Luận văn Định hướng chiến lược đầu tư phát triển ngành Dệt May Việt Nam đến năm 2010

Xác lập kế hoạch phòng chống ô nhiễm môi trường. Các doanh nghiệp căn cứ vào phạm vi chức năng, nhiệm vụ của mình tổ chức đánh giá tác động môi trường, nghiên cứu hiện trạng môi trường và xác định kế hoạch phòng chống suy thoái môi trường, ô nhiễm môi trường. Kế hoạch phòng chống ô nhiễm môi trường có thể chia theo nhiều giai đoạn cho phù hợp với tình hình thực tế và khả năng nguồn vốn hiện có của bản thân doanh nghiệp.

pdf87 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2518 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Định hướng chiến lược đầu tư phát triển ngành Dệt May Việt Nam đến năm 2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
là Trung Quốc và các nước trong khu vực) tương đối thấp. Đó là tổng hợp của nhiều yếu tố giá cả, chất lượng, tiếp thị bán hàng, uy tín,... - Trình độ công nghệ thấp. Đây là căn bệnh không chỉ của riêng ngành Dệt - May Việt Nam mà còn là căn bệnh vốn có của nhiều ngành, lĩnh vực khác. Hiện nay, thiết bị công nghệ của ngành may đã được đổi mới tới 95%, song ở ngành dệt mới chỉ từ 40 - 45%. Chúng ta có một ngành may năng động bên cạnh một ngành dệt kém hiệu quả. Ngành may có thiết bị công nghệ tiên tiến nhưng chưa phát huy được khả năng sáng tạo, điều mà những người tiêu dùng khó tính - 61 - luôn luôn đòi hỏi. Bởi vậy, khả năng liên kết giữa hai ngành này là vô cùng yếu, nó khiến cho toàn ngành Dệt - May không có được một sự bứt phá cần thiết. - Quy mô nhỏ bé, lạc hậu. Mặc dù ngành Dệt - May Việt Nam đã có những thay đổi rõ rệt, song đó chỉ là tiến bộ của ngành so với những năm trước. Nếu đem so sánh Dệt - May Việt Nam với các nước trên thế giới thì chúng ta còn quá nhỏ bé và lạc hậu. - 62 - Bảng 9: So sánh quy mô ngành Dệt - May Việt Nam với các nước trong khu vực. Tên nước Sản lượng sợi (1000 tấn) Sản lượng vải lụa (1.tr m2) Sản phẩm may (1.tr sp) Kim ngạch xuất khẩu (tr USD) Trung Quốc India Bangladesh Thái Lan Indonesia Việt Nam 5.300 2.100 200 1.000 1.800 85 21.000 23.000 1.800 4.200 4.400 304 10.000 - - 2.500 3.000 400 50.000 12.500 4.000 6.500 8.000 2.000 Nguồn: Tổng công ty Dệt - May Việt Nam. Trong tổng số sản phẩm mà Việt Nam sản xuất ra thì có đến hơn 70% là hàng gia công. Đó là kết quả của việc đầu tư các thiết bị, công nghệ một cách nhỏ lẻ, manh mún; không đầu tư phát triển vùng nguyên liệu để có thể chủ động hơn trong sản xuất; thiếu quan tâm đến đầu tư cho công tác tiếp thị bán hàng, xúc tiến thương mại, quảng bá thương hiệu.... b) Những nguyên nhân chủ yếu. Những điều bất cập đối với ngành Dệt - May Việt Nam thì rất nhiều nhưng tập trung chủ yếu vào một số nguyên nhân sau: - Thiếu vốn đầu tư. Đây là nguyên nhân cơ bản dẫn đến những hạn chế của hầu hết các doanh nghiệp hiện nay chứ không riêng gì ngành dệt may. Vốn đầu tư có tính quyết định đối với quy mô cũng như tốc độ thực hiện các chương trình dự án của từng doanh nghiệp, hay của ngành. Một trong những giải pháp để đạt được mục tiêu đặt ra cho ngành Dệt - May đến năm 2010 là Chính phủ cấp vốn tín dụng ưu đãi để đầu tư vào khâu sản xuất nguyên liệu vải sợi cho toàn ngành là 65.000 tỷ đồng. Nhưng sau hai năm thực hiện, cơ chế hỗ trợ này được triển khai rất hạn chế. Năm 2001, Quỹ hỗ trợ phát triển chỉ cấp được 398 tỷ đồng và năm 2002 cấp được 500 tỷ đồng. Như vậy, cả hai năm mới chỉ cấp được 898 tỷ đồng và chỉ đạt có 7,5% kế hoạch cho đến năm 2005. - 63 - - Đầu tư mất cân đối, không chú trọng đến công tác mở rộng thị trường, thiết lập mạng lưới kinh doanh, phân phối hợp lý. Ngành Dệt - May mới chỉ chú trọng đầu tư vào lĩnh vực may mà ít quan tâm đến lĩnh vực dệt, nguồn cung cấp đầu vào chủ yếu cho ngành may. Trong ngành dệt, việc đầu tư cho khâu nhuộm hoàn tất là yếu nhất, dẫn đến sự không đồng bộ giữa các khâu, gây nên sự lãng phí không cần thiết. Việc đầu tư của các doanh nghiệp Dệt - May Việt Nam còn diễn ra tràn lan, không chú trọng chuyên môn hoá sản phẩm. Một doanh nghiệp có khi sản xuất hàng chục loại mặt hàng khiến chi phí sản xuất cao, chất lượng không đạt yêu cầu. Về công tác mở rộng thị trường và thiết lập mạng lưới kinh doanh, tiếp thị, các doanh nghiệp mới chỉ có sự quan tâm bước đầu. Đây vốn là điểm yếu của các doanh nghiệp Việt Nam do những ảnh hưởng từ thời bao cấp. - Vẫn còn tình trạng đầu tư, mua sắm trang thiết bị lạc hậu của các nước phát triển, mua sắm những thiết bị second-hand. Cơ chế nhập khẩu các thiết bị second-hand của các doanh nghiệp là nhằm khắc phục những hạn chế về vốn. Mặt khác đối với một số dây chuyền công nghệ quá hiện đại, lao động của chúng ta chưa đủ trình độ để tiếp nhận. Vì vậy, việc nhập các thiết bị đã qua sử dụng từ các nước phát triển là một giải pháp tối ưu. Điển hình là chúng ta đã nhập được một số dây chuyền thiết bị với giá rẻ từ các nước bị ảnh hưởng bởi cuộc khủng hoảng khu vực vừa qua, mặc dù những thiết bị này vẫn còn tốt. Tuy nhiên, tình trạng đầu tư những thiết bị đã quá lạc hậu, những thiết bị không phù hợp với điều kiện sản xuất ở Việt Nam vẫn xảy ra. Nguyên nhân khách quan là các doanh nghiệp không đánh giá được hết những hạn chế, những khiếm khuyết của thiết bị nhập. Đồng thời cũng có nguyên nhân chủ quan là các doanh nghiệp không nghiên cứu xem xét các thiết bị, công nghệ nhập trước khi ký hợp đồng mua bán, thậm chí có trường hợp bên mua biết được các thiết bị nhập không đạt tiêu chuẩn nhưng vẫn cố tình cho qua. - Trình độ người lao động còn thấp. Thực trạng mức lương cho một lao động đã qua đào tạo trong ngành Dệt - May ngang bằng với các nước trong khu vực cho thấy tình trạng thiếu các nhân công quản lý và kỹ thuật có chất lượng. Đối với lao động phổ thông, mặc dù lương tối thiểu vẫn thấp hơn so với các nước nhưng năng suất của lao động Việt Nam không cao, kỷ luật lao động lại không nghiêm. Điều này xuất phát từ sự hiểu biết của người lao động còn rất hạn - 64 - chế. Vì vậy, nếu không chú trọng đào tạo nguồn nhân lực thì trong tương lai lao động giá rẻ không còn là lợi thế của Việt Nam nữa. - Không chú trọng đầu tư cho vùng nguyên liệu. Mặc dù thời gian gần đây ngành Dệt - May đã có sự quan tâm thích đáng cho đầu tư phát triển vùng nguyên liệu, nhưng do sự lơ là của những năm trước mà hiện nay ngành lâm vào tình trạng bị động trong sản