công dân và công ty của Công hoà Singapo thực hiện, đã
được cơ quan có thẩm quyền do Chính phủ Việt Nam chỉ định chuẩn y rõ
ràng bằng văn bản và theo những điều kiện mà những đầu tư đó phải đáp
ứng, nếu có.
b)Về đầu tư trên lãnh thổ Singapo, những đầu tư do công dân và công
ty của Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam thực hiện, đã được cơ quan có
thẩm quyền do Cộng hoà Singapo chỉ định chuẩn y rõ ràng bằng văn bản và
theo những điều kiện mà những đầu tư đó phải đáp ứng, nếu có.
87
2.Các quyđịnh nói trên sẽ áp dụng đối với những đầu tư do công dân
và công ty của một Bên ký kết thực hiện trên lãnh thổ của Bên ký kết kia,
không phân biệt đã thực iện trước hay sau khi Hiệp định này có hiệu lực.
ĐIỀU 3
KHUYẾN KHÍCH VÀ BẢO HỘ ĐẦU TƯ
1.Mỗi Bên ký kết khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho các
công dân và công ty của Bên ký kết kia thực hiện trên lãnh thổ của mình
những đầu tư phù hợp với chính sách kinh tế chung của mình.
2.Những đầu tư đã được chuẩn y theo Điều 2 được hưởng sự đối xử
công bằng, thoả đáng và sự bảo hộ phù hợp với Hiệp định này.
88
ĐIỀU 4
QUY ĐỊNH VỀ CHẾ ĐỘ TỐI HUỆ QUỐC
Không Bên ký kết nào đối xử với những đầu tư trên lãnh thổ của mình
đã được chấp nhận phù hợp với quy định theo Điều 2 hoặc với những thu
nhập của công dân và công ty của Bên ký kết kia những điều kiện kém
thuận lợi hơn so với những điều mà Bên ký kết đó giành cho công dân và
công ty của bất kỳ nước thứ ba nào.
ĐIỀU 5
TRƯỜNG HỢP NGOẠI LỆ
1.Các quy định của Hiệp định này liên quan đến việc đối xử không
kém thuận lợi hơn so với những điều dành cho công dân và công ty của bất
kỳ nước thứ ba nào, không bắt buộc một Bên ký kết phải giành cho công
dân và công ty Bên ký kết kia những ưu đãi hoặc đặc quyền ghi trong:
a)Bất kỳ sự thoả thuận nào về hải quan, tiền tệ, về các vấn đề thuế
hoặc thương mại (kể cả khu vực mậu dịch tự do) hoặc bất kỳ hiệp định nào
trong tương lai về một thoả thuận như vậy.
89
b)Bất kỳ sự thoả thuận nào với một nước thứ ba hoặc với các nước
cùng khu vực địa lý nhằm xúc tiến sự hợp tác khu vực trong các lĩnh vực
kinh tế, xã hội, công nghiệp hoặc tiền tệ trong khuôn khổ các dự án cụ thể.
2.Các quy định của Hiệp định này sẽ không áp dụng đối với các vấn
đề thuế trên lãnh thổ của các Bên ký kết. Các vấn đề thuế sẽ được điều
chỉnh theo Hiệp định tránh đánh thuế trùng giữa hai Bên ký kết và luật
quốc gia của mỗi Bên ký kết.
ĐIỀU 6
TƯỚC ĐOẠT QUYỀN SỞ HỮU
1.Không Bên ký kết nào được thực hiện bất kỳ một biện pháp nào về
tước đoạt quyền sở hữu, quốc hữu hóa hoặc các biện pháp khác có hậu quả
tương tự đối với những đầu tư của công dân và công ty của Bên ký kết kia,
trừ khi các biện pháp đó được thực hiện vì một mục đích được luật cho
phép, trên cơ sở không phân biệt đối xử, phù hợp với pháp luật của mình và
phải được bồi thường, việc bồi thường sẽ được thực hiện một cách có hiệu
quả và không chậm chễ nếu không có lý do chính đáng. Sự bồi thường tuân
theo pháp luật của mỗi Bên ký kết và trị giá vào thời điểm ngay trước khi
quyền sở hữu bị tước đoạt, quốc hữu hoá hoặc các biện pháp có hậu quả
tương tự. Khoản bồi thường sẽ được tự do chuyển đổi và chuyển về nước.
2.Khi một bên ký kết tước đoạt quyền sở hữu, quốc hữu hóa hoặc thực
hiện các biện pháp có hậu quả tương tự đối với những tài sản của một công
ty được sát nhập hay thành lập theo luật hiện hành ở bất kỳ nơi nào trên
lãnh thổ nước mình và trong đó các công dân hoặc công ty của Bên ký kết
90
kia có cổ phần, bên đó sẽ đảm bảo sự bồi thường đối với những công dân
hoặc công ty của Bên ký kết kia mà họ là chủ sở hữu của cổ phần đó.
