Đội ngũ cán bộ là đầu mối quan trọng để giải quyết mọi vấn đề của người lao 
động khi ở nước ngoài. Vì vậy cán bộ làm công tác quản lý phải có trình độ hiểu biết về 
pháp luật, phong tục tập quán của nước sở tại, có vốn kiến thức về ngoại ngữ, nắm được 
nghiệp vụ kinh tế, giải quyết kịp thời những mâu thuẫn xảy ra nhất là khi có những tranh 
chấp về hợp đồng kinh tế. Người cán bộ quản lý phải trở thành người hỗ trợ tin cậy cho 
người lao động.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 75 trang
75 trang | 
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 4240 | Lượt tải: 4 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Đẩy mạnh xuất khẩu lao động của nước ta trong giai đoạn hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
gữ kém. Chính vì vậy cần duy trì, củng cố và giữ vững các thị trường này bằng việc 
nghiên cứu, tiếp cận lại và chuẩn bị nguồn nhân lực ngay từ bây giờ để cung ứng kịp thời 
khi các thị trường này đòi hỏi. 
kết luận chương 2 
Trải qua hai giai đoạn, tương ứng với hai cơ chế quản lý kinh tế khác nhau, xuất 
khẩu lao động cũng mang những tên gọi khác nhau. 
Trong thập niên 80 - 90 XKLĐ theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung và quan hệ 
tương trợ, giúp đõ lẫn nhau giữa các nước XHCN. 10 năm thực hiện Hợp tác quốc tế về 
lao động gần 30 vạn lượt người đã có việc làm, có thu nhập và đem lại những hiệu quả 
kinh tế xã hội không nhỏ cho Nhà nước và bản thân gia đình người lao động. 
Bước sang thập kỷ 90 do sự biến động to lớn của tình hình kinh tế, chính trị của 
các nước trong hệ thống XHCN và do nước ta chuyển sang cơ chế thị trường, xuất khẩu 
lao động cũng có sự thay đổi theo. Khác với giai đoạn 1980 - 1990, xuất khẩu lao động 
của ta không còn tập trung vào các thị trường truyền thống là Liên Xô (cũ), các nước 
XHCN Đông Âu và Irắc mà chuyển hướng vào các nước có chế độ kinh tế chính trị khác 
với ta. Tính đến hết năm 1999, 127 doanh nghiệp XKLĐ đã đưa 89.140 người lao động 
và chuyên gia đi làm việc tại hơn 30 nước và vùng lãnh thổ. Với "doanh thu" trên 1 tỷ 
USD/một năm, XKLĐ đã trở thành một lĩnh vực kinh tế quan trọng đem lại hiệu quả cao. 
Tuy nhiên công tác XKLĐ cũng còn bộc lộ nhiều hạn chế: 
- Việc cụ thể hóa chủ trương xuất khẩu lao động ở các cấp trong thời gian đầu 
còn chậm và thiếu đồng bộ, chưa mạnh dạn đột phá, mở rộng thị trường tăng lượng lao 
động xuất khẩu. 
- Chưa có các văn bản pháp lệnh về công tác xuất khẩu lao động nên việc quản lý 
người lao động chưa chặt chẽ. 
- Thủ tục hành chính còn rườm rà đặc biệt là thủ tục về nhân sự, công tác tuyển 
chọn, đào tạo người lao động không kỹ càng, còn nhiều sơ hở và tiêu cực, do vậy đã ảnh 
hưởng tới chất lượng công tác XKLĐ của ta... 
Vì vậy, cần phải có những giải pháp cụ thể nhằm khắc phục những thiếu sót, giải 
quyết tốt và xử lý nghiêm những hiện tượng tiêu cực, làm lành mạnh hoạt động XKLĐ để 
chương trình XKLĐ của ta đạt được hiệu quả kinh tế xã hội cao trong những năm tiếp 
theo. 
Chương 3 
Những phương hướng và giải pháp 
chủ yếu đẩy mạnh xuất khẩu lao động 
của nước ta trong thời gian tới 
3.1. Phương hướng xuất khẩu lao động của nước ta 
XKLĐ đã trở thành vấn đề có ý nghĩa chiến lược quan trọng trước mắt và lâu dài 
đối với quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước nói chung và đối với chương 
trình quốc gia về giải quyết việc làm nói riêng. Nước ta có lực lượng dân cư trong độ tuổi 
lao động dồi dào (năm 1999 có 37,8 triệu; năm 2000 là gần 40 triệu; và đến năm 2015 
theo dự báo con số này sẽ lên đến 62 triệu), quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa vừa 
là điều kiện thuận lợi vừa là những thách thức to lớn cho chương trình tạo việc làm, giải 
quyết thất nghiệp. Trong Hội nghị triển khai nghị quyết Trung ương 4 khóa VIII Bộ Lao 
động Thương binh và Xã hội đã xác định: Chúng ta phấn đấu đến năm 2000 đưa khoảng 
150.000 lao động làm việc ở các nước, và sau năm 2000 con số này lên đến 200.000 hoặc 
250.000 hàng năm, thường xuyên có khoảng 400.000 - 500.000 lao động Việt Nam làm 
việc ở nước ngoài. Để thực hiện được mục tiêu trên, XKLĐ của ta trong thời gian tới cần 
theo các phương hướng sau: 
3.1.1. Đa phương hóa thị trường XKLĐ 
Trước đây do hạn chế của tư duy và bối cảnh lịch sử chương trình hợp tác quốc 
tế về lao động của ta chỉ bó hẹp trong một số nước XHCN, Irắc và một vài nước Châu 
Phi. Sau khi có những biến động lớn về kinh tế - chính trị xã hội trên thế giới và trong 
nước, chúng ta chuyển hướng thị trường lao động vào những nước mà trước đây ta chưa 
từng hợp tác. Tuy nhiên, đã có những biểu hiện buông lơi thị trường lao động cũ trong cả 
tư duy của người lao động và những nhà chức trách. Vì vậy cần phải: 
a) Giữ vững địa bàn lao động truyền thống, đưa lao động sang các nước SNG 
và Đông Âu với các hình thức thích hợp. Nên thấy rằng sự khủng hoảng về kinh tế, 
chính trị ở các nước SNG và Đông Âu chỉ là tạm thời. Các nước này vẫn là những nước 
có trình độ kinh tế khá phát triển, có điều kiện làm việc tốt và đặc biệt là có mối quan hệ 
hữu nghị lâu dài với dân tộc Việt Nam. Người Việt Nam qua nhiều thế hệ đã tiếp xúc, 
gắn bó và còn lưu giữ nhiều ấn tượng tốt đẹp về Liên Xô, Tiệp Khắc, Bungari,... và các 
nước XHCN trước đây. Sau những "cơn sóng gió" các nước này đang đi dần vào thế ổn 
định và phát triển. Đây cũng là những nước đất đai rộng lớn, tài nguyên phong phú và có 
mật độ dân cư thưa. Sự phát triển của các quốc gia này tất yếu đòi hỏi một lượng cầu lao 
động lớn, cả lao động giản đơn và lao động có trình độ kỹ thuật cao. Vừa qua, ta đã ký 
kết các nghị định thư với Nga, Cộng hòa Séc để nhằm giữ vững các thị trường truyền 
thống. Trong tương lai, ta tiếp tục ký kết các nghị định thư với các nước Đông Âu khác. 
Tuy nhiên, trong điều kiện kinh tế thị trường và sự thay đổi thể chế kinh tế - chính trị ở 
các nước này chúng ta phải tìm ra các hình thức hợp tác phù hợp với luật pháp của hai 
bên để chương trình hợp tác đạt hiệu quả kinh tế xã hội ngày một cao hơn, chủ yếu tập 
trung cho cơ sở, Bộ ngành, các địa phương, doanh nghiệp tự ký kết thỏa thuận. 
b) Tăng cường XKLĐ sang các nước trong khu vực (mà chủ yếu là Hàn Quốc, 
Lào, Nhật Bản, Đài Loan) và các nước ở Trung Đông 
Nhu cầu lao động của Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan... rất lớn, Tuy nhiên đây là 
những thị trường khó tính, đặc biệt là thị trường Nhật Bản. Nhưng nếu có biện pháp khắc 
phục những nhược điểm thiếu sót trong công tác XKLĐ của nước ta thời gian qua thì vẫn 
có thể mở rộng thị phần của nước ta trên thị trường này. 
Trung Đông là khu vực tiếp giáp giữa châu á, châu Âu và Bắc Phi. Đây là khu 
vực chiếm gần 40% sản lượng dầu mỏ của thế giới. Sự phát triển công nghiệp dầu mỏ đã 
kéo theo sự phát triển của nhiều ngành công nghiệp khác như: xây dựng, giao thông vận 
tải và quá trình đô thị hóa... Nên nhu cầu về lao động ở khu vực này đã tăng nhanh trong 
những thập niên gần đây. 
