Điều kiện giao dịch chung đôi lúc cũng bị lạm dụng để thực hiện những 
mục đích che đậy thông tin nhằm đạt đƣợc lợi thế trên thị trƣờng. Bên đƣa ra
điều kiện giao dịch chung bao giờ cũng là bên đã có sự tìm hiểu kỹ lƣỡng đối 
với lĩnh vực mà mình kinh doanh bao gồm cả những quy định của luật pháp
có liên quan. Việc lựa chọn điều khoản nào để đƣa vào điều kiện giao dịch 
chung đã đƣợc tính toán lƣờng trƣớc những biến động của thị trƣờng có thể
ảnh hƣởng tới các khâu của thƣơng vụ. Bên đƣợc đề nghị chấp nhận điều kiện 
giao dịch chung lúc này sẽ rơi vào thế bị động và ít thông tin hơn do không 
trực tiếp khảo sát thị trƣờng và soạn thảo điều khoản, do đó, rất dễ gặp tổn 
thất lớn nếu rủi ro xảy ra.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 104 trang
104 trang | 
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2725 | Lượt tải: 2 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Điều kiện giao dịch chung trong hoạt động kinh doanh quốc tế và khả năng áp dụng tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 kiện giao dịch chung đòi hỏi sự chú 
trọng đầu tƣ nâng cao kỹ thuật lập hợp đồng nói riêng và kỹ thuật về mua bán 
quốc tế nói chung. Đây lại chính là một trong những hạn chế đối với các 
doanh nghiệp Việt Nam , dƣới đây là một ví dụ: 
60 
Ví dụ: Tranh chấp trong hợp đồng mua bán phân bón urê (Hồng Kông - 
Việt Nam) ký bằng tiếng Anh8. 
Tóm tắt vụ việc: 
Nguyên đơn, một công ty Hồng Kông, đàm phán ký kết hợp đồng với Bị 
đơn, một doanh nghiệp Việt Nam. Sau khi thống nhất đƣợc với nhau hàng hoá 
và giá cả, Bị đơn đã chuyển cho Nguyên đơn một hợp đồng mẫu mà Bị đơn 
đã ký với bạn hàng nƣớc ngoài trƣớc đây để Nguyên đơn tham khảo soạn thảo 
các điều khoản của hợp đồng. 
Sau đó, Nguyên đơn và Bị đơn đã chính thức ký hợp đồng mua bán (ngày 
6 tháng 12 năm 1992), theo đó Nguyên đơn bán cho Bị đơn 1000MT + 5% 
phân bón urê với giá 215USD/MT CFR cảng Quy Nhơn, L/C phải đƣợc mở 
chậm nhất ngày 15 tháng 12 năm 1996, quá hạn này mà chƣa mở bên mua 
phải nộp phạt 3% trị giá hợp đồng, tiền phạt này phải đƣợc trả trong vòng 3 
ngày kể từ ngày hết hạn mở L/C, ngƣời bán phải giao hàng trong vòng 30 
ngày kể từ ngày mở L/C. 
Ngày 10 tháng 12 năm 1996, Nguyên đơn gửi trả Bị đơn bản dự thảo giấy 
yêu cầu mở L/C, trong đó chỉ đồng ý ba điểm sửa đổi, từ chối việc sửa đổi 
bốn điểm khác. Bị đơn lại tiếp tục đàm phán đề nghị Nguyên đơn chấp thuận 
bốn điểm sửa đổi còn lại. Đến ngày 14/12/1996, Nguyên đơn trả lời dứt khoát 
là không đồng ý với bốn điểm sửa đổi đó. 
Đến ngày 20/12/21996, Bị đơn vẫn chƣa mở L/C nên Nguyên đơn điện 
khiếu nại đòi Bị đơn nộp phạt 3% trị giá hợp đồng với số tiền 64.500USD 
theo đúng quy định của hợp đồng. 
Bị đơn từ chối yêu cầu này của Nguyên đơn với lý do là Nguyên đơn 
không đƣa vào hợp đồng những điều khoản giống nhƣ trong hợp đồng mẫu 
mà Bị đơn đã chuyển cho Nguyên đơn trƣớc khi chính thức ký kết hợp đồng 
và không thiện chí trong việc đàm phán để tiếp tục hợp đồng. 
8
 “50 phán quyết trọng tài quốc tế chọn lọc” – Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam 
(VIAC) bên cạnh Phòng Thƣơng mại và Công nghiệp Việt Nam 
61 
Sau nhiều lần thƣơng lƣợng (trong đó Nguyên đơn đã đồng ý giảm một 
phần tiền bồi thƣờng) nhƣng không đạt kết quả, Nguyên đơn kiện Bị đơn ra 
trọng tài đòi nộp phạt 64.500USD. 
Phán quyết của Trọng tài 
Trong bản giải trình, Bị đơn trình bày rằng Bị đơn chỉ đồng ý ký kết hợp 
đồng với điều kiện hợp đồng đó tuân thủ hợp đồng mẫu mà Bị đơn chuyển 
cho Nguyên đơn. Việc trên thực tế Bị đơn đã ký vào hợp đồng với những điều 
khoản khác là do Bị đơn không thạo tiếng Anh (mà hợp đồng lại đƣợc ký 
bằng tiếng Anh). 
Uỷ ban trọng tài cho rằng các điều khoản trong hợp đồng là do các bên 
thoả thuận với nhau. Trong vụ việc này, việc Nguyên đơn đƣa hay không đƣa 
vào hợp đồng những điều khoản giống nhƣ trong hợp đồng mẫu do Bị đơn 
chuyển là quyền của Nguyên đơn. Bị đơn có quyền chấp nhận hoặc từ chối 
Hợp đồng do Nguyên đơn soạn thảo. Trƣớc khi ký hợp đồng cần phải đọc kỹ 
nội dung hợp đồng, nếu không đồng ý thì Bị đơn có quyền không ký. Một khi 
đã ký vào bản hợp đồng thì các bên phải có nghĩa vụ thực hiện hợp đồng đó. 
Vì thế lý do “không thạo tiếng Anh” không phải là căn cứ xác đáng cho việc 
không mở L/C (không thực hiện hợp đồng). 
Sau khi ký hợp đồng, mọi bổ sung, thay đổi hợp đồng phải đƣợc làm bằng 
văn bản, có chữ ký của hai bên. Một bên không thể bằng đề nghị của đơn 
phƣơng của mình mà sửa đổi hợp đồng ban đầu. Do đó, Bị đơn không thể viện 
dẫn lý do nêu trên để từ chối mở L/C. Trên thực tế Bị đơn không mở L/C đúng 
hạn thì phải có nghĩa vụ mở L/C đúng hạn theo quy định của hợp đồng. Không 
mở L/C đúng hạn, Bị đơn phải nộp phạt theo đúng quy định của hợp đồng. 
Từ những điều phân tích trên, trọng tài ra phán quyết buộc Bị đơn phải 
nộp phạt cho công ty Hồng Kông 64.500USD tiền phạt (3% giá trị hợp đồng) 
theo yêu cầu của Nguyên đơn. 
62 
Bình luận 
Bên Bị đơn là doanh nghiệp Việt Nam, phía doanh nghiệp này đã có ý 
định áp dụng điều kiện giao dịch chung đã đƣợc soạn thảo sẵn. Tuy nhiên, 
doanh nghiệp này lại không tự soạn thảo hợp đồng mà lại chỉ đƣa cho phía 
doanh nghiệp của Hồng Kông tham khảo và để phía họ tự soạn thảo hợp đồng. 
Điều này cho thấy kỹ năng soạn thảo hợp đồng của doanh nghiệp Việt Nam 
còn hạn chế, họ chƣa đủ tự tin để tự soạn thảo lấy hợp đồng sử dụng điều 
khoản mẫu đã có của mình. 
Bên cạnh đó, vụ kiện trên còn cho thấy một vấn đề khá phổ biến đối với 
các doanh nghiệp của Việt Nam là trình độ ngoại ngữ. Chính vì trình độ tiếng 
Anh của doanh nghiệp Việt Nam còn hạn chế nên doanh nghiệp mới ký hợp 
đồng khi chƣa phát hiện ngay những lỗi còn tồn tại trong hợp đồng. 
(2). Nhóm nguyên nhân do lạm dụng thế mạnh của doanh nghiệp 
Trong thời gian gần đây, việc sử dụng điều kiện giao dịch chung có xu 
hƣớng phổ biến trong một số lĩnh vực kinh doanh đặc thù nhƣ trong các lĩnh 
vực dịch vụ xây dựng, ngân hàng, bảo hiểm, bƣu chính viễn thông… Đặc biệt, 
những loại điều kiện giao dịch chung này thƣờng đƣợc các cơ quan chủ quản 
phê duyệt. Tuy nhiên, việc sử dụng những điều kiện giao dịch này còn chƣa 
đảm bảo đƣợc quyền lợi của bên khách hàng. Dƣới đây là ví dụ điển hình: 
 của công ty FPT 
FPT – Telec
. 
