Căn cứ những vấn đề trên, việc đổi mới từ khái niệm, tiêu chí xác định hoạt động
công ích (SP, DVCI) đến xác định phương thức quản lý và thực hiện hoạt động công ích
là vấn đề quan trọng, chính yếu của đề tài nhằm đưa ra các giải pháp cơ bản nhằm hoàn
thiện cơ chế, chính sách quản lý đối với hoạt động công ích, nâng cao hiệu quả hoạt động
và cung ứng SP, DVCI và tạo sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế tham gia hoạt
động công ích.
114 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3251 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Doanh nghiệp công ích trên địa bàn Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n nay đối với các doanh nghiệp tham gia cung ứng các SP,
DVCI trên địa bàn nội thành Hà Nội sẽ được chuyển đổi thành Công ty TNHH Nhà nước
1 thành viên. Đã đến lúc các cấp ủy và tổ chức đảng, các cấp chính quyền cần nhanh
chóng vào cuộc để đẩy nhanh quá trình sắp xếp và coi đây là một nhiệm vụ chính trị
trọng tâm, cấp bách nhằm thực hiện đúng yêu cầu của Thủ tướng Chính phủ tại Quyết
định số 94/2005/QĐ-TTg ngày 5 tháng 5 năm 2005 về việc Phê duyệt phương án sắp
xếp, đổi mới công ty nhà nước thuộc UBND Thành phố Hà Nội.
Để các doanh nghiệp tham gia cung ứng các SP, DVCI có thể tăng sức cạnh
tranh và ngăn ngừa nguy cơ"chảy máu chất xám", UBND Thành phố cần phối hợp với
các Sở, ban, ngành mà trực tiếp là Sở GTCC thực hiện nghiêm Luật DNNN, bảo vệ các
quyền tự chủ của họ trong giải quyết các vấn đề về trả lương và các hình thức phân phối
thu nhập phù hợp với khả năng của doanh nghiệp. Nhà nước chỉ quy định mức lương tối
thiểu của người lao động, không hạn chế mức lương tối đa. Về mức lương tối đa và các
loại hình khuyến khích vật chất tại doanh nghiệp tham gia cung ứng các SP, DVCI sẽ do
đại hội công nhân, viên chức của doanh nghiệp quyết định theo nguyên tắc tập trung dân
chủ. Đây là một cơ chế bảo đảm và thúc đẩy doanh nghiệp tham gia cung ứng các SP,
DVCI nâng cao năng suất lao động và nêu gương trước các doanh nghiệp thuộc các thành
phần kinh tế khác về trả công cho người lao động; và xét cho cùng, đây cũng là một trong
những tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
3.2.1.4. Đổi mới cơ chế quản lý, cấp phát tài chính; tổ chức đấu thầu và xã hội
hóa các hoạt động công ích
Về quản lý cấp phát và tổ chức đấu thầu hoạt động công ích.
Hiện nay DNCI có các khoản thu từ các hoạt động công ích theo khung giá, phí
do Nhà nước quy định thường không bù đắp đủ chi phí. Vì vậy các DNCI đang thực hiện
cơ chế Nhà nước cấp bù phần thiếu hụt. Thực hiện cơ chế này không khuyến khích doanh
nghiệp phấn đấu hạ giá thành và hạn chế khả năng chủ động về mặt tài chính của doanh
nghiệp. Để khuyến khích doanh nghiệp phấn đấu hạ giá thành, nâng cao chất lượng SP,
DVCI, tăng quyền chủ động về tài chính cho doanh nghiệp và nâng cao hiệu quả công ích
ngày càng đáp ứng tốt hơn nhu cầu của xã hội, Nhà nước cần tổ chức đấu thầu để lựa
chọn các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau có khả năng thực hiện sản
xuất, cung ứng SP, DVCI với chất lượng tốt và giá thành hạ hoặc mức hỗ trợ thấp nhất.
Đồng thời, Nhà nước phải tổ chức tốt việc đảm bảo tài chính, quyết toán và kiểm tra,
giám sát chất lượng SP, DVCI. Như vậy, Nhà nước vừa đạt hiệu quả kinh tế (giá thành hạ
hoặc mức hỗ trợ thấp) và hiệu quả xã hội (bảo đảm cung ứng SP, DVCI).
Đầu tư vào lĩnh vực hoạt động công ích thường có suất đầu tư rất lớn song thời
gian thu hồi vốn thường chậm và hiệu quả vốn đầu tư không cao, tỷ suất lợi nhuận trên
vốn thấp. Vì vậy, ngoài các hỗ trợ về giá, cấp bù chi phí trong quá trình doanh nghiệp
hoạt động, phải có một số biện pháp ưu đãi và khuyến khích đầu tư như sau: Được hưởng
mức ưu đãi cao trong phạm vi có thể về các loại thuế, tiền thu từ đất, ưu đãi về tín dụng.
Đặc biệt là cần đưa các SP, DVCI vào danh mục ưu đãi đầu tư theo Luật Khuyến khích
đầu tư trong nước. Đối với các doanh nghiệp có đầu tư mở rộng sản xuất cần được hưởng
những ưu đãi đầu tư của phần đầu tư thêm để mở rộng sản xuất theo các quy định về ưu
đãi đầu tư như: miễn, giảm thuế nhập khẩu các thiết bị phục vụ cho công tác vệ sinh môi
trường; chiếu sáng công cộng; bảo đảm giao thông; trang thiết bị vui chơi giải trí trong
nước chưa sản xuất được. Đối với doanh nghiệp có nhu cầu mở rộng sản xuất, đổi mới
trang thiết bị cần được vay vốn ưu đãi với lãi suất áp dụng cho những dự án đầu tư được
khuyến khích đầu tư từ Quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia, Quỹ đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng
của địa phương. Thực tế, hầu hết các lĩnh vực hoạt động công ích đều có nhu cầu vốn đầu
tư rất lớn để xây dựng cơ sở hạ tầng, hoặc đổi mới trang thiết bị, công nghệ trong các lĩnh
vực hoạt động bảo đảm dịch vụ công cộng cho toàn xã hội, tạo điều kiện thuận lợi cho
các doanh nghiệp phát triển. Trong điều kiện hiện nay, hầu hết các doanh nghiệp chưa đủ
khả năng đầu tư hoặc không muốn đầu tư do thu hồi vốn chậm và tỷ suất lợi nhuận thấp.
