Ngày nay Đình làng Dương Nỗ là một di tích tiêu biểu trong hệ thống di tích lưu niệm thời niên thiếu của Bác Hồ tại Thừa Thiên Huế. Đặc biệt mang dấu ấn khá sâu đậm trong thời gian hai năm Bác Hồ theo cha và anh về sinh sống, học tập tại làng Dương Nỗ (1898 -1900).
Bác đến sống tại nơi đây hai lần, lần thứ nhất từ năm 1895 - 1901, và lần thứ hai từ năm 1906 - 1909, cả hai giai đoạn là gần 10 năm. Lúc ấy, Bác vẫn còn là một cậu học sinh nhà Nho nghèo yêu nước, với cái tên quen thuộc - Nguyễn Sinh Cung. Không ai ngờ rằng, cậu học trò nghèo nhưng thông minh, sáng dạ, mang trong mình một lòng yêu nước nồng nàn, lại trở thành một con người vĩ đại, một nhà cách mạng, một nhà văn hóa lớn.
17 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3752 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Luận văn Đình làng Dương Nỗ- Thừa Thiên Huế, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận văn
ĐÌNH LÀNG DƯƠNG NỖ- THỪA THIÊN HUẾMỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
Lí do chọn đề tài
Thừa Thiên Huế nằm ở dải đất hẹp của miền Trung Việt Nam và là trung tâm quan trọng về nhiều mặt của miền Trung như văn hoá, chính trị, kinh tế, giáo dục, y tế, du lịch, khoa học kỹ thuật, đào tạo… Thành phố có 2 di sản văn hoá thế giới, có dòng sông Hương chảy qua tạo ra sự hấp dẫn mạnh mẽ về quang cảnh thiên nhiên. Suốt mấy thế kỷ, bao nhiêu tinh hoa của cả nước được chắt lọc hội tụ về đây hun đúc cho một nền văn hóa đậm đà bản sắc để hoàn chỉnh cho một bức cảnh thiên nhiên tuyệt vời sẵn bày sông núi hữu tình thơ mộng. Bởi vậy, nói đến Huế, người ta nghĩ ngay đến những thành quách, cung điện vàng son, những đền đài miếu vũ lộng lẫy, những lăng tẩm uy nghiêm, những danh lam cổ tự trầm tư u tịch, những thắng tích thiên nhiên thợ trời khéo tạc…tất cả đã trở thành biểu tượng của Huế.
Đất Huế thần kinh đã nuôi nấng biết bao nhân tài quốc gia với trường Nữ sinh Đồng Khánh, trường Quốc Học…với nhiều cái tên đã lầm nên dấu ấn trong lịch sử Việt Nam như Nguyễn Đình Chiểu, Ngô Đình Diệm, Trần Phú, Hà Huy Tập, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp…và tiêu biểu trên hết là vị lãnh tụ kính mến của dân tộc Việt Nam- Chủ Tịch Hồ Chí Minh.
Lúc sinh thời Bác Hồ đã đi và sống ở rất nhiều nơi như: Bình Thuận, Hà Nội, Long Châu, Nghệ An, thành phố Hồ Chí Minh... nhưng có lẽ, Huế là nơi “giữ chân” thời niên thiếu của Bác lâu nhất. Vào Huế sống, học tập Người đã ghi dấu biết bao kỉ niệm tại đây: trường Quốc Học, ngôi nhà tại 112 Mai Thúc Loan, làng Dương Nỗ…từng con đường, lớp học, ngôi nhà vẫn còn hình bóng Người.