xuất, chi phí sản xuất cao do phải nhập nguyên liệu. Những yếu tố đầu vào đó gây ảnh hưởng mạnh đến việc tiêu thụ hàng hoá, đặc biệt là trong lĩnh vực xuất khẩu. - Các quy định, chính sách đối với ngành Dệt - May còn chưa hợp lý. Mặc dù Nhà nước đã có sự quan tâm ưu đãi đối với ngành, nhưng vẫn còn những bất cập trong các chính sách. Đó là các quy định về thuế, về vay vốn tín dụng ưu đãi, về xuất nhập khẩu, môi trường,... Trường hợp các văn bản luật, quyết định đã được ban hành nhưng không có thông tư hướng dẫn kịp thời không phải là hiếm. Vẫn còn tình trạng các quy định, chính sách đề ra không hợp với thực tế khiến cho việc thực hiện bị trì trệ, có khi vô tác dụng. - 65 - Chương III: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP ĐẦU TƯ CHO PHÁT TRIỂN NGÀNH DỆT - MAY VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2010. I. NHỮNG XU HƯỚNG CƠ BẢN CỦA THẾ GIỚI TRONG VÀI THẬP KỶ TỚI, ẢNH HƯỞNG ĐỐI VỚI DỆT-MAY VIỆT NAM. 1. Xu hướng hội nhập. Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình mở rộng giao lưu kinh tế và khoa học công nghệ giữa các nước trên thế giới, là quá trình tham gia giải quyết các vấn đề kinh tế xã hội có tính chất toàn cầu như vấn đề dân số, tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường,... là quá trình loại bỏ dần các hàng rào trong thương mại quốc tế, thanh toán quốc tế và việc di chuyển các nhân tố sản xuất giữa các nước. Trật tự thế giới ngày nay đã chuyển từ lưỡng cực sang đa cực. Tuy chiến tranh cục bộ còn xảy ra ở một vài nơi trên thế giới nhưng xu hướng chung hiện nay là chuyển sang các hình thức đối thoại, hợp tác cùng phát triển. Bởi vậy không một quốc gia nào có thể đứng ngoài xu thế hội nhập kinh tế quốc tế mà trái lại phải chủ động tích cực tham gia vào tiến trình này. Mọi người, mọi quốc gia cần phải hiểu chủ động hội nhập kinh tế quốc tế là hành vi có ý thức, tự giác của các quốc gia, thậm chí của các doanh nghiệp trong việc xây dựng và thực hiện các chiến lược phát triển kinh tế xã hội, chiến lược đầu tư, sản xuất kinh doanh trên cơ sở lộ trình, hình thức, bước đi đã lựa chọn nhằm phát huy có hiệu quả những lợi thế của đất nước; tránh được những tác động tiêu cực vào đất nước trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế của các quốc gia trong khu vực và thế giới. Tuy nhiên, hội nhập quốc tế là một quá trình vừa hợp tác phát triển, vừa đấu tranh gay gắt dưới nhiều hình thức. Nó đem lại thời cơ nhưng cũng không ít thách thức. Cơ hội mà chúng ta có được khi tham gia hội nhập đó là sự đối sử bình đẳng trong các hoạt động thương mại, dịch vụ và đầu tư quốc tế; tận dụng được lợi thế so sánh của mình trong cạnh tranh, thu hút công nghệ, vốn đầu tư nước ngoài,... Nhưng hạn chế và cũng là thách thức lớn nhất của ta là điểm xuất phát của Việt Nam quá thấp, gây bất lợi lớn khi tham gia hội nhập. Thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam năm 1999 (PPP) là 1755 USD/người, trong - 66 - khi đó của Philipin là 3380 USD/người, gấp 1,4 lần Việt Nam; Thái Lan 7020 USD/người, gấp 4 lần; Malaixia 7370 USD/người, gấp 4,2 lần; Singapore 27740 USD/người, gấp 15,8 lần. Các doanh nghiệp Dệt - May Việt Nam hiện nay vẫn chưa thoát khỏi tình trạng "lóng ngóng", hiểu biết của các doanh nghiệp về hội nhập vẫn còn rất "nông cạn" và "hạn hẹp". Như vậy các doanh nghiệp chưa lường được tình huống khi vấp phải những rào cản trong hội nhập để đối phó. Và khi không nắm rõ luật chơi, việc nhận phần thua về mình của các doanh nghiệp là khó tránh khỏi. Bên cạnh đó, việc đầu tư chất xám để đối phó với các vấn đề nảy sinh trong quá trình hội nhập vẫn chưa có được hành động cụ thể trong phương hướng phát triển của ngành Dệt - May. Tóm lại, hội nhập kinh tế quốc tế là một xu hướng tất yếu. Tham gia vào quá trình này ngành Dệt - May cần phải nỗ lực hơn nữa nhằm phát huy sức mạnh của mình. Ngành cần phải dựa vào thực trạng nội lực của mình mà chủ động lập kế hoạch từng bước mở rộng phạm vi, nâng cao khả năng thích ứng, đối phó linh hoạt với các tình huống khi tham gia hội nhập kinh tế. 2. Xu hướng phát triển khoa học công nghệ. Khoa học công nghệ ngày nay có những bước tiến nhảy vọt, tạo ra những bất ngờ lớn mang tính cách mạng, điển hình là cuộc cách mạng máy tính vào giữa những năm 70. Nó đem lại cho con người một cuộc sống tiện nghi hơn, đầy đủ hơn, thoả mãn cả về vật chất lẫn tinh thần. Nó là động lực thúc đẩy nền kinh tế phát triển và làm biến đổi sâu sắc các lĩnh vực của đời sống xã hội. Các phát minh khoa học ngày càng phong phú và đa dạng, tốc độ ứng dụng các thành tựu khoa học và công nghệ vào thực tiễn ngày càng nhanh, tác động lớn đến sự phát triển của lực lượng sản xuất và làm chuyển biến mạnh mẽ cơ cấu kinh tế của các quốc gia. Theo xu thế thời đại, công nghệ thông tin và công nghệ sinh học sẽ chiếm vị trí hàng đầu trong tương lai, phục vụ đắc lực cho nền kinh tế tri thức. Người ta đánh giá rằng lợi thế phát triển ngày càng được quyết định bởi công nghệ (lợi thế do con người tạo ra) chứ không phải bởi các nguồn lực sẵn có (lợi thế tự nhiên). Nước ta muốn cải thiện vị thế của mình trên trường quốc tế, đi tắt, đón đầu, phát triển kinh tế thì phải nắm bắt kịp thời các công nghệ mới. Có làm chủ - 67 - được khoa học công nghệ thì mới làm chủ được nền kinh tế khi tham gia vào quá trình hội nhập. Ngành Dệt - May Việt Nam cũng cần phải năng động hơn nữa trong việc tiếp thu các công nghệ tiên tiến trên thế giới, đặc biệt đối với công nghiệp dệt, ngành vốn ít được đầu tư cải tiến. Chủ động trong việc ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất sẽ giúp ngành Dệt - May có được nội lực đủ mạnh để đứng vững trên thị trường. II. PHƯƠNG HƯỚNG TỔNG QUÁT ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN NGÀNH DỆT-MAY VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2010. 