: 
của pháp 
luật 
63 
côn
: 
,
Thƣơng năm 
. 
: “
. 
 Hợp đồng mở tài khoản và sử dụng dịch vụ thẻ rút tiền tự động (ATM) 
 Tóm tắt sự việc9 
Một trong ngành có đối tƣợng khách hàng nhỏ, lẻ nhiều là ngành ngân 
hàng. Hiện nay, với chính sách hạn chế giao dịch tiền mặt, khuyến khích sử 
dụng giao dịch qua tài khoản ngân hàng, ngày càng nhiều ngƣời dân đã tham 
gia sử dụng dịch vụ thẻ rút tiền tự động (ATM) của các ngân hàng. 
Tuy nhiên, trong thời gian gần đây số vụ khiếu nại mất tiền từ ATM đã 
tăng lên rất nhiều, điều đáng nói là phần thiệt luôn rơi vào khách hàng. Gây 
xôn xao nhất là vụ chị Trần Thị Thanh Thủy (Hà Nội) cho rằng đã bị mất 30 
9
 Nguồn:  
64 
triệu đồng, khởi kiện Ngân hàng thƣơng mại cổ phần Kỹ thƣơng 
(Techcombank) ra tòa. Thẻ của chị Thủy sử dụng do Techcombank phát 
hành trên cơ sở liên kết với Vietcombank. Tòa xử thua và chị Thủy đã kháng 
cáo. Mới đây, ông Huỳnh Đức Tích (Quận Thanh Khê, Đà Nẵng) cũng đã 
khiếu nại Vietcombank Đà Nẵng vì tài khoản của ông bỗng nhiên bị mất 8 
triệu đồng. Phổ biến và ít gây xôn xao hơn là các trƣờng hợp chủ thẻ khiếu 
nại ATM chi thiếu tiền. Bà Phạm Thị Chi (Quận 1, TP.HCM), khách hàng 
của Ngân hàng Đầu tƣ và Phát triển Việt Nam (BIDV), cho biết đã mất 
500.000 đồng vì máy chi tiền thiếu. BIDV trả lời rằng qua kiểm tra, đối 
chiếu file, kết quả cho thấy “giao dịch thành công” - đặt dấu chấm hết cho 
các nỗ lực khiếu nại của chủ thẻ ATM bị mất tiền. Khá nhiều chủ thẻ cũng 
gặp tình trạng tài khoản vẫn bị trừ dù không rút đƣợc tiền, khiếu nại thì ngân 
hàng phục hồi tài khoản. Một cán bộ chuyên về ATM cho biết sự cố này là 
do mất điện. Khách hàng ra lệnh rút tiền, lệnh đó đƣa về ghi lại ở trung tâm 
điều khiển và trừ tiền trên tài khoản. Khi lệnh chi tiền đƣợc truyền trở lại 
đến máy ATM, ở nơi đặt máy có sự cố nhƣ mất điện, khi điện đƣợc tái lập 
thì ATM không còn lƣu lệnh chi… 
Bình luận 
Theo điều kiện giao dịch chung do phía Ngân hàng sử dụng để giao kết 
hợp đồng sử dụng dịch vụ với khách hàng quy định, chủ thẻ đƣợc quyền 
khiếu nại khi xảy ra sai sót trong giao dịch. Nhƣng thực tế thì câu trả lời của 
ngân hàng thƣờng không đƣợc chủ thẻ chấp nhận. 
Liên quan đến vấn đề này, một số điều khoản của Bản điều kiện giao 
dịch chung của các ngân hàng có nêu: 
Khoản 4 Điều 3 về Quyền và trách nhiệm của ngân hàng tại Bản điều 
kiện giao dịch chung của hợp đồng đăng ký mở tài khoản sử dụng giao dịch 
thẻ của Vietcombank áp dụng cho khách hàng là cá nhân có nêu “Chịu trách 
nhiệm những thiệt hại, vi phạm, lợi dụng trên tài khoản của khách hàng do lỗi 
của mình”. 
65 
Điều 2.2 về Trách nhiệm của Chủ thẻ trong Bản điều kiện giao dịch 
chung của hợp đồng đăng ký mở tài khoản sử dụng giao dịch thẻ của 
Techcombank áp dụng cho khách hàng là cá nhân có nêu: “Công nhận và chịu 
hoàn toàn trách nhiệm đối với các Giao dịch thẻ”. Trong khi đó, tại điều 3.1 
về Quyền của Ngân hàng có nêu: “Đƣợc miễn trách nhiệm trong trƣờng hợp 
hệ thống xử lý, hệ thống truyền tin… bị trục trặc ngoài khả năng kiểm soát 
của Ngân hàng”. 
Rõ ràng, phía ngân hàng – bên soạn thảo hợp đồng – đã cố tình bỏ đi 
cái phần liên quan tới trách nhiệm của mình nếu khách hàng gặp những sự cố 
tƣơng tự nhƣ trên. Khi đã ký vào những bản điều kiện giao dịch chung trên, 
khách hàng đã mặc nhiên phải chịu hoàn toàn trách nhiệm nếu phía ngân hàng 
kết luận rằng máy tính cho kết quả “giao dịch đã thành công”. Nhẹ nhàng 
hơn, Vietcombank tỏ ra sẵn sàng chấp nhận đền bù thiệt hại nếu “do lỗi của 
mình”, nhƣng trên thực tế thì không ngân hàng nào chịu nhận là do lỗi của 
mình mà đổ lỗi cho mất điện, do máy móc...Tuy nhiên, máy và việc kiểm tra 
giao dịch có thành công hay không lại do chính ngân hàng tiến hành, khách 
hàng không có biện pháp nào để kiểm chứng việc này. 
Vấn đề đáng nói ở đây là khi gặp sự cố, khách hàng không có cơ quan 
nhà nƣớc nào đứng ra bảo vệ quyền lợi cho mình. Ngân hàng Nhà nƣớc đƣa 
ra quy chế phát hành thẻ cách đây sáu năm, trong đó không có điều khoản nào 
ràng buộc các ngân hàng phải đảm bảo chất lƣợng dịch vụ. Quả là mâu thuẫn 
khi Ngân hàng Nhà nƣớc muốn khuyến khích ngƣời dân thanh toán không 
dùng tiền mặt nhƣng lại không có một cơ chế bảo vệ quyền lợi của chủ thẻ và 
cơ chế ràng buộc chất lƣợng dịch vụ của ngân hàng. 
(3). Nhóm nguyên nhân do quyền đàm phán bị hạn chế 
Hiện nay, nhà nƣớc ta vẫn giữ độc quyền kinh doanh một số ngành 
hàng nhƣ: cung cấp điện, nƣớc,... Việc kinh doanh những ngành hàng này 
đƣợc giao cho các Tổng công ty. Đối tƣợng khách hàng của các ngành hàng 
66 
này là các hộ dân, các doanh nghiệp trên toàn quốc. Với số lƣợng khách hàng 
lớn lại có nội dung giao dịch trong hoạt động mua bán nên các Tổng công ty 
này đã áp dụng điều kiện giao dịch chung từ rất sớm. Điều kiện giao dịch 
chung trong các bản hợp đồng do chính các tông công ty soạn thảo ra và đƣợc 
các cơ quan chủ quản phê duyệt. Tuy nhiên, vấn đề tồn tại ở đây là tính chất 
độc quyền của ngành đã tạo ra những bất cập khi những xung đột về lợi ích 
giữa các bên xảy ra. Ngƣời dân và doanh nghiệp muốn sử dụng điện, nƣớc,… 
thì buộc phải ký vào bản hợp đồng do Tổng công ty đƣa ra, không có quyền 
đàm phán thêm hay sử dụng các biện pháp nhằm hạn chế tính rủi ro từ hợp 
đồng. Chính vì thế, trong giai đoạn gần đây, khi hệ thống điện nƣớc cũ đã quá 
tải với nhu cầu sử dụng tăng cao, sự cố đã xảy ra và ngƣời tiêu dùng luôn phải 
chịu thiệt thòi trong giải quyết tranh chấp. Dƣới đây là một ví dụ điển hình về 
sự cố trong ngành điện lực. 