Gắn bó với tuổi thơ và sự học hành của Người không thể bỏ qua làng Dương Nỗ- nơi đã hình thành và là gốc rễ của một tâm hồn, một nhân cách, một tư tưởng Hồ Chí Minh, có cả cố đô Huế với thời niên thiếu và tuổi thanh niên của Người. Huế cùng với tình thương và nỗi gian truân của gia đình, với tình nghĩa đồng bào, bà con, lối xóm, với những tác động ngược chiều khác nhau của xã hội và nhà trường đối với một con người mà ngay từ nhỏ đã bộc lộ như một năng lực thiên bẩm, đã góp phần tích cực vào sự nghiệp của một anh hùng dân tộc - một danh nhân văn hoá - Hồ Chí Minh
Và tôi quyết định chọn : “Đình làng Dương Nỗ” làm đề tài nghiên cứu của mình với hi vọng tìm hiểu thêm về một địa danh mang tính lịch sử sâu sắc mà vẫn chưa được quan tâm đúng mức.
Vì thời gian và kiến thức còn hạn chế nên đề tài chưa được hoàn chỉnh, kính mong nhân được sự góp ý của quý thầy cô.
Mục đích chọn đề tài
Tìm hiểu về những địa danh lịch sử văn hóa để hiểu thêm về lịch sử văn hóa Việt Nam đặc biệt ở đây là địa danh lịch sử văn hóa gắn với cuộc đời và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh tại đất Huế.
Đối tượng nghiên cứu
Lịch sử vùng đất Thừa Thiên Huế nói chung và đình làng Dương Nỗ nói riêng.
Phương pháp nghiên cứu
Dựa vào phương pháp lí luận thong qua việc tìm hiểu thông tin tư liệu trên internet, sách báo, tạp chí…
Dựa trên phương pháp thực tiễn thông qua việc tìm hiểu thông tin thực tế tại làng Dương Nỗ. Từ đó rút ra những nhận định chung về địa danh làng cổ Dương Nỗ.
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I. SƠ LƯỢC VỀ LỊCH SỬ TỈNH THỪA THIÊN HUẾ
Nằm giữa miền Trung Việt Nam, với tọa độ 16° đến 16,45° độ vĩ Bắc, 107,03° đến 108,08° kinh đông, Thừa Thiên Huế có diện tích 5.009,2 km2, Bắc giáp tỉnh Quảng Trị, Nam giáp thành phố Ðà Nẵng, Ðông giáp biển Ðông, Tây có dải Trường Sơn hùng vĩ và giáp nước bạn Lào. Biên giới Việt Lào đoạn đi qua tỉnh Thừa Thiên Huế dài khỏang 88 km. Bờ biển có chiều dài 128 km với Cảng Thuận An và Cảng nước sâu Chân Mây. Trên dải đất nhỏ hẹp này, địa hình tự nhiên được cấu tạo hết sức đa dạng, gồm núi cao, rừng sâu, vùng gò đồi trung du, vùng đồng bằng, vùng đầm phá nước lợ, vùng duyên hải ven biển...Khí hậu thuộc khu vực nhiệt đới gió mùa, mang tính chuyển tiếp từ á xích đạo đến nội chí tuyến gió mùa, không có mùa đông và mùa khô rõ rệt. Hàng năm có những tháng liên tục chịu gió đông bắc, bão biển từng cơn và mưa rét kéo dài. Thừa Thiên Huế hiện có 8 huyện và thành phố Huế, cố đô của Việt Nam, đô thị lọai 2, một trung tâm văn hóa, giáo dục, y tế và du lịch quan trọng của cả nước.