1. Một số định hướng chính. a) Những quan điểm đầu tư phát triển ngành Dệt - May. - Phát triển ngành Dệt - May theo hướng hiện đại hoá và đa dạng hoá về sản phẩm. Như phần I của chương này đã phân tích, công nghệ hiện đại ngày nay quyết định sức mạnh kinh tế và sự phồn thịnh của một đất nước. Khoa học công nghệ trên thế giới đang phát triển với tốc độ như vũ bão. Chúng ta cần phải nhanh chóng nắm bắt những công nghệ tiên tiến, áp dụng vào mọi lĩnh vực sản xuất kinh doanh và đời sống. Xu hướng của đất nước trong tương lai cũng như xu hướng chung của toàn thế giới là cuộc sống của con người ngày càng được nâng cao. Vì thế nhu cầu tiêu dùng hàng hoá cũng từ đó tăng theo, đặc biệt là những hàng hoá thông thường và hàng hoá cao cấp. Đòi hỏi của người tiêu dùng về chất lượng, chủng loại, mẫu mã,... của hàng hoá cũng cao hơn. Riêng đối với thị trường nước ngoài thì những tiêu chuẩn mà họ đưa ra ngày càng khắt khe hơn. Do đó, tổng hợp những yếu tố trên đòi hỏi ngành Dệt - May cần phải phát triển theo hướng hiện đại hoá và đa dạng về sản phẩm. - Phát triển ngành Dệt - May theo hướng kết hợp thay thế nhập khẩu với hướng về xuất khẩu. Kinh nghiệm của các nước NICs cho thấy chiến lược hướng về xuất khẩu, thay thế nhập khẩu là một bước đi quan trọng không thể thiếu trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Trong điều kiện thế giới ngày nay, chúng ta cần phải tận dụng những lợi thế so sánh của mình về lao động và tài nguyên để phát triển hơn nữa những ngành công nghiệp xuất khẩu. Xuất khẩu càng nhiều, ngoại tệ thu về càng nhiều, kinh tế tăng trưởng nhanh hơn, có hiệu quả và bền vững hơn. - 68 - Thực tế ngành Dệt - May Việt Nam đã đạt được kết quả đáng biểu dương là luôn đứng thứ hai về xuất khẩu, kim ngạch xuất khẩu tăng đều qua các năm. Thành quả này cần phải tiếp tục được duy trì và phát triển hơn nữa. Đồng thời song song với xu hướng xuất khẩu, cần tích cực sản xuất các mặt hàng thay thế nhập khẩu. Với dân số hơn 80 triệu người, thị trường nước ta là một thị trường rộng lớn. Trong tương lai, nhu cầu mua sắm của người dân ngày càng cao hơn, tiềm năng của thị trường nội địa là vô cùng lớn. Các doanh nghiệp Dệt - May cần tích cực cải tiến sản phẩm, đẩy dần hàng ngoại ra khỏi thị trường trong nước. - Phát triển ngành Dệt - May theo hướng đa dạng hoá sở hữu, tập trung phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Theo định hướng của Đảng và do những đòi hỏi của thị trường, ngành Dệt - May bao gồm các doanh nghiệp quốc doanh trung ương và địa phương, các công ty cổ phần, các công ty tư nhân, các công ty có vốn đầu tư nước ngoài, và một phần nhỏ các hộ gia đình. Trong những năm tới, ngành Dệt - May cần tiếp tục được phát triển theo hướng đa dạng hoá sở hữu nhằm huy động mọi nguồn lực có thể cho ngành. Đẩy mạnh kêu gọi đầu tư nước ngoài, kể cả đầu tư nước ngoài cho phát triển cây bông và trồng dâu nuôi tằm. Mặt khác, nhiều thành phần kinh tế cùng tham gia sẽ tạo ra một môi trường cạnh tranh mạnh mẽ, tạo động lực thúc đẩy sự phát triển. Kinh nghiệm của các nước đi trước cho thấy việc tổ chức các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong ngành Dệt - May là vô cùng hợp lý. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ thường năng động, ứng xử linh hoạt hơn với những biến đổi của thị trường. Ngành dệt là ngành cần vốn đầu tư lớn và công nghệ phức tạp, lại khó hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài và các thành phần kinh tế khác nên Nhà nước cần tập trung đầu tư vào lĩnh vực dệt. - Phát triển các vùng nguyên liệu một mặt cung ứng đầu vào cho ngành Dệt - May, mặt khác góp phần thức đẩy quá trình phát triển của các ngành khác. Đó là các vùng nguyên liệu như bông, tơ tằm, xơ sợi tổng hợp (phát triển công nghiệp hoá dầu). Chúng ta cần phải tận dụng lợi thế về tài nguyên để phát triển các vùng nguyên liệu nhằm tăng tỷ lệ nội địa trên sản phẩm, từ đó tăng sức cạnh tranh cho sản phẩm, đồng thời tạo thế chủ động trong sản xuất và tiêu thụ hàng hoá. Đầu tư cho nguyên liệu dệt may còn góp phần phát triển các ngành khác. Cụ thể là nguyên liệu bông, tơ tằm gắn liền với sự phát triển của ngành nông - 69 - nghiệp; các nguyên liệu tổng hợp, hoá chất, thuốc nhuộm... gắn liền với sự phát triển của các ngành công nghiệp hoá chất, công nghiệp hoá dầu, các ngành sản xuất phụ liệu, bao bì. - Chủ động đầu tư trang thiết bị công nghệ nhằm đáp ứng những đòi hỏi của thị trường về chất lượng cũng như mẫu mã sản phẩm. Trong 10 năm đổi mới vừa qua, ngành Dệt - May đã đầu tư chiều sâu nhằm thay thế dần các thiết bị và công nghệ quá lỗi thời. Tuy nhiên, việc thay thế này cho đến nay vẫn chưa hoàn tất. Trong thời gian tới cần tăng tốc phát triển bằng việc đầu tư các công nghệ mới nhất, với thiết bị hiện đại nhằm tạo ra bước nhảy vọt về chất lượng và sản lượng. Mặt khác cần coi trọng tận dụng các loại thiết bị đã qua sử dụng, với công nghệ tiên tiến từ các nước công nghiệp hoá, thế hệ từ những năm 90 trở lại đây. Cũng cần phải tính đến tính đồng bộ của thiết bị được đầu tư mới. b) Định hướng đầu tư. Từ những quan điểm trên, một số định hướng đầu tư được đưa ra như sau: - Đầu tư phát triển nguyên phụ liệu cho ngành may, phát triển sản phẩm dệt sử dụng cho các mục đích tiêu dùng và công nghiệp khác. - Ngành may cần được đầu tư phát triển rộng khắp bởi đây là ngành không đòi hỏi nhiều vốn đầu tư, lao động giản đơn, sử dụng nhiều lao động... - Ngành dệt cần được phát triển tập trung theo cụm bởi ngành này cần vốn đầu tư lớn, công nghệ cao, yêu cầu trình độ lao động cao, nhu cầu đầu vào và cơ sở hạ tầng lớn, quản lý khó khăn, giải quyết xư lý môi trường tập trung nên phải phát triển tập trung. - Đầu tư phát triển các ngành kéo sợi, dệt vải, dệt kim, ngành in, nhuôm và hoàn tất, đầu tư phát triển các sản phẩm dệt công nghiệp vì nhu cầu về các sản phẩm này trong tương lai là rất lớn. - Ngành Dệt - May cần đầu tư vào phát triển cơ khí dệt may nhằm cung cấp thiết bị, phụ tùng cho ngành và tiến tới xuất khẩu cho các nước khác. Ngành cũng cần đầu tư xử lý môi trường bởi yêu cầu về nhãn sinh thái, về môi trường, về điều kiện lao động ngày càng cao. - 70 - - Các nguồn vốn ngành có thể huy động được cho đầu tư phát triển là vốn tự có, vốn vay hay kêu gọi đầu tư bằng các hình thức đầu tư trực tiếp hoặc gián tiếp. 2. Những mục tiêu cụ thể cần đạt được. Những mục tiêu đặt ra đối với ngành Dệt - May đến năm 2010 Hiện nay ngành Dệt - May Việt Nam đang thực hiện chiến lược tăng tốc đầu tư nhằm đạt được các mục tiêu chính là: - Tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu theo định hướng của Nhà nước với tốc độ bình quân cứ sau 5 năm tăng gấp đôi, đến năm 2010 đạt 8000 - 9000 triệu USD. - Tăng tỷ lệ nội địa hoá sản phẩm từ 25% lên 75%. - Tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động, phấn đấu đến năm 2010 có từ 4 đến 4,5 triệu lao động làm việc trong ngành dệt may. Từ các mục tiêu chính trên phân ra các chỉ tiêu cụ thể đầu tư phát triển ngành Dệt - May từ nay đến năm 2010 như sau: (Bảng 10,11). Dự kiến trong 10 năm tới ngành Dệt - May Việt Nam sẽ đầu tư thêm 10 cụm công nghiệp dệt may mới, bao gồm: 1. Cụm CN Dệt - May Phố Nối B - tỉnh Hưng Yên 2. Cụm CN Dệt - May Tiên Sơn - Bắc Ninh. 3. Cụm CN Dệt - May Thái Bình. 4. Cụm CN Dệt - May Nam Định. 5. Cụm CN Dệt - May Lễ Môn - Thanh Hoá. 6. Cụm CN Dệt - May Đà Nẵng. 7. Cụm CN Dệt - May Nhơn Trạch - Đồng Nai. 8. Cụm CN Dệt - May Bình An - Bình Dương. 