ĐIỀU 7
BỒI THƯỜNG DO BỊ THIỆT HẠI
Công dân hoặc công ty của Bên ký kết là những người có đầu tư trên
lãnh thổ của Bên ký kết kia bị thiệt hại do chiến tranh hoặc do các xung đột
vũ trang, tình trạng khẩn cấp quốc gia, khởi nghĩa, bạo loạn sẽ được Bên ký
kết kia đối xử bằng việc bồi thường, hoàn trả, hoặc các giải pháp khác nếu
có không kém thuận lợi hơn so với sự đối xử giành cho công dân hoặc công
ty bất kỳ nước thứ ba nào.
ĐIỀU 8
CHUYỂN VỐN VỀ NƯỚC
Mỗi Bên ký kết sẽ đảm bảo cho các công dân hoặc công ty của Bên ký
kết kia việc tự do chuyển các khoản vốn, thu nhập từ bất kỳ đầu tư nào trên
cơ sở không phân biệt đối xử, bao gồm:
a) Lợi nhuận, lãi về vốn, lãi cổ phần, tiền bản quyền, lãi và các thu nhập
khác phát sinh từ bất kỳ đầu tư nào.
b) Các khoản thu từ thanh lý toàn bộ hoặc từng phần của bất kỳ đầu tư nào.
c) Các khoản thanh toán theo các Hiệp định vay nợ liên quan đến các đầu tư.
d) Lệ phí giấy phép liên quan đến các vấn đề nêu ở Điều 1, khoản 1, mục d.
91
e) Các khoản thanh toán liên quan đến sự trợ giúp kỹ thuật, dịch vụ kỹ
thuật và lệ phí quản lý.
f) Các khoản thanh toán liên quan đến các dự án ký hợp đồng.
g) Các khoản thu nhập của công dân của Bên ký kết kia làm việc cho dự
án đầu tư trên lãnh thổ của Bên ký kết này.
ĐIỀU 9
TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI
Sự chuyển tiền nêu ở Điều 6 đến Điều 8 của Hiệp định này sẽ được
thực hiện theo tỷ giá thị trường vào ngày chuyển bằng đồng tiền chuyển
đổi. Trong trường hợp không có tỷ giá thị trường sẽ áp dụng tỷ giá chính
thức.
ĐIỀU 10
LUẬT ÁP DỤNG
Để tránh nghi ngờ, cần khẳng định tất cả các đầu tư theo Hiệp định
này phải tuân theo pháp luật hiện hành trên lãnh thổ của Bên ký kết mà
những đầu tư đó được thực hiện.
ĐIỀU 11
92
ĐIỀU CẤM VÀ HẠN CHẾ
Các quy định của Hiệp định này không hạn chế quyền của mỗi Bên ký
kết áp dụng những điều cấm hoặc hạn chế nào hay tiến hành bất cứ hoạt
động nào, khi những điều cấm hoặc hạn chế đó liên quan đến:
a) Sự bảo hộ quyền lợi cơ bản về an ninh.
b) Việc bảo vệ sức khoẻ của nhân dân hoặc
c) Phòng chống dịch bệnh và côn trùng cho động vật và cây cối.
ĐIỀU 12
SỰ THẾ QUYỀN
1.Trong trường hợp một trong hai Bên ký kết (hoặc hãng, tổ chức, cơ
quan do luật pháp quy định hay công ty được uỷ quyền) đã thanh toán cho
công dân và công ty của mình theo khiếu nại của họ trong khuôn khổ Hiệp
định này, để thực hiện đền bù một khoản đầu tư hoặc một phần của khoản
đầu tư đó, thì Bên ký kết kia công nhận rằng, Bên ký kết (hoặc hãng, tổ
chức, cơ quan do pháp luật quy định hay công ty được uỷ quyền) được
hưởng sự thế quyền để thực hiện các quyền và quyền khiếu nại của công
dân và công ty của mình. Quyền và quyền khiếu nại được thế quyền này sẽ
không lớn hơn quyền và quyền khiếu nại ban đầu cuả nhà đầu tư.
2. Bất kỳ thanh toán nào do một Bên ký kết (hoặc hãng, tổ chức, cơ
quan do luật pháp quy định hay công ty được uỷ quyền) thực hiện cho công
dân và công ty của mình sẽ không ảnh hưởng đến quyền của công dân và
công ty đó được khiếu nại Bên ký kết kia theo Điều 13.
93
ĐIỀU 13
TRANH CHẤP VỀ ĐẦU TƯ
1.Bất kỳ tranh chấp nào giữa công dân hoặc công ty của một Bên ký kết với
Bên ký kết kia về đầu tư trên lãnh thổ của Bên ký kết kia, sẽ cố gắng hòa
giải bằng thương lượng giữa các Bên tranh chấp. Bên có ý định giải quyết
tranh chấp thông qua thương lượng sẽ gửi thông báo đến Bên kia về ý định
của mình.