Trong quá trình phát triển của dân tộc Việt Nam, đất nước Việt Nam, Thừa Thiên Huế, Thuận Hóa - Phú Xuân - Huế là vùng đất có lịch sử lâu đời. Những phát hiện khảo cổ học gần đây cho thấy rõ dấu vết của người xưa trên mãnh đất này. Những di vật như rìu đá, đồ gốm được tìm thấy ở Phụ Ổ, Bàu Ðưng ( Hương Chữ, Hương Trà) cho phép khẳng định đây là các di tích có niên đại cách đây trên dưới 4.000 năm. Những chiếc rìu đá được phát hiện trên nhiều địa bàn khác nhau, đặc biệt tại các xã Hồng Bắc, Hồng Vân, Hồng Hạ, Hồng Thủy, Bắc Sơn (A Lưới); Phong Thu (Phong Ðiền) đã chứng minh sự có mặt của con người ở vùng đất này trên dưới 5.000 năm. Di tích khảo cổ quan trọng gắn liền với nền văn hóa Sa Huỳnh được tìm thấy lần đầu tiên tại TT Huế năm 1987 là di tích Cồn Ràng ( La Chữ, Hương Chữ, Hương Trà) nói lên rằng chủ nhân của nền văn hóa này đã đạt đến trình độ cao trong đời sống vật chất lẫn tinh thần cách đây trên dưới 2.500 năm. Dấu ấn này còn được tìm thấy ở Cửa Thiềng năm 1988 (Phú Ốc, Tứ Hạ, Hương Trà). Cùng với văn hóa Sa Hùynh, Thừa Thiên Huế còn sự hiện diện của văn hóa Ðông Sơn. Năm 1994, trống đồng lọai 1 đã được phát hiện ở Phong Mỹ, Phong Ðiền. Ðây là một trong những di vật độc đáo của nền văn hóa Việt cổ.
Các cứ liệu xưa cho biết, từ xa xưa Thừa Thiên Huế từng là địa bàn giao tiếp của những cộng đồng cư dân mang nhiều sắc thái văn hóa khác nhau, cùng cư trú và cùng phát triển.. Trong thời kỳ phát triển của nhà nước Văn Lang - Âu Lạc, tương truyền Thừa Thiên Huế vốn là một vùng đất của bộ Việt Thường. Ðầu thời kỳ Bắc thuộc, lại thuộc về Tượng Quận. Năm 116 trước Công nguyên, quận Nhật Nam ra đời thay thế cho Tượng Quận. Sau đó trong suốt thời gian dài gần 12 thế kỷ, vùng đất này là địa đầu phía Bắc của Vương quốc Champa độc lập. Sau chiến thắng Bạch Ðằng lịch sử của Ngô Quyền (năm 938); Ðại Việt trở thành quốc gia độc lập và qua nhiều thế kỷ phát triển, biên giới Ðại Việt đã mở rộng dần về phía Nam. Năm 1306, công chúa Huyền Trân em gái vua Trần Anh Tông, " nước non ngàn dặm ra đi" làm dâu vương quốc Champa; Vua Chế Mân dâng tiếp hai châu Ô, Rí ( Lý) để làm sính lễ. Năm sau, vua Trần đổi hai châu này thành châu Thuận, châu Hóa và đặt chức quan cai trị. Thừa Thiên Huế trở thành địa bàn giao thoa giữa hai nền văn hóa lớn của phương Ðông với nền văn hóa của các cư dân bản địa.