9. Cụm CN Dệt - May Bến Lức - Long An. 10. Cụm CN Dệt - May Cần Thơ. Đầu tư xây dựng 2 nhà máy sản xuất xơ sợi tổng hợp (polyester) với công suất mỗi nhà máy 30.000 tấn/năm và các nhà máy biến tính sợi PE filament. - 71 - Đầu tư nhà máy sản xuất vải không dệt và vải địa kỹ thuật 10 triệu m2/năm để phục vụ nhu cầu xây dựng đê điều, đường giao thông, hồ chứa nước,... Đầu tư cụm công nghiệp sản xuất các phụ liệu may như khoá kéo, cúc kim loại, chỉ may, nhãn mác,... Với nhu cầu đầu tư như trên, ngành Dệt - May cần một lượng vốn khá lớn trong 10 năm tới. Cụ thể: (Xem bảng 12) Bảng 10: Mục tiêu phát triển ngành Dệt - May đến năm 2010 Chỉ tiêu Đơn vị 2005 Tốc độ tăng bq (%) 2010 Tốc độ tăng bq (%) Giá trị sản xuất CN Tỷ đồng 28.200 11 50.000 11 Sản phẩm chính - Bông xơ 1000 tấn 30 25,4 95 20,8 - Xơ sợi tổng hợp nt 100 15,2 130 5,2 - Sợi nt 150 11 300 13,3 - Vải lụa triệu m2 800 18 1.200 8 - Sp dệt kim triệu sp 150 10 230 8,4 - Sp may nt 780 10 1.200 10 KNXK Triệu USD 5000 17,1 8.000 9,2 Sử dụng lao động 1000 người 3000 12 4.000 5,7 Nguồn: Tổng công ty Dệt - May Việt Nam. - 72 - Bảng 11: Mục tiêu phát triển cây bông đến 2010 Chỉ tiêu Đơn vị 2005 2010 Diện tích trồng bông CN 1000 ha 60 150 Năng suất bông hạt Tạ/ha 14 18 Sản lượng bông hạt 1000 tấn 84 270 Sản lượng bông xơ nt 30 95 Sản lượng bông toàn ngành nt 97 130 Đáp ứng yêu cầu ngành dệt % 30 70 Nguồn: Tổng công ty Dệt - May Việt Nam. Bảng 12: Nhu cầu vốn đầu tư cho toàn ngành Dệt - May đến 2010 Đơn vị: tỷ đồng Nhu cầu vốn đầu tư 2001 - 2005 2006 - 2010 Tổng mức đầu tư 35.000 30.000 Vốn cho đầu tư mở rộng 23.200 20.000 Vốn cho đầu tư chiều sâu 11.800 10.000 Theo hình thức vốn Vốn cho xây lắp 3.000 2.550 Vốn cho thiết bị 20.500 18.000 Chi phí khác 1.750 1.500 Chi phí dự phòng 1.750 1.500 Vốn lưu động 8.000 6.450 Nguồn: Tổng công ty Dệt - May Việt Nam. - 73 - III. CÁC GIẢI PHÁP ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN NGÀNH DỆT-MAY VIỆT NAM ĐẾN 2010. 1. Về vận động và thu hút các nguồn vốn. Để chương trình đầu tư ngành Dệt - May trở thành hiện thực cần phải huy động một lượng vốn đủ lớn snhư đã nêu ở trên. Đây là vấn đề cấp thiết đối với các doanh nghiệp trong ngành bởi nó có tính quyết định tới tốc độ đầu tư phát triển. Các doanh nghiệp cần thực hiện một số giải pháp sau cho việc huy động vốn vào đầu tư sản xuất. Nguồn vốn tự có. Nguồn vốn này chiếm khoảng 25 - 29% tổng nguồn vốn. Nó được huy động từ mọi nguồn lực tự có trong các công ty, doanh nghiệp như vốn tự tích luỹ, khấu hao cơ bản, vốn có được bằng cách bán , khoán, cho thuê các tài sản không dùng đến, giải phóng hàng tồn kho, huy động từ cán bộ công nhân viên,... Đối với vốn vay. Các doanh nghiệp có thể vay tín dụng trả chậm từ các nhà cung cấp, từ các tổ chức tài chính, ngân hàng, thuê tài chính, vay thương mại,... Hiện nay, các doanh nghiệp đang gặp khó khăn khi huy động vốn từ các nguồn này do vấp phải các vấn đề: tài sản chưa có giấy chủ quyền, chưa làm tốt các báo cáo về tài chính, chưa biết lập phương án kinh doanh, không thể thiết lập chiến lược lâu dài vì đặc trưng của ngành dệt may là theo mùa và theo thời trang. Các doanh nghiệp còn bị lâm vào tình trạng bị phân biệt đối xử như doanh nghiệp quốc doanh có thể vay tín chấp, doanh nghiệp ngoài quốc doanh thì phải thế chấp. Vì vậy, đối với các hình thức này, các doanh nghiệp dệt may rất cần có sự bảo lãnh của Chính phủ. Các doanh nghiệp cần sớm xây dựng các dự án đầu tư, trình lên các cấp có thẩm quyền phê duyệt. Các doanh nghiệp cần xin phép được sử dụng vốn ngân sách cho các chương trình quy hoạch như quy hoạch các vùng trồng bông, trồng dâu nuôi tằm hoặc quy hoạch các cụm công nghiệp dệt; xin phép sử dụng vốn ngân sách cho các trường đào tạo, Viện nghiên cứu chuyên ngành được bình đẳng như đối với các loại hình trường, Viện do chính phủ hoặc các Bộ quản lý. Riêng đối với nguồn vốn ODA hoặc vốn đặc biệt ưu đãi cần xin phép sử dụng cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng hoặc đầu tư các nhà máy xử lý nước thải, hoặc hỗ trợ đầu tư cho các doanh nghiệp khó khăn về tài chính. - 74 - Vốn huy động từ các nguồn khác. Ngoài nguồn vốn tự có, vốn vay và vốn do ngân sách nhà nước cấp, các doanh nghiệp có thể huy động một nguồn vốn tiềm năng, đó là vốn trong dân cư. Nguồn vốn này được huy động bằng hình thức phát hành cổ phiếu, trái phiếu. Tuy nhiên, hình thức này chỉ khuyến khích áp dụng ở các doanh nghiệp có hoạt động sản xuất thuận lợi, kết quả kinh doanh tốt. Bên cạnh đó còn một nguồn vốn lớn mà ngành Dệt - May cần phải tận dụng triệt để đó là vốn đầu tư nước ngoài. Ưu điểm của nguồn vốn này là nó thường đi kèm với việc chuyển giao công nghệ tiên tiến. Các doanh nghiệp cần áp dụng mọi hình thức khuyến khích, kêu gọi đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Nguồn vốn nước ngoài thường vào Việt Nam dưới các loại hình doanh nghiệp như doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, doanh nghiệp hợp tác sản xuất, xuất khẩu và dịch vụ,... Hiện nay, để tạo điều kiện thuận lợi trong việc huy động vốn của các doanh nghiệp, Tổng công ty Dệt - May Việt Nam đã thành lập Công ty Tài chính với nhiệm vụ huy động vốn, cho vay và thực hiện một số dịch vụ tài chính khác. Trong những năm tới cần phát huy hơn nữa vai trò của công ty này. 2. Giải pháp phát triển nguồn nguyên liệu. Theo ý kiến đánh giá của các nhà phân tích thị trường, thời gian qua tuy có những biến động về giá nhưng thị trường tơ lụa thế giới và khu vực chưa bao giờ cung ứng đủ do nhu cầu người tiêu dùng ngày càng tăng, trong khi những nước sản xuất dâu tằm lớn như Trung Quốc, Brazil đang dần thu hẹp diện tích