Vì vậy, Nhà nước phải có trách nhiệm đầu tư tạo lập các tài sản, nhất là hạ tầng cơ sở ban
đầu và giao hoặc đấu thầu quản lý chúng. Cơ chế tài chính cho các DNCI cần được
chuyển sang cơ chế tài chính cho việc thực hiện cung cấp các SP, DVCI. Vì vậy, sẽ thay
đổi cơ bản nội dung của cơ chế tài chính DNCI hiện hành. Một số quy định về quản lý
vốn và tài sản, quản lý doanh thu, chi phí của loại doanh nghiệp này cần được loại bỏ.
Đồng thời cần bổ sung các cơ chế như: cơ chế xác định giá, phí của SP, DVCI làm cơ sở
cho việc xác định giá đặt hàng; cơ chế đấu thầu các SP, DVCI; cơ chế trợ cấp, cấp bù lỗ,
bù giá cho SP, DVCI.
Bổ sung, hoàn thiện một số chính sách đối với doanh nghiệp tham gia cung ứng
các SP, DVCI. Cần sắp xếp các hoạt động công ích và các doanh nghiệp tham gia cung
ứng các SP, DVCI vào danh mục ưu đãi đầu tư. Các hoạt động công ích và doanh nghiệp
tham gia cung ứng các SP, DVCI được hưởng ưu đãi về các loại thuế, tiền thuê đất, tín
dụng đặc biệt là đối với các doanh nghiệp đầu tư mới, đầu tư mở rộng sản xuất, đổi mới
công nghệ. Doanh nghiệp có thể được vay vốn ưu đãi với lãi suất áp dụng cho những dự
án đầu tư được khuyến khích đầu tư từ Quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia, quỹ đầu tư xây dựng
hạ tầng của địa phương khi doanh nghiệp đầu tư mở rộng sản xuất. Đổi mới cơ chế, chính
sách đầu tư tạo lập tài sản và quyền quản lý tài sản phục vụ mục tiêu hoạt động công ích.
Nhà nước có trách nhiệm đầu tư tạo lập các tài sản là hạ tầng, cơ sở ban đầu và giao hoặc
đấu thầu quản lý. Nên phân thành hai loại tài sản: tài sản do nhà nước đầu tư, giao hoặc
đấu thầu quản lý thì các doanh nghiệp được giao hoặc thắng thầu chỉ có quyền quản lý
theo những điều kiện do Nhà nước quy định và hưởng phí quản lý. Tài sản do doanh
nghiệp tự đầu tư thì doanh nghiệp có đầy đủ quyền sở hữu, Nhà nước cần có cơ chế
khuyến khích các doanh nghiệp tự huy động vốn đầu tư loại tài sản này.
Nhà nước đặt hàng các hoạt động công ích, các SP, DVCI chủ yếu thông qua
đấu thầu. Cách làm này sẽ hạn chế bao cấp của Nhà nước, hạn chế độc quyền, tạo ra
sự cạnh tranh để tìm ra ai làm tốt nhất nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Để thu hút các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác tham gia hoạt động
công ích và để nâng cao hiệu quả hoạt động công ích cần áp dụng phổ biến hình thức
đấu thầu để chọn doanh nghiệp thuộc tất cả các thành phần kinh tế mà Nhà nước sẽ
đặt hàng thực hiện hoạt động công ích. Thông qua đấu thầu, Nhà nước sẽ xác định giá
thành SP, DVCI thấp nhất có thể đảm bảo hiệu quả xã hội và hiệu quả sản xuất kinh
doanh. Việc đấu thầu phải bảo đảm giảm chi phí hoạt động, giảm bao cấp của nhà
nước cho hoạt động công ích thông qua việc xây dựng được một trình tự, thủ tục đấu
thầu hoàn hảo; đấu thầu rộng rãi để tránh sự thông đồng giữa các bên tham gia đấu
thầu nhằm ép giá đối với nhà nước; đảm bảo sự kiểm tra, giám sát chất lượng chặt
chẽ; có chế tài nghiêm khắc để hạn chế tham nhũng. Sau đó căn cứ vào giá bán hoặc
phí của SP, DVCI mà Nhà nước quy định để có chính sách hỗ trợ tài chính thích hợp.
Nhà nước chỉ giao kế hoạch, đặt hàng thông qua đấu thầu hoặc đấu thầu hạn chế (chỉ
các DNNN hoặc Công ty TNHH Nhà nước 1 thành viên tham gia đấu thầu) đối với
việc sản xuất, cung ứng những sản phẩm dịch vụ thuộc ngành nghề Nhà nước cấm
kinh doanh như: sản xuất, sửa chữa vũ khí, in tiền, sản xuất chất nổ, chất độc…
Thúc đẩy việc hình thành thị trường SP, DVCI. Qua đó chúng ta mới có điều
kiện thực hiện việc đấu thầu thực hiện việc cung cấp các SP, DVCI trên thị trường.
Về xã hội hóa hoạt động công ích.
Từng bước chuyển từ cơ chế nhà nước là người duy nhất bao tiêu các SP, DVCI
thuộc loại HHCC không thuần túy, hàng hóa khuyến dụng sang cơ chế người trực tiếp
sử dụng, trực tiếp hưởng các dịch vụ, các tiện ích công cộng phải trả phí dịch vụ cho
doanh nghiệp cung cấp. Đó vừa là điều kiện, vừa là những yêu cầu mới đối với các
doanh nghiệp tham gia cung cấp SP, DVCI, buộc họ phải tự hoàn thiện hơn trong việc
cung cấp đủ số lượng, chất lượng tốt và đồng bộ các sản phẩm của mình. Đây là giải
pháp góp phần cùng các cơ chế khác thúc đẩy quá trình thực hiện chủ trương từng bước
xã hội hóa các hoạt động cung cấp SP, DVCI thuộc loại công cộng không thuần túy có
chi phí loại trừ không cao, hàng hóa khuyến dụng. Đây sẽ là bước chuyển đổi quan
trọng, làm thay đổi tư duy của người cung cấp cũng như người hưởng dịch vụ và cũng
là điều kiện quan trọng, không thể thiếu để thu hút các nguồn đầu tư toàn xã hội vào
lĩnh vực này. Mặt khác, việc nhà nước không phải trả các chi phí cho những dịch vụ
này sẽ tăng thêm khả năng cung cấp vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước cho các hoạt
động quan trọng khác. Người mua SP, DVCI phải trả các chi phí cho người cung cấp sẽ
làm thay đổi tư tưởng ỷ lại vào nhà nước, hạn chế tình trạng doanh nghiệp thiếu trách
nhiệm trong việc cung cấp đủ với chất lượng tốt và đồng bộ các sản phẩm, dịch vụ của
mình.