Với lời sấm truyền " Hoành sơn nhất đái, vạn đại dung thân" (một dải Hoành sơn, có thể yên thân muôn đời); năm 1558, Nguyễn Hoàng xin vào trấn giữ xứ Thuận Hoá mở đầu cho cơ nghiệp của các chúa Nguyễn. Sự nghiệp mở mang của 9 đời chúa Nguyễn ở Ðàng Trong đã gắn liền với quá trình phát triển của vùng đất Thuận Hoá - Phú Xuân. Hơn ba thế kỷ từ khi trở về với Ðại Việt, Thuận Hóa là vùng đất của trận mạc, ít có thời gian hòa bình nên chưa có điều kiện hình thành được những trung tâm sinh hoạt sầm uất theo kiểu đô thị. Sự ra đời của thành Hóa Châu (khoảng cuối TK XV, đầu TK XVI) có lẽ chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn với tư cách là một tòa thành phòng thủ chứ chưa phải là nơi sinh hoạt đô thị của xứ Thuận Hóa thời ấy. Mãi cho đến năm 1636 chúa Nguyễn Phúc Lan dời phủ đến Kim Long là bước khởi đầu cho quá trình đô thị hóa trong lịch sử hình thành và phát triển của Thành phố Huế sau này. Hơn nửa thế kỷ sau, năm 1687 chúa Nguyễn Phúc Thái lại dời phủ chính đến làng Thụy Lôi, đổi là Phú Xuân, ở vị trí Tây Nam trong kinh thành Huế hiện nay, tiếp tục xây dựng và phát triển Phú Xuân thành một trung tâm đô thị phát đạt của xứ Ðàng Trong. Chỉ trừ một thời gian ngắn (1712 - 1738) phủ chúa dời ra Bác Vọng, song khi Võ Vương lên ngôi lại cho dời phủ chính vào Phú Xuân nhưng dựng ở "bên tả phủ cũ", tức góc Ðông Nam Kinh thành Huế hiện nay. Sự nguy nga bề thế của Ðô thành Phú Xuân dưới thời Nguyễn Phúc Khoát đã được Lê Quý Ðôn mô tả trong Phủ biên tạp lục năm 1776 và trong Ðại Nam Nhất Thống Chí, với tư cách là một đô thị phát triển thịnh vượng trải dài hai bờ châu thổ Sông Hương, từ Kim Long - Dương Xuân đến Bao Vinh - Thanh Hà. Phú Xuân là thủ phủ của xứ Ðàng Trong ( 1687-1774); rồi trở thành Kinh đô của nước Ðại Việt thống nhất dưới triều đại Quang Trung (1788 - 1801) và cuối cùng là Kinh đô của nước Việt Nam gần 1,5 thế kỷ dưới triều đại nhà Nguyễn (1802 - 1945). Phú Xuân-Huế, Thừa Thiên Huế đã trở thành trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa nghệ thuật quan trọng của đất nước từ những thời kỳ lịch sử ấy.
Năm 1858, liên quân Pháp-Tây Ban Nha nổ súng tấn công Ðà Nẵng, mở đầu cho quá trình xâm lược của tư bản phương Tây vào Việt Nam.Từ những năm thuộc Pháp cho đến 1975, Thừa Thiên Huế liên tục diễn ra những cuộc đấu tranh mạnh mẽ, quyết liệt. Mãnh đất này là nơi tụ hội của các nhà cách mạng trên đường cứu nước. Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh cùng nhiều nhân sĩ yêu nước khác đã từng có mặt.
Năm 1916, Việt Nam Quang Phục Hội tổ chức khởi nghĩa trên qui mô nhiều tỉnh, vua Duy Tân xuất giá tham gia. Ngày 23 tháng 8 năm 1945, nhân dân Thừa thiên Huế vinh dự tự hào, vùng dậy với khí thế " Cách mạng Mùa thu" trực tiếp lật đổ triều đại nhà Nguyễn cuối cùng. Ngày 30 -8-1945, nhân dân Thừa Thiên Huế thay mặt cả nước chứng kiến lễ thoái vị của vua Bảo Ðại, ngôi vua cuối cùng của chế độ phong kiến Việt Nam. Trong kháng chiến chống Pháp, những địa danh Dương Hòa, Hòa Mỹ...vang dội khắp cả nước, từng ghi dấu bao chiến công oanh liệt vì độc lập tư do của Tổ quốc. Vượt qua những khó khăn sau chiến tranh, Thừa Thiên Huế đã không ngừng nỗ lực chuyển mình để bắt kịp nhịp độ phát triển của cả nước. Những bài học thành công và hạn chế đều kết tinh thành nghị lực cho Thừa Thiên Huế đi vào kỷ nguyên đổi mới với tất cả niềm tin tưởng, quyết tâm xây dựng quê hương, xứng đáng với công lao của tiền nhân đã bỏ bao công sức vun đắp nên mảnh đất anh hùng, vùng văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc và một quần thể di tích được công nhận là di sản văn hóa của nhân loại.