dâu và sản lượng kén. Xét ngay nền kinh tế trong nước ta cũng thấy nhu cầu nội địa về bông, tơ tằm ngày càng cao. Những chỉ tiêu về phát triển bông đặt ra cho đến năm 2010 cũng chỉ mới đáp ứng được 70% nhu cầu nguyên liệu của ngành dệt. Cũng cần thấy rằng nhu cầu về bông xơ trong 10 đến 15 năm tới sẽ luôn lớn hơn khả năng cung cấp (đây là nguyên liệu quan trọng nhất của ngành Dệt - May), xơ tổng hợp sẽ còn tăng song nhu cầu không lớn so với cung. Trong các loại nguyên liệu cho ngành Dệt - May, Việt Nam có điều kiện tốt nhất trong phát triển hai loại nguyên liệu là bông xơ và tơ tằm. Bởi vậy cần tập trung đầu tư phát triển hai nguồn nguyên liệu này trong tương lai. Quy hoạch vùng sản xuất nguyên liệu dệt. Các vùng trồng cây nguyên liệu cần phải được quy hoạch dựa trên cơ sở: - 75 - - Chọn vùng sinh thái thích hợp, quỹ đất trồng nguyên liệu của từng vùng, khả năng sản xuất nguyên liệu tập trung. - Căn cứ vào điều kiện lao động, cơ sở hạ tầng của vùng. - Khả năng cạnh tranh với các cây trồng khác trong vùng. - Căn cứ vào các tiến bộ kỹ thuật đạt được. Dựa vào những tiêu chí trên có thể mở rộng diện tích trồng bông, dâu bằng các cách: - Trồng xen canh với các loại cây khác như ngô, đậu,... - Khuyến khích nông dân chuyển sang trồng bông vì đây là ngành đòi hỏi đầu tư thấp, nhanh thu hoạch, đầu ra đã có sẵn (ngành dệt may), được Chính phủ trợ giúp về mặt kỹ thuật, vốn, sử dụng đất giúp nông dân ổn định sản xuất, ổn định lợi nhuận. - Hình thành các khu trồng bông lớn, năng suất cao, chất lượng tốt, áp dụng mô hình trang trại trồng bông ở một số địa phương. - Quy hoạch một số vùng trồng bông mới như Sơn La, Thanh Hoá, Đồng bằng sông Cửu Long, Duyên hải miền Trung. Về khoa học kỹ thuật phải tiếp tục hoàn thiện về giống cây, con như các giống bông lai, giống dâu, giống tằm. Bên cạnh nhiệm vụ sản xuất giống, công tác xác định thời vụ, chế độ chăm sóc, công tác phòng trừ dịch bệnh cần tiếp tục được quan tâm. Nhà nước tăng thêm đầu tư cho công tác nghiên cứu khoa học kỹ thuật về phát triển giống và công tác khuyến nông. Sử dụng giải pháp tăng năng suất bông hạt bằng cách: - Lai tạo các giống bông cho năng suất cao. - Áp dụng các phương pháp phòng trừ sâu bệnh mới, hiệu quả cao hơn. - Nghiên cứu về chất đất, môi trường sinh thái để cây bông dồn sự phát triển vào hạt bông. - Nghiên cứu để kéo mùa thu hoạch bông về mùa khô, vừa cho năng suất bông hạt cao, vừa đảm bảo chất lượng. Xây dựng và triệt để thực hiện hệ thống các chính sách phát triển nguyên liệu cho ngành dệt. Hệ thống các chính sách tập trung chủ yếu vào: - 76 - - Chính sách miễn thuế nông nghiệp cho các vùng mới khai phá để trồng cây nguyên liệu trong 2 -3 năm đầu. - Thực hiện có hiệu quả vay tín dụng cho nông dân qua các chính sách khuyến nông, đầu tư cho sản xuất giống - Thực hiện chính sách bảo hiểm giá nguyên liệu, bao tiêu sản phẩm cho người sản xuất nguyên liệu. - Ưu tiên vốn ngân sách cho nghiên cứu khoa học kỹ thuật phục vụ cho phát triển vùng nguyên liệu. - Thực hiện chính sách phát triển cơ sở hạ tầng cho các vùng trồng cây nguyên liệu. - Chính sách về đào tạo cán bộ, chuyển giao kỹ thuật cho các hộ trồng cây nguyên liệu. Đồng thời với việc phát triển vùng nguyên liệu, ngành may cũng cần đầu tư phát triển phụ liệu may. Cần xác định được mức độ đầu tư sản xuất phụ liệu trong nước, phần vùng đầu tư xem loại phụ liệu nào Nhà nước đầu tư, loại phụ liệu nào khuyến khích các thành phần kinh tế khác đầu tư; đa dạng các thành phần kinh tế tham gia sản xuất và cung cấp phụ liệu may. 3. Giải pháp đầu tư cho cơ sở hạ tầng. Cơ sở hạ tầng của ngành Dệt - May Việt Nam vừa thiếu lại vừa yếu. Đối với những khu công nghiệp dệt, may thì các thiết bị nhà xưởng đã quá xuống cấp, hệ thống điện, nước phục vụ cho sản xuất, hệ thống lưu chuyển, chứa và xử lý nước thải đều đảm bảo chức năng của mình dưới mức trung bình. Nhằm thúc đẩy chiến lược tăng tốc, ngành Dệt - May đã lên kế hoạch xây dựng 10 cụm công nghiệp dệt may tập trung. Đến nay cụm công nghiệp dệt may Phố Nối B đã hoàn thành đầu tư cơ sở hạ tầng giai đoạn I có tổng mặt bằng 25,6 ha được các doanh nghiệp trong ngành sử dụng hết. Dự án đầu tư cơ sở hạ tầng các khu công nghiệp Khánh Hoà, Bình An, Nhơn Trạch cũng đã được triển khai xây dựng với số vốn tương ứng là 870 tỷ đồng, 77 tỷ đồng, 240 tỷ đồng. Trong những năm tới cần tiếp tục: - Hoàn thành các công trình đang xây dựng dở theo đúng tiến độ và nhanh chóng đưa vào sử dụng. - 77 - - Tiếp tục kêu gọi đầu tư nước ngoài vào cơ sở hạ tầng bởi ngân sách nhà nước không thể "bao" hết cho toàn ngành được, trong khi đó vốn đầu tư cho cơ sở hạ tầng thường chiếm tới 1/4 tổng nguồn vốn. Đây là vấn đề rất bức xúc của các doanh nghiệp hiện nay. Những giải pháp cụ thể về huy động vốn đã được nêu rõ ở trên. - Đối với những công trình, thiết bị chưa quá xuống cấp thì có thể cải tạo để sử dụng, tiết kiệm vốn cho các lĩnh vực đầu tư khác, đặc biệt là cơ sở hạ tầng nơi làm việc của cán bộ nhân viên. - Cần chú trọng đầu tư cho cơ sở hạ tầng của các vùng nguyên liệu. - Chính phủ cần ban hành những chế tài cụ thể, chặt chẽ để công tác giải phóng mặt bằng không còn cản trở tiến độ thi công của các công trình. 4. Giải pháp đầu tư cho thiết bị, công nghệ. a) Tiếp tục duy trì thiết bị, công nghệ sử dụng nhiều lao động nhằm tận dụng ưu thế về nguồn lao động của Việt Nam. Trong thời gian vừa qua, ngành Dệt - May Việt Nam đã thực hiện đầu tư công nghệ theo chính sách "hai tầng": tầng nhiều vốn và tầng nhiều lao động. Bên cạnh việc đầu tư mới các thiết bị công nghệ hiện đại nhằm sản xuất các mặt hàng chất lượng cao, ngành vẫn duy trì thiết bị công nghệ cũ. Không những thế, trong những năm khủng hoảng kinh tế khu vực, Việt Nam đã mua được một số thiết bị công nghệ second-hand với giá rẻ nhưng vẫn sử dụng tốt. Trong những năm tới, chính sách này của ngành Dệt - May nên tiếp tục được thực hiện. Chúng ta không có đủ nguồn vốn để có thể đầu tư mới đồng loạt các thiết bị công nghệ tiên tiến. Mặt khác các thiết bị cũ vẫn còn sử dụng được nếu bỏ thì vô cùng lãng phí, nó còn góp phần giải quyết việc làm rất hữu hiệu. Tất nhiên việc đầu tư thiết bị công nghệ mới là rất cần thiết nhưng nó sẽ được thực hiện từ từ, đồng thời với việc thanh lý các thiết bị công nghệ quá cũ không thể sử dụng được