3.2.2. Các giải pháp cụ thể đối với các doanh nghiệp công ích của Thành phố
Hà Nội
3.2.2.1. Sắp xếp, chuyển đổi các doanh nghiệp công ích của Thành phố
Trên cơ sở của Nghị định số 31/NĐ-CP ngày 11 tháng 3 năm 2005 của Chính
phủ, trên địa bàn nội thành Thủ đô Hà Nội các doanh nghiệp cung cấp các SP, DVCI sẽ
chuyển sang loại hình Công ty TNHH nhà nước 1 thành viên và được chia làm hai nhóm
chính:
- Thứ nhất là nhóm doanh nghiệp cung cấp SP, DVCI theo phương thức đặt hàng
bao gồm: Công ty Thoát nước, Công ty Chiếu sáng và Thiết bị đô thị, Công ty Công trình
giao thông 3. Lĩnh vực quản lý đường, biển báo, cọc tiêu, đường chắn, duy tu sửa chữa và
kiểm tra hệ thống đường giao thông đô thị, do đặc điểm của hoạt động này là phải quản
lý và thực hiện việc duy tu sửa chữa và kiểm tra hệ thống đường bộ có giá trị tài sản lớn,
lại chưa vào cấp và trải trên một khu vực rộng, cần phải phối kết hợp với chính quyền địa
phương và phải tích lũy kinh nghiệm để hiểu rõ đặc điểm, mức độ cần duy tu, bảo dưỡng
của từng cung đường, đồng thời mức cấp kinh phí của nhà nước cho công việc này còn
hạn chế. Lĩnh vực làm nhiệm vụ ứng cứu, bảo đảm giao thông khi xảy ra bão lũ làm hỏng
đường: trên thực tế khi có thiên tai xảy ra thì yêu cầu về thời gian ứng cứu kịp thời là rất
quan trọng để giải quyết ách tắc giao thông. Khi đó, sức người, sức của cần phải huy
động rất lớn và cấp bách về tiến độ, không thể tính toán hiệu quả kinh tế. Lĩnh vực duy trì
hệ thống thoát nước và chiếu sáng công cộng cũng tương tự do tính không thể loại trừ
của HHCC.
- Thứ hai là nhóm doanh nghiệp cung cấp SP, DVCI theo phương thức đấu thầu
hoặc đặt hàng bao gồm: Công ty Môi trường đô thị, Công ty Công viên cây xanh, Công
ty Công viên Thống nhất, Vườn Thú, Tổng Công ty Vận tải (xe buýt, bến xe). Đối với
giao thông vận tải công cộng: Nhà nước có thể quy định giá vé, mức hỗ trợ của nhà nước
và các điều kiện khác để các thành phần kinh tế tham gia đấu thầu các tuyến đường nhằm
nâng cao chất lượng dịch vụ và giảm trợ giá của nhà nước.
Tuy nhiên, qua phân tích ở chương 2 và các Biểu thống kê kèm theo, chúng tôi
mạnh dạn đề xuất việc thành lập Tổng công ty Công viên Hà Nội trên cơ sở sáp nhập các
doanh nghiệp duy trì công viên, vườn hoa, cây xanh, giải phân cách, chăm sóc chim thú,
khu vui chơi giải trí trên địa bàn Hà Nội; hoạt động theo mô hình công ty mẹ - công ty
con. Điều đó có một số ưu điểm: giảm nhẹ bộ máy gián tiếp; việc hình thành 1 Tổng công
ty mạnh sẽ góp phần quan trọng trong việc phát triển các DNNN đủ mạnh, kinh doanh đa
ngành đảm bảo cho Tổng công ty đứng vững trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Ngoài việc cung cấp các SP, DVCI trên địa bàn Thủ đô theo quy định, Tổng công ty
Công viên Hà Nội khi thành lập qua thời gian tích tụ vốn sẽ góp phần đẩy nhanh quá
trình phát triển các khu vui chơi giải trí trên địa bàn Thủ đô, điều mà trong suốt những
năm qua chúng ta chưa thực hiện được. Thông qua việc sáp nhập, các khu vui chơi giải
trí trên địa bàn Thủ đô sẽ hạn chế được tối đa hao mòn vô hình nhờ quá trình luân chuyển
các thiết bị vui chơi giải trí trong nội bộ các công ty thành viên.
3.2.2.2. Các giải pháp trong nội bộ các doanh nghiệp công ích của Thành phố
- Một là: Tăng cường và đổi mới quản lý nội bộ các DNCI.
Tăng cường và đổi mới quản lý nội bộ DNCI phải thực hiện theo hướng: hoàn
thành đúng số lượng, chất lượng, thời hạn với hiệu quả xã hội và hiệu quả sản xuất kinh
doanh cao các nhiệm vụ kế hoạch hoặc đơn hàng Nhà nước giao. Thực hiện tốt chế độ
hạch toán kinh tế, tính toán đầy đủ chính xác các chi phí cho hoạt động công ích và hoạt
động kinh doanh; xây dựng và thực hiện các định mức kinh tế kỹ thuật, định mức lao
động; nâng cao kỷ luật lao động và năng suất lao động. Trên cơ sở hoàn thành các nhiệm
vụ kế hoạch hoặc đơn hàng Nhà nước giao cho cần tận dụng năng lực sản xuất sẵn có để
tiến hành hoạt động kinh doanh, nâng cao năng lực thiết bị và giảm hao mòn vô hình.
Hàng năm, trên cơ sở chỉ tiêu lao động và quỹ tiền lương được duyệt, doanh nghiệp xây
dựng và thực hiện quy chế trả lương cho người lao động gắn với kết quả hoàn thành
nhiệm vụ.
- Hai là: Quản lý chi phí sản xuất kinh doanh.
Trước hết cần phải khẳng định toàn bộ chi phí phát sinh trong năm tài chính phục
vụ trực tiếp sản phẩm công ích cần phải được coi là chi phí của sản phẩm công ích. Giá
trị của sản phẩm công ích do đó mới được phản ánh đúng, đầy đủ và chính xác. Nhưng
điều đó không có nghĩa là mọi khoản chi phí cứ tự do phát sinh mà không cần sự quản lý,
theo dõi. Ngược lại đơn giá bình quân của mỗi sản phẩm công ích cần phải được nhà
nước chuẩn hóa vì SP, DVCI là sản phẩm phục vụ lợi ích xã hội và đông đảo dân chúng,
để chuẩn hóa được đơn giá sản phẩm công ích cần có số liệu bình quân về hàm lượng chi
phí cấu thành trong mỗi sản phẩm công ích. Muốn vậy từng doanh nghiệp cung ứng sản
phẩm công ích cần xây dựng các định mức kinh tế kỹ thuật để quản lý các sản phẩm công
ích, các định mức thông thường cần sử dụng trong công tác quản lý là:
Thứ nhất: Đối với chi phí về nguyên liệu, vật liệu, nhiên liệu, năng lượng (gọi
chung là chi phí vật tư).