CHƯƠNG II. LÀNG DƯƠNG NỖ
Lịch sử làng Dương Nỗ
Dương Nỗ xưa là tổng thuộc huyện Phú Vang gồm 12 xã 6 phường được thành lập thời các chúa Nguyễn. Đây là địa bàn cư dân đông, đất đai rộng về phía Đông kinh thành Phú Xuân. Thời Nguyễn, tổng Dương Nỗ có 12 xã, từ năm Minh Mạng 16 (1835) thuộc huyện Phú Vang. Sau năm 1975, có thời gian làng thuộc địa bàn thành phố Huế. Từ năm 1981 đến nay, làng Dương Nỗ thuộc xã Phú Dương, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên - Huế.
Dương Nỗ là một làng người Việt khai phá xây dựng từ khá sớm. Cách đây vài thế kỷ, Dương Nỗ là làng quê sầm uất, giàu có và là mảnh đất có truyền thống văn võ. Ngôi đình làng được xây cất từ lâu đời. Ðình Dương Nỗ khá nổi tiếng bởi kiến trúc quy mô đẹp và thâm nghiêm. Đây là một di tích tiêu biểu cho mô hình làng cổ Việt Nam.
Làng Dương Nỗ là làng nổi tiếng về khoa bảng, vì thế mà trong lễ hội của Festival Huế 2006, sau khi tổ chức lễ xướng danh tại cửa Ngọ Môn, các tân khoa được vinh quy bái tổ về đình làng Dương Nổ. Đây là sự kiện mà người Dương Nổ lấy làm tự hào bởi truyền thống hiếu học và khoa bảng của mình.
Làng Dương Nổ còn một di tích lịch sử quan trọng, đó là ngôi nhà lưu niệm Bác Hồ. Ngôi nhà 3 gian, 2 chái đơn sơ với chè tàu, hàng cau, hoa đại được giữ lại gần như nguyên vẹn, kể cả những đồ dùng, trang trí trong nhà. Năm 1898, ông Nguyễn Sinh Sắc sau lần thứ hai thi hội không đỗ đã trở về đây ở và mở lớp dạy học. Thời ấy, cụ Sắc sống với hai con trai là Nguyễn Sinh Khiêm và Nguyễn Sinh Cung (tên khai sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh). Cậu bé Nguyễn Sinh Cung lần đầu tiên trong đời được thân phụ dạy chữ Hán ở đây.
Làng Dương Nỗ còn được biết đến nhiều với di tích đình làng. Đình làng Dương Nổ được coi là tiêu biểu về phong cách kiến trúc của đình làng Huế.
Đình làng Dương Nỗ
2.2.1. Vị trí
Dân gian có câu: “cây đa – bến nước – sân đình” đó chính là cội nguồn lịch sử, là truyền thống văn hoá nuôi dưỡng tâm hồn người cao đẹp qua bao thế hệ con người Việt Nam. Làng Dương Nỗ, với ngôi đình bề thế uy nghi được xây dựng từ thời vua Lê Thánh Tôn (1471), tọa lạc bên dòng sông Phổ Lợi đã gắn liền với lịch sử hình thành và phát triển của làng quê qua bao sự thăng trầm và biến đổi.
Các vị thuỷ tổ của làng Dương Nỗ đã chọn vùng đất thoáng đãng ở bờ nam thuộc hạ lưu sông Kim Trà để lập hàng sinh sống, dựng ngôi đình để thờ tự các vị tiền nhân.