nữa. b) Đầu tư công nghệ mới nhằm đáp ứng những đòi hỏi của thị trường. Nhờ công nghệ cao, ngành Dệt - May đã sản xuất được những mặt hàng cao cấp. Tuy nhiên, lượng mặt hàng này chưa nhiều, mới chiếm tỷ lệ khoảng 20 - - 78 - 25%, còn lại khoảng 75 - 80% giá trị xuất khẩu là các mặt hàng cấp thấp và xuất dưới hình thức gia công là chủ yếu. Giá các sản phẩm gia công trong những năm qua thường thấp, trong khi giá máy móc, thiết bị phụ tùng, hoá chất, thuốc nhuộm, phụ liệu may mặc... lại cao. Sự cố gắng đạt được một cán cân thương mại thông qua xuất khẩu hàng hoá trong tình hình tiềm lực công nghệ ngành Dệt - May nước ta không cao (thiếu kỹ năng cần thiết để xác định và đánh giá công nghệ nhập) nên rất dễ bị "lép vế" trong đàm phán mua bán công nghệ, dễ gặp rủi ro khi nhập công nghệ không phù hợp. Vì vậy, đối với ngành Dệt - May nước ta, việc nhập công nghệ không thể thay thế và việc tự tạo công nghệ là hai vấn đề song song cần làm. Lựa chọn kỹ càng công nghệ nhập. - Cần chủ động lập kế hoạch nhập khẩu công nghệ theo đỏi hỏi của sản xuất. - Tự tiềm kiếm thiết bị công nghệ kết hợp với sự giới thiệu của các hãng nước ngoài khi nhập công nghệ. - Tạo đủ điều kiện, tiền đề cần thiết trước khi nhập thiết bị công nghệ (cơ sở hạ tầng, vốn, lao động...), tránh tình trạng thiết bị công nghệ nhập về đắp chiếu nằm chờ được đưa vào sử dụng. - Nhập những thiết bị công nghệ với khoảng cách không quá xa về trình độ so với công nghệ của ngành hiện tại, nếu không sẽ rất khó duy trì và mở rộng. Trong khi nền kinh tế nước ta còn kém phát triển thì việc nhập khẩu thiết bị công nghệ quá cao thường vượt quá khả năng sử dụng khiến hiệu quả đầu tư thấp. - Tổ chức cơ quan kiểm tra giám sát công nghệ nhập cho toàn ngành. Thực hiện "đồng hoá" công nghệ nhập. - Các máy móc nhập về cần được duy trì sản xuất hàng ngày (gồm vận hành và bảo dưỡng định kỳ). - Tự chế tạo thiết kế những phụ tùng hay hỏng nếu có thể. - Phát huy hết công suất của thiết bị nhập về. Bên cạnh đó ngành Dệt - May cũng cần chú ý tạo ra công nghệ nội sinh bằng cách: - 79 - - Tự thiết kế lấy máy móc để phát triển sản xuất (trừ trường hợp máy làm ra đắt hơn máy nhập khẩu), cải tiến, nâng cao năng suất máy cho phù hợp với điều kiện Việt Nam và phù hợp với đặc trưng của thị trường. - Khuyến khích tạo ra các bí quyết sản xuất những mặt hàng mới. Những năm trước đây, ngành Dệt - May Việt Nam đã từng thực hiện một số bước "đồng hoá" công nghệ nhập thành công. Đó là việc ngành tự chế tạo được phần lớn phụ tùng cho máy dệt 1511M của Trung Quốc và máy dệt Sakamoto của Nhật. Một số nhà máy đã cải tiến máy dệt 1511M thành máy dệt go đội (không có xà thượng); cải tiến tay đóng mở máy dệt thành hệ thống điều khiển bằng bảng nút bấm, cải tiến bộ lăng trụ máy dệt khăn mặt, cải tiến máy dệt khổ hẹp thành máy dệt khổ rộng. Ngành cũng đã tự chế tạo được một số máy ở một số công đoạn: máy xe sợi len, máy sản xuất dây go, máy sản xuất khổ dệt, máy hồ mắc, máy dệt kiểu 1511M, máy dệt kiểu Sakamoto, máy dệt to, máy dệt khăn mặt, máy kiểm vải, máy tẩy nhuộm BC-3, máy dập nút đồng, máy hồ cổ áo, máy xé khổ, máy cắt vòng,... Tuy nhiên, lượng máy này không nhiều (chỉ chiếm khoảng 2,4%), lại mới chỉ chế tạo theo loại hình đơn chiếc. Các máy móc dù là nhập về hay tự chế tạo đều phải mang tính ứng dụng cao. Nó tạo ra những sản phẩm không chỉ để xuất khẩu mà còn phải đáp ứng được thị trường trong nước. Coi trọng phần mềm trong phát triển công nghệ. Tăng cường phần thông tin sẽ cho phép hiểu thấu đáo thiết bị và giúp con người sử dụng nó một cách có hiệu quả. Có làm chủ được kỹ thuật mới, sử dụng một cách thành thạo thì từ đó mới nảy ra các sáng chế, cải tiến được. Bởi vậy khi tiếp nhận máy móc cần phải tiếp nhận cả kiến thức và kinh nghiệm của bên giao. Tất nhiên khi tiếp nhận máy móc, thiết bị ta biết cách vận hành và bảo trì chúng theo đúng quy trình. Nhưng như thế vẫn chưa đủ, việc chuyển giao công nghệ mới chỉ là chuyển giao năng lực vận hành và bảo dưỡng các hệ thống sản xuất chứ chưa thể có năng lực thiết lập hoặc mở rộng hệ thống sản xuất, chưa thể phát triển các mặt hàng và quy trình sản xuất. Việc tiếp nhận công nghệ đầy đủ nhiều khi rất tốn kém nếu mua trực tiếp từ bên giao ngoài hợp đồng mua thiết bị. Ngành có thể thực hiện nhiều cách khác - 80 - rẻ hơn như mua tư liệu về tự nghiên cứu, thuê chuyên gia đào tạo cán bộ, công nhân về các lĩnh vực cần thiết, về phần tổ chức quản lý có thể đi tham quan khảo sát nước ngoài. Việc tiếp nhận công nghệ có thể thực hiện dưới nhiều hình thức như mua, nhận viện trợ, nhận công nghệ cùng nguyên liệu làm gia công sản phẩm cho các công ty nước ngoài, chuyển giao bằng hình thức liên doanh... Trong nước cũng cần thực hiện chuyển giao công nghệ với mọi thành phần kinh tế. Điều đó có nghĩa là những thiết bị công nghệ được thay thế ở khu vực doanh nghiệp Nhà nước nên chuyển giao lại cho các cơ sở sản xuất ngoài quốc doanh, đặc biệt là các cơ sở sản xuất tư nhân. Với tính năng động vốn có, các doanh nghiệp tư nhân thường thành công trong việc cải tiến các thiết bị cũ và đưa vào hoạt động sản xuất một cách hiệu quả. Ngoài ra còn một số giải pháp khác đối với việc đầu tư phát triển công nghệ.  Tăng cường các viện nghiên cứu.  Tập trung vốn nghiên cứu ứng dụng và phát triển các công nghệ đã được chuyển giao.  Tổ chức hệ thống thông tin kinh tế - khoa học công nghệ ngành Dệt - May.  Xây dựng kho thông tin khoa học công nghệ ngành Dệt - May.  Tăng cường các trường đào tạo  Củng cố đầu tư trang thiết bị cho các nhà máy cơ khí trong ngành.  