Định mức tiêu hao vật tư là định mức tiêu hao hợp lý dựa trên cơ sở thống kê của
nhà nước hoặc cơ quan có thẩm quyền về mặt kỹ thuật và đặc điểm riêng biệt của mỗi
doanh nghiệp. Người ta cũng có thể căn cứ vào định mức thực tế năm trước gắn với yêu
cầu tiết kiệm vật tư để xem xét. Giá vật tư để tính chi phí vật tư là giá mua thực tế, chi
phí vận chuyển, bốc xếp, thu mua, gia công chế biến…, thuế nhập khẩu đối với vật tư
nhập khẩu (nếu có). Đối với vật tư tồn kho thì cho phép đánh giá lại mỗi khi có thay đổi
giá theo đúng quy định. Trường hợp vật tư tự chế được tính theo chi phí thực tế hợp lý
sản xuất ra vật tư đó. Trong quá trình sử dụng vật tư nếu có thu hồi phế liệu thì phần phế
liệu thu hồi được hạch toán giảm chi phí vật tư theo giá bán thực tế hoặc giá trị đánh giá
khi thu hồi.
Thứ hai: Đối với chi phí tiền lương, tiền công.
Chi phí tiền lương, tiền công được xây dựng trên cơ sở mức lương, phụ cấp
lương (nếu có) và số lượng lao động tham gia tạo nên sản phẩm công ích. Mức lương,
phụ cấp lương của người lao động có thể dựa theo chế độ hiện hành gắn với kết quả sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Lao động của doanh nghiệp gồm lao động trong biên
chế, hợp đồng ngắn hạn, dài hạn, lao động thời vụ. Các doanh nghiệp có thể sử dụng
phương pháp trả lương theo đơn giá tiền lương sản phẩm, theo doanh thu hay theo hiệu
quả sản xuất kinh doanh. Việc xác định chi phí tiền lương, tiền công phải đảm bảo
nguyên tắc tỷ lệ tăng tiền lương, tiền công phải thấp hơn tỷ lệ tăng năng suất lao động.
Thứ ba: Đối với chi phí khấu hao tài sản cố định.
Quản lý tốt tài sản cố định là nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định, góp phần
tăng hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Để quản lý tốt tài sản cố định, các doanh
nghiệp cần nắm vững nghiệp vụ quản lý, theo dõi cả về mặt hiện vật và mặt giá trị của tài
sản cố định.
Thời gian khấu hao có thể dựa vào quy định của Bộ Tài chính đối với từng loại
tài sản cố định vì tỷ lệ khấu hao do Bộ Tài chính đưa ra là dựa vào tuổi thọ kỹ thuật của
tài sản cố định theo thiết kế, hiện trạng tài sản cố định, mục đích và hiệu suất sử dụng của
tài sản cố định trung bình của toàn xã hội.
Tuy nhiên, do đặc điểm tài sản cố định trong lĩnh vực GTCC quản lý có rất nhiều
loại khác nhau nên cần phân tích rõ loại tài sản cố định thuộc vốn của doanh nghiệp (gọi
là tài sản cố định động) và loại tài sản cố định được nhà nước giao quản lý và khai thác
(gọi là tài sản cố định tĩnh). Đối với tài sản cố định tĩnh như hệ thống đèn chiếu sáng,
công viên, vườn hoa, vườn thú, vỉa hè, hệ thống đường nội thành, bến xe… khi giao cho
doanh nghiệp, nhà nước cần phải xác định là chỉ giao để doanh nghiệp quản lý và khai
thác, vì vậy giá trị các tài sản cố định này không thể tính vào vốn của doanh nghiệp được,
vì vậy doanh nghiệp không phải trích khấu hao đối với loại tài sản cố định tĩnh. Trong
quá trình khai thác, doanh nghiệp có trách nhiệm sửa chữa, duy tu, chăm sóc… tất cả chi
phí để thực hiện việc khai thác các tài sản cố định tĩnh được coi là khoản chi tiêu về vốn,
nó được hạch toán ngay vào kỳ kinh doanh như các khoản chi lương, chi nguyên vật liệu,
chi thường xuyên khác.
Giá trị các tài sản cố định động phải tính vào vốn của doanh nghiệp, vì thế các tài
sản cố định này phải hạch toán là tài sản cố định của doanh nghiệp, doanh nghiệp có
trách nhiệm bảo toàn và thu hồi số vốn này thông qua việc trích khấu hao tài sản cố định.
Việc khấu hao tài sản cố định trong các DNCI ngành GTCC cũng cần xem xét và tính
đến quy mô vốn, quy mô kinh doanh của doanh nghiệp, có doanh nghiệp chỉ kinh doanh
với số vốn vài trăm triệu đồng nhưng cũng có doanh nghiệp lại có số vốn lên đến hàng tỉ
đồng. Do đó, nếu quy định bắt buộc tất cả các doanh nghiệp phải áp dụng một mức giá trị
như hiện nay là 10 triệu đồng sẽ dẫn tới những khó khăn nhất định về quản lý cho doanh
nghiệp. Vì vậy, để phù hợp với đặc điểm có quy mô vốn khác nhau, nhà nước chỉ nên
đưa ra một khung giá trị có tính chất hướng dẫn (ví dụ từ 5 đến 10 triệu đồng) để doanh
nghiệp lựa chọn trong phạm vi khung giá trị đó cho phù hợp với yêu cầu quản lý.
Về khía cạnh thời gian sử dụng của tài sản cố định, nhà nước nên chỉ quy định
giới hạn khung tối thiểu, tối đa của thời gian sử dụng cho mỗi tiêu chí tài sản cố định.
Trên sơ sở đó doanh nghiệp sẽ tự xác định thời gian sử dụng là bao nhiêu cho phù hợp.
Thứ tư: Đối với các khoản chi phí khác.