Chúng ta đã có quan hệ ngoại giao với nhiều nước trong khu vực này. Năm 1986, 
Việt Nam đã cung ứng hơn 10.000 lao động cho Irắc. Cuộc chiến tranh vùng Vịnh năm 
1991 đã làm cho quá trình này bị gián đoạn. Đến năm 1994 một số công ty đã đưa thí 
điểm lao động nữ sang Li Băng làm công việc nội trợ. Từ năm 1996, một số công ty xây 
dựng Việt Nam đã cung cấp lao động sang nhận thầu khoán công trình tại Cô Oet và 
UAE... 
Gần đây Thái Lan, Philipin, Indonexia, Băng-La đét, Trung Quốc cũng đã đưa 
người lao động vào thị trường này. Dòng người ả rập theo đạo Hồi nhập cư vào đây lớn 
dẫn đến việc tìm kiếm công ăn việc làm tại thị trường Trung Đông không còn dễ dàng 
như trước. Trước sức ép của cư dân bản xứ, Chính phủ các nước Trung Đông chỉ cho 
phép nhập cư đối với lao động có trình độ lành nghề: kỹ sư, công nhân bậc cao hoặc 
những lao động giành cho công việc nặng nhọc, nhàm chán như tạp vụ, quét dọn vệ sinh, 
nội trợ gia đình. Tuy nhiên, đây vẫn là một thị trường lao động lớn nhất thế giới với mức 
thu nhập: Kỹ sư là 600 - 800 USD/tháng, công nhân lành nghề là 300 - 500 USD/tháng. 
Do vậy, trong những năm tới đây ta cần nghiên cứu và khai thác có hiệu quả thị trường 
lao động to lớn này. 
c) Mạnh dạn đột phá, mở rộng thị trường sang các châu lục khác như châu 
Mỹ, châu Phi và thị trường Tây Âu 
Nước ta đã từng đưa chuyên gia về giáo dục, y tế và nông nghiệp sang làm việc 
tại châu Phi từ những năm 80. Trong thời gian tới những thành tựu về nông nghiệp, giáo 
dục mà ta đạt được sẽ là những nhân tố quan trọng để các nước này tiếp tục yêu cầu ta 
giúp đỡ chuyên gia. 
Với Châu Mỹ: Tập trung chủ yếu là thị trường thuộc Hoa Kỳ. Ta đã đưa lao động 
sang Saipan, Samoa... Tuy nhiên lực lượng của ta còn ít và có nhiều vấn đề nảy sinh ở 
đây. Mặc dù vậy, đây vẫn là một cơ hội lớn cho lao động của ta thâm nhập vào những thị 
trường khó tính và mở ra một triển vọng lớn cho ta có thể tiếp cận các thị trường lao động 
khác với dung lượng lớn hơn. 
- Thị trường Tây Âu: Đối với nước ta còn hoàn toàn mới. Theo đánh giá của các 
chuyên gia, trong 20 năm tới do tỷ lệ sinh thấp nên số người già (trên 60) sẽ tăng lên gấp 
đôi (khoảng 113,5 triệu) chiếm 1/3 dân số của liên minh Châu Âu (EU). Lực lượng dân 
cư trong độ tuổi lao động không ngừng giảm sút, nhất là lực lượng thanh niên. Để cân 
bằng cung - cầu lao động, Tây Âu sẽ phải nhập 70 triệu lao động. Tuy vậy, đây là thị 
trường đòi hỏi lực lượng lao động có trình độ cao là chủ yếu, vì thế cần phải chuẩn bị tốt 
cho lao động Việt Nam có đủ điều kiện thâm nhập vào thị trường này. 
3.1.2. Đa dạng hóa hình thức XKLĐ 
Trong những năm của thập kỷ 80, hơn 20 vạn lao động, chuyên gia của ta đã 
từng làm việc nhiều năm ở các nước XHCN ở Đông Âu. Tuy nhiên, các hình thức hợp 
tác lao động còn nghèo, chủ yếu là lao động xen ghép với công nhân bạn trong dây 
chuyền sản xuất (từ năm 1980 đến 1987). 
Từ năm 1988 trở đi có thêm các hình thức hợp tác giữa ngành với ngành, xí 
nghiệp với xí nghiệp như hợp tác giữa Bộ Công nghiệp nhẹ Việt Nam với Bộ Công 
nghiệp nhẹ Đức; Bộ Giao thông vận tải Việt Nam với Bộ Cơ khí tổng hợp Tiệp Khắc,... 
Hợp tác giữa các địa phương kết nghĩa: Hà Nội - Matxcơva; Nghệ Tĩnh - Ulianop... và 
nhận thầu công trình: Bộ Xây dựng Việt Nam ở Bungari, Tiệp Khắc, Liên Xô; Bộ Thủy lợi 
Việt Nam với Irắc. 
Bước đột phá lớn vào giữa những năm 90 là nước ta đã đào tạo và xuất khẩu 
thuyền viên cho tàu cá và tàu vận tải sang nhiều châu lục khác nhau. Nhưng đây là lĩnh 
vực đòi hỏi người lao động phải vừa có sức khỏe, vừa có trình độ nghề nghiệp và trình độ 
ngoại ngữ cao. Chính vì vậy, số sĩ quan, thuyền viên của ta xuất sang các hãng tàu tuy có 
tăng nhưng số lượng không đáng kể. 
Hiện tại có một số đơn vị được phép xuất khẩu thuyền viên là: Trường Đại học 
Hàng Hải, Công ty Inlaco Sài Gòn, Inlaco Hải Phòng, Lod, Vitranchart, Vosco,... 
Thuyền viên của ta làm việc chủ yếu ở Nhật, Đài Loan, Hàn Quốc, Singapore, 
Pháp và một số nước châu Âu với số lượng khoảng trên 1.000 và đảm nhiệm các chức 
danh thấp. Số lượng thuyền viên Việt Nam làm việc cho các chủ tàu nước ngoài rất ít, so 
với các nước khác trong khu vực như: Băng-la-đét là 50.000; Philipin là 220.000; 
Indonexia là 40.000; Srilanka trên 30.000. Tuy vậy, tiềm năng về xuất khẩu thuyền viên 
của ta là lớn, nhưng cần chú ý đến sức khỏe, ngoại ngữ, tác phong công tác và trình độ 
thực hành của thuyền viên. 
Từ năm 1994, ta đã đưa sang Li-Băng một số lao động nữ thí điểm làm công việc 
nội trợ. Đến tháng 11 năm 1999, các công ty của ta bắt đầu đưa lao động nữ sang giúp 
việc gia đình ở Đài Loan. Đây là một lĩnh vực mới mẻ, hiện đang còn nhiều ý kiến khác 
nhau. Tuy nhiên, phải nhận thức rằng, đây cũng là một nghề nghiệp chân chính để tạo ra 
việc làm, tạo ra thu nhập. Do vậy, vấn đề là có giải pháp bảo vệ được quyền lợi phụ nữ của 
ta ở nước ngoài làm nghề giúp việc gia đình. 
Ngoài những hình thức trên, nên nghiên cứu, thử nghiệm để tìm ra các hình thức 
XKLĐ khác cho phù hợp với yêu cầu của đối tác nhằm không ngừng tăng số lượng lao 
động xuất khẩu của ta. 
Đa dạng hóa các hình thức hợp tác lao động vừa là phương hướng, vừa là biện 
pháp hữu hiệu để đưa số lượng lao động của ta đi các nước ngày một tăng lên. Cần thoát 
ra khỏi những định kiến ngặt nghèo của những quan niệm phong kiến lỗi thời để tạo điều 
kiện cho nhiều tầng lớp nhân dân, đặc biệt là phụ nữ, nông dân và những người nghèo có 
cơ hội tìm kiếm việc làm ngoài nước, từng bước xóa đi những cảnh nghèo cơ cực và góp 
phần thực hiện thắng lợi chương trình XKLĐ của quốc gia trong những năm tới. 
3.1.3. Coi trọng chất lượng, hiệu quả trong XKLĐ, không chạy theo số lượng 
đơn thuần 
Chất lượng - hiệu quả luôn là vấn đề phải được quan tâm hàng đầu trong mọi 
hoạt động kinh tế - xã hội. Đối với XKLĐ, hàng hóa được đưa tới thị trường ngoài nước 
không phải là những loại hàng hóa thông thường mà là hàng hóa đặc biệt. Chính vì vậy, 
chất lượng - hiệu quả của nó có tác động nhiều chiều trên nhiều phương diện cả về chính 
trị, kinh tế và xã hội. 