Tóm tắt vụ việc: 
Năm 2005, ngành điện lực Việt Nam quyết định thay điện kế cơ bằng 
điện kế điện tử. Lô hàng điện kế điện tử do Công ty điện lực TP.Hồ Chí Minh 
nhà thầu Linkton Singapore cung cấp. Phía công ty của Singapore đã lợi dụng 
sơ hở của Công ty điện lực TP. Hồ Chí Minh trong khâu kiểm định chất lƣợng 
để cung cấp những mặt hàng điện kế điện tử kém chất lƣợng. Sau khi lắp đặt, 
tính đến tháng 5 năm 2005 đã có tới 12000 đơn khiếu nại đƣợc tới Sở Công 
nghiệp về việc điện kế điện tử đo lƣợng điện cao hơn mức thực tế sử dụng của 
các tổ chức, hộ gia đình… 
 Sau khi Sở Công nghiệp đề nghị Tổng Công ty điện lực xem xét kiểm 
tra lại điện kế điện tử đã lắp đặt tại TP.Hồ Chí Minh đã phát hiện ra hàng loạt 
sai phạm của ngành điện: quy trình mua bán điện kế điện tử đã không tiến 
hành đúng theo luật định; quá trình giao nhận hàng cũng không chú trọng tới 
chất lƣợng,… Công ty điện lực TP.Hồ Chí Minh đã chấp nhận thay lại điện kế 
và bồi hoàn số tiền thu thừa cho các hộ dân bị thiệt hại. 
67 
 Tuy nhiên, với lý do số lƣợng cán bộ hạn chế và khối lƣợng công việc 
lớn nên cuối cùng Công ty điện lực TP.Hồ Chí Minh đã tạm tính theo phƣơng 
thức bằng phƣơng pháp nội suy với lý do “đảm bảo chủ trƣơng tăng giá điện 
từ ngày 1/1/2007”10. 
 Bình luận 
-
điều kiện đƣợc quy 
định , chặt chẽ 
. 
Tuy nhiên, trong quá trình sử dụng điện, có nhiều vấn đề phát sinh gây 
thiệt hại cho ngƣời tiêu dùng nhƣng những chế tài đối với các sự việc này lại 
không đƣợc đề cập đến trong hợp đồng mua bán điện. Liên quan đến sự việc 
nêu trên, tại Điểm 9 Điều 6 về hợp đồng mua bán điện về trách nhiệm bồi 
thƣờng thiệt hại của Bên bán điện quy định „Nếu Bên bán điện ghi sai địa chỉ 
số công tơ dẫn đến thu tiền điện nhiều hơn thực tế sử dụng của Bên mua điện 
thì Bên bán điện hoàn trả số tiền điện thu thừa cho Bên mua điện‟. Với quy 
định nhƣ vậy, khi loạt điện kế điện tử chất lƣợng kém do Công ty điện lực TP. 
Hồ Chí Minh lắp đặt cho khách hàng chỉ có trách nhiệm hoàn trả phần tiền 
thu thừa. Và trên thực tế, phần tiền thu thừa này cũng chỉ đƣợc phía Công ty 
điện lực tạm tính bằng phƣơng pháp nội suy với lý do “đảm bảo chủ trƣơng 
tăng giá điện từ ngày 1/1/2007”. Có thể thấy rằng, khách hàng không những 
không đƣợc phía nhà cung cấp điện hoàn trả đúng số tiền điện bị thiệt hại mà 
10
 www.sggp.org.vn 
68 
còn không đƣợc bồi hoàn những chi phí phát sinh do việc tính sai điện gây ra 
nhƣ việc phải tham gia khiếu nại, niềm tin đối với nhà cung cấp bị ảnh hƣởng, 
quyền đƣợc lựa chọn thiết bị điện lắp đặt tốt… 
 Nhƣ vậy, bên cạnh việc áp dụng điều kiện giao dịch chung một cách 
chuyên nghiệp và lâu đời của doanh nghiệp các nƣớc trên thế giới thì ở Việt 
Nam điều kiện giao dịch chung đã bƣớc đầu đƣợc áp dụng trong hoạt động 
kinh doanh thƣơng mại trong nƣớc và quốc tế. Sự du nhập này đã khiến cho 
những khiếm khuyết trong các chế định về điều kiện giao dịch chung, những 
khiếm khuyết trong kỹ năng soạn thảo hợp đồng của các bên khi tham gia vào 
hợp đồng sử dụng điều kiện giao dịch chung, …dẫn đến những tranh chấp 
không đáng có trong hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp ngày càng 
rõ ràng hơn, đòi hỏi cần phải sự điều chỉnh từ phía chính phủ cũng nhƣ từ 
phía doanh nghiệp. 
69 
CHƢƠNG III: GIẢI PHÁP TĂNG CƢỜNG SỬ DỤNG ĐIỀU 
KIỆN GIAO DỊCH CHUNG TẠI VIỆT NAM 
3.1. XU HƢỚNG SỬ DỤNG ĐIỀU KIỆN GIAO DỊCH CHUNG TẠI 
VIỆT NAM 
 Hiện nay trên thế giới chƣa có nghiên cứu chính thức nào về việc áp 
dụng điều kiện giao dịch chung của doanh nghiệp. Tuy nhiên, khi tác giả sử 
dụng công cụ tìm kiếm của google (google search) với từ khoá “General 
Terms and Conditions + +” thì có khoảng 3,7 triệu kết quả. Tuy chƣa xem 
xét đƣợc hết nội dung các kết quả, nhƣng có thể thấy phần lớn kết quả trên là 
điều kiện giao dịch chung của các doanh nghiệp. Điều này có thể thấy việc sử 
dụng điều kiện giao dịch chung đang trở nên rất phổ biến. 
 Ngày nay khi công nghệ đã đi vào mọi mặt của đời sống cũng nhƣ sản 
xuất kinh doanh thì việc giao dịch trên mạng đã đƣợc ứng dụng nhiều trong 
các hoạt động giao dịch kinh doanh quốc tế. Ngƣời tiêu dùng Việt Nam ngày 
nay đã quen với cụm từ “mua hàng qua mạng” hay các doanh nghiệp cũng đã 
bắt đâu tìm kiếm đối tác qua các công cụ tìm kiếm trên mạng. Một trong 
những đặc điểm của việc giao dịch kinh doanh trên mạng đấy là không tồn tại 
hoặc tồn tại rất ít việc đàm phán nội dung hợp đồng. Chúng ta có thể thấy, đa 
phần tại phần giao dịch (contact us) của các web bán hàng sẽ là một bản hợp 
đồng có sẵn các điều khoản, ngƣời tiêu dùng và đối tác chỉ còn một việc là 
điền thông tin của mình vào nếu đồng ý giao dịch. Đây chính là tiền đề cho 
việc sử dụng điều kiện giao dịch chung cho các doanh nghiệp khi muốn tìm 
kiếm khách hàng qua mạng. 
 Hội nhập - yếu tố tác động nhiều nhất đến các nét văn hoá trong kinh 
doanh - là một trong những nguyên nhân chính của sự ra đời những quy tắc 
hay những tập quán trong hoạt động kinh doanh. Khi các quy tắc, tập quán 
này đã đƣợc phổ biến ở nhiều quốc gia đã tạo tiền đề cho xu hƣớng chuyên 
môn hoá trong ký kết hợp đồng. Sự đồng nhất hoá các nghiệp vụ kinh doanh 
70 
quốc tế giữa các quốc gia, khu vực sẽ tạo nên tính ổn định trong các điều 
khoản đƣợc lựa chọn đƣa vào bản điều kiện giao dịch chung của các doanh 
nghiệp. Và khi các điều khoản đã trở nên quen thuộc thì sự e ngại từ những 
bất cập của điều kiện giao dịch chung sẽ đƣợc giải toả. Khi đó, điều kiện giao 
dịch chung sẽ là giải pháp tối ƣu cho việc tiết kiệm thời gian soạn thảo và 
đàm phán hợp đồng. 
 Nếu nhƣ thời gian đầu ra đời, điều kiện giao dịch chung chủ yếu phục 
vụ cho các hoạt động thƣơng mại trong ngành hàng có khối lƣợng lớn nhƣ 
lƣơng thực thì ngày nay nó đã trở nên phổ biến hơn và đã xuất hiện không chỉ 
ở những hợp đồng có đối tƣợng hữu hình mà còn cả những hợp đồng hàng 
hoá vô hình. Các ngành có nhiều đối tƣợng khách hàng nhỏ lẻ nhƣ: ngân hàng, 
bảo hiểm, vận tải… lại chính là ngành sử dụng điều kiện giao dịch chung 
nhiều và chuyên nghiệp nhất. 