Chi phí quản lý: là các khoản chi mang tính chất chung như: chi phí quản lý hành
chính, chi phí bảo hộ lao động, chi phí về tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng công nhân, chi
trả lãi vay (kể cả lãi vay đầu tư chiều sâu), lãi suất có thể lấy lãi suất do Ngân hàng nhà
nước Việt Nam quy định trong từng thời kỳ. Các khoản chi về mua và trả tiền sử dụng
các tài liệu kỹ thuật, bằng sáng chế, phát minh, giấy phép chuyển giao công nghệ và dịch
vụ kỹ thuật (không thuộc tài sản cố định) được phân bổ dần vào chi phí. Các khoản chi
liên quan trực tiếp đến tiêu thụ sản phẩm hàng hóa, cung cấp dịch vụ như: bảo quản thành
phẩm, chi phí vận chuyển bốc dỡ hàng hóa, chi phí đóng gói sản phẩm, chi phí cho tuyên
truyền quảng cáo… được xây dựng phù hợp với đặc điểm từng sản phẩm công ích và trên
cơ sở hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp. Các khoản chi về bảo hiểm theo chế độ thống
nhất của nhà nước như: bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế. Ngoài các khoản chi phí như đã
trình bày ở trên, các doanh nghiệp nên dành một tỷ lệ nhất định (khoảng 5 ÷ 7%) để chi
phí các khoản cần thiết như chi phí tiếp tân, khánh tiết, giao dịch, đối ngoại liên quan đến
hoạt động công ích.
Ba là: Về các chính sách ưu đãi, hỗ trợ đầu tư, trong đó có các quy định về thuế
suất.
- Về thuế suất phổ thông.
Luật thuế thu nhập doanh nghiệp quy định thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp
phổ thông là 28%, điều đó có nghĩa là nhà nước thu khoảng 1/3 số lợi nhuận mà doanh
nghiệp làm ra, số còn lại 2/3 là lợi nhuận ròng để cho doanh nghiệp phân phối theo các
mục tiêu đã đề ra. Nếu so với thuế suất 45% hay 35% của thuế lợi tức thì thuế suất 28%
là tương đối hợp lý và so với thuế suất thuế thu nhập công ty của một số nước như Trung
Quốc: 33%, Mỹ: 34%, Philippin: 35%, Singapore: 27%... thì thuế suất 28% của nước ta
cũng tương đồng. Tuy nhiên, việc quy định thuế suất còn phải đặt trong điều kiện lịch sử
của từng nước, nếu nền kinh tế đang tăng trưởng hay phát triển bình thường thì thuế suất
28% là hợp lý. Nhưng nếu trong giai đoạn nền kinh tế bắt đầu có dấu hiệu suy thoái, tổng
mức đầu tư toàn xã hội bị giảm sút, tăng trưởng kinh tế theo xu hướng giảm dần thì thuế
suất 28% có thể vẫn còn cao. ở nước ta, nhu cầu kích thích đầu tư, mở rộng sản xuất là
cần thiết, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp cung ứng SP, DVCI thì thuế suất thuế thu
nhập doanh nghiệp nên giảm hơn nữa.
Việc áp dụng thuế suất thấp sẽ góp phần kích thích người dân đầu tư những
khoản tiền nhàn rỗi, những khoản tích lũy dưới dạng tích trữ vàng và ngoại tệ đầu tư trực
tiếp vào hoạt động công ích, tạo dựng nên các doanh nghiệp cung ứng SP, DVCI mới
hoặc mở rộng quy mô vốn. Đây chính là động lực thực sự để phát triển mạnh kinh tế xã
hội của đất nước.
- Về thuế suất bổ sung.
Hiện nay các DNCI của Thành phố Hà Nội vẫn tuân thủ quy định chung, căn cứ
để xác định nghĩa vụ thuế thu nhập doanh nghiệp bổ sung đối với doanh nghiệp là phần
thu nhập còn lại sau khi nộp thuế thu nhập theo thuế suất ổn định. Doanh nghiệp nào sau
khi nộp thuế thu nhập doanh nghiệp mà phần thu nhập còn lại cao hơn 12% so với giá trị
vốn chủ sở hữu hiện có tại thời điểm quyết toán năm tài chính, thì phần thu nhập trên
12% đó phải nộp thuế thu nhập bổ sung với thuế suất 25%. Điều quy định này có nghĩa là
tỷ lệ lợi nhuận kinh doanh không phải chịu thuế thu nhập bổ sung ở mức tối đa chỉ được
xác định bằng tỷ lệ lãi suất gửi tiền tiết kiệm 1%/tháng. Như vậy, bất kỳ doanh nghiệp
nào kinh doanh có tỷ lệ lợi nhuận cao hơn lãi suất tiền gửi tiết kiệm (1%/tháng) thì phần
cao hơn đó phải chịu thuế thu nhập bổ sung. Căn cứ để đánh thuế bổ sung quy định như
vậy là chưa thỏa đáng bởi vì không thể so sánh việc cho vay vốn để kiếm lời với việc đầu
tư vốn vào kinh doanh. Khi cho vay vốn để kiếm lời thì hệ số rủi ro rất nhỏ, tiền lời thu
được bảo đảm thường xuyên. Ngược lại, đầu tư vốn vào kinh doanh là loại đầu tư dài
hạn, trong quá trình kinh doanh chủ đầu tư không được phép rút vốn và mức độ rủi ro rất
cao, tỷ lệ lãi suất thu được không ổn định. Vì thế thông thường người ta chỉ đầu tư vào
kinh doanh khi tỷ suất lợi nhuận trên vốn cao hơn nhiều so với lãi suất tiết kiệm.
Từ những phân tích như trên, chúng tôi đề nghị Thành phố nên thực hiện thuế thu
nhập bổ sung theo phương án sau:
Một là: nhà nước không đánh thuế thu nhập bổ sung đối với tất cả các doanh
nghiệp cung ứng SP, DVCI.
Hai là: chỉ đánh thuế thu nhập bổ sung đối với các ngành kinh doanh độc quyền,
không đánh thuế thu nhập bổ sung đối với doanh nghiệp cung ứng SP, DVCI.
- Về thuế thu nhập doanh nghiệp.
Mở rộng chính sách ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp để hướng dẫn đầu tư,
phân bổ hợp lý các nguồn lực trong xã hội phục vụ hoạt động công ích phát triển. Một
trong những khuyết tật của nền KTTT là sự phân bổ không hợp lý các nguồn lực trong xã
hội, người ta chỉ chú trọng vào những ngành mang lại lợi nhuận cao, không quan tâm đến
những vấn đề xã hội, môi trường. Hậu quả do đặc điểm này gây ra là những lệch lạc của
nền kinh tế và rối loạn của xã hội. Chính vì thế mà cần phải có bàn tay can thiệp của nhà
nước. Nhà nước có thể can thiệp bằng nhiều công cụ: mệnh lệnh hành chính, các chế tài
luật pháp, biện pháp về kinh tế… Một trong những biện pháp kinh tế khá hữu hiệu là ưu
đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp như thực hiện kỳ miễn thuế, kỳ giảm thuế, kỳ chuyển
lỗ là một trong những công cụ để phân bổ có hiệu quả hơn các nguồn lực phục vụ hoạt
động công ích.