Hiện nay ta đã có một đội ngũ các doanh nghiệp tham gia XKLĐ hết sức đông 
đảo: 127 doanh nghiệp. Số lượng lao động được đưa sang các nước ngày một gia tăng. 
Chưa bao giờ vấn đề XKLĐ lại được mọi cấp mọi ngành quan tâm nhiều đến vậy. Điều 
đó khẳng định rằng đường lối chủ trương của Đảng và Nhà nước về đẩy mạnh XKLĐ là 
hoàn toàn đúng đắn. Nhưng những hiện tượng tiêu cực, như đưa lao động đi một cách ồ 
ạt vô nguyên tắc, chất lượng lao động thấp, số lượng lao động phải trả về cao, có những 
doanh nghiệp tuyển người đi lao động để lợi dụng chiếm đoạt tài sản công dân... đã đánh 
những hồi chuông cảnh báo về tình hình XKLĐ hiện nay. Chính vì vậy, một mặt bằng 
nhiều cách, chúng ta phải tăng cường XKLĐ để giải quyết việc làm, giảm tỷ lệ thất 
nghiệp, tăng thu nhập cho người lao động, góp phần tích cực vào chủ trương xóa đói 
giảm nghèo, mặt khác, chúng ta phải chống lại những hiện tượng xem thường chất lượng 
- hiệu quả, chỉ chạy theo số lượng đơn thuần. Quán triệt phương hướng này, hoạt động 
XKLĐ cần thực hiện tốt các nội dung sau: 
Một là, nâng cao chất lượng của đội ngũ các doanh nghiệp tham 
gia XKLĐ. 
127 doanh nghiệp được tham gia XKLĐ là một lực lượng hùng hậu để hoàn 
thành mục tiêu trong những năm tới, đưa được vài triệu lao động Việt Nam ra làm việc ở 
nước ngoài. Tuy nhiên, hiện có nhiều doanh nghiệp có giấy phép XKLĐ nhưng không 
thể đi vào hoạt động, hoặc hoạt động nhưng chất lượng hiệu quả không cao. Có những 
doanh nghiệp như công ty TNHH Phát triển Công nghệ mới - Thương mại - Du lịch và 
Xây dựng (tên giao dịch là DTC) đã chiếm đoạt của người lao động hàng tỷ đồng trong 
dịch vụ XKLĐ. Nhiều nơi, nhiều chỗ thu tiền với mức quá cao hoặc đặt ra những quy 
định riêng cho mình, không tuân thủ các quy định chung cũng như các nguyên tắc pháp 
lý, như: 
- Không chấp hành nguyên tắc trực tiếp tuyển chọn lao động, rõ nét nhất là vụ 
tuyển chọn lao động trong 2 đợt đầu đi làm việc ở Samoa thuộc Hoa Kỳ. 
- Có nhiều sai sót trong ký kết hợp đồng: Chưa ghi rõ công việc người lao động 
sẽ làm, không xác định rõ phương thức trả lương, đề ra những quy định trái với quy định 
của pháp luật Việt Nam hoặc không có lợi cho người lao động. 
- Vi phạm chế độ tài chính: Như thu một số khoản tiền ngoài quy định, thu tiền 
đặt cọc quá mức cho phép, thu phí dịch vụ cao hơn, thu tiền của người chưa chính thức 
được tuyển chọn... 
Do vậy cần rà soát lại các doanh nghiệp được phép XKLĐ, đưa ra những yêu cầu 
cụ thể, nếu không đáp ứng được kiên quyết không cấp giấy phép hoặc thu hồi lại giấy 
phép khi thấy cần thiết. 
Hai là, lấy hiệu quả làm đầu trong công tác XKLĐ. 
Cần phải tính đến cả hiệu quả về kinh tế và hiệu quả về mặt xã hội do hoạt động 
XKLĐ đưa lại. Đồng thời đảm bảo lợi ích người lao động, lợi ích của doanh nghiệp và 
lợi ích quốc gia. Hiện tại đã có những biểu hiện tiêu cực chạy theo lợi ích kinh tế đơn 
thuần hoặc chỉ vì lợi ích trước mắt, lợi ích riêng của doanh nghiệp, dẫn đến tình trạng 
"đem con bỏ chợ", lấy tiền xong đưa người lao động ra nước ngoài là coi như hết trách 
nhiệm, đã để lại những hậu quả nghiêm trọng. 
Ba là, nâng cao chất lượng lao động Việt Nam trên thị trường lao động quốc tế. 
Chất lượng đội ngũ lao động xuất khẩu là một trong những nhân tố quan trọng 
quyết định hiệu quả của công tác XKLĐ. Do vậy, tuyển chọn, đào tạo một đội ngũ lao 
động có chất lượng cao vừa là phương hướng, vừa là biện pháp trước mắt và lâu dài. 
Để có được vài triệu lao động làm việc ở nước ngoài trong những năm tới là 
nhiệm vụ khó khăn cho mọi cấp, mọi ngành. Tuy vậy chúng ta không thể chạy theo số 
lượng mà xem nhẹ chất lượng và hiệu quả. Chất lượng và hiệu quả chính là một trong 
những giải pháp quan trọng và hữu hiệu nhất để thúc đẩy sự gia tăng về số lượng lao 
động Việt Nam trên thị trường lao động quốc tế. 
3.2. Những giải pháp chủ yếu đẩy mạnh XKLĐ của nước ta thời gian tới 
3.2.1. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu thị trường lao động quốc tế 
Tiếp thị - nghiên cứu thị trường là khâu cực kỳ quan trọng đối với mọi hoạt động 
sản xuất, kinh doanh. Nắm chắc thị trường là nhân tố quyết định chất lượng, hiệu quả của 
công tác xuất khẩu lao động. Mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng công tác nghiên cứu thị 
trường lao động của ta thời gian qua còn nhiều thiếu sót, do đó chưa nắm chắc đối tác, 
chưa hiểu rõ thị trường. Thông tin về thị trường lao động còn nghèo nàn hoặc chưa chuẩn 
xác... đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến công tác XKLĐ của ta. 
Những hạn chế trên là do trong một thời gian dài, đất nước bị phong tỏa bởi 
chính sách cấm vận nên sự hiểu biết của chúng ta về tình hình các nước trong hệ thống 
TBCN còn nhiều hạn chế. XKLĐ theo cơ chế thị trường đối với nước ta lại là hoạt động 
mới mẻ. Lực lượng của các doanh nghiệp XKLĐ mỏng, thiếu kinh nghiệm, cơ sở vật 
chất, trang thiết bị phục vụ cho hoạt động kinh tế đối ngoại trong thời đại cách mạng 
khoa học công nghệ và cách mạng thông tin còn thiếu thốn... Do đó các doanh nghiệp 
XKLĐ của ta vừa yếu lại vừa thiếu, chưa đủ sức vươn ra nắm bắt và khai thác thị trường 
một cách hiệu quả và cạnh tranh với các đối thủ khác trong khu vực. Đây cũng là nguyên 
nhân chính dẫn đến số lượng lao động của ta đưa đi trong thời gian qua chưa cao, nhiều 
cơ hội trong XKLĐ bị bỏ lỡ. 
Trong thời gian tới, việc nghiên cứu, tiếp cận và mở rộng thị trường phải được 
các doanh nghiệp quan tâm đầy đủ và Nhà nước cần có sự hỗ trợ, giúp đỡ về mọi mặt. Để 
thực hiện tốt giải pháp này cần tập trung vào một số vấn đề chính sau: 
a) Về phía Nhà nước: 
- Mở rộng và củng cố vững chắc quan hệ ngoại giao với các nước. Quan hệ về 
kinh tế luôn gắn liền với quan hệ ngoại giao của mỗi quốc gia. Quan hệ ngoại giao là sự 
mở đường và đặt nền móng cho những quan hệ về kinh tế. Chính vì vậy, việc mở rộng, 
củng cố vững chắc quan hệ ngoại giao của Nhà nước sẽ là cơ sở quan trọng cho việc 
nghiên cứu, mở rộng quan hệ về kinh tế nói chung và mở rộng thị trường lao động nói 
riêng. 
- Có chính sách khuyến khích những doanh nghiệp dám mạnh dạn nghiên cứu, 
tiếp cận và xâm nhập vào các thị trường lao động mới mẻ bằng những ưu đãi về tài chính, 
kể cả hỗ trợ một phần kinh phí. 