Việc thiết lập những điều kiện giao dịch chung nhằm áp dụng đồng đều 
cho mọi khách hàng, trƣớc tiên vì mục tiêu hợp lý hoá bán hàng. Qua đó, các 
bên đều có thể “tiết kiệm” đƣợc thời gian, sức lực trong đàm phán và thoả 
thuận. Xa hơn nữa và thực tiễn đã thừa nhận là, thông qua việc thiết lập các 
quy tắc bán hàng thống nhất, các nhà cung cấp cùng với các hiệp hội nghề 
nghiệp của mình đã phát triển nhiều chủng loại hợp đồng cụ thể mà nhà làm 
luật chƣa hề biết tới. Điều này có ý nghĩa về nhiều phƣơng diện: 
 Một là, thông qua đó, các nhà cung cấp hình thành đƣợc những “luật 
chơi riêng” của mình. Đây cũng là yếu tố thể hiện bản sắc và uy tín của doanh 
nghiệp, là điều kiện và yếu tố hình thành khả năng và cơ hội cạnh tranh của 
doanh nghiệp. 
 Hai là, thông qua những điều kiện giao dịch chung, pháp luật hợp đồng 
sẽ đƣợc cụ thể hoá trong những chủng loại giao dịch cụ thể. Theo nghĩa đó, 
điều kiện giao dịch chung có chức năng mang tính điều chỉnh hành vi. Chúng 
đƣợc coi là sự phát triển tiếp tục những tƣ tƣởng của nhà làm luật. 
71 
 Ba là, khi đƣợc áp dụng trong một quan hệ hợp đồng, các điều kiện 
giao dịch chung có khả năng ngăn ngừa những rủi ro nhận thức của các bên 
tham gia quan hệ hợp đồng liên quan đến việc giải thích hợp đồng. Bên cạnh 
đó, các điều kiện giao dịch chung cũng là công cụ hữu hiệu của việc phân chia 
rủi ro pháp lý, trách nhiệm giữa các bên tham gia quan hệ hợp đồng. 
3.2. GIẢI PHÁP TĂNG CƢỜNG SỬ DỤNG ĐIỀU KIỆN GIAO DỊCH 
CHUNG TRONG KINH DOANH QUỐC TẾ TẠI VIỆT NAM 
3.2.1. Nâng cao nghiệp vụ giao dịch kinh doanh quốc tế của 
doanh nghiệp 
Trong những năm gần đây, các doanh nghiệp Việt Nam đã gia nhập vào thị 
trƣờng thế giới nhiều hơn. Sản phẩm và dịch vụ mang thƣơng hiệu Việt đang 
dần đƣợc khẳng định trên thế giới. Doanh nghiệp Việt Nam cũng đã tích lũy 
nhiều hơn kinh nghiệm trong hoạt động kinh doanh quốc tế. Tuy nhiên, một 
điểm yếu còn tồn tại trong đa phần các doanh nghiệp - mà phần thực trạng 
tình hình tranh chấp về điều kiện giao dịch chung đã phân tích - chính là sự 
yếu kém về nghiệp vụ giao dịch kinh doanh quốc tế. Điểm yếu này sẽ đƣợc 
khắc phục hữu hiệu khi vận dụng điều kiện giao dịch chung. Điều này đòi hỏi 
các doanh nghiệp phải thay đổi đƣợc nhận thức về điều kiện giao dịch chung 
và có sự quan tâm đầy đủ tới việc xây dựng các hợp đồng mẫu. 
Nhìn ra nƣớc ngoài chúng ta thấy rằng, hầu hết các doanh nghiệp xây 
dựng bản điều kiện giao dịch chung thƣờng là các tập đoàn lớn, các hiệp hội, 
các liên đoàn… Trong khi đó, các doanh nghiệp của ta quá nhỏ bé so với các 
tập đoàn đó. Với doanh số của hoạt động xuất nhập khẩu còn thấp, các doanh 
nghiệp chƣa chú trọng tới hoạt động nâng cao nghiệp vụ giao dịch kinh doanh 
quốc tế cũng nhƣ kỹ thuật soạn thảo hợp đồng. Chính vì vậy, việc thu gom 
đầu mối, tạo nên những doanh nghiệp tƣơng đối lớn trong hoạt động xuất 
nhập khẩu là điều rất cần thiết. Mặt khác, các tập đoàn lớn, các tổng công ty, 
các hiệp hội, câu lạc bộ doanh nghiệp có thể xây dựng những bản điều kiện 
chung mẫu cho các doanh nghiệp trong tổ chức của mình tham khảo. 
72 
Muốn có các điều khoản trong bản điều kiện giao dịch chung phù hợp 
với hoàn cảnh, điều kiện và cơ sở vật chất của mình, các doanh nghiệp cần có 
sự tổng kết về nghiệp vụ. Trên cơ sở tổng kết nhƣ vậy, doanh nghiệp mới xác 
định đƣợc cách xử lý có lợi nhất về nghiệp vụ trong hoạt động của mình. Từ 
đó các điều khoản của bản điều kiện giao dịch chung mới hợp lý. 
Về phƣơng diện pháp lý, hợp đồng sử dụng điều kiện giao dịch chung 
là tài liệu rất quan trọng đối với doanh nghiệp. Do đó, nó cần đƣợc soạn thảo 
cẩn thận, chặt chẽ. Muốn vậy, cần phải tập trung những ngƣời giỏi về pháp 
luật, thành thạo về giao dich kinh doanh để soạn thảo điều kiện giao dịch 
chung. Sự tập trung nhƣ vậy chỉ có thể có đƣợc do nhận thức của doanh 
nghiệp về tính cấp thiết của điều kiện giao dịch chung, sự nhiệt tình của các 
nhà khoa học giúp đỡ của các cơ quan pháp luật… 
Một khi đã có đầy đủ điều kiện soạn thảo điều kiện giao dịch chung 
nhƣ vậy, các doanh nghiệp cần phải soạn thảo nhiều bản đề vận dụng tùy từng 
trƣờng hợp cụ thể của giao dịch. Chẳng hạn: 
- Về mỗi mặt hàng có thể có điều kiện giao dịch chung cho xuất khẩu 
và hợp đồng mẫu nhập khẩu 
- Về mỗi điều kiện giao dịch lại có một bản điều kiện giao dịch chung 
riêng, ví dụ, có điều kiện giao dịch chung xuất khẩu theo điều kiện 
FOB, có điều kiện giao dịch chung xuất khẩu theo điều kiện CIF… 
- Về mỗi nhóm khách hàng giao dịch lại có một bản điều kiện giao dịch 
riêng, ví dụ, có nhóm điều kiện giao dịch chung xuất khẩu gạo đi 
Đông Âu theo điều kiện FOB, có điều kiện giao dịch chung xuất khẩu 
gạo đi Singapore theo điều kiện CIF… 
3.2.2. Khắc phục những hạn chế của điều kiện giao dịch chung 
Nhƣ đã phân tích ở Chƣơng I, điều kiện giao dịch chung còn tồn tại khá 
nhiều điểm bất cấp khi doanh nghiệp sử dụng chúng. Các doanh nghiệp, khi 
73 
áp dụng điều kiện giao dịch chung trong kinh doanh, bên cạnh việc phát huy 
các ƣu điểm của điều kiện giao dịch chung còn cần phải nghiên cứu những 
biện pháp nhằm hạn chế điểm bất cập của nó. Dƣới đây là một số ý kiến nhằm 
hỗ trợ doanh nghiệp giải quyết vấn đề này dựa trên việc xem xét các quy định 
pháp lý liên quan đến điều kiện giao dịch chung của quốc tế và Việt Nam. 
3.2.2.1. Gíải pháp hạn chế điểm bất cập từ góc độ pháp lý 
Về vấn đề bất cân bằng thông tin, Joseph Stiglitz đặt ra vấn đề là bản 
thân những ngƣời có ít thông tin hơn cũng có thể tự cải thiện tình trạng của 
mình thông qua cơ chế sàng lọc (screening). Ông đã chỉ ra rằng bên có ít 
thông tin hơn có thể thu thập thông tin từ bên kia bằng cách đƣa ra các điều 
kiện giao dịch hợp đồng khác nhau. Ví dụ điển hình là các công ty bảo hiểm 
thƣờng cung cấp những loại hợp đồng bảo hiểm với các mức phí bảo hiểm 
khác nhau, tƣơng ứng với mức bồi thƣờng khác nhau. Các khách hàng sẽ tự 
lựa chọn loại hợp đồng bảo hiểm phù hợp với mình, do đó tự phân hóa thành 
các loại khách hàng khác nhau. Những khách hàng có rủi ro thấp thƣờng thích 
loại hợp đồng có phí bảo hiểm thấp trong khi khách hàng có rủi ro cao lại lựa 
chọn hợp đồng có phí bảo hiểm cao. 
Nhằm hạn chế việc lạm dụng điều khoản soạn sẵn với nội dung gây bất 
lợi cho các đối tác của các doanh nghiệp, pháp luật hợp đồng của Việt Nam 
và pháp luật hợp đồng quốc tế đã có những quy định nhằm bảo vệ cho bên 
đƣợc đề nghị chấp nhận điều kiện giao dịch chung. Đó là: 
Ưu tiên giải thích theo hướng có lợi cho bên không soạn thảo điều kiện 
giao dịch chung. 