Theo các quy định hiện hành của thuế thu nhập doanh nghiệp, chúng ta đã có một
số quy định về miễn thuế, giảm thuế và chuyển lỗ. Tuy nhiên, các quy định về miễn thuế,
giảm thuế còn ít, chưa đủ liều lượng để có thể thay đổi quyết định đầu tư của doanh
nghiệp. Chúng tôi cho rằng, để khuyến khích đầu tư và phân bổ có hiệu quả hơn các
nguồn vốn đầu tư trong xã hội cho hoạt động công ích, nhà nước cần mở rộng hơn thời
gian miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp cho các DNCI, đặc biệt là quy định năm đầu
tiên kinh doanh có lợi nhuận để xác định thời điểm được hưởng chế độ miễn, giảm thuế.
Theo quy định hiện hành thì năm đầu tiên có lãi được tính là năm đầu tiên hoạt động kinh
doanh mang lại lợi nhuận trước khi thực hiện chuyển lỗ. Thông thường, một doanh
nghiệp mới đi vào hoạt động kinh doanh thì trong một vài năm đầu thường bị thua lỗ, nên
nếu quy định năm đầu tiên có lãi được tính là năm đầu tiên hoạt động kinh doanh đem lại
lợi nhuận trước khi thực hiện chuyển lỗ để bắt đầu kỳ miễn giảm thuế thì trên thực tế các
doanh nghiệp không được lợi gì nhiều và thực tế là thời gian miễn thuế, giảm thuế lại
chính là giai đoạn doanh nghiệp đang kinh doanh thua lỗ. Vì vậy, đối với những ngành
cần khuyến khích đầu tư như GTCC, nhà nước nên cho phép thực hiện chế độ miễn, giảm
thuế kể từ năm đầu tiên kinh doanh có lợi nhuận sau khi đã chuyển lỗ.
- Về thu sử dụng vốn.
Thực hiện chuyển đổi thu sử dụng vốn phù hợp với bản chất của chế độ thu này,
có chế độ thu riêng mà trước mắt là miễn thu (hay thực hiện tỷ lệ thu là 0%) nhằm
khuyến khích các doanh nghiệp cung ứng SP, DVCI tích tụ vốn cho tái đầu tư.
Các doanh nghiệp cung ứng SP, DVCI cũng cần thiết phải chuyển phần thu sử
dụng vốn ngân sách nhà nước vào lợi nhuận sau khi thực hiện nghĩa vụ thuế lợi tức đối
với nhà nước và chuyển sang một tên gọi mới phù hợp hơn, đúng bản chất hơn, đó là thu
một phần lợi nhuận của doanh nghiệp cung ứng SP, DVCI về ngân sách nhà nước. Căn
cứ vào định hướng phát triển doanh nghiệp trong từng thời kỳ để điều chỉnh tỷ lệ thu phù
hợp nhằm đạt được mục tiêu của nhà nước đã đề ra. Trong giai đoạn từ nay đến năm
2010, đối với các doanh nghiệp cung ứng SP, DVCI, tỷ lệ thu này nên để ở mức 0%
nhằm giảm nghĩa vụ vật chất đối với loại hình doanh nghiệp cần khuyến khích phát triển
này; đồng thời tạo điều kiện tích tụ, tập trung vốn cho loại hình doanh nghiệp mà nhà
nước cần ưu tiên đầu tư vốn.
- Bốn là: Hỗ trợ đầu tư.
Như chúng ta đã biết, vốn là tiền đề cho mọi hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp. Phần lớn các hoạt động công ích có đặc thù là nhu cầu vốn đầu tư lớn, thời hạn
thu hồi vốn chậm, tỷ suất lợi nhuận trên vốn thấp. Đối với các doanh nghiệp cung ứng
SP, DVCI là lĩnh vực, ngành nghề cần khuyến khích phát triển, nhà nước có thể áp dụng
một số biện pháp sau đây:
Thực hiện chính sách bảo lãnh tín dụng thông qua quỹ "Bảo lãnh tín dụng" nhằm
giúp các doanh nghiệp không có khả năng tiếp cận các nguồn vốn có được chỗ dựa để
vay vốn. Thực hiện chính sách này, nhà nước sẽ thành lập "Quỹ bảo lãnh tín dụng", hoạt
động chính của quỹ này là nhằm bảo lãnh cho các doanh nghiệp thiếu vốn có thể vay
được vốn từ ngân hàng. Chúng tôi mong rằng, quỹ này sẽ được tổ chức và hoạt động
dưới dạng một tổ chức tài chính hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận. Trong điều kiện
ngân sách eo hẹp, nguồn vốn thành lập ban đầu của Quỹ bảo lãnh tín dụng không chỉ
trông chờ vào nhà nước mà nên thực hiện đa dạng hóa các nguồn vốn đầu tư, mở rộng
các nguồn cấp vốn cho quỹ. Tuy nhiên, với tiềm lực kinh tế và chức năng dẫn dắt nền
kinh tế thì ban đầu nhà nước cần đầu tư một lượng vốn nhất định (≥ 1/3), phần còn lại sẽ
huy động từ các công ty bảo hiểm, từ các ngân hàng, các doanh nghiệp lớn của cả khu
vực quốc doanh và ngoài quốc doanh, các tổ chức trong và ngoài nước khác. Ngay từ
đầu, để bảo đảm hoạt động của quỹ có hiệu quả, cần xác định rõ đối tượng các doanh
nghiệp được hưởng quy chế bảo lãnh vay vốn, xác định rõ các điều kiện để một doanh
nghiệp được bảo lãnh, mức bảo lãnh vay, mức phí bảo lãnh… Những vấn đề cụ thể như
thế cho một quỹ bảo lãnh sẽ được xác lập trong quy chế hoạt động của quỹ.
Đổi mới chính sách tín dụng và thực hiện chính sách tín dụng ưu đãi để tạo điều
kiện cho doanh nghiệp cung ứng SP, DVCI thu hút đến mức tối đa nguồn vốn nhàn rỗi
trong dân và các nhà đầu tư nước ngoài. Trước mắt, nhà nước cần ban hành những quy
định cụ thể nhằm hạn chế, tiến tới loại bỏ những trở ngại trong việc vay vốn, nhất là vay
của nước ngoài. Nghiêm khắc thi hành kỷ luật đối với những nhân viên, cán bộ nhà nước
lợi dụng quyền hạn của mình để sách nhiễu, vòi vĩnh các doanh nghiệp khi xem xét cho
vay vốn. Nhà nước cần chấn chỉnh lại hệ thống ngân hàng, nâng cao trình độ thẩm định
dự án vay vốn của ngân hàng, cải tiến thủ tục cho vay vốn để đơn giản, thuận tiện hơn.