- Thành lập các trung tâm nghiên cứu thị trường lao động quốc tế để cung cấp 
thông tin cho các doanh nghiệp XKLĐ và đưa ra những dự báo về thị trường lao động thế 
giới làm căn cứ cho các doanh nghiệp xây dựng phương hướng, kế hoạch XKLĐ của 
mình. 
b) Về phía các doanh nghiệp XKLĐ: Doanh nghiệp phải là người chủ động khám 
phá, tìm tòi, mạnh dạn đầu tư cho hoạt động nghiên cứu mở rộng thị trường, để nắm chắc 
nhu cầu về số lượng, chất lượng, chủng loại lao động mà thị trường đó cần, thu thập 
thông tin đầy đủ về đặc điểm môi trường lao động, phong tục tập quán và tín ngưỡng của 
địa phương mà người lao động của nước ta sẽ đến làm việc. Cũng cần phải nắm được tiền 
công và tình hình lao động của các nước khác đang làm việc trên cùng địa bàn để rút kinh 
nghiệm và có đối sách thích hợp... Phải tìm hiểu cả những điểm thuận lợi và những khó 
khăn, những yêu cầu khắt khe của thị trường để có những giải pháp cụ thể, nhất là giải 
pháp về tuyển chọn và đào tạo, làm cho cung về lao động của ta thích ứng với cầu của thị 
trường. 
Hoạt động này có thể tiến hành bằng nhiều cách như: thông tin, quảng cáo, thông 
qua hoạt động của các tổ chức ngoại giao, kinh tế,... thông qua khảo sát, đàm phám, khai 
thác thông tin và các đại diện của các tổ chức kinh tế của ta ở nước ngoài và của nước 
ngoài hoạt động trên đất nước ta. Mạnh dạn chia phần trăm hoa hồng cho các công ty môi 
giới mở đường dẫn dắt và dưa lao động của ta vào thị trường lao động các nước. 
3.2.2. Đổi mới, nâng cao chất lượng công tác tuyển chọn và đào tạo bồi 
dưỡng nguồn lao động phục vụ cho chương trình XKLĐ 
Chất lượng là nhân tố quyết định số lượng cung ứng lao động và duy trì, mở rộng 
thị trường lao động quốc tế của ta. Trong chỉ thị số 41/CT-TW ngày 22/09/1998 của Bộ 
Chính trị về XKLĐ và chuyên gia đã chỉ rõ: "Phải đẩy mạnh đào tạo nghề, nhất là về kỹ 
thuật và công nghệ cao, ngoại ngữ, giáo dục ý thức kỷ luật và pháp luật cho người lao 
động, đào tạo bồi dưỡng nâng cao chất lượng bộ máy cán bộ XKLĐ và chuyên gia". 
Trong đề án đẩy mạnh XKLĐ và chuyên gia giai đoạn 1998 - 2020 cũng khẳng định: "Tổ 
chức tốt việc đào tạo chuẩn bị nguồn lao động đáp ứng được yêu cầu của nước ngoài. 
Đây là một công tác trọng tâm, không những để phát triển thị trường XKLĐ mà còn để 
nâng cao uy tín của lao động Việt Nam trên thị trường lao động quốc tế". 
Chất lượng nguồn lao động của chúng ta còn một số hạn chế, chủ yếu là: 
- Nguồn lao động dồi dào nhưng tỷ trọng lao động qua đào tạo chuyên môn kỹ 
thuật thấp (chỉ chiếm khoảng 12%). Trong khi đó, tỷ lệ này của các nước trong khu vực 
đạt đến 40 - 50%. ở các nước phát triển, tỷ lệ lao động qua đào tạo có trình độ chuyên 
môn kỹ thuật còn cao hơn rất nhiều. Không những thế số công nhân lành nghề của ta rất 
ít. Việc phân bố và sử dụng lao động chuyên môn kỹ thuật chưa hợp lý - khu vực phi sản 
xuất, chiếm đến 70%, khu vực Nhà nước chiếm 80%. Điều đó có ảnh hưởng lớn đến hiệu 
quả và sự năng động của sức lao động lành nghề. 
- Thể lực của người lao động Việt Nam yếu: Mặc dù những năm qua tình trạng 
thể lực của người Việt Nam nói chung và của nguồn lao động nước ta nói riêng đã có 
những cải thiện đáng kể, nhưng nhìn chung tình trạng thể lực của ta còn kém xa so với 
một số nước khác trong khu vực. Theo khảo sát của các chuyên gia lao động học thì trọng 
lượng trung bình của lao động chúng ta đạt 43 - 51,9 kg trong khi các nước ASEAN và 
một số nước châu á khác, trọng lượng nặng gấp 1,2 - 1,3 lần và chiều cao gấp 1,04 - 1,12 
lần lao động của ta. 
Trước tình hình trên và yêu cầu mới đặt ra của thị trường lao động quốc tế đòi 
hỏi công tác tuyển chọn và đào tạo nguồn phải tìm ra những giải pháp hữu hiệu. 
- Công tác tuyển chọn: Cần xây dựng một hệ thống các tiêu chuẩn tuyển chọn lao 
động. Mọi ngành mọi lĩnh vực đều dựa trên những yêu cầu chung nhất về học vấn, sức 
khỏe, trình độ tay nghề, đạo đức và ý thức tổ chức kỷ luật. Đồng thời, tùy thuộc từng 
nghề, từng nước và từng chủ sử dụng khác nhau mà đặt ra những tiêu chuẩn riêng phù 
hợp. 
Mặt khác, để giúp cho các doanh nghiệp tuyển lựa được những lao động theo 
đúng nhu cầu của đối tác, tránh được những chi phí không cần thiết cho người lao động 
khi họ mong muốn tham gia XKLĐ, việc tuyển chọn lao động phải gồm các bước sau: 
- Thông tin công khai các tiêu chuẩn đã được xác định trên các phương tiện 
thông tin đại chúng để các tầng lớp nhân dân nắm được. 
- Tiếp nhận lao động và tiến hành kiểm tra hay thi tuyển ban đầu. Nội dung cụ 
thể: 
+ Kiểm tra bằng cấp, trình độ học vấn. Nên lấy những người đã tốt nghiệp phổ 
thông trung học hoặc ra một đề thi phù hợp với yêu cầu về trình độ học vấn mà doanh 
nghiệp cần tuyển. 
+ Nếu là lao động có nghề, kiểm tra tay nghề lao động bằng một công việc thực 
tế. 
+ Tiến hành kiểm tra sức khỏe tại các điểm có đủ trình độ chuyên môn và các 
phương tiện kỹ thuật theo quy định. 
+ Thẩm tra đạo đức thông qua lý lịch và tại địa phương nơi người lao động sinh 
sống, làm việc. 
+ Đào tạo hoặc bổ túc tay nghề trước khi đi. 
Thực tiễn công tác tuyển chọn ban đầu vừa qua ở một số doanh nghiệp chưa tiến 
hành theo đúng trình tự nói trên. Có doanh nghiệp khám sức khỏe hoặc kiểm tra bằng cấp 
(kể cả bằng tốt nghiệp PTTH hay bằng chuyên môn) sau khi đào tạo khiến cho những 
người lao động không đáp ứng đủ các yêu cầu trên phải chịu phí tổn vô ích. 
- Về địa điểm tuyển chọn: Có thể doanh nghiệp tiến hành tuyển chọn tại địa 
phương nơi người lao động sinh sống và làm việc, hoặc tuyển chọn tại cơ quan doanh 
nghiệp hoặc kết hợp cả hai. Mỗi cách thức đều có những ưu điểm và lợi thế riêng. Tùy 
theo tình hình cụ thể của mỗi doanh nghiệp và yêu cầu tiêu chuẩn của nguồn lao động 
cần sử dụng mà lựa chọn cách thức tuyển chọn cho phù hợp. Đối với những người lao 
động sống ở nông thôn, đặc biệt là ở các vùng sâu, vùng xa, thì tiến hành tuyển chọn tại 
địa phương sẽ tạo điều kiện thuận lợi hơn cho người lao động. 
- Công tác đào tạo: Vừa qua chúng ta đã thí điểm đưa một số trường và trung 
tâm dạy nghề đào tạo, giáo dục định hướng cho lao động Việt Nam đi làm việc có thời 
hạn ở nước ngoài. Tuy nhiên đây mới là thí điểm và vấn đề này cần được tiếp tục nghiên 
cứu và hoàn thiện. Để hình thành một hệ thống cơ sở đào tạo thống nhất phục vụ cho 
công tác XKLĐ. Hiện đang còn nhiều ý kiến khác nhau như: xây dựng các trung tâm đào 
tạo riêng biệt trực thuộc Bộ Lao động Thương binh và Xã hội; thành lập các trung tâm, 
cơ sở đào tạo phục vụ công tác XKLĐ trên địa bàn các địa phương... Nhưng trong điều 
kiện hiện nay thì giải pháp về sự kết hợp giữa đào tạo phục vụ cho nhu cầu trong nước 
với phục vụ cho chương trình xuất khẩu tại các nhà trường, các trung tâm đào tạo nghề 
sẵn có trên địa bàn cả nước được xem như là giải pháp có hiệu quả nhất. 