2.Nếu việc tranh chấp không giải quyết được như đã nêu trong khoản (1)
của Điều này trong vòng 6 tháng kể từ ngày có thông báo như nêu dưới
đây, Bên ký kết và nhà đầu tư có liên quan sẽ đưa vụ tranh chấp ra hòa giải
theo các nguyên tắc về hòa giải năm 1980 của Uỷ ban Liên hiệp quốc về
Luật thương mại quốc tế hoặc đưa ra trọng tài theo các nguyên tắc về trọng
tài năm 1976 của Uỷ ban Liên hiệp quốc về Luật thương mại quốc tế theo
những điều khoản dưới đây:
a- Về các thủ tục hòa giải, sẽ có 2 thành viên hòa giải do mỗi Bên chỉ
định một người, và
b- Về các thủ tục trọng tài, sẽ áp sụng theo các điều khoản sau:
i) Toà án trọng tài gồm 3 trọng tài viên. Mỗi Bên sẽ chọn một
trọng tài viên, hai trọng tài viên này trên cơ sở cùng thoả thuận sẽ chỉ định
công dân của một nước thứ ba có quan hệ ngoại giao với các Bên tranh
chấp làm Chủ tịch. Các trọng tài viên này sẽ được chỉ định trong vòng hai
tháng kể từ ngày một trong các Bên thông báo cho Bên kia về ý định đưa
vụ tranh chấp ra Tòa án trọng tài trong khoảng thời gian 6 tháng như đã
quy định tại khoản (2) của Điều này.
94
ii) Phán quyết của Toà án trọng tài sẽ được thực hiện theo các
điều khoản của Hiệp định này phù hợp với luật quốc gia có liên quan, kể cả
các nguyên tắc về luật xung đột trên lãnh thổ của Bên ký kết xảy ra tranh
chấp về đầu tư, cũng như những nguyên tắc được công nhận rộng rãi của
luật quốc tế.
iii)Nếu các sự chỉ định cần thiết không được thực hiện trong
khoảng thời gian nêu ở khoản 2(b) (i) và không có sự thoả thuận nào khác,
thì một trong các Bên yêu cầu Tổng thư ký của Trung tâm quốc tế về giải
quyết tranh chấp đầu tư thực hiện sự chỉ định cần thiết.
iv)Toà án trọng tài sẽ quyết định bằng cách bỏ phiếu theo đa số.
v)Quyết định của Toà án trọng tài sẽ là cuối cùng và bắt buộc
các Bên phải tuân theo các quy định của phán quyết đó.
vi)Toà án trọng tài sẽ tuyên bố những cơ sở của quyết định
của mình và tuyên bố những lý do theo yêu cầu của một trong các Bên.
vii)Mỗi Bên liên quan sẽ chịu chi phí cho trọng tài của mình
và các đại diện của mình trong quá trình tố tụng. Chi phí cho Chủ tịch trong
việc thực hiện chức năng trọng tài của mình và các chi phí còn lại của Toà
án trọng tài sẽ do các Bên cùng chịu bằng nhau. Tuy nhiên Toà án trọng tài
có thể quyết định một trong hai Bên chịu chi phí cao hơn, và quyết định
này sẽ là bắt buộc đối với hai Bên.
3.Những quy định của Điều này sẽ không ảnh hưởng bất lợi đến các
Bên ký kết trong việc áp dụng nhuững thủ tục được quy định ở Điều 14 khi
việc tranh chấp liên quan đến việc hiểu hoặc áp dụng Hiệp định này.
ĐIỀU 14
95
TRANH CHẤP GIỮA CÁC BÊN KÝ KẾT
Bất kỳ tranh chấp nào giữa các Bên ký kết liên quan đến việc hiểu và
áp dụng Hiệp định này, trong chừng mực có thể, sẽ được giải quyết bằng
con đường ngoại giao.
1.Nếu vụ tranh chấp đó không được giải quyết thì theo yêu cầu của một
trong các Bên ký kết, vụ tranh chấp sẽ được đưa ra Toà án trọng tài. Toà án
trọng tài (sau đây được gọi là “Toà án”) gồm có ba trọng tài viên, mỗi bên
ký kết chỉ định một người và người thứ ba sẽ do hai Bên ký kết thoả thuận
chỉ định làm Chủ tịch Toà án.
2.Trong thời hạn hai tháng kể từ ngày nhận được yêu cầu về trọng tài,
mỗi Bên ký kết sẽ chỉ định một trọng tài viên và trong vòng hai tháng kể từ
khi chỉ định các trọng tài viên đó, các Bên ký kết sẽ thoả thuận chỉ định
trọng tài thứ ba.
3.Nếu Toà án không được thiết lập trong thời hạn bốn tháng kể từ khi
nhận được yêu cầu về trọng tài, thì một trong các Bên ký kết sẽ mời Chủ
tịch của Toà án trọng tài quốc tế chỉ định một trọng tài viên hoặc các trong
tài viên còn thiếu nếu không có bất kỳ thoả thuận nào khác. Nếu Chủ tịch là
công dân của một trong các Bên ký kết hoặc không thể thực hiện được việc
đó thì sẽ mời Phó Chủ tịch. Nếu Phó Chủ tịch là công dân của một trong
các Bên ký kết hoặc cũng không thể thực hiện được việc đó thì thành viên
cao cấp tiếp theo của Toà án quốc tế không phải là công dân của một trong
các Bên ký kết được mời để thực hiện sự chỉ định cần thiết.