Đối với các doanh nghiệp cung ứng SP, DVCI, nhà nước nên mở rộng hình thức cho vay
không cần thế chấp, chỉ cần tín chấp kèm theo phương án sản xuất kinh doanh mang tính
khả thi. Nhà nước nên khuyến khích các tổ chức phi chính phủ, các doanh nghiệp tự lập
ra các trung tâm hỗ trợ đầu tư. Các trung tâm này có thể đứng ra bảo lãnh cho các doanh
nghiệp vay vốn của ngân hàng. Hiện tại chúng ta đã có Quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia và một
số chương trình cấp tín dụng ưu đãi cho các DNNN. Tuy nhiên, chúng tôi đề nghị nên mở
rộng phạm vi cấp tín dụng ưu đãi có mục đích cho các doanh nghiệp tham gia cung cấp
SP, DVCI trên thị trường.
- Năm là: Phát triển hoạt động thuê tài chính trong nền kinh tế.
Thuê tài chính là hình thức cung cấp tín dụng trung và dài hạn cho nền kinh tế
thông qua việc cho thuê tài sản (thường là máy móc, thiết bị). Trong nền KTTT, bên cạnh
hoạt động cung ứng vốn của các tổ chức tín dụng thì việc cấp vốn thông qua hình thức
thuê tài chính có tầm quan trọng đặc biệt.
Một số DNCI của Thành phố quy mô vốn vừa và nhỏ, nên tài sản để cầm cố, thế
chấp làm cơ sở vay vốn ít hoặc không có. Vì vậy, các doanh nghiệp thường thiếu vốn
trung và dài hạn để đầu tư tài sản cố định. Để các doanh nghiệp cung ứng SP, DVCI giải
quyết được vấn đề vốn trung và dài hạn khi không có tài sản cầm cố, thế chấp, đó là hoạt
động thuê tài chính hay còn gọi là thuê mua.
Hình thức thuê tài chính có tính an toàn cao hơn so với các hình thức tín dụng
thông thường khác. Trong hình thức cấp vốn này, lợi ích của người thuê và người cho
thuê gắn chặt chẽ với nhau và được thể hiện trên hợp đồng, đây là loại hợp đồng "không
hủy ngang" giống như hợp đồng xuất - nhập khẩu hàng hóa, điều đó có nghĩa là bên thuê
và cho thuê tài sản không được phép hủy bỏ hợp đồng khi đang còn hiệu lực. Do đặc
điểm này và nhu cầu to lớn của cộng đồng các doanh nghiệp thiếu vốn mà tín dụng thuê
mua rất phát triển trong các nền KTTT với nhiều hình thức khác nhau.
Thành phố Hà Nội cần khuyến khích phát triển các loại hình hoạt động cho thuê
tài chính dưới nhiều hình thức sở hữu khác nhau. Tuy nhiên, trong giai đoạn đầu mới
phát triển, các doanh nghiệp chưa quen với loại hình kinh doanh này nên UBND Thành
phố cần giữ vai trò nòng cốt, khởi xướng và kích thích hoạt động thuê tài chính phát
triển.
Trong điều kiện hiện nay, tiến bộ khoa học và công nghệ diễn ra với tốc độ
nhanh, điều đó làm cho các doanh nghiệp có quy mô vốn vừa và nhỏ khó có thể theo kịp
sự đổi mới của công nghệ sản xuất. Nhờ có hoạt động thuê tài chính, các doanh nghiệp
cung ứng SP, DVCI của Thành phố dù khó khăn về vốn kinh doanh vẫn có thể trang bị
được những máy móc, kỹ thuật tiến bộ nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh. Lợi ích này
xuất phát từ chỗ các công ty cho thuê tài chính là những công ty chuyên cung cấp vốn
trung và dài hạn dưới hình thức thiết bị theo yêu cầu của người đi thuê. Họ có kinh
nghiệm lựa chọn nhà cung cấp thiết bị, lựa chọn loại thiết bị phù hợp với yêu cầu sử dụng
của người thuê để từ đó nâng cao hiệu quả sử dụng cho người thuê, tiết kiệm chi phí mua
tài sản.
3.2.2.3. Bảo đảm lợi ích cho người lao động trong doanh nghiệp công ích của
Thành phố
Vấn đề cần được khắc phục là xóa bỏ sự bất cập khi thực hiện nghĩa vụ với Nhà
nước và đảm bảo quyền lợi cho cán bộ công nhân viên khi có sự thay đổi về áp dụng hệ
số lương mới. Trong khi giá cả sinh hoạt leo thang, lương mới chưa được lĩnh (từ
210.000, đồng lên 290.000, đồng thời điểm tháng 10/2004) do chưa được Nhà nước điều
chỉnh đơn giá, định mức (thời điểm tháng 9/2005 liên ngành đang xây dựng đơn giá, định
mức điều chỉnh) nhưng các doanh nghiệp tham gia cung ứng các SP, DVCI vẫn phải nộp
ngay theo quy định các khoản bảo hiểm xã hội. Điều đó gây khó khăn không nhỏ cho
doanh nghiệp, ảnh hưởng đến đời sống và tư tưởng của cán bộ công nhân viên. Việc điều
chỉnh từ 290.000, đồng lên 350.000, đồng từ tháng 10/2005 cũng cần lưu ý điều này.
Việc áp dụng quy định của Luật Lao động cần được linh hoạt ở một số hoạt động
công ích có tính đặc thù yêu cầu "tính liên tục" rất cao nên ngoài việc không được đình
công, bãi công cần quy định thêm là không áp dụng chế độ làm việc 40h/tuần, điều đó sẽ
làm giảm thu nhập do thời gian ngoài giờ theo quy định doanh nghiệp phải thanh toán
cho người lao động vào ngày nghỉ hàng tuần ít nhất bằng 200% và gián tiếp làm tăng
biên chế của doanh nghiệp.
Kết luận chương 3
Trên cơ sở quan điểm, phương hướng của Đảng, Nhà nước và UBND Thành phố
Hà Nội, luận văn đề ra một số giải pháp cơ bản nâng cao hiệu quả hoạt động của các
DNCI, hoàn thiện cơ chế quản lý, thúc đẩy việc hình thành thị trường SP, DVCI trên cơ
sở sắp xếp lại các DNCI; tách chức năng quản lý nhà nước của ngành và chức năng chỉ
đạo sản xuất của các doanh nghiệp; đẩy mạnh việc xã hội hóa việc cung cấp các SP,
DVCI trên thị trường. Phù hợp giữa cái chung (KTTT) và cái đặc thù (định hướng
XHCN), qua đó đảm bảo cung ứng ngày càng tốt hơn SP, DVCI cho xã hội.