2.2.2. Kiến trúc
Lúc đầu đình có cấu trúc đơn giản bằng tranh, tre, nứa, lá. Trãi qua các đời chúa Nguyễn cho đến Tây Sơn, quy mô kiến trúc của đình chỉ gồm một gian hai chái,mãi cho đến năm Gia Long thứ 7 (1808), nhờ sự hỗ trợ đắc lực của Tri tượng chánh chưởng Tượng quân kiêm cai vào vụ giám quân Nguyễn Đức Xuyên (một vị tướng dưới thời Gia Long – quê làng Dương Nỗ) đã giúp cho dân làng xây dựng lai ngôi đình từ tranh, tre thành ngôi đình có quy mô rộng lớn bằng gỗ lim bền vững.
Đình làng Dương Nỗ được xay dựng theo kiến trúc truyền thống gồm 5 gian 2 chái,mái lợp ngói âm dương.Toàn bộ ngôi đình được bố trí bao gồm: Toà đại đình, sân đình, cổng định, hàng trụ biểu và bến đình được liên kết với nhau theo một một trục dọc hướng bắc nam.
Trong khuôn viên của khu vực đình còn có từ đường Thất tộc (nhà thờ 7 họ trong làng). Nhà thuyền hay còn gọi là nhà Đường và các miếu thờ được bao bọc bởi ba mặc tường thành (tả, hữu và mặt trước), mặt sau (hậu đình) xưa có đắp một dải đất cao và trồng tre dày (được gọi là Huyền Vũ ).
Mặt trước của hệ thống bờ thành phía Nam từ tây sang Đông có trổ 4 cổng chính theo thứ tự: Đầu tiên là cổng vào miếu thờ ngài Phi Vận tướng quân (người có công lớn trong cuộc Nam chinh của vua Lê Thánh Tông). Tiếp đến là cổng Đại Đình, cổng Tam quan và miếu thờ cao các đại vương và cuối cùng là cổng vào nhà thờ Khoái Châu quận công Nguyễn Đức Xuyên (người có công tái thiết đình Dương Nỗ).
Toàn bộ ngôi đình được tập trung ngay gian chính diện – nơi bố thờ tự uy nghiêm và được ngăn cách bởi hậu tẩm ngăn kín bằng đố ván. Mặt trước của hậu tẩm là sáu cánh cửa thượng song hạ bản trong một khung đỡ, phía trên là kiểu trang trí “mây trắng” làm viền che cho các ô hộc chạm nỗi hình lưỡng long triều nhật. Hình khối gỗ đai nổi gồ lên trên nền đáy bằng sơn đỏ. Mảng tiếp xuống ở giữa là hình chạm nổi mặt hổ phù sơn son thiếp vàng, Các gian tả hữu và chái đình đều để trống. Khi tế lễ hay hội họp là nơi ngồi của quan viên, bô lão và dân làng.
Hành làng của đình được ốp bằng các phiến đá thanh lớn của bốn cột hiên đúc tròn, mỗi cột đắp nổi hình một con rồng uốn lượn, điểm xuyết bằng hoa văn “long ẩn vân rồng trong mây”, ở ngoại thất, bộ mái đình được chia thành 4 mái; hai mái trước và sau rộng và sâu tạo cảm giác mênh mông, hành tráng…Nóc mái có hình thuyền, giữa là khối lưỡng long triều nhật, toả ra những tia sáng bốc cao dựa trên hình một bức hoành kiểu cuốn như đắp nổi hình tượng ba ông Phước – Lộc – Thọ. Dải nóc thuyền có các ô kiểu chạm lộng khắc hình hoa, xen kẻ trong những ô đắp nổi cảnh vật ngựa sắp qua cầu theo tích xưa. Ô chính giữa là hình kỷ hồi văn đắp sành sứ, trên kỷ là vật dùng thờ như lư hương.
Nổi bật hơn cả là phần nội tẩm có sàn đúc cao hơn sân đình trên đó đó có thiết trí một án thờ lớn ở ngay chính giữa gồm 3 tầng: Tầng 1 đặt hai con hạc gỗ chầu hai bên, giữa là án tam sơn để đặt đèn nước, cau trầu, tầng hai là bát nhang, tầng 3 là hòm đựng sắc phong. Bên cạnh đó còn có hai án phối tự đặt theo hai hướng Đông Tây đối xứng.