Hình thành thị trường công nghệ dệt may và có các chính sách khuyên khích phát triển thị trường công nghệ Dệt - May. 5. Giải pháp đào tạo phát triển nguồn nhân lực. a) Đào tạo mới nguồn nhân lực cho ngành Dệt và ngành May. Đến năm 2010, số công nhân kỹ thuật cần bổ sung là gần 500.000 người, tổng số lao động của toàn ngành khoảng 1 triệu người. Số kỹ sư công nghệ cần tăng thêm gần 6 nghìn người, theo đó mỗi năm phải đào tạo được khoảng 500 kỹ - 81 - sư và cao đẳng công nghệ. Số cán bộ trên đại học cần được đào tạo đồng bộ cho các ngành nghề sợi dệt, xử lý hoàn tất, may. Các giải pháp cụ thể bao gồm: Ngành dệt may và nhà nước tập trung nguồn lực để xây dựng cơ sở ghien cứu và cơ sở đào tạo đủ vưngx mạnh về cán bộ và cơ sở vật hcất để thực hiện nhiệm vụ chiến lược của ngành và các thành phần kinh tế dệt may về nhu cầu lực lượng khoa học công nghệ. Cơ sở đào tạo Đại học Dệt-May phấn đấu vươn lên hoàn thành các đề tài các cấp do Nhà nước giao, hợp tác và liên kết với các công ty xí nghiệp để giải quyết những vấn đề thực tiễn sản xuất đặt ra cho các nhà khoa học, công nghệ. Đồng thời nhà nước, ngành cũng giao nhiệm vụ nghiên cứu khoa học dệt may cho các cơ sở đào tạo đại học, cao đẳng dệt may và khẳng định vị trí, vai trò của các cơ sở này trong hệ thống nghiên cứu khoa học công nghệ của Nhà nước. Các cơ sở nghiên cứu chuyên ngành dệt may được Nhà nước, ngành giao nhiệm vụ đào tạo, bôi dưỡng đội ngũ cán bộ khoa học công nghệ cho ngành và nhiẹm vụ này cần được khẳng định trong một cơ sở nghiên cứu dệt may có vị trí và tầm cỡ quốc gia. Hiện tại, cơ sở nghiên cứu dệt may và cơ sở đào tạo dệt may lớn nhất của Nhà nước là Viện nghiên cứu kinh tế- kỹ thuật dệt- may của Tổng công ty Dệt May Việt Nam và Bộ môn Công nghệ Dệt-May thuộc trường Đại học Bách khoa Hà nội cần được nâng cấp thì mới đủ sức đảm đương nhiệm vụ chiến lược đào tạo cán bộ khoa học công nghệ trong giai đoạn sắp đến. Chỉ có sự hợp tác, liên kết của các cơ sở đào tạo và cơ sở nghiên cứu, đồng thời phối hợp với các cơ sở sản xuất thì nhiệm vụ nêu trên mới thực hiện tốt được. Sự hợp tác hữu hiệu của cơ sở đào tạo và cơ sở nghiên cứu chỉ thực sự đem lại hiệu quả cao khi có quy chế hoạt động, chế độ, chính sách đối với cán bộ khoa học công nghệ thật thông thoáng để sự hoà nhập mang tính tất yếu khách quan và sự gắn bó thật hữu cơ. Giải pháp về mở rộng các loại hình đào tạo. Nguôn nhân lực khoa học công nghệ Dệt – May được cung cấp chủ yếu bằng nguồn đào tạo trong nước, tại các cơ sở đào tạo, nghiên cứu, với các hệ tập trung, hệ tại chức, hệ cao đẳng. - 82 - Hệ tập trung tại trường (5 năm). Tuyển chọn học sinh từ kỳ thi quốc gia hàng năm nhằm đào tạo những kỹ sư có trình độ khoa học cơ bản, cơ sở vững vàng, trình độ chuyên môn về lý luận và thực hành giỏi, có tiềm năng tự đào tạo và bồi dưỡng để trở thành lực lượng cán bộ khoa học công nghệ nòng cốt của ngành. Hệ tại chức (5,5 năm). Tuyển chọn học viên từ cán bộ kỹ thuật trung học, công nhân, viên chức đã tốt nghiệp phổ thông trung học và đã kinh qua thực tế sản xuất để đào tạo thành những kỹ sư, cán bộ kỹ thuật giỏi thực hành, có năng lực quản lý sản xuất tốt, có trình độ khoa học nhất định. Hệ cao đẳng (3 năm). Tuyển chọn học sinh đã tốt nghiệp phổ thông trung học qua kỳ thi quốc gia vào các trường đại học, cao đẳng để đào tạo thành những kỹ thuật viên có trình độ cao (kỹ thuật viên cao cấp). Ba hệ đào tạo này cung cấp nhân lực khoa học công nghệ cho ngành Dệt – May theo tỷ lệ phù hợp với cơ chế và hệ thống quản lý sản xuất của ngành, đồng thời cũng căn cứ vào đặc thù sản xuất của những chuyên ngành Dệt hoặc May. Bên cạnh việc đào tạo chính quy, cần thiết phải mở các loại hình đào tạo, bồi dưỡng khác nhằm có đủ số lượng cán bộ khoa học công nghệ. Giải pháp về thu hút nguồn tuyển sinh.  Nhu cầu nguồn lực khoa học công nghệ dành cho ngành dệt may trong những năm tới là rất lớn, nhưng sự thu hút học sinh vào học ngành này ở các trường đại học, cao đẳng là không ổn định, số lượng ít, có năm không tuyển đủ học sinh.  Để khắc phục tình trạng này cần có giải pháp tích cực và mạnh mẽ:  Viện, trường có biện pháp tuyên truyền ngành nghề một cách hấp dẫn, giới thiệu bằng nhiều hình thức sinh động để học sinh hiểu rõ ngành nghề hơn như áp phích, băng hình, tham quan cơ sở nghiên cứu, đào tạo, sản xuất, nói chuyện có minh hoạ bằng phim ảnh.  Đặt điểm chuẩn tuyển chọn phù hợp cho một số ngành xã hội rất cần nhưng ít học sinh đăng ký thi.  Có chính sách ưu tiên đối với con em trong ngành có nguyện vọng học ngành dệt may hoặc một số ngành mới sẽ mở. - 83 -  Cấp học bổng cao hơn mức chế độ của Nhà nước cho toàn thể học sinh thi đỗ vào ngành dệt may. Khai thác nguồn tài chính từ Tổng công ty Dệt – May và các cơ sở sản xuất kinh doanh trong nước, nước ngoài.  Có biện pháp hấp dẫn trong toàn khoá đào tạo như tranh thủ sự giúp đỡ của các công ty nước ngoài, cấp học bổng suất sắc ở mức độ cao, cho chuyển tiếp đi học nước ngoài, giảng dạy một số môn chuyên ngành trong khoá học bằng tiếng nước ngoài có sự giúp đỡ của các tổ chức nước ngoài.  Hợp tác quốc tế trong đào tạo, nghiên cứu bằng cách trao đổi giảng viên, cán bộ nghiên cứu, trao đổi sinh viên, hợp tác đào tạo sinh viên năm cuối. b) Đầu tư nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ, công nhân viên hiện có của ngành. Đội ngũ cán bộ đương chức cần phải được bồi dưỡng và nâng cao trình độ thường xuyên , cập nhật những kiến thức và thông tin mới nhất của ngành dệt may trong nước và trên thế giới. Khoa học công nghệ dệt may trên thế giới và trong khu vực không ngừng đổi mới và phát triển cả về nguyên liệu, thiết bị, công nghệ, có định hướng rõ rệt về cơ khí hoá, điện tử và tin học hoá, tự động hoá rất cao. Vì vậy loại hình đào tạo thường xuyên cần được thực hiện trong theo một kế hoach, chương trình, nội dung và quy mô thích hợp. Việc bổ túc theo chuyên đề nhằm bồi dưỡng cán bộ đương chức về những kỹ thuật, công nghệ cần thiết cho công tác hiện tại hoặc để giải quyết theo yêu cầu của cơ sở một vấn đề chuyên môn cần tháo gỡ. Một bộ phận cán bộ đang công tác tại các xí nghiệp, công ty dệt may có nhu cầu được hiểu biết về công nghệ dệt may để phục vụ cho công tác hiện tại có liên quan đến những kiến thức dệt may. Hình thức tốt nhất là những cán bộ này được theo học những lớp ngắn hạn về chuyên môn dệt may bao gồm những kiến thức cơ bản của chuyên ngành nguyên liệu – sợi, dệt vải – dệt kim, xử lý hoàn tất, công nghệ may, thời trang, kinh tế dệt may… Để cân đối và điều hoà cán bộ khoa học công nghệ trong nội bộ ngành dệt may hoặc bổ sung kịp thời cán bộ từ ngoài về ngành làm việc, những kỹ sư đã có bằng đại học kỹ thuật khác được đào tạo thêm bằng thứ hai về dệt may. - 84 - Ngành Dệt - May nên hình thành một đơn vị chung (có thể là học viện) mà ở đó thực hiện hai chức năng đào tạo và nghiên cứu. Đội ngũ cán bộ khoa học có trình độ trên đại học của Ngành hiện nay quá ít và thiếu hụt nghiêm trọng. Trong một thập kỷ trở lại đây, việc cử cán bộ ra nước ngoài đào tạo trên đạihọc đã giảm sút