Biện pháp này đƣợc nêu rõ trong Khoản 2 Điều 407 Bộ luật Dân sự: 
"Trong trƣờng hợp hợp đồng theo mẫu có điều khoản không rõ ràng thì bên 
đƣa ra hợp đồng theo mẫu phải chịu bất lợi khi giải thích điều khoản đó". 
Khoản 1 Điều 2.20 PICC cũng thể hiện tinh thần trên: "Một điều khoản bất 
ngờ trong hợp đồng soạn sẵn, không đƣợc phía bên kia lƣờng trƣớc trong giới 
74 
hạn hiểu biết của mình, sẽ không có hiệu lực, trừ khi chúng đã đƣợc phía bên 
kia chấp nhận một cách rõ ràng" 
Có những nguyên nhân khác mà một điều khoản soạn sẵn có thể gây 
bất ngờ cho bên chấp nhận nhƣ sử dụng ngôn từ khó hiểu, hoặc có thể hiểu 
theo nhiều nghĩa, hoặc đƣợc viết bằng chữ quá nhỏ. Để xác định xem điều 
khoản này có phải là điều khoản gây ngạc nhiên hay không hay không, cần 
phải xem xét cách trình bày và cách soạn thảo những điều khoản soạn sẵn đó , 
dựa vào chuyên môn và kinh nghiệm, có đƣợc các thƣơng nhân hoặc nhũng 
ngƣời có cùng hoàn cảnh nhƣ bên chấp nhận, sử dụng hay không ... Do đó, 
cách dùng từ cùng một lúc có thể là khó hiểu hoặc dễ hiểu, tuỳ theo bên chấp 
nhận có phải là ngƣời chuyên nghiệp hay trong việc sử dụng những điều 
khoản đƣợc soạn sẵn hay không . 
Ví dụ 1: A - một công ty bảo hiểm hoạt động tại nƣớc X - là công ty 
con của B - một công ty bảo hiểm hoạt động tại nƣớc Y. Các điều khoản đƣợc 
soạn sẵn của A gồm 50 điều khoản đƣợc in bằng chữ nhỏ. Một trong các điều 
khoản qui định luật đƣợc áp dụng là luật của nƣớc Y. Trừ khi điều khoản này 
đƣợc in đậm hoặc bằng cách nào đó để gây chú ý cho bên chấp nhận, nó 
không có hiệu lực vì khách hàng ở nƣớc X không thể nào nghĩ là một hợp 
đồng đƣợc thực hiện hoàn toàn ở nƣớc mình lại phải chọn luật nƣớc ngoài 
làm luật điều chỉnh hợp đồng trong các điều khoản soạn sẵn. 
Ví dụ 2: A - Một thƣơng nhân trên thị trƣờng Hamburg, thƣờng sử 
dụng các điều khoản soạn sẵn trong các hợp đồng với khách hàng của mình, 
trong đó có điều khoản "Hamburg – Freundschaftliche Arbitrage". Đối với 
khách hàng trong nƣớc điều khoản này có nghĩa là các bên sẽ đƣa tranh chấp 
(nếu có) ra một hội đồng trọng tài đặc biệt và thủ tục tranh chấp đƣợc xử là 
theo thủ tục của địa phƣơng. Trong các hợp đồng với khách hàng nƣớc ngoài, 
điều khoản này có thể bị coi là vô hiệu, cho dù bên kia đã hoàn toàn chấp 
nhận hợp đồng soạn sẵn này, bởi vì một ngƣời nƣớc ngoài không thể nào hiểu 
rõ ý nghĩa của điều khoản này, bất kể điều khoản này đã dịch ra tiếng nƣớc họ 
hay chƣa 
75 
Nêu ra điều khoản này không nhằm mục đích hạn chế việc sử dụng 
điều kiện giao dịch chung, mà nhằm mục đích khuyến khích các doanh nghiệp 
ở vị thế yếu hơn trên thƣơng trƣờng không phải quá e dè trƣớc những điều 
kiện giao dịch chung do các đối tác đƣa ra. 
 Cấm một số điều khoản vi phạm nghiêm trọng quyền của bên kia 
Khoản 3 Điều 407 Bộ Luật Dân sự quy định về biện pháp này nhƣ sau: 
"Trong trƣờng hợp hợp đồng theo mẫu có điều khoản miễn trách nhiệm của 
bên đƣa ra hợp đồng theo mẫu, tăng trách nhiệm hoặc loại bỏ quyền lợi chính 
đáng của bên kia thì điều khoản này không có hiệu lực, trừ trƣờng hợp có thoả 
thuận khác". PICC không tách riêng hai biện pháp này thành 2 khoản nhƣ 
Điều 407 Bộ luật Dân sự Việt Nam mà cả hai biện pháp này đều thể hiện 
trong Điều 2.20 của PICC. 
Nhƣ vậy, điều khoản có nội dung nhƣ thế nào đƣợc coi là vi phạm 
nghiêm trọng quyền của bên kia? 
Một điều khoản có thể nằm trong bản điều kiện giao dịch chung và có 
thể gây ngạc nhiên cho bên chấp nhân nội dung vì nội dung của điều khoản 
soạn sẵn này làm cho một ngƣời bình thƣờng, ở cùng hoàn cảnh nhƣ bên chấp 
nhận, khó có thể tƣởng tƣợng là trong hợp đồng lại có điều khoản nhƣ trên. 
Để xác định một điều khoản có phải là bất thƣờng hay không, một mặt cần 
phải xem xét điều khoản này có thƣờng đề cập trong các điều khoản soạn sẵn 
trong lĩnh vực kinh doanh đó hay không. Mặt khác, cũng cần phải xét đến cả 
các nội dung của các cuộc đàm phán riêng giữa các bên. Ví dụ một điều 
khoản miễn trừ hoặc giới hạn trách nhiệm hợp đồng của bên đề nghị có thể 
hay không thể coi là một điều khoản "bất ngờ" và do đó có thể hay không thể 
làm hợp đồng vô hiệu. 
Mặt khác việc vô hiệu này còn tuỳ thuộc vào việc các điều khoản này 
có phổ biến trong lãnh vực kinh doanh đó hay không, và có phù hợp với cách 
thức mà hai bên đã đàm phán giao kết hợp đồng hay không. 
76 
Ví dụ: A - một công ty du lịch chào mời một chuyến du lịch trọn gói. 
Các điều kiện trong quảng cáo này làm mọi ngƣời nghĩ rằng A sẽ chịu toàn bộ 
trách nhiệm về mọi dịch vụ trong chuyến du lịch trọn gói này. B đặt chỗ cho 
chuyến du lịch dựa trên các điều khoản soạn sẵn của A. Cho dù B đã chấp nhận 
toàn bộ các điều khoản trong hợp đồng mẫu, A không thể dựa trên các điều 
khoản này mà nói rằng: theo một điều khoản trong hợp đồng họ chỉ làm đại lý 
cho khách sạn, nên không chịu mọi trách nhiệm về việc lo chỗ ở cho khách. 
Khi có mâu thuẫn giữa điều khoản soạn sẵn và không soạn sẵn, điều 
khoản không soạn sẵn chiếm ưu thế áp dụng 
Theo định nghĩa, các điều khoản soạn sẵn có thể đƣợc một bên hay bên 
thứ ba soạn sẵn từ trƣớc và đƣợc gắn liền với hợp đồng, mà không thông qua 
việc thảo luận giữa các bên. Vì thế, bất kỳ khi nào các bên đàm phán kỹ càng 
và đồng ý về một vài điều khoản cụ thể nào đó trong hợp đồng, thì đƣơng 
nhiên những điều khoản đó sẽ có ƣu thế áp dụng hơn so với những điều khoản 
đƣợc soạn sẵn, nếu nhƣ có sự mâu thuẫn về cách giải thích giữa hai loại điều 
khoản này, vì các điều khoản đƣợc thảo luận thƣờng phản ánh đúng ý chí 
chung của các bên trong hợp đồng. 
Các điều khoản đƣợc thoả thuận riêng có thể xuất hiện cùng với các 
điều khoản soạn sẵn trong cùng một văn bản, nhƣng chúng cũng có thể đƣợc 
ghi trong một văn bản khác. Trong trƣờng hợp thứ nhất, chúng có thể đƣợc dễ 
dàng nhận ra bằng cách đƣợc viết kiểu chữ khác so với kiểu chữ của các điều 
khoản đƣợc soạn sẵn. Nhƣng trong trƣờng hợp thứ hai thì rất khó phân biệt sự 
khác nhau giữa các điều khoản đƣợc soạn sẵn và các điều khoản không đƣợc 
soạn sẵn, và cũng khó xác định chính xác thứ tự ƣu tiên của những văn bản 
khác nhau. chính vì thế các bên thƣờng ghi một điều khoản trong hợp đồng 
chỉ rõ những văn bản nào là thuộc một phần hợp đồng và thứ tự ƣu tiên áp 
dụng của chúng nhƣ thế nào. 