4.Toà án sẽ quyết định bằng cách bỏ phiếu theo đa số.
5.Quyết định của Toà án sẽ là cuối cùng và các Bên ký kết phải tuân
theo các quy định của phán quyết đó.
96
6.Mỗi Bên ký kết sẽ chịu chi phí cho trọng tài viên của mình và các đại
diện của mình trong quá trình tố tụng. Chi phí cho Chủ tịch Toà án và các
chi phí còn lại sẽ do hai Bên cùng chịu bằng nhau. Tuy nhiên Toà án có thể
quyết định một trong hai Bên chịu chi phí cao hơn và quyết định này là bắt
buộc đối với cả hai Bên.
7.Ngoài những điều nêu trên, Toà án sẽ quy định những thủ tục riêng.
ĐIỀU 15
Các nghĩa vụ khác
Nếu pháp luật của một trong các Bên ký kết hoặc các nghĩa vụ quốc tế
hiện có hoặc được xây dựng sau này giữa các Bên ký kết để bổ sung cho
Hiệp định này, cho phép những đầu tư của các công dân Bên ký kết kia
được hưởng sự đối xử thuận lợi hơn so với những đối xử nêu trong Hiệp
định này, những quy định như vậy sẽ không bị Hiệp định này chi phối.
Ngoài những cam kết nêu ở Hiệp định này, các công dân hoặc công ty của
mỗi Bên ký kết sẽ tôn trọng bất cứ cam kết nào liên quan tới những đầu tư
của họ phù hợp với luật pháp của mình.
ĐIỀU 16
HIỆU LỰC, THỜI HẠN VÀ KẾT THÚC
1.Mỗi Bên ký kết sẽ thông báo cho Bên ký kết kia về việc hoàn thành
các thủ tục pháp lý cần thiết để việc thực hiện Hiệp định này có hiệu lực.
Hiệp định này sẽ có hiệu lực vào ngày thứ 30 kể từ ngày có thông báo của
Bên ký kết kia.
97
2.Hiệp định này có hiệu lực trong thời gian 10 năm và tiếp tục có hiệu
lực sau đó, trừ khi trước thời hạn kết thúc 10 năm đầu, một trong hai Bên
ký kết thông báo bằng văn bản cho Bên ký kết kia về ý định kết thúc Hiệp
định này. Thông báo về kêt thúc sẽ có hiệu lực một năm sau khi Bên kia
nhận được thông báo đó.
3.Liên quan tới những đầu tư được thực hiện trước ngày thông báo kết
thúc Hiệp định này thì các điều khoản từ Điều 1 đến Điều 15 sẽ tiếp tục có
hiệu lực thêm 10 năm nữa kể từ ngày Hiệp định này hết hiêụ lực.
Những người có tên dưới đây được Chính phủ các Bên uỷ quyền ký
Hiệp định này.
Hiệp định này được làm thành hai bản tại Singapo ngày 29 tháng 10
năm 1992 bằng tiếng Anh và tiếng Việt Nam, cả hai bản có giá trị như
nhau. Trong trưòng hợp có sự hiểu khác nhau giữa hai bản, thì sẽ căn cứ
vào bản tiêng Anh.
Thay mặt Chính phủ
Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt
Nam
Đậu Ngọc Xuân
Bộ trưỏng, Chủ nhiệm
Uỷ ban nhà nước về hợp tác và đầu tư
(đã ký)
Thay mặt Chính phủ
Cộng hoà Singapo
Lim Boon Heng
Bộ trưỏng cấp cao
Bộ công thưong
(đã ký)
98
PHỤ LỤC 2.
ĐỊNH HƯỚNG HỘI NHẬP QUỐC TẾ VỀ ĐẦU TƯ.
Hội nhập quốc tế về đầu tư là một trong những nội dung quan trọng
của hội nhập kinh tế thế giới và khu vực. Thông qua FDI, nền kinh tế của
các nước gắn kết với nhau ngaỳ càng chặt chẽ hơn. Trong những năm gần
đây và thời gian tới, các nước, trong đó có Việt Nam và các tổ chức quốc tế
đã và sẽ ký kết tham gia các điều ước và định chế quốc tế thuộc lĩnh vực
hội nhập quốc tế về đầu tư. Dưới đây là một số điều ước và định chế Việt
Nam đã hoặc sẽ tham gia và triển khai thực hiện nhằm mở rộng và nâng
cao hiệu quả hợp tác đầu tư với nước ngoài.
1. Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư
Đến nay, Việt Nam đã ký kết 41 hiệp định khuyến khích và bảo hộ
đầu tư song phương với các nước và vùng lãnh thổ, đồng thời cũng là một
bên tham gia hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư ASEAN. Mục tiêu
của việc ký kết và thực hiện các hiệp định này là tạo ra môi trường đầu tư
hấp dẫn và an toàn hơn cho đầu tư tại Việt Nam và nước tham gia ký kết,
cho cả nhà đầu tư nước ngoài và Việt Nam. Các biện pháp khuyến khích
đầu tư được nêu trong các hiệp định này thường bao gồm: chế độ đối xử
công bằng và thoả đáng; đối xử không kếm thuận lợi hơn sự đối xử dành
cho công dân và công ty bất kỳ nước thứ ba nào (MFN)...Các biện pháp
bảo hộ đầu tư thường là: các cam kết về việc không quốc hữu hoá, không
trưng thu, trưng mua; bồi thường thiệt hại trong trường hợp trưng thu, trưng
mua vì mục đích công cộng; đảm bảo về việc chuyển tiền; cam kết về cơ
chế giải quyết tranh chấp... Nhiều nội dung trong các hiệp định này đã được
quy định trong Luật đầu tư nước ngoài, nhưng vì luật chỉ do quốc hội một
nước đơn phương ban hành và do vậy có thể đơn phương sửa đổi nên vẫn
99
cần phải quy định trong để nâng cao mức độ cam kết, tạo yên tâm cho nhà
đầu tư nước ngoài.
2.Hiệp định khung về khu vực đầu tư ASEAN
Ngày 30 tháng 7 năm 1998, tại Manila, Philippin, đại diện có thẩm
quyền các nước ASEAN (Bộ trưởng kinh tế) đã ký kết Hiệp định khung về
khu vực đầu tư ASEAN (AIA). Hiệp định đã chính thức có hiệu lực từ ngày
30 tháng 6 năm 1999 sau khi tất cả các nước thành viên đã phê chuẩn hoặc
phê duyệt hiệp định.
Mục tiêu của Hiệp định là nhằm xây dựng ASEAN thành khu vực đầu
tư có sức hấp dẫn cạnh tranh cao để thu hút nhiều hơn đầu tư của các nhà
đầu tư cả trong lẫn ngoài khu vực. Phạm vi áp dụng của Hiệp định chỉ giới
hạn với các hoạt động đầu tư trực tiếp, không bao gồm các hoạt động đầu
tư gián tiếp và những vần đề đã được các hiệp đinh khác của ASEAN quy
định như Hiệp định khung ASEAN về dịch vụ.
Để thực hiện mục tiêu trên, các Quốc gia thành viên cam kết cùng
nhau xây dựng và thực hiện các chương trình và kế hoạch hành động sau:
- Chương hợp tác và tạo thuận lợi cho hoạt động đầu tư. Theo đó,
từng nước thành viên có những sáng kiến riêng để thông tin đầy đủ, rõ ràng
luật pháp, chính sách và thủ tục đầu tư của nước mình, đơn giản hoá thủ tục
đầu tư…ASEAN sẽ có những sáng kiến tập thể để thiết lập cơ sở dữ liệu về
các ngành công nghiệp hỗ trợ và các nhà cung cấp công nghệ của các nước
thành viên, về các cơ hội đầu tư ở ASEAN...
- Chương trình xúc tiến đầu tư. Theo đó, các quốc gia thành viên sẽ tổ
chức các hoạt động xúc tiến đầu tư chung, trao đổi danh mục các ngành và
lĩnh vực khuyến khích đầu tư, trao đổi kinh nghiệm vận động xúc tiến đầu
tư giữa các cơ quan đầu tư ASEAN...
100
- Chương trình tự do hoá đầu tư. Theo đó, các quốc gia thành viên sẽ
giảm bớt và laọi bỏ những hạn chế đầu tư, thường xuyên hoàn thiện chế độ
đầu tư theo hướng tự do hoá hơn về vốn, lao động lành nghề và chuyên
gia... Để tạo tiền đề cho việc thực hiện chương trình này, điều 7 của hiệp
định đã quy định việc các nước thành viên sẽ mở cửa các ngành nghề và
thực hiện chế độ đối xử quốc gia có điều kiện cho đầu tư của các nhà đầu
tư ASEAN. Cụ thể là, trong vòng sáu tháng kể từ ngày ký kết hiệp định,
mỗi nước thành viên sẽ đưa ra một danh mục loại trừ tạm thờivà một danh
mục nhạy cảm, nếu có, bao gồm bất kỳ ngành nghề hoặc biện pháp đầu tư
nào mà nước đó chưa hoặc không thể mở cửa hoặc dành đối xử quốc gia
cho các nhà đầu tư ASEAN. Ngoại trừ những ngành nghề và biện pháp nêu
trong các danh mục đó thì các nước thành viên sẽ mở ngay lập tức tất cả
các ngành nghề của nước mình cho đầu tư của các nhà đầu tư ASEAN,
đồng thời, dành ngay lập tức cho nhà đầu tư ASEAN và đầu tư của họ sự
đối xử không kém thuận lợi hơn sự đối xử dành cho nhà đầu tư và đầu tư
tương tự của nước mình đối với tất cả các ngành nghề và các biện pháp có
tác động đến đầu tư, bao gồm nhưng không chỉ giới hạn ở việc tiếp nhận,
thành lập, nắm giữ, mở rộng, quản lý, vận hành và định đoạt đầu tư.