- Về nội dung đào tạo: Trước khi đi lao động người lao động cần được đào tạo 
toàn diện cả ngoại ngữ, trình độ chuyên môn kỹ thuật, kiến thức về pháp luật và sự hiểu 
biết khác... phục vụ cho quá trình làm việc và sinh sống tại các nước. Kinh nghiệm thế giới 
đã chỉ rõ rằng, ở đâu chuẩn bị được lực lượng lao động tốt, có chất lượng cao phù hợp sẽ 
nhanh chóng chiếm giữ được thị trường, dành thắng lợi trong cạnh tranh với các đối thủ 
khác. 
Nếu đủ vốn ngoại ngữ người lao động sẽ nhanh chóng hòa nhập với cuộc sống sở 
tại, tiếp thu những kiến thức mới trong quá trình làm việc. Bộ Lao động Thương binh và 
Xã hội nên nghiên cứu và xuất bản các giáo trình về ngoại ngữ chuyên dùng cho người 
lao động đi xuất khẩu. Nội dung phải sát với điều kiện thực tế của quá trình làm việc. Sau 
đào tạo phải có sự kiểm tra, kiên quyết không đưa những người chưa đủ trình độ đi XKLĐ. 
Việc dạy nghề và bổ túc trình độ chuyên môn theo hợp đồng lao động là cần 
thiết. Lao động Việt Nam được đánh giá là thông minh cần cù, chịu khó, nhanh nhẹn 
trong công việc... Nhưng chưa được đào tạo chu đáo nên trình độ chưa cao, như sĩ quan 
thuyền viên của ta thường giữ các cương vị thấp hoặc lao động giúp việc gia đình không 
đủ vốn ngôn ngữ để giao tiếp, không biết sử dụng một cách thành thạo các phương tiện, 
dụng cụ dùng trong gia đình, cuọc sống sinh hoạt bừa bộn không ngăn nắp, thiếu ý thức 
"chủ" "thợ"... Điều này đã ảnh hưởng không nhỏ tới hiệu quả của công tác XKLĐ. Chính 
vì vậy nâng cao tay nghề, trình độ chuyên môn nghiệp vụ là bước đột phá quan trọng để 
nâng cao uy tín của lao động Việt Nam trên thị trường lao động quốc tế, từng bước mở 
rộng thị phần, tạo uy tín và sức mạnh cho các doanh nghiệp XKLĐ cạnh tranh với các đối 
thủ khác trong khu vực và trên thế giới. 
Ngoài ra còn phải giáo dục về kiến thức pháp luật, sự hiểu biết về đất nước, con 
người, phong tục tập quán, tín ngưỡng tôn giáo tại nước tiếp nhận, giáo dục về quan hệ 
chủ - thợ, ý thức tổ chức kỷ luật cùng những quy định về vệ sinh an toàn lao động. Đây là 
những nội dung cần thiết trang bị cho người lao động, giúp người lao động nhanh chóng 
làm quen với môi trường mới và tránh được những rủi ro không đáng có. 
Tất cả các nội dung trên cần được thống nhất cho mọi cơ sở đào tạo và chuẩn hóa 
trong việc xây dựng giáo trình và đánh giá chất lượng khi kết thúc khóa đào tạo. Có như 
vậy chất lượng lao động xuất khẩu của ta mới ngày càng được nâng cao và cạnh tranh 
được với các đối thủ cung cấp lao động khác trong khu vực và trên thế giới. 
3.2.3. Xây dựng, hoàn thiện chính sách tài chính phục vụ cho công tác 
XKLĐ 
Chính sách tài chính là đòn bẩy thúc đẩy, mở rộng và nâng cao hiệu quả của công 
tác XKLĐ. Trong chính sách tài chính, điều quan trọng chủ yếu là phải quan tâm và bảo 
đảm hài hòa các lợi ích: lợi ích người lao động, lợi ích của doanh nghiệp XKLĐ và lợi 
ích quốc gia. Bên cạnh đó, cần chú ý thêm đến lợi ích của các chủ sử dụng lao động nước 
ngoài. Trong giai đoạn hiện nay, chính sách tài chính cần tập trung vào: 
- Đầu tư xây dựng các doanh nghiệp XKLĐ đủ mạnh về cả người, trang thiết bị 
và vốn để cạnh tranh trên thị trường lao động quốc tế. Ban hành các chính sách ưu đãi với 
các doanh nghiệp XKLĐ như: Cho vay vốn với lãi suất thấp, hỗ trợ kinh phí cho việc 
nghiên cứu thị trường tìm kiếm hợp đồng, xây dựng chi phí môi giới cho doanh nghiệp... 
- Cho phép sử dụng cơ chế ba bên trong đào tạo lao động xuất khẩu: Nhà nước, 
Doanh nghiệp và người lao động cùng đầu tư để tạo nguồn kinh phí trong điều kiện ngân 
sách Nhà nước, vốn của Doanh nghiệp phục vụ cho công tác đào tạo còn hạn hẹp. 
- Nghiên cứu và quy định lại cho hợp lý hơn về các khoản chi phí dịch vụ cho 
tìm việc làm ngoài nước. Hiện nay, theo thông tư liên tịch số 16/2000/TTLT-BTC-
BLĐTB&XH ngày 28/02/2000 của Bộ Tài chính và Bộ Lao động Thương binh và Xã 
hội, phí dịch vụ được tính theo phần trăm lương / tháng theo hợp đồng với mức thu 12% 
và 18% với những sĩ quan thuyền viên sau khi đã trừ đi các khoản chi phí ăn ở, bảo hiểm 
tai nạn, bảo hiểm y tế trong thời gian làm việc ở nước ngoài là tương đối cao. Do vậy cần 
nghiên cứu sao cho mức thu phí dịch vụ phải vừa đảm bảo có lãi cho Doanh nghiệp sau 
khi đã trừ đi các khoản chi phí, đồng thời mức thu này không được quá cao. Người lao 
động chấp nhận xa gia đình, quê hương, người thân bước vào một cuộc sống hoàn toàn 
khác lạ chỉ vì mục đích kinh tế. Vì vậy, sau khi trừ đi các khoản chi phí, người lao động 
phải tiết kiệm được một khoản tiền cao hơn hẳn so với thu nhập của họ khi ở trong nước. 
Nếu các khoản chi phí lớn, mức thu nhập thấp sẽ là nguyên nhân làm cho người lao động 
phải tìm cách ra ngoài làm thêm hoặc tự ý phá bỏ hợp đồng đi làm cho nơi khác có thu 
nhập cao hơn. Những hiện tượng này không còn là cá biệt mà đã xảy ra phổ biến ở nhiều 
nơi, đặc biệt là ở Nhật Bản và Hàn Quốc, làm ảnh hưởng đến việc duy trì thị trường, và 
tổn hại đến các lợi ích kinh tế khác. 
- Mở tài khoản cá nhân cho người lao động trước khi đi làm việc ở nước ngoài để 
người lao động có thể gửi tiền về giúp đỡ gia đình cải thiện đời sống hoặc đầu tư cho sản 
xuất. Phương pháp này giúp người lao động yên tâm hơn, đồng thời cũng giúp Nhà nước 
có thể kiểm soát được ngoại hối chuyển về nước. 
- Nên nghiên cứu để giảm chi phí đến mức thấp nhất và có những chính sách cụ 
thể mang tính khả thi, giúp đỡ, tạo điều kiện để người nghèo có thể tham gia vào XKLĐ 
như: 
+ Các tỉnh, huyện nên thành lập các trung tâm tư vấn miễn phí, cung cấp thông 
tin, hướng dẫn cho người lao động làm các thủ tục về XKLĐ. Đây chính là biện pháp 
khắc phục những hạn chế về thiếu hiểu biết, giúp đỡ người lao động tránh được những 
rắc rối, phiền hà và cả những rủi ro. 
+ Thành lập các trung tâm đào tạo về ngoại ngữ, nghiệp vụ ngay tại địa bàn của 
tỉnh, huyện. Giải pháp này sẽ giúp người lao động giảm được chi phí về ăn ở, đi lại ở các 
thành phố lớn - nơi có giá cả đắt đỏ. 