2.3. Hiện trạng
Trải qua thời gian và những biến động lịch sử, di tích đình làng Dương Nỗ có phần bị hư hỏng nhưng nhìn chung về mặc tổng thể và các cấu trúc cũng như vật dụng bên trong vẫn giữ nguyên kiểu dáng như lúc Bác Hồ về sống ở làng, mà thường ngày người vẫn đến chơi và viếng cảnh.
KẾT LUẬN
Ngày nay Đình làng Dương Nỗ là một di tích tiêu biểu trong hệ thống di tích lưu niệm thời niên thiếu của Bác Hồ tại Thừa Thiên Huế. Đặc biệt mang dấu ấn khá sâu đậm trong thời gian hai năm Bác Hồ theo cha và anh về sinh sống, học tập tại làng Dương Nỗ (1898 -1900).
Bác đến sống tại nơi đây hai lần, lần thứ nhất từ năm 1895 - 1901, và lần thứ hai từ năm 1906 - 1909, cả hai giai đoạn là gần 10 năm. Lúc ấy, Bác vẫn còn là một cậu học sinh nhà Nho nghèo yêu nước, với cái tên quen thuộc - Nguyễn Sinh Cung. Không ai ngờ rằng, cậu học trò nghèo nhưng thông minh, sáng dạ, mang trong mình một lòng yêu nước nồng nàn, lại trở thành một con người vĩ đại, một nhà cách mạng, một nhà văn hóa lớn...
Ngoài những giá trị khoa học lịch sử, là di tích lưu niệm thời niên thiếu Bác Hồ thì Đình làng Dương Nỗ còn có những giá trị về kiến trúc nghệ thuật văn hoá tiểu biểu của một thiết chế văn hoá làng xã Việt Nam trên đất Huế, với những nét đặc trưng và phong cách độc đáo. Cùng với ngôi nhà lưu niệm Bác Hồ ở Dương Nỗ, Đình làng Dương Nỗ, Bến Đá, Am Bà đã khắc ghi trong trí nhớ của người về kỷ niệm tuổi thơ trong sáng, và nổi nhớ đau đáu về một miền quê xứ Huế, nơi đã tác động không nhỏ đến đời sống tình cảm và nhận thức của người. Vì vậy, di tích Đình làng Dương Nỗ công nhận là di tích văn hoá nghệ thuật cấp Quốc gia vào ngày 26 tháng 3 năm 1990.
Nhân dân làng Dương Nỗ tự hào là nơi đã góp phần nuôi dưỡng tuổi thơ của Bác Hồ, là làng quê văn hiến và cách mạng. Cho nên việc giữ gìn và phát huy nét đẹp trong truyền thống văn hoá đó đã được nhân dân trong làng hết sức chú trọng. Hội đồng Thất tộc và lão làng Dương Nỗ cùng với chính quyền địa phương đã đăng ký xây dựng làng văn hoá, nhằm xứng đáng với một làng quê đã từng ôm ấp quãng đời thơ ấu của Bác Hồ kính yêu.
PHỤ LỤC
Đình làng Dương Nỗ bên dòng sông Phổ Lợi
Đình làng Dương Nỗ từ ngoài nhìn vào
Nhà lưu niệm Bác Hồ tại làng Dương Nỗ
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Thanh Hải, Địa danh làng xã Thừa Thiên Huế từ góc độ ngôn ngữ học, 2006.( Luận văn thạc sĩ ).
2. Nguyễn Hữu Châu Phan, Nghiên cứu Huế, Trung tâm nghiên cứu Huế, 1999- 2008.
3. Trần Thanh Tâm, Huỳnh Đình Kết, Địa danh thành phố Huế, nhà xuất bản Văn Hoá Dân Tộc, 2001.
4.
5.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- mon_dia_danh_5048.doc