Tháng 6 năm 1999, sau khi Hiệp định đã được Chủ tịch nước phê
chuẩn theo đề nghị của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ
đã phê duyệt và cho phép gửi Ban thư ký ASEAN danh mục loại trừ tạm
thời và danh mục nhạy cảm của Việt Nam. Theo quy định của hiệp định và
thoả thuận về “Biện pháp táo bạo ”cải thiện môi trường đầu tư được công
bố tại Hội nghị thượng đỉnh VI tổ chức tại Hà nội tháng 12 năm 1998, danh
mục nhạy cảm không mở cửa và không dành chế độ đối xử quốc gia sẽ
được xem xét lại vào tháng 1 năm 2003 và từng giai đoạn tiếp theo do Hội
đồng AIA quyết định; danh mục loại trừ tạm thời chưa mở cửa các ngành
nghề cho các nhà đầu tư ASEAN của Việt Nam sẽ được xem xét lại hai
101
năm một lần và được loại bỏ dần để tiến tới loại bỏ hoàn toàn vào năm
2010 (các nước khác vào năm 2003, Lào 2010).
Như vậy, để thực hiện cam kết về mở cửa thị trường,chúng ta phải xây
dựng lộ trình loại bỏ dần những ngành mà hiện nay còn đang có những hạn
chế đối với nhà đầu tư ASEAN nói riêng và đầu tư nước ngoài nói chung
như đã được liệt kê trong danh mục tạm thời chưa mở cửa cho nhà đầu tư
ASEAN đã gửi cho Ban thư ký ASEAN. Do danh mục nhạy cảm của Việt
Nam đã bao gồm đầy đủ những ngành không mở cửa và những biện pháp
không dành chế độ đối xử quốc gia cho nhà đầu tư nước ngoài nên trong
quá trình thi hành hiệp định, Việt Nam hoàn toàn chủ động việc giữ hay
loại bỏ các biện pháp hoặc ngành cụ thể của danh mục này; trước mắt chưa
phải bổ xung sửa đổi pháp luật về FDI.
3.Hiệp định về các biện pháp thương mại liên quan đến đầu tư
của tổ chức Thương mại thế giới (WTO-TRIM).
Nước ta hiện đang đàm phán để gia nhập WTO, đã tham gia ba phiên
họp đàm phán đa biên về giải thích, làm rõ chính sách thương mại của Việt
Nam. Đồng thời với việc ký kết Hiệp ước thành lập WTO, các nước sáng
lập ra tổ chức này đã ký kết Hiệp định về các biện pháp đầu tư liên quan
đến thương mại. Theo đó, các nước thành viên không được áp dụng các
biện pháp TRIM không phù hợp với chế độ đối xử quốc gia và nghĩa vụ
loại bỏ các hạn chế về số lượng quy định tại Điều III.4 và Điều XI.1 của
Hiệp định GATT năm 1994. Hiệp định xác định một danh mục minh hoạ
các TRIM không được áp dụng, bao gồm cả các biện pháp bắt buộc là điều
kiện để được phép đầu tư và những biện pháp để được hưởng ưu đãi đầu tư
như:
- Yêu cầu doanh nghiệp phải sử dụng một lượng nhất định các sản
phẩm trong nước khi sản xuất (yêu cầu nội địa hoá).
102
- Yêu cầu lượng sản phẩm nhập khẩu phù hợp với lượng sản phẩm
xuất khẩu của doanh nghiệp.
- Hạn chế nhập khẩu nói chung hoặc theo lượng sản phẩm xuất khẩu
của doanh nghiệp.
- Hạn chế nhập khẩu của doanh nghiệp bằng cách giới hạn lượng
ngoại tệ được sử dụng trong phạm vi nguồn ngoại tệ mà doanh nghiệp thu
được.
- Hạn chế xuất khẩu theo lượng sản phẩm sản xuất ra.
Các nước thành viên WTO có nghĩa vụ thông báo tất cả các TRIM vi
phạm Hiệp định và loại bỏ chúng trước năm 1997 đối với các nước phát
triển, trước năm 2000 đối với các nước đang phát triển và trước năm 2002
đối với các nước chậm phát triển. Đối với các nước đang xin gia nhập
WTO như nước ta, thời hạn loại bỏ TRIM phụ thuộc vào việc đàm phán
với độ thuyết phục của các luận cứ ta đưa ra. Tuy nhiên, cho đến nay, ngoại
trừ những trường hợp đã được xác định trong danh mục minh hoạ, các
nước vẫn chưa hoàn toàn thống nhất về những trường hợp vi phạm TRIM
của WTO. Trong vòng đàm phán thứ ba vừa qua, đứng trên lập trường của
nước đang phát triển có thu nhập tính theo đầu người thấp, ta đã chỉ thừa
nhận vi phạm WTO-TRIM liên quan đến chính sách nội địa hoá trong
ngành sản xuất, lắp ráp ô tô, xe máy, sản phẩm điện tử dân dụng và đề nghị
cho tiếp tục áp dụng hoặc loại bỏ trong vòng 7 năm kể từ ngày Việt Nam
gia nhập WTO. Tuy nhiên, đoàn Mỹ, Nhật Bản, EU... cho rằng Việt Nam
còn có các biện pháp vi phạm WTO-TRIM như quy định về lĩnh vực đầu tư
phải xuất khẩu ít nhất 80% sản phẩm, phải gắn với đầu tư phát triển nguồn
nguyên liệu… Thời gian xác định TRIM không phù hợp với quy định của
WTO phải được xác định và sớm loại bỏ trong quá trình đàm phán gia nhập
WTO hoặc thời gian ngắn sau khi gia nhập WTO.