Kết luận
Luận văn nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn hình thành, phát triển các DNCI,
vị trí, vai trò, đặc điểm của DNCI trong phát triển KTTT định hướng XHCN ở Thủ đô Hà
Nội trên cơ sở tham khảo kinh nghiệm phát triển DNCI trong phát triển KTTT ở một số
nước trên thế giới và Thành phố Hồ Chí Minh. Nghiên cứu, phân tích thực trạng hoạt
động của các DNCI thành phố Hà Nội trong thời gian qua, những kết quả đạt được,
những vấn đề đặt ra và nguyên nhân. Trên cơ sở định hướng của Đảng, Nhà nước và
thành phố Hà Nội, luận văn đề xuất những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả hoạt
động của các DNCI thành phố Hà Nội phù hợp với yêu cầu chung (KTTT) và tính đặc
thù (định hướng XHCN), qua đó đảm bảo cung ứng ngày càng nhiều hơn, chất lượng cao
hơn SP, DVCI cho thành phố.
Cơ sở của việc nghiên cứu đổi mới cơ chế, chính sách đối với hoạt động công
ích, DNCI là việc nhìn nhận đánh giá, so sánh hiệu quả, tác dụng của cơ chế, chính sách
đối với DNCI từ khi được ban hành so với trước đổi mới và so sánh với kinh nghiệm của
nước ngoài. Thực tế việc tham gia cung ứng SP, DVCI của mọi thành phần kinh tế đang
diễn ra ở Việt Nam để đưa ra định hướng và giải pháp đổi mới cơ chế, chính sách đối với
hoạt động công ích. Xuất phát từ ba vấn đề cơ bản của kinh tế học là: sản xuất cái gì?
Sản xuất như thế nào? Sản xuất cho ai? Nhà nước chỉ đóng vai trò quan trọng trong việc
xác định tiêu chí SP, DVCI và đối tượng phục vụ. Việc sản xuất như thế nào nhà nước có
thể dựa vào điều kiện, khả năng ngân sách, đặc thù và tầm quan trọng của sản phẩm để
quyết định cách thức tổ chức thực hiện. Nhà nước không thể trực tiếp thực hiện cung ứng
mọi SP, DVCI mà cần có sự tham gia, đóng góp của các thành phần kinh tế cũng như có
sự đồng thuận của người tiêu dùng SP, DVCI trên quan điểm chung là: Nhà nước chuyển
từ "người chèo thuyền" sang vai trò là "người lái thuyền".
Đối với một số loại SP, DVCI nhất định nhà nước phải trực tiếp thông qua các tổ
chức kinh tế của nhà nước thực hiện, số còn lại nhà nước có thể ban hành các biện pháp,
cơ chế, chính sách để quản lý.
Căn cứ những vấn đề trên, việc đổi mới từ khái niệm, tiêu chí xác định hoạt động
công ích (SP, DVCI) đến xác định phương thức quản lý và thực hiện hoạt động công ích
là vấn đề quan trọng, chính yếu của đề tài nhằm đưa ra các giải pháp cơ bản nhằm hoàn
thiện cơ chế, chính sách quản lý đối với hoạt động công ích, nâng cao hiệu quả hoạt động
và cung ứng SP, DVCI và tạo sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế tham gia hoạt
động công ích.
Đề tài đã khẳng định hoạt động công ích là hoạt động cung ứng SP, DVCI thiết
yếu cho cộng đồng xã hội mà thị trường không đảm bảo cung cấp (do người sản xuất
cung ứng không muốn tham gia thực hiện hoặc không đủ điều kiện thực hiện) và đổi mới
phương thức quản lý, chuyển từ quản lý DNCI hiện hành sang ban hành các cơ chế, chính
sách nhằm quản lý hoạt động công ích (SP, DVCI).
Cả lý thuyết và thực tiễn đều khẳng định, trong nền KTTT định hướng XHCN
không thể thiếu khu vực kinh tế nhà nước vững mạnh, đủ khả năng đóng vai trò chủ đạo
trong nền KTTT định hướng XHCN. Trong thành phần kinh tế nhà nước, không có
những doanh nghiệp tham gia cung cấp các SP, DVCI và những DNNN giữ các vị trí
then chốt của nền kinh tế quốc dân không thể tiến hành thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH
theo đúng định hướng XHCN.
Tóm lại, đề tài đã phân tích những bất cập của các quy định về cơ chế, chính sách
quản lý DNCI hiện hành; xu thế trên thế giới và xu hướng phát triển hoạt động công ích
trong nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam. Trên cơ sở đó đưa ra các quan điểm,
nguyên tắc đổi mới cơ chế, chính sách hoạt động công ích phục vụ thiết thực cho việc đổi
mới DNNN nói chung và đổi mới quản lý hoạt động công ích của thành phố Hà Nội nói
riêng nhằm năng cao chất lượng SP, DVCI; giảm chi phí và kiểm soát được các hoạt
động công ích phù hợp với điều kiện phát triển của Thủ đô.
Việt Nam đang nỗ lực chuẩn bị gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới và hiện
đang có quan hệ kinh tế với rất nhiều quốc gia trên thế giới. Để nền KTTT định hướng
XHCN vận hành thông suốt, cần tiếp tục tạo lập đồng bộ các yếu tố thị trường, đổi mới
và nâng cao hiệu lực quản lý kinh tế của nhà nước. Mặc dù có những hạn chế nhất định,
các doanh nghiệp tham gia cung cấp các SP, DVCI vẫn cần phải được quan tâm đúng
mức. Trong nghiên cứu này, chúng tôi chỉ đề xuất một số giải pháp chủ yếu và kiến nghị
xét thấy có thể sớm thực hiện được. Một số vấn đề được phát hiện trong nghiên cứu của
đề tài này có thể được tiếp tục đi sâu trong những nghiên cứu tiếp theo. Chúng tôi coi đề
tài này mới chỉ là những bước đi đầu tiên trong nỗ lực đóng góp cho việc xây dựng các
thể chế hình thành và tiếp tục phát triển các doanh nghiệp tham gia cung cấp các SP,
DVCI trên thị trường. Nhiều vấn đề nghiên cứu còn ở phía trước.
Tôi xin trân trọng cám ơn sự tận tình của TS Nguyễn Minh Quang - người hướng
dẫn khoa học, các giảng viên Viện Kinh tế chính trị học - Học viện Chính trị Quốc gia Hồ
Chí Minh, các nhà khoa học trong Hội đồng trực tiếp nhận xét đánh giá, các Viện nghiên
cứu, Sở Giao thông Công chính thành phố Hà Nội cùng các doanh nghiệp