77 
3.2.2.2. Giải pháp hạn chế điểm bất cập từ góc độ kinh tế 
Lợi thế về mặt kinh tế của bên có điều kiện giao dịch chung là không 
thể phủ nhận. Tuy nhiên, giành đƣợc lợi thế đó không phải là dễ dàng đối với 
tất cả các doanh nghiệp tham gia hoạt động kinh doanh quốc tế. Nhƣ đã phân 
tích ở trên, lợi thế này thƣờng rơi vào các doanh nghiệp lớn, có khả năng chi 
phối thị trƣờng hoặc ít nhất là chi phối đối tác. 
Tuy nhiên, không phải cứ là bên yếu thế hơn thì không thể áp dụng 
điều kiện giao dịch chung hay mặc nhiên lúc nào cũng phải chấp nhận điều 
kiện của đối tác. Các doanh nghiệp có thể sử dụng các kỹ năng trong giao 
dịch kinh doanh quốc tế để hạn chế những áp lực từ phía đối tác. Chẳng hạn, 
chúng ta có thể tham khảo kinh nghiệm từ các điều kiện giao dịch chung của 
hợp đồng mua bán bông của doanh nghiệp Ai Cập. Điều khoản về cách xác 
định phẩm chất bông là điều khoản quan trọng trong hợp đồng mua bán bông, 
do áp lực từ phía ngƣời mua mạnh hơn về kinh tế và do sức cạnh tranh của thị 
trƣờng, hợp đồng của các doanh nghiệp Ai Cập đã thu hẹp các giới hạn sai 
chệch phẩm chất (tới mức kém phẩm chất quy định là 1/4 đơn vị tiêu chuẩn, 
do trọng tài xác nhận) so với các hợp đồng của các quốc gia khác. Tuy nhiên, 
nhằm đảm bảo lợi ích của ngƣời bán, các doanh nghiệp Ai Cập đã thu hẹp 
quyền của ngƣời mua bằng "biện pháp hành chính": Người mua chỉ có thể từ 
chối hàng kém phẩm chất quy định là 1/4 đơn vị, nếu người mua xin trọng tài 
xác nhận phẩm chất trước khi dỡ hàng. Còn nếu đã dỡ hàng thì nói chung, 
không được từ chối hàng. Trong trường hợp hàng bị từ chối vì phẩm chất, 
người bán phải thay thế bằng cách gửi hàng đúng phẩm chất trong thời hạn 
đã quy định từ đầu. 
Ví dụ trên để thấy rằng, mặc dù điều kiện giao dịch chung thƣờng 
đƣợc các tập đoàn, doanh nghiệp lớn áp dụng, nhƣng không có nghĩa, trong 
thƣơng vụ nào cũng chỉ có một bên có tiềm lực mạnh hơn đƣợc đƣa ra điều 
kiện giao dịch chung. Trong thực tiễn kinh doanh quốc tế, vẫn có những 
78 
trƣờng hợp các bên của hợp đồng cùng sử dụng điều kiện giao dịch chung. 
PICC đã có những quy định dành cho trƣờng hợp này tại Điều 2.22: "Khi cả 
hai bên trong hợp đồng đều sử dụng các điều khoản soạn sẵn và đạt được 
thoả thuận, trừ một vài điều khoản, thì hợp đồng được giao kết trên cơ sở của 
những điều khoản đã thoả thuận và bất kỳ điều khoản soạn sẵn nào tương 
đồng về nội dung, trừ khi một bên ghi rõ trước, hoặc sau đó thông báo kịp 
thời cho bên kia rằng họ không có ý định ràng buộc bởi hợp đồng như vậy". 
Nội dung điều này có thể hiểu: 
Các bên có thể sử dụng các điều khoản được soạn sẵn khác nhau. 
Một điều thƣờng xảy ra trong các giao dịch thƣơng mại đối với bên đề 
nghị giao kết khi lập bản đề nghị giao kết hợp đồng, và đối với bên chấp nhận 
khi chấp nhận, là việc mỗi bên đều viện dẫn các điều khoản soạn sẵn của 
mình. Khi các điều khoản soạn sẵn của cả bên đề nghị lẫn bên chấp nhận vẫn 
chƣa đƣợc bên nào chấp nhận, sẽ nảy sinh vấn đề là liệu hợp đồng có đƣợc 
giao kết hay chƣa, và nếu nhƣ hợp đồng đƣợc giao kết thì những điều khoản 
soạn sẵn của bên nào sẽ đƣợc coi là điều khoản hợp đồng chính thức. 
"Ưu thế giữa hai hợp đồng soạn sẵn" và những quy tắc chung về đề 
nghị và chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng. 
Nếu các qui tắc chung về đề nghị và chấp nhận đề nghị giao kết hợp 
đồng đƣợc áp dụng, thì sẽ không có một hợp đồng nào đƣợc giao kết, vì việc 
chấp nhận của một bên sẽ là một đề nghị mới, hoặc nếu cả hai bên bắt đầu 
thực hiện hợp đồng mà không có phản đối gì về các điều khoản soạn sẵn của 
nhau, thì hợp đồng đã đƣợc coi nhƣ đã đƣợc giao kết dựa trên các điều khoản, 
mà bên cuối cùng đƣợc nhận đến hay chuyển đến (thuyết "last shot"). 
Thuyết "knock-out" 
Có một ngoại lệ quy tắc chung về đề nghị và chấp nhận đề nghị giao 
kết hợp đồng là nếu nhƣ các bên đạt đến một thoả thuận chung, ngoại trừ các 
79 
điều khoản đƣợc soạn sẵn của họ, thì hợp đồng đƣợc giao kết dựa trên các 
điều khoản chung đã đƣợc thoả thuận và bất kỳ các điều khoản đƣợc soạn sẵn 
nào xuất hiện chung trong cả hai văn bản (thuyết "knock-out"). 
Thuyết "Last shot "có thể là thích hợp, nếu các bên ghi việc áp dụng 
các điều khoản soạn sẵn của họ là một điều kiện cần thiết để giao kết hợp 
đồng. Mặt khác, trong thực tế thƣờng xảy ra các truờng hợp viện dẫn các điều 
khoản soạn sẵn của mình, ví dụ nhƣ khi trao đổi các văn bản đƣợc in sẵn và 
công nhận mọi điều khoản trong đó bằng việc ký vào mặt sau của văn bản, họ 
thƣờng không để ý đến sự mâu thuẫn giữa các điều khoản đƣợc soạn sẵn của 
mình và của bên kia. Khi đó các bên không có lý do gì cho phép nghi ngờ về 
sự tồn tại của hợp đồng, hoặc nếu các bên đã tiến hành việc thực hiện hợp 
đồng, thì theo thuyết "last shot" các bên có thể cứ tiếp tục áp dụng các điều 
khoản đƣợc gửi đến hoặc chuyển đến lần cuối. 
Ví dụ 1: A ký hợp đồng mua thiết bị của B, trong đó có ghi rõ chủng 
loại, giá cả, phƣơng thức thanh toán, ngày và nơi giao nhận. Ngoài ra, A sử 
dụng một mẫu đặt hàng có tên "điều kiện chung khi mua hàng" đƣợc A soạn 
vào mặt sau của mẫu. B chấp nhận bằng cách ký tên vào mặt sau của mẫu do 
A soạn. Khi A định rút lui khỏi hợp đồng, A viện cớ rằng hợp đồng chƣa 
đƣợc giao kết do hai bên chƣa đạt đƣợc thoả thuận về các điều khoản soạn sẵn 
nào sẽ đƣợc áp dụng. Tuy nhiên, vì các bên đã thoả thuận những điều khoản 
chủ yếu của hợp đồng, nên hợp đồng đƣợc coi là đã giao kết dựa trên những 
điều khoản chủ yếu và dựa trên các điều khoản do A soạn sẵn. 
Nhƣ vậy theo thuyết "knock-out" A không thể từ chối việc ký kết/thực 
hiện hợp đồng. 