103
4. Chương trình phát triển quan hệ đầu tư trong hiệp định thương
mại Việt Nam - Hoa kỳ:
Tuy là một chương trong hiệp định thương mại , nhưng chương phát
triển quan hệ đầu tư có hình thức và nội dung tương tự như một hiệp định
song phương hoàn chỉnh về khuyến khích và bảo hộ đầu tư giữa hai nước.
Ngoài phần lớn các nội dung tương tự như 41 hiệp định song phương về
khuyến khích và bảo hộ đầu tư nước ta đã ký với các nước khác, chương
đầu tư mà hai bên đã đạt được thoả thuận về nguyên tác có một số điểm
khác biệt chủ yếu đáng lưu ý như sau:
4.1. Về chế độ đối xử quốc gia:
Trừ một số ngoại lệ được quy đinh tại phụ lục kèm theo Hiệp định,
các Bên sẽ dành cho nhà đầu tư của Bên ký kết kia sự đối xử không kém
thuận lợi hơn sự đối xử đối với nhà đầu tư trong nước trong toàn bộ quá
trình từ thành lập, hoạt động, mở rộng, quản lý điều hành đến thanh lý giải
thể đầu tư (đối xử quốc gia- NT). Quy định này tương tự như quy định của
Hiệp định khung về khu vực đầu tư ASEAN nêu ở mục 2 trên đây. Tuy
nhiên, nội dung của hai Hiệp định khác nhau ở chỗ, AIA để các nước thành
viên chủ động đưa ra danh mục loại trừ tạm thời, danh mục nhảy cảm chưa
hoặc không áp dụng NT; thì ngược lại, Phụ lục của Dự thảo Hiệp định với
Hoa kỳ quy định củ thể những ngành, lĩnh vực và biện pháp loại trừ vĩnh
viễn, những ngành, lĩnh vực biện pháp loại trừ tạm thời và thời hạn loại bỏ
với một lịch trình cụ thể.
4.2. Về chế độ đăng ký cấp giấy phép đầu tư .
Phù hợp với chủ trương của Chính phủ ta và nguyện vọng của nhà đầu
tư về đơn giản hoá thủ tục đầu tư, Hiệp định đã quy định về việc áp dụng
chế độ đăng ký cấp phép đầu tư và lịch trình từng bước mở rộng để rồi sau
9 năm kể từ ngày Hiệp định có hiệu lực thì ngoại trừ nhữnh dự án lớn, dự
104
án thuộc lĩnh vực nhậy cảm cần phải áp dụng chế độ thẩm định cấp phép
đầu tư sẽ được áp dụng chế độ đăng ký cấp phép đầu tư cho tất cả các dự
án còn lại.
4.3. Về các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại .
Hiệp định đã áp dụng TRIM- WTO như đã nêu ở phần trên để điều
trỉnh vấn đề này,thay vì áp dụng những tiêu chuẩn quá cao của NAFTA,
APEC hoặc Dự thảo hiệp định đầu tư đa biên (MAI) đang được các nước
OECD soạn thảo. Ngoại trừ việc phải bỏ ngay sau khi Hiệp định có hiệu
lực đối với yêu cầu hạn chế nhập khẩu gắn với xuất khẩu hay với nguồn
ngoại tệ có được (Pháp luật hiện hành của Việt Nam không quy định hạn
chế này), Hiệp định quy định thời hạn phải loại bỏ TRIM là 5 năm kể từ
ngày Hiệp định có hiệu lực hoặc thời hạn mà Việt Nam đạt được khi gia
nhập WTO, tuỳ thuộc vào thời điểm nào sớm hơn.
5.Hội nhập về đầu tư trong khuôn khổ Diễn đàn hợp tác Châu á -
Thái Bình Dương (APEC).
Mục tiêu chủ yếu của APEC là tiến tới tự do hoá thương mại và đầu tư
vào năm 2010 đối với nước phát triển và vào năm 2020 đối với nước đang
phát triển. Để thực hiện mục tiêu đó, các nước APEC sẽ giảm hoặc loại bỏ
những hạn chế đối với đầu tư nước ngoài phù hợp với quy định của WTO,
các nguyên tắc không ràng buộc của APEC, các hiệp định quốc tế khác có
liên quan đến đầu tư và bất cứ hướng dẫn nào được thảo thuận trong nội bộ
APEC, đồng thời tăng cường ký kết các hiệp định đầu tư song phương giữa
các thành viên.