+ Các doanh nghiệp XKLĐ nên có chính sách ưu đãi với người nghèo bằng cách 
giúp đỡ tạo điều kiện và giảm một phần chi phí cho người nghèo khi tham gia XKLĐ. 
Tiến hành tuyển chọn lao động đi xuất khẩu ngay tại địa phương nơi người nghèo sinh 
sống. 
+ Vừa qua Chính phủ đã có chính sách cho người lao động vay vốn để tham gia 
XKLĐ. Tuy nhiên, để chính sách này được thực hiện tốt phải có sự phối hợp chặt chẽ 
giữa công ty XKLĐ, các chi nhánh ngân hàng nơi người nghèo sinh sống, gia đình và địa 
phương của người nghèo để tạo điều kiện giúp đỡ người nghèo, nhưng đồng thời cũng 
bảo đảm thu hồi vốn cho ngân hàng. 
- Là người nghèo thì không thể có của để thế chấp; người nghèo chỉ có thể vay 
vốn bằng hình thức tín chấp. Do vậy, chính quyền địa phương và các đoàn thể xã hội như 
Hội phụ nữ, Đoàn Thanh niên,... nên đứng ra bảo lãnh cho người nghèo vay một phần 
vốn để tham gia XKLĐ. Việc trả vốn vay có thể sau 3 đến 4 tháng đi lao động hoặc lâu 
hơn tùy theo mức độ bảo lãnh của đoàn thể và sự thỏa thuận với người vay và gia đình 
họ. 
- Các doanh nghiệp XKLĐ có thể đề nghị bên đối tác ứng trước cho người đi lao 
động một khoản tiền hoặc cung cấp tín dụng cho người lao động Việt Nam khi mới tới làm 
việc ở bên nước họ để trả nợ vay trước khi đi. 
3.2.4. Hoàn thiện hệ thống tổ chức quản lý hoạt động xuất khẩu lao động 
Để từng bước hoàn thiện và không ngừng nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ 
thống tổ chức quản lý XKLĐ đòi hỏi phải tổ chức hợp lý bộ máy quản lý và nâng cao 
trình độ đội ngũ cán bộ quản lý: 
Trong những năm gần đây, cơ chế XKLĐ đã có sự thay đổi. Nhà nước giao cho 
các doanh nghiệp làm dịch vụ XKLĐ trực tiếp tuyển chọn, đào tạo và tổ chức XKLĐ. 
Nhà nước chỉ thực hiện chức năng quản lý Nhà nước. Chức năng này được giao cho cơ 
quan chuyên môn là Cục Quản lý lao động với nước ngoài (thành lập theo Quyết định số 
728/LĐTBXH-QĐ ngày 04/07/1994 của Bộ trưởng Bộ lao động - thương binh và xã hội). 
Mặc dù vậy, cho đến nay, tổ chức bộ máy chưa thật hoàn thiện và hiệu quả hoạt động 
chưa cao. Để quản lý tốt công tác XKLĐ ở cả trong và ngoài nước, tổ chức bộ máy quản 
lý cần tập trung vào một số điểm chính sau: 
Giảm các đầu mối trung gian, hoàn thiện bộ máy tinh gọn nhưng hiệu quả hoạt 
động cao. Có như vậy mới giảm được chi phí, tránh được phiền hà và cả những tiêu cực 
do bộ máy cồng kềnh, kém hiệu lực mang lại. Bộ máy quản lý phải bao quát và xử lý tốt 
mọi nội dung quản lý nhà nước, đảm bảo tính linh hoạt, năng động. 
- Nhanh chóng thành lập các tổ chức đại diện bảo vệ quyền lợi của người lao 
động Việt Nam trên những thị trường lao động quốc tế có người lao động của ta làm việc, 
không nên để tình trạng "trắng tổ chức", "trắng đại diện" trên một số thị trường lao động 
của ta hiện nay. 
- Cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan chức năng để giải quyết việc làm 
thủ tục cho người đi lao động được nhanh chóng và xử lý nghiêm minh những hành vi 
phạm pháp. 
Cạnh tranh trên thị trường lao động quốc tế, đáp ứng nhanh, kịp thời yêu cầu của 
đối tác là một nhân tố quan trọng đảm bảo thắng lợi. Thủ tục xuất cảnh phải được đơn 
gian hóa. Hiện nay có nhiều hợp đồng lao động ký xong, phía đối tác yêu cầu có lao động 
gấp, song thủ tục của ta lại rườm rà (quy định là 2 tuần, nhưng thực tế thời gian này kéo 
dài) nên không đáp ứng được kịp thời. Sự chậm trễ này đã làm cho uy tín của ta bị giảm 
sút. Về vấn đề này, nên học tập kinh nghiệm của Philipin: Chính phủ đã cấp sẵn hộ chiếu 
cho người lao động. Khi có hợp đồng lao động với các nước, chỉ cần xin cấp Visa. Do 
vậy, tính sẵn sàng trong cung ứng lao động của Philipin rất cao. Đây cũng là nhân tố giúp 
Philipin thành công trong chiếm lĩnh thị trường thế giới. 
Trong những trường hợp cụ thể, các cơ quan chức năng cũng cần phối hợp chặt 
chẽ để cùng nghiên cứu và tìm ra các giải pháp hữu hiệu. Chẳng hạn việc XKLĐ sang 
Lào, thẻ lao động của Lào chỉ có thời hạn trong 6 tháng, mỗi lần xin gia hạn người lao 
động phải chi ra rất nhiều khoản tốn kém. 
Cùng với những vấn đề trên, cần có sự phối hợp giữa doanh nghiệp XKLĐ, cơ 
quan chức năng và phía đối tác nhằm hạn chế và xử lý nghiêm những lao động tự ý phá 
bỏ hợp đồng, làm ăn phi pháp, gây ra những hậu quả xấu trên đất bạn, làm giảm uy tín 
của các doanh nghiệp XKLĐ và của cả người lao động Việt Nam. 
Người làm công tác quản lý phải đồng thời là người đề ra phương hướng, kế 
hoạch XKLĐ, là người nắm chắc thị trường, cung cấp thông tin cho các cơ quan chức 
năng và doanh nghiệp XKLĐ. Chính vì vậy người cán bộ quản lý phải có trình độ cao về 
ngoại ngữ, trình độ nghiệp vụ và vốn sống, kinh nghiệm. 
Khác với người lao động - chỉ cần có trình độ ngoại ngữ trung bình, phục vụ cho 
giao tiếp trong cuộc sống và công việc, người làm công tác quản lý, đặc biệt là những 
người thuộc bộ phận ngoài nước phải có trình độ ngoại ngữ cao, thuần thục trong giao 
tiếp, thông hiểu phong tục tập quán, tín ngưỡng, tôn giáo của đất nước, dân tộc nơi đang 
làm nhiệm vụ. Biết sử dụng ngoại ngữ trong giải quyết công việc, đặc biệt là trong quá 
trình người lao động thực hiện hợp đồng, giải quyết các tranh chấp, mâu thuẫn với phía 
đối tác và cơ quan chức năng. 
Về trình độ nghiệp vụ và vốn sống, kinh nghiệm, người làm công tác quản lý lao 
động ở nước ngoài phải là người giúp đỡ và hướng dẫn lao động của ta làm việc. Do vậy, 
đòi hỏi phải nắm chắc các hợp đồng kinh tế, luật pháp của nước sở tại và thông lệ quốc 
tế. Biết đàm phán, biết giải quyết những mâu thuẫn giữa lao động của ta và các chủ 
doanh nghiệp nước ngoài. Người quản lý phải là người đại diện bảo vệ cho quyền lợi 
người lao động Việt Nam trên thị trường lao động quốc tế. 
Để có được những phẩm chất trên, đáp ứng những yêu cầu của công việc, người 
cán bộ làm công tác quản lý phải biết tự học tập, đào tạo, nâng cao trình độ, biết tiếp thu 
cái mới một cách nhanh nhạy, làm việc phải công tâm vì lợi ích của người lao động, lợi 
ích của các doanh nghiệp và vì sự nghiệp XKLĐ, xóa đói giảm nghèo, phát triển kinh tế 
của dân tộc Việt Nam. 
3.2.5. Tăng cường công tác thông tin tuyên truyền đối với chương trình 
XKLĐ 
Ngày nay đang diễn ra sôi động cuộc cách mạng khoa học công nghệ, nhất là 
công nghệ thông tin. Trên mọi lĩnh vực đời sống kinh tế - xã hội, thông tin ngày càng trở 
nên vô cùng quan trọng và ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng hiệu quả của công việc. 