nhiều. Việc đào tạo trên đại học trong nước mới bắt đầu, số lượng đào tạo được rất ít. Hiên nay, số TS ngành Dệt - May của cả nước mới có 30 người đang làm việc, một số đã về hưu. Với số ít cán bộ có trình độ trên đại học như vậy, lại phân tán, một số ít chuẩn bị về hưu thì sự hẫng hụt càng nghiêm trọng. Vì vậy, tập trung nguồn lực về con người, về cơ sở vật chất, về tài chính, về tổ chức quản lý lúc này là rất cần thiết. Việc tập hợp nguồn lực đào tạo và nghiên cứu vào chung một tổ chức có ý nghĩa quan trọng: - Tăng sức mạnh về cán bộ có trình độ đại học và trên đại học, tăng cường cơ sỏ vật chất về thiết bị nghiên cứu cũng như thiết bị thử nghiệm. - Tập trung một đầu mối đủ mạnh để hợp tác quốc tế, quan hệ quốc tế với khu vực và thế giới. - Để đủ sức tiếp nhận công nghệ mới và chuyển giao công nghệ. - Chuẩn bị điều kiện để tiếp cận công nghệ cao trong chế tạo vật liệu dệt kỹ thuật, ứng dụng và triển khai có hiệu quả các vật liệu mới vào sản xuất và các ngành kinh tế quốc dân khác. - Có nhiều thuận lợi để gắn liền đào tạo với nghiên cứu và đưa nghiên cứu vào trong đào tạo, cán bộ khoa học vừa làm công việc đào tạo vừa tham gia nghiên cứu. - Nguồn lực được sử dụng tập trung và có hiệu quả hơn, tận dụng và phát huy được nguồn lực từ nhiều phía. - Có điều kiện mở rộng liên kết, đào tạo - nghiên cứu - sản xuất kinh doanh nhằm bồi dưỡng, nâng cao trình độ thực tiễn cho cán bộ khoa học và tăng nguồn lực nội sinh để tái đầu tư cho đào tạo, nghiên cứu và cải thiện điều kiện sống và làm việc cho cán bộ khoa học. - Mở rộng các ngành nghề đào tạo và nghiên cứu, mở rộng các hoạt động bằng việc thành lập các trung tâm ứng dụng, tư vấn và chuyển giao công nghệ. - 85 - Các loại hình đào tạo trên sẽ góp phần tạo nguồn lực kỹ thuật cho ngành cả trước mắt và lâu dài. Nếu được tổ chức thực hiện tốt sẽ xây dựng được một đội ngũ cán bộ khoa học công nghệ đủ mạnh, đồng bộ cho cả khu vực đào tạo, nghiên cứu, sản xuất – kinh doanh, dịch vụ, thương mại. 6. Một số giải pháp khác. a) Giải pháp đầu tư cho hoạt động marketing. Các doanh nghiệp cần sớm đào tạo, xây dựng đội ngũ bán hàng và tiếp thị có kỹ năng cao, kết hợp với việc thiết lập kênh phân phối rộng khắp trên thị trường nội địa. Đối với các thị trường xuất khẩu tiềm năng, nếu như từng doanh nghiệp chưa có khả năng làm được thì 5 - 7 doanh nghiệp nên phối hợp với nhau mở văn phòng đại diện thương mại thường trực. Trong khi đa phần các doanh nghiệp Trung Quốc có thể tiếp nhận các đơn hàng ngay khi đạt điểm hoà vốn thì các doanh nghiệp Việt Nam lại đưa chỉ tiêu lợi nhuận lên hàng đầu. Vì vậy, trong khi các nhà máy Trung Quốc thường sẵn sàng chấp nhận đơn hàng tại điểm hoà vốn hay lỗ ít để thu hút khách hàng và sẽ tăng lên sau một vài đơn hàng mà khách thoả mãn hoặc bằng tiết kiệm chi phí và nâng cao hiệu suất lao động thì các nhà máy ở Việt Nam thường không muốn làm theo cách này mà muốn nhìn thấy chỉ tiêu lợi nhuận ngay. Mỗi doanh nghiệp xác định chiến lược thị trường với sản phẩm mũi nhọn và thị phần cụ thể để từ đó tập trung mọi nguồn lực hướng về thị trường mục tiêu. Tập trung các biện pháp nhằm hạ giá thành sản phẩm. Đầu tư đổi mới thiết bị, đầu tư công tác quản lý phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế ISO 9000, ISO 14000 và SA 8000. Đầu tư mạnh vào công tác sáng tác mẫu mốt, thiết kế sản phẩm, xây dựng uy tín nhãn mác và thương hiệu cho doanh nghiệp. Tổ chức công tác tiếp thị mạnh mẽ, chiếm lĩnh thị trường nội địa và chủ động thâm nhập thị trường nước ngoài. Đẩy mạnh các hoạt động hợp tác, liên doanh, liên kết với các đối tác nước ngoài và Việt kiều có tiềm lực và kinh nghiệm, liên kết sử dụng nhãn mác đã có uy tín trên thị trường. Hợp tác và phân công hoá trong đầu tư sản xuất, hạn chế tình trạng trùng lắp, dư thừa, cạnh tranh nội bộ không cần thiết. b) Giải pháp đầu tư cho việc giải quyết môi trường. - 86 - Trước khi nhập thiết bị công nghệ về cần phải xem xét kỹ những ảnh hưởng của chúng có thể xảy ra đối với môi trường xung quanh. Các doanh nghiệp nên đầu tư công nghệ sạch, định mức sử dụng nguyên liệu thấp, hạn chế tối đa những chất thải ra môi trường. Cần nhanh chóng xây dựng các dự án xử lý ô nhiễm môi trường mà trọng tâm là xử lý nước thải vì lượng nước bẩn thải ra hiện nay của hầu hết các doanh nghiệp đều vượt xa định mức cho phép. Nhà nước cấp kinh phí cho các đề tài, dự án nghiên cứu sản xuất các chất, máy móc phục vụ cho việc bảo vệ môi trường. Xác lập kế hoạch phòng chống ô nhiễm môi trường. Các doanh nghiệp căn cứ vào phạm vi chức năng, nhiệm vụ của mình tổ chức đánh giá tác động môi trường, nghiên cứu hiện trạng môi trường và xác định kế hoạch phòng chống suy thoái môi trường, ô nhiễm môi trường. Kế hoạch phòng chống ô nhiễm môi trường có thể chia theo nhiều giai đoạn cho phù hợp với tình hình thực tế và khả năng nguồn vốn hiện có của bản thân doanh nghiệp. Đối với các doanh nghiệp Dệt - May mới thành lập bắt buộc phải có chương trình xử lý môi trường theo tiêu chuẩn Việt Nam. Các doanh nghiệp Dệt - May cũ phải có biện pháp quản lý công nghệ, đầu tư cho sản xuất kinh doanh và thực hiện các kế hoạch, dự án bảo vệ môi trường. Trường hợp quá khả năng khắc phục xử lý môi trường doanh nghiệp cần báo cáo kịp thời với các cơ quan quản lý Ngành và cơ quan quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường. Nhà nước cần có chính sách khuyến khích và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Dệt - May áp dụng công nghệ tiên tiến, công nghệ sạch, tận dụng chất thải, tiết kiệm nguyên vật liệu và năng lượng. Chính phủ quy định danh mục tiêu chuẩn môi trường cụ thể phù hợp cho từng giai đoạn phát triển công nghiệp đất nước. Nhà nước tại điều kiện cho ngành Dệt - May mở rộng quan hệ hợp tác trong lĩnh vực bảo vệ môi trường với các nước trên thế giới, các tổ chức và cá nhân nước ngoài. Nhà nước tạo điều kiện đầu tư các phòng thí nghiệm, kể cả phòng thí nghiệm chuẩn về môi trường cho ngành Dệt - May. Khuyến khích các mô hình xử lý ô nhiễm môi trường quy mô vừa và nhỏ tiến tới tự sản xuất thiết bị kỹ thuật và xây dựng công nghệ nội sinh để xử lý nước thải ngành dệt. - 87 -

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLuận văn- Định hướng chiến lược đầu tư phát triển ngành Dệt May Việt Nam đến năm 2010.pdf
Luận văn liên quan