Hội nghị Bộ trưởng kinh tế APEC tổ chức tháng 11 năm 1995 tại Nhật
Bản đã thông qua “Chương trình hành động OSAKA”. Theo đó, các nước
thành viên có nghĩa vụ xây dựng các trương trình hành động riêng của
mình nhằm giảm thuế và loại bỏ các hàng rào phi thuế quan cũng như hạn
105
chế khác đối với thương mại và đầu tư. Ngoài ra, chương trình hành động
OSAKA cũng xác định 15 lĩnh vực được đưa vào kế hoạch hành động củ
thể chung, trong đó có chương trình tự do hoá đầu tư với cả chương trình
ngắn hạn, trung hạn lẫn dài hạn.
Khác với các tổ chức quốc tế khác như ASEAN, EU, NAFTA…mục
tiêu và nội dung hợp tác của APEC được xây dựng trên cơ sở nguyên tắc
“tự nguyện”, “không bắt buộc”.
6. Hợp tác đầu tư trong khuôn khổ Hợp tác Á -ÂU (ASEM).
Mục tiêu của chương trình hành động về hợp tác xúc tiến đầu tư Á-
ÂU là nhằm hoàn thiện luật pháp chính sách ở mỗi nước theo hướng tạo
môi trường đầu tư thuận lợi hơn cho các nhà đầu tư ở cả hai khu vực. Theo
đó các nước sẽ thực hiện nguyên tắc đầu tư không ràng buộc với nội dung
chủ yếu là dành chế độ đối xử quốc gia; xoá bỏ hạn chế liên quan đến việc
chuyển vốn và lợi nhuận ra nước ngoài; thực hiện đối xử công bằng, thoả
đáng và phù hợp với những nguyên tắc của luật quốc tế trong trường hợp
tước quyền sở hữu hoặc trưng thu đầu tư vì mục đính công cộng; xoá bỏ
hạn chế đối với hoạt động thương mại hàng hoá của các dự án đầu tư phù
hợp với quy định của Hiệp định TRIM – WTO; thực hiện cơ chế giải quyết
tranh chấp đầu tư theo nguyên tắc và thông lệ quốc tế; tăng cường việc ký
kết các hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư và các hiệp định tránh
đánh thuế trùng giữa các thành viên...
106
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Kinh tế quốc tế, NXB Giáo dục – 1993.
2. Giáo trình Chính sách kinh tế đối ngoại, NXB Thống kê - 1998.
3. Giáo trình Kinh tế đầu tư.
4. Hội nhập kinh tế Việt Nam – ASEAN, NXB Thống kê - 1999.
5. Tài liệu tham khảo: tình hình hoạt động của liên doanh tại
Việt Nam .
6. Trần Thị Vinh: Quan hệ Việt Nam – Singapore. Nghiên cứu Đông Nam
á 6/99.
7. Phùng Xuân Nhạ: ĐTNN ASEAN. Những vấn đề kinh tế thế giới số
6/98.
8. Nguyễn Trọng Xuân: ĐTTTNN tại Việt Nam thời kỳ 1998 – 1999.
Những vấn đề kinh tế thế giới số 2/2000.
9. GS. TS Nguyễn Mại: Đầu tư nước ngoài, thực trạng và giải pháp. Tài
chính số 7/98.
10. Nghị định 24/2000/NĐ - CP.
11. Báo đầu tư 1997, 1998, 1999, 2000
107
12. Viện nghiên cứu Đông Nam á: Việt Nam – ASEAN, NXB KHXH/96
13. Vũ Anh Tuấn: ảnh hưởng của việc tham gia AFTA đối với cơ cấu sản
xuất. Tạp chí nghiên cứu kinh tế số 5/96.
14. Đầu tư trực tiếp nước ngoài với tăng trưởng kinh tế VN, NXB Thống
kê / 97.
15 Asian Development Outlook Update - 9/2000- ADB
East Asia Brief - 9/2000 World Bank .
World Economic Outlook - 9/2000- IMF.
16. Những nội dung kinh tế - tài chính của đầu tư trực tiếp nước ngoài tại
Việt Nam, NXB Tài Chính - 1999.
17. Giáo trình Lập và quản lý dự án đầu tư - Trường ĐHKTQD- Bộ môn
Kinh tế đầu tư, TS Nguyễn Bạch Nguyệt , NXB Thống Kê - 2000.
18. Thẩm định dự án đầu tư , PGS kinh tế - Trường ĐH Kinh Tế thuộc Đại
học Quốc Gia TP HCM .
NXB TP HCM - 1999.
19. Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế - Cơ hội và thách thức , ĐH KTQD-
Khoa KT & KDQT, tháng 2/1999.
20. Báo cáo tổng hợp của Vụ đầu tư Bộ thương mại năm 1999,2000.
21. Báo cáo tổng hợp của Vụ QLDA- Bộ kế hoạch và đầu tư, 1999-2000.
22. Báo đầu tư năm 1998, 1999, 2000, 2001.
108
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luận văn- Đầu tư trực tiếp nước ngoài của Singapo vào Việt Nam - thực trạng và giải pháp.pdf