Mặc dù các phương tiện truyền thông của chúng ta đã phát triển mạnh mẽ, nhưng 
người lao động vẫn thiếu thốn về thông tin nói chung và thông tin về XKLĐ nói riêng, 
đặc biệt là ở khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa. Nhiều sự phiền hà, nhiều hành vi tiêu 
cực được bắt nguồn và nhem nhóm từ sự không hiểu biết của người lao động. Chính vì 
vậy, tăng cường công tác thông tin tuyên truyền vừa là biện pháp để thúc đẩy công tác 
XKLĐ phát triển vừa ngăn ngừa những hành vi tiêu cực. 
Trong thời gian tới công tác thông tin tuyên truyền cần tập trung vào làm cho mọi 
tầng lớp nhân dân hiểu rõ: 
- Chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước về chương trình xuất khẩu lao 
động. 
- Nắm được tiêu chuẩn, yêu cầu đặt ra với người đi XKLĐ. 
- Hiểu và nắm được các bước tham gia XKLĐ, đặc biệt là khâu làm thủ tục về 
nhân sự... 
- Giúp người lao động có những thông tin về các mánh khóe lừa đảo và các hành 
vi tiêu cực để họ phòng tránh. 
3.2.6. Xử lý nghiêm các hành vi phạm pháp của cả tổ chức và 
cá nhân 
Trong thời gian qua nhiều vụ việc vi phạm pháp luật trắng trợn của một số doanh 
nghiệp và cá nhân (lừa gạt, chiếm đoạt tài sản hoặc vô trách nhiệm khi tổ chức đưa người 
ra nước ngoài...) đã bị phát hiện, nhưng vẫn còn nhiều hiện tượng tiêu cực chưa được xử 
lý hoặc xử lý không nghiêm. Do vậy việc dành những hình phạt thích đáng cho những tổ 
chức và cá nhân có hành vi phạm pháp sẽ là một giải pháp tích cực, làm lành mạnh hoạt 
động xuất khẩu lao động, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp cạnh tranh đúng pháp luật, 
thực hiện thắng lợi chiến lược xuất khẩu lao động của ta. 
Kết luận chương 3 
Xuất khẩu lao động là một hoạt động kinh tế phức tạp có liên quan và ảnh hưởng 
đến nhiều lĩnh vực khác nhau. Trong những năm qua xuất khẩu lao động đã có đóng góp 
quan trọng vào sự phát triển của nền kinh tế đất nước. Tuy nhiên công tác xuất khẩu lao 
động của ta còn tồn tại nhiều hạn chế. Để khắc phục những hạn chế thiếu sót và phấn đấu 
hoàn thành mục tiêu của chương trình xuất khẩu lao động, trong những năm tới. Công tác 
XKLĐ phải được tiến hành theo các phương hướng: Đa phương hóa thị trường XKLĐ; 
Đa dạng hóa hình thức XKLĐ, mạnh dạn nghiên cứu thử nghiệm và tìm ra các hình thức 
mới cho phù hợp với điều kiện của cả người lao động Việt Nam và bên đối tác; Coi trọng 
chất lượng hiệu quả trong XKLĐ, không chạy theo số lượng đơn thuần. 
Theo phương hướng trên cần ra sức thực hiện tốt các giải pháp chủ yếu sau: 
1. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu thị trường lao động quốc tế, củng cố giữ vững 
thị trường lao động truyền thống, mạnh dạn tiếp cận và khai thác thị trường giàu tiềm 
năng khác. 
2. Đổi mới công tác tuyển chọn và đào tạo nguồn lao động phục vụ cho chương 
trình xuất khẩu lao động. 
3. Xây dựng hoàn thiện chính sách tài chính phục vụ cho công 
tác XKLĐ. 
4. Hoàn thiện hệ thống tổ chức quản lý hoạt động XKLĐ. 
5. Tăng cường công tác thông tin tuyên truyền phục vụ cho chương trình XKLĐ, 
đảm bảo cho mọi tầng lớp nhân dân nắm được nội dung yêu cầu, các tiêu chuẩn và thủ 
tục tham gia XKLĐ, giúp người lao động tránh được những rắc rối phiền hà và những rủi 
ro do thiếu thông tin. 
6. Xử lý nghiêm các hành vi phạm pháp của cả các tổ chức và cá nhân, làm lành 
mạnh hoạt động XKLĐ và tạo ra sự bình đẳng trong cạnh tranh của các tổ chức XKLĐ ở 
nước ta. 
Trên đây là hệ thống giải pháp chủ yếu có tính đồng bộ, trong quá trình thực hiện 
đòi hỏi các tổ chức XKLĐ và cơ quan hữu quan phải quan hệ chặt chẽ với nhau và cùng 
tổ chức thực hiện, có như vậy chiến lược XKLĐ của ta mới thu được những thắng lợi tốt 
đẹp. 
Kết luận 
Ngày nay toàn cầu hóa kinh tế đã trở thành một xu thế tất yếu, nền kinh tế của 
các quốc gia phụ thuộc lẫn nhau. Trong xu thế phát triển đó, xuất khẩu và nhập khẩu lao 
động giữa các nước cũng không ngừng tăng lên phản ánh sự phân công lao động quốc tế 
đã và đang diễn ra với quy mô lớn, tốc độ cao và ngày càng sâu sắc. Nước ta có nguồn 
lao động dồi dào số người không đủ việc làm, hoặc thất nghiệp đông, nên xuất khẩu lao 
động trở thành vấn đề cấp bách. Bắt đầu Hợp tác quốc tế về lao động từ những năm 80, 
nhưng bước sang thập kỷ 90 nước ta mới thực sự xuất khẩu lao động theo đúng nghĩa của 
từ này. Tuy nhiên công tác này vẫn còn nhiều vấn đề vướng mắc cả trong nhận thức và 
biện pháp thực hiện. Chủ trương đẩy mạnh xuất khẩu lao động được xác định sớm nhưng 
việc cụ thể hóa ở các cấp các ngành còn chậm, các chính sách còn thiếu đồng bộ, chưa 
mở rộng được thị trường... Công tác quản lý vĩ mô còn lỏng lẻo nên xảy ra nhiều hiện 
tượng tiêu cực, lừa đảo để mưu cầu lợi ích riêng làm tổn hại lợi ích của người lao động và 
uy tín của nước ta. 
Mặt khác, công tác đào tạo, chuẩn bị nguồn, và các thủ tục hành chính rườm rà 
cũng đang là những nhân tố cản trở công tác xuất khẩu lao động trong điều kiện kinh tế 
thị trường. 
Để khắc phục những tồn tại đó, đòi hỏi phải nhất quán quan điểm hàng hóa sức 
lao động và gạt bỏ những định kiến hẹp hòi của những quan niệm phong kiến trước đây, 
phải chấn chỉnh lại công tác xuất khẩu lao động trên cả hai phương diện: quản lý vĩ mô 
của Nhà nước và việc tổ chức thực hiện ở các doanh nghiệp. Muốn vậy Nhà nước cần: 
- Hoàn thiện bộ máy quản lý cả về tổ chức và công tác cán bộ. 
Tổ chức bộ máy quản lý hoạt động XKLĐ phải gọn nhẹ, đáp ứng được yêu cầu 
nhiệm vụ của XKLĐ trong cơ chế thị trường. Giảm đầu mối, tránh những thủ tục hành 
chính phiền hà, làm mất đi tính linh hoạt của các doanh nghiệp XKLĐ. 
Đội ngũ cán bộ là đầu mối quan trọng để giải quyết mọi vấn đề của người lao 
động khi ở nước ngoài. Vì vậy cán bộ làm công tác quản lý phải có trình độ hiểu biết về 
pháp luật, phong tục tập quán của nước sở tại, có vốn kiến thức về ngoại ngữ, nắm được 
nghiệp vụ kinh tế, giải quyết kịp thời những mâu thuẫn xảy ra nhất là khi có những tranh 
chấp về hợp đồng kinh tế. Người cán bộ quản lý phải trở thành người hỗ trợ tin cậy cho 
người lao động. 
- Đề ra các văn bản pháp quy để điều chỉnh hoạt động này đối với cả các doanh 
nghiệp XKLĐ và người lao động. 
- Tìm ra những giải pháp thiết thực, đặc biệt là giải pháp và chính sách tài chính 
để "XKLĐ" đi vào đời sống của mọi tầng lớp nhân dân, góp phần đặc lực thực hiện chính 
sách xóa đói giảm nghèo của Đảng và Nhà nước. 
- Đẩy mạnh công tác nghiên cứu thị trường lao động quốc tế, mở rộng, củng cố 
quan hệ ngoại giao làm cơ sở cho việc mở rộng quan hệ trao đổi lao động. Có kế hoạch 
đào tạo và bồi dưỡng nguồn lao động phục vụ cho XKLĐ trong cả thời kỳ dài 2000 - 
2020. 