Tuy nhiên, một bên luôn có thể loại bỏ thuyết "knock-out" bằng cách 
ghi rõ trƣớc khi giao kết hợp đồng hoặc sau đó thông báo kịp thời cho bên kia 
rằng họ có ý định ràng buộc vào một hợp đồng không dựa trên các điều khoản 
soạn sẵn theo tiêu chuẩn của họ. Mặc dầu vậy, việc chỉ dẫn "rõ ràng" nhƣ đã 
80 
nêu, không đƣợc phép ghi tuỳ tiện trong mọi điều khoản, nhất là các điều 
khoản soạn sẵn. Khi này, các điều khoản soạn sẵn thƣờng không đƣợc coi là 
đã đƣợc thông báo đầy đủ cho bên kia, vì cần phải có sự nhấn mạnh về điều 
khoản này giữa bên đề nghị và bên chấp nhận. 
Ví dụ 2: Tƣơng tự nhƣ ví dụ 1, nhƣng chỉ khác là A khiếu nại là hợp 
đồng đã đƣợc giao kết dựa trên các điều khoản A đã soạn sẵn, trong đó có một 
điều khoản quy định rằng "việc sửa đổi những điều khoản soạn sẵn của bên 
chấp nhận đơn đặt hàng là không có giá trị, trừ khi được chúng tôi xác nhận 
bằng văn bản". Khi này hậu quả cũng giống ví dụ 1, vì khi có một điều khoản 
nhƣ vậy trong các điều khoản soạn sẵn, A đã không chỉ ra một cách rõ ràng 
cho B rằng việc quyết định giao kết hợp đồng của A chỉ dựa vào các điều 
khoản soạn sẵn của A. 
Ví dụ 3: Cùng ví dụ 1, chỉ khác là trong điều khoản không đƣợc A 
soạn sẵn (hoặc đƣợc ghi riêng theo đề nghị của A) có một câu là A chỉ có ý 
định giao kết hợp đồng trên cơ sở những điều khoản mà A đã soạn sẵn. Khi 
này, B không thể chối cãi việc hợp đồng bị giao kết dựa trên các điều khoản 
đƣợc soạn sẵn của A, bằng cách viện dẫn các điều khoản soạn sẵn của B vào 
chấp nhận giao kết hợp đồng của mình 
Nếu trong trƣờng hợp doanh nghiệp chƣa đủ khả năng và điều kiện để 
đƣa ra điều kiện giao dịch chung, thì theo PICC, doanh nghiệp sẽ đƣợc bảo vệ 
khi xuất hiện các điều khoản bất thƣờng trong điều kiện giao dịch chung của 
đối tác. 
Trên nguyên tắc, khi một bên chấp nhận các điều khoản soạn sẵn của 
bên kia thì sẽ bị ràng buộc bởi những điều khoản này, bất kể họ có biết nội 
dung chi tiết và hoàn toàn hiểu nội dung của các điều khoản đó hay không. 
Tuy nhiên, một ngoại lệ quan trọng mà Điều 2.20 - PICC nêu ra là: cho dù 
một bên chấp nhận các điều khoản soạn sẵn trong hợp đồng một cách toàn bộ, 
thì bên chấp nhận vẫn không bị ràng buộc bởi những điều khoản có nội dung, 
81 
ngôn từ, hoặc cách diễn đạt không thể hiểu đƣợc một cách hợp lý. Nguyên 
nhân của ngoại lệ là nhằm tránh một bên lợi dụng những điều khoản soạn sẵn 
để gây bất lợi về kinh tế cho bên kia. Nếu bên kia đƣợc hiểu một cách đầy đủ 
thì sẽ không chấp nhận các điều khoản bất lợi đó. 
Nhƣ vậy, điều kiện giao dịch chung là một tiến bộ trong kỹ thuật hợp 
đồng kinh doanh quốc tế, nó không chỉ thích nghi với các doanh nghiệp lớn 
mà sẽ phù hợp với tất cả các doanh nghiệp có quy mô khác nhau. 
3.3. HOÀN THIỆN CƠ SỞ PHÁP LÝ ĐIỀU CHỈNH ĐIỀU KIỆN GIAO 
DỊCH CHUNG 
Điều kiện giao dịch chung ẩn chứa trong đó là những “quy phạm” 
mang tính tuỳ nghi, các khách hàng có thể thoả thuận lại hay bảo lƣu. Song, 
một điều dễ hiểu là khi thiết kế việc phân chia rủi ro pháp lý, tác giả của các 
điều kiện giao dịch chung bao giờ cũng: 
 - Tìm cách hạn chế tính tuỳ nghi của các quy tắc, chèn ép khách hàng, 
dồn họ vào tình thế khó lựa chọn, hạn chế hay vi phạm nguyên tắc tự do khế 
ƣớc trong giao dịch, 
 - Cố gắng dùng các thủ thuật pháp lý để phân chia rủi ro pháp lý và lợi 
ích một cách không công bằng hay không chính đáng, bất lợi cho khách hàng 
hay ngƣời tiêu dùng. 
Đây là tiền đề để công quyền và pháp luật can thiệp. 
3.3.1. 
Thông thƣờ
ảnh hƣởng tiêu cực đến quyền lợ
, việc điều chỉ ối với các điều kiện giao dịch 
chung của doanh nghiệp là rất cần thiết. Bởi vậy, pháp luật điều chỉnh điều 
kiện giao dịch chung cần đáp ứng những yêu sau: 
82 
 - Pháp luật điều chỉnh điều kiện giao dich chung phải đảm bảo quyền tự 
do khế ƣớc trong Bộ luật dân sự, tƣơng thích với những quy định hiện có khác 
điều chỉnh mối quan hệ hợp đồng ở các lĩnh vực kinh doanh đặc thù… 
- Pháp luật điều chỉnh điều kiện chung phải đảm bảo sự bình đẳng 
tƣơng đối của các bên trong các giao dịch tƣơng ứng, phải bảo vệ đƣợc quyền 
lợi của bên khách hàng trƣớc sự lạm dụng vị thế của mình đối với các doanh 
nghiệp đƣa ra điều kiện giao dịch chung. 
- D
ịnh 
của pháp luật phải đảm bả
điều kiệ
ủ i c
ột số dịch vụ 
các . 
- Phải đƣa ra các biện pháp và hình thức xử lý đối với những chủ thể 
kinh doanh khi vi phạm các quy định điều chỉnh điều kiện giao dịch chung. 
3.3.2. Việ ều chỉ 
 Hiện nay, pháp luật Việt Nam chƣa có các quy định riêng dành cho 
việc ban hành và áp dụng điều kiện giao dịch chung trong hoạt động kinh 
doanh của doanh nghiệp. Trƣớc xu thế chung của thế giới về việc sử dụng 
điều kiện giao dịch chung ngày càng nhiều nhƣ hiện nay thì việc ban hành 
Luật về điều kiện giao dich chung là rất cần thiết. 
 Việc ban hành pháp luật điều chỉnh điều kiện giao dich chung phải có 
sự nghiên cứu toàn diện và tham khảo kinh nghiệm trong việc quy định của 
pháp luật về điều kiện giao dịch chung ở những nƣớc có hệ thống pháp luật 
tiên tiến. 
83 
 Việc ban hành pháp luật điều chỉnh điều kiện giao dịch chung cần phải 
có ý kiến từ các doanh nghiệp, ngƣời tiêu dùng, các cơ quan nhà nƣớc có 
thẩm quyền, các hiệp hội kinh doanh… 
Theo 
liên quan tới
: 
- Thể hiện đƣợc mục đích điều chỉnh điều kiện giao dị
. 
- ủ tụ
ởi các cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền. Quy 
trách nhiệm nhiệm của các cơ quan nhà nƣớc này nếu phê chuẩn những điều 
kiện giao dich chung mà khi áp dụng nó sẽ vi phạm đến quyền lợi cơ bản củ
, c
ản hoá trong giao 
kết hợp đồ
. 
- 
. 
- 
 chung. 
84 
KẾT LUẬN 
 Khi khái niệm “hội nhập” không còn xa lạ với xã hội hiện đại thì nền 
kinh tế thế giới cũng đã chấp nhận nhiều hơn những công cụ kinh doanh mới. 
Trong đó, điều kiện giao dịch chung là một trong những công cụ hữu hiệu của 
các doanh nghiệp trong quá trình soạn thảo hợp đồng. Công cụ này đã đƣợc 
các doanh nghiệp trên thế giới khai thác hiệu quả từ thế kỷ 19 và cho tới nay 
cũng đã trở nên khá phổ biến đối với các doanh nghiệp Việt Nam. 
 Điều kiện giao dịch chung là sản phẩm tất yếu của quá trình chuyên 
nghiệp quá kỹ năng soạn thảo hợp đồng, nó đã đem lại những tính năng đáng 
quan tâm cho các doanh nghiệp nhƣ sự tiết kiệm về thời gian soạn thảo hợp 
đồng; hạn chế rủi ro do ngôn ngữ hợp đồng không chính xác, chặt chẽ; những 
lợi thế trong việc đƣa ra nội dung hợp đồng… Tuy nhiên, bên cạnh những ƣu 
điểm, điều kiện giao dịch chung vẫn còn những bất cập cần giải quyết khi 
muốn áp dụng trong hoạt động kinh doanh nhƣ: gây hạn chế quyền đàm phán 
hợp đồng, bất cân xứng thông tin,… 
Với tiền đề trên, luận văn đã đi sâu vào phân tích các quan điểm về 
khái niệm điều kiện giao dịch chung trên thế giới và Việt Nam, những ƣu 
điểm và bất cập trong việc ứng dụng điều kiện giao dịch chung; phân tích 
thực tiễn xử dụng điều kiện giao dịch chung của quốc tế và Việt Nam; từ đó 
dự báo xu hƣớng sử dụng điều kiện giao dịch chung và đƣa ra giải pháp cho 
việc áp dụng điều kiện giao dịch chung tại Việt Nam. 
Do thời gian và tài liệu tham khảo có hạn nên luận văn chƣa bao quát 
đƣợc toàn bộ mọi vấn đề của điều kiện giao dịch chung và chắc chắn vẫn còn 
thiếu sót. Để có thể phát triển mảng đề tài này sâu rộng hơn nữa, tác giả rất 
mong nhận đƣợc sự đóng góp ý kiến của bạn đọc. 
85 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Tài liệu tiếng Việt: 
- 
, Thành phố . 
- Nguyễ
6, 2003. 
- Vũ (2006)
Thƣơng, , . 
- Vũ Hữu Tửu (1995), Chuyên đề Hợp đồng mẫu trong buôn bán 
quốc tế về hàng có khối lƣợng lớn, Trƣờng Đại học Ngoại thƣơng Hà Nội. 
2. Tài liệu tiếng Anh: 
 M. J. Trebilock and D. N. Dewees, Judicial control of standard form 
contracts, Contract I - Paper no. 7 (summary-Flaviu). 
 The council of the European Community, Council Directive 
93/13/EEC of 5 Apirl 1993 on unfair terms in consumer contracts. 
 UNIDROIT - Principles of international commercial contract 
(version 2004). 
 Worlk Trade Press, Karla C.Shippey (2003), A Short Course in 
International Contracts: Drafting the International Sales Contract: For 
Attorneys and Non-Attorneys, 2nd Edition. 
3. Một số trang Web: 
www.google.com/standard-form-contract 
www.google.com/general-terms-and-conditons 
www.tuoitre.com.vn/ 
86 
PHỤ LỤC 1 
87 
88 
89 
90 
PHỤ LỤC 2 
91 
92 
93 
94 
PHỤ LỤC 3 
95 
96 
97 
98 
99 
100 
MỤC LỤC 
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ................................................................................. 1 
DANH MỤC CÁC BẢNG ................................................................................................... 2 
LỜI MỞ ĐẦU ....................................................................................................................... 3 
CHƢƠNG I: TỔNG QUAN VỀ ĐIỀU KIỆN GIAO DỊCH CHUNG ............................ 7 
1.1. KHÁI NIỆM VỀ ĐIỀU KIỆN GIAO DỊCH CHUNG ............................................... 7 
1.1.1. Nguyên tắc tự do hợp đồng ................................................................................. 7 
1.1.2. Khái niệm điều kiện giao dịch chung .............................................................. 10 
1.1.2.1. Khái niệm .................................................................................................... 10 
1.1.2.2. Phân biệt Điều kiện giao dịch chung với Hợp đồng mẫu ........................... 13 
1.2. ĐIỀU KIỆN GIAO DỊCH CHUNG TRONG KINH DOANH QUỐC TẾ ................... 15 
1.2.1. Tổng quan về điều kiện giao dịch chung ......................................................... 15 
1.2.2. Khả năng áp dụng điều kiện giao dịch chung trong kinh doanh quốc tế ...... 17 
1.3. ƢU ĐIỂM VÀ BẤT CẬP CỦA ĐIỀU KIỆN GIAO DỊCH CHUNG TRONG KINH 
DOANH QUỐC TẾ ......................................................................................................... 18 
1.3.1. Ưu điểm trong ứng dụng Điều kiện giao dịch chung ..................................... 18 
1.3.1.1. Từ góc độ pháp lý: ...................................................................................... 18 
1.3.1.2. Từ góc độ kinh tế ........................................................................................ 19 
1.3.2. Bất cập trong ứng dụng điều kiện giao dịch chung ........................................ 21 
1.3.2.1. Từ góc độ pháp lý: ...................................................................................... 21 
1.3.2.2. Từ góc độ kinh tế ........................................................................................ 23 
1.4. MỘT SỐ NỘI DUNG ĐIỂN HÌNH TRONG ĐIỀU KIỆN GIAO DỊCH CHUNG 25 
1.4.1. Điều khoản giao hàng ...................................................................................... 26 
1.4.2. Điều khoản vận tải ............................................................................................ 28 
1.4.3. Điều khoản giá cả và thanh toán ..................................................................... 28 
1.4.4. Nội dung liên quan đến luật áp dụng và giải quyết tranh chấp .............................. 31 
CHƢƠNG II: THỰC TIỄN ÁP DỤNG ĐIỀU KIỆN GIAO DỊCH CHUNG TRONG 
HOẠT ĐỘNG KINH DOANH ......................................................................................... 36 
2.1. ÁP DỤNG ĐIỀU KIỆN GIAO DỊCH CHUNG TRONG THỰC TIỄN KINH 
DOANH QUỐC TẾ ......................................................................................................... 36 
2.1.1. Sơ lược pháp luật điều chỉnh điều kiện giao dịch chung ............................... 36 
2.1.1.1. Quy đị h Châu Âu ............... 36 
2.1.1.2. Luật quốc gia .............................................................................................. 39 
2.1.1.3. Soft law (“luật mềm”) ................................................................................. 41 
2.1.2. Thực tiễn áp dụng điều kiện giao dịch chung của một số tổ chức, doanh 
nghiệp trên thế giới ..................................................................................................... 43 
2.2.2.1. Trong các hợp đồng về mua bán ngũ cốc ................................................... 44 
2.1.2.2. Trong các hợp đồng về hạt có dầu, dầu thực vật và các sản phẩm của nó . 48 
2.2. THỰC TIỄN SỬ DỤNG ĐIỀU KIỆN GIAO DỊCH CHUNG TẠI VIỆT NAM .... 50 
2.2.1. Quy định của pháp luật điều kiện giao dịch chung ........................................ 50 
2.2.1.1. Những nội dung cơ bản trong các quy định về điều kiện giao dịch chung .............. 50 
2.2.1.2. So sánh với một số nguồn luật khác ........................................................... 53 
2.2.2. Thực tiễn sử dụng điều kiện giao dịch chung trong kinh doanh quốc tế tại 
Việt Nam ...................................................................................................................... 56 
2.2.2.1. Thực tiễn áp dụng tại Việt Nam .................................................................. 56 
2.2.2.2. Một số tranh chấp phát sinh điển hình ........................................................ 59 
CHƢƠNG III: GIẢI PHÁP TĂNG CƢỜNG SỬ DỤNG ĐIỀU KIỆN GIAO DỊCH 
CHUNG TẠI VIỆT NAM ................................................................................................. 69 
3.1. XU HƢỚNG SỬ DỤNG ĐIỀU KIỆN GIAO DỊCH CHUNG TẠI VIỆT NAM .... 69 
3.2. GIẢI PHÁP TĂNG CƢỜNG SỬ DỤNG ĐIỀU KIỆN GIAO DỊCH CHUNG 
TRONG KINH DOANH QUỐC TẾ TẠI VIỆT NAM ................................................... 71 
3.2.1. Nâng cao nghiệp vụ giao dịch kinh doanh quốc tế của doanh nghiệp .......... 71 
3.2.2. Khắc phục những hạn chế của điều kiện giao dịch chung ............................ 72 
3.2.2.1. Gíải pháp hạn chế điểm bất cập từ góc độ pháp lý ..................................... 73 
3.2.2.2. Giải pháp hạn chế điểm bất cập từ góc độ kinh tế ...................................... 77 
3.3. HOÀN THIỆN CƠ SỞ PHÁP LÝ ĐIỀU CHỈNH ĐIỀU KIỆN GIAO DỊCH 
CHUNG ........................................................................................................................... 81 
 ............................... 81 
3.3.2. Việ ều chỉ ............................... 82 
KẾT LUẬN ......................................................................................................................... 84 
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................................. 85 
PHỤ LỤC 1 ......................................................................................................................... 86 
PHỤ LỤC 2 ......................................................................................................................... 90 
PHỤ LỤC 3 ......................................................................................................................... 94 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 3192_48.pdf 3192_48.pdf