Đối với các doanh nghiệp làm dịch vụ XKLĐ: Phải nâng cao chất lượng hoạt 
động của mình thông qua việc đổi mới công tác tuyển chọn đào tạo nguồn lao động. Chấn 
chỉnh lại tổ chức, mạnh dạn đầu tư nghiên cứu thị trường đưa lao động của ta vào các thị 
trường lao động quốc tế với nhiều hình thức khác nhau. Cần khắc phục tình trạng chỉ vì 
lợi ích trực tiếp, trước mắt mà quên đi lợi ích lâu dài, lợi ích quốc gia dẫn đến tình trạng 
vi phạm pháp luật và làm ảnh hưởng tới chất lượng của hoạt động XKLĐ. 
Xuất khẩu lao động là hoạt động còn tương đối mới mẻ, có liên quan đến nhiều lĩnh 
vực khác nhau. Do vậy sự phối hợp chặt chẽ giữa các ngành các cơ quan liên quan là điều 
cần thiết và là nhân tố quan trọng bảo đảm cho hoạt động xuất khẩu lao động được tiến 
hành trôi chảy và đạt hiệu quả cao. 
Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đang diễn ra nhanh chóng trên 
mọi mặt của đời sống kinh tế xã hội, đòi hỏi phải bố trí, sắp xếp lại sản xuất, thúc đẩy 
phân công lao động xã hội. Một mặt công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa tăng cầu về 
lao động có trình độ chuyên môn cao, mặt khác nó làm cho lực lượng lao động giản đơn 
vốn đã dôi dư của ta ngày càng thừa ra tương đối. Đẩy mạnh xuất khẩu lao động sẽ là giải 
pháp tốt, khắc phục tình trạng trên trong quá trình công nghiệp hóa và phát triển kinh tế - 
xã hội. 
danh mục Tài liệu tham khảo 
[1]. Ban biên tập (Số 3/1995), Dù thiếu công nhân Thái Lan vẫn XKLĐ, Tạp chí Thị 
trường lao động ngoài nước. 
[2]. Bộ Lao động TB&XH (2000), hệ thống các văn bản hiện hành về đưa lao động đi 
làm việc có thời hạn ở nước ngoài, Nxb Lao động và xã hội, Hà Nội. 
[3]. Bộ LĐTB&XH (8/6/2000), Báo cáo tại Hội nghị toàn quốc về XKLĐ. 
[4]. Bộ LĐTB&XH (12/3/1998), Báo cáo triển khai Nghị quyết Trung ương 4 khóa 
VIII. 
[5]. Bộ Kế hoạch - Đầu tư (1986 đến nay), Báo cáo tổng kết và phát 
triển doanh nghiệp nhà nước. 
[6]. Cục Quản lý lao động với nước ngoài (số 6 - 2000), Tạp chí việc làm ngoài nước. 
[7]. Trần Đình Chính (12/2/1998), Mở rộng xuất khẩu lao động - một hướng tích cực 
giải quyết việc làm, Báo Nhân Dân. 
[8]. Cục Quản lý lao động với nước ngoài (số 5-1998), Việc làm ngoài nước. 
[9]. Cục Quản lý lao động với nước ngoài (số 1-1999), Thái Lan khuyến khích XKLĐ, 
Việc làm ngoài nước. 
[10]. Nguyễn Văn Dần (tháng 4/1999), Việc làm ở nước ta mâu thuẫn và hướng giải 
quyết, Tạp chí Hoạt động khoa học. 
[11]. Doãn Mậu Diệp (tháng 3/1999), Dân số lao động và việc làm ở Việt Nam, Tạp chí 
Thông tin văn hóa. 
[12]. Lê Đông (Tháng 3/1995), Vấn đề lao động việc làm trong kế hoạch 
5 năm. Tạp chí Kinh tế kế hoạch. 
[13]. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 
VIII, Nxb Sự thật, Hà Nội. 
[14]. Phạm Thanh Hà (05/3/1998), Phát triển nguồn nhân lực và mở rộng thị trường lao 
động, Báo Nhân Dân. 
[15]. Trần Văn Hằng (số 11-1994), Thị trường lao động Việt Nam và cơ chế giải quyết 
việc làm ngoài nước, Tạp chí lao động và xã hội. 
[16]. Trần Văn Hằng (số 12-1994), Phát triển thị trường lao động ngoài nước là một 
hướng quan trọng giải quyết việc làm cho người lao động, Tạp chí Thông tin kinh 
tế kế hoạch. 
[17]. Nguyễn Quang Hiển (số 1-1994), Chính sách thị trường lao động tích cực và 
hoạch định công tác đào tạo ở CHLB Đức, Tạp chí Lao động và xã hội. 
[18]. Trần Đình Hoan (số 1-1992), Việc làm nguyện vọng và quyền lợi hàng đầu của 
người lao động, Tạp chí Thương mại. 
[19]. Hội đồng Chính phủ (ngày 29/11/1980), Nghị quyết số 362/CP về việc hợp tác sử 
dụng lao động với các nước XHCN. 
[20]. Kammapi (số 1-2000), Di cư Philipin trong cuộc khủng hoảng kinh tế châu á. Tạp 
chí việc làm ngoài nước. 
[21]. Luật doanh nghiệp (2000), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
[22]. C.Mác và Ph.Ăngghen (1993), Toàn tập, tập 23, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
[23]. C.Mác và Ph.Ăngghen (1994), Toàn tập, tập 24, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
[24]. C.Mác và Ph.Ăngghen (1994), Toàn tập, tập 25, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
[25]. C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 26, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
[26]. Trương Quang Oánh (số 6-1999), Tạo vị thế để mở rộng xuất khẩu lao động, Tạp 
chí Lao động và xã hội. 
[27]. Kim Oanh (ngày 23/3/2000), Dôi dư lực lượng lao động trẻ có trình độ ở DNNN, 
Báo Đầu tư. 
[28]. Việt Phương (tháng 3/1999), áp lực dân số, Tạp chí Cuộc sống sức khỏe. 
[29]. Nguyễn Ngọc Quỳnh (số 1-2000), Thị trường xuất khẩu lao động và một vài suy 
nghĩ về mở rộng thị trường, Tạp chí Việc làm ngoài nước. 
[30]. Phạm Đỗ Nhật Tân (số 2-1998), Việc cấp giấy phép xuất khẩu lao động của một số 
nước châu á, Tạp chí Thị trường lao động ngoài nước. 
[31]. Võ Nhật Thăng (số 1-2000), Lao động chân chính làm nghề gì cũng đáng trân 
trọng, Tạp chí Việc làm ngoài nước. 
[32]. Nguyễn Lương Trào (số 8-1993), Một số vấn đề về xuất khẩu lao động ở nước ta 
trong giai đoạn mới, Tạp chí Thông tin kinh tế kế hoạch. 
[33]. Nguyễn Lương Trào (số 7-1993), Về mở rộng xuất khẩu lao động Việt Nam trong 
điều kiện kinh tế thị trường, Tạp chí Lao động và xã hội. 
[34]. Lưu Đạt Thuyết (tháng 5/1999), Dân số và bảo đảm việc làm, Tạp chí Cộng sản. 
[35]. Trịnh Hữu Thục (1998), Xuất khẩu lao động ở Việt Nam, Thực trạng và giải pháp, 
Luận văn tốt nghiệp cử nhân. 
[36]. Viện Thông tin khoa học xã hội (1999), Thị trường lao động trong kinh tế thị 
trường, Hà Nội. 
[37]. Tổng cục Thống kê, Thực trạng lao động - việc làm ở Việt Nam, 
Nxb Thống kê, 2000. 
Những công trình khoa học 
liên quan đến đề tài đã công bố 
1. Nguyễn Đình Thiện, Xuất khẩu lao động đề phòng các hành vi tiêu cực đang nhen 
nhóm, Thời báo Kinh tế Việt Nam, số 74/2000, tr. 8. 
2. Nguyễn Đình Thiện, Xuất khẩu lao động nghề giúp việc, Thời báo Kinh tế Việt Nam, 
số 76/2000, tr. 8. 
3. Nguyễn Đình Thiện, Xuất khẩu lao động người nghèo nông thôn vẫn đứng ngoài cuộc, 
Tạp chí Kinh tế nông nghiệp, số 8/2000 tr. 20. 
phụ lục 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 LUẬN VĂN- Đẩy mạnh xuất khẩu lao động của nước ta trong giai đoạn hiện nay (2).pdf LUẬN VĂN- Đẩy mạnh xuất khẩu lao động của nước ta trong giai đoạn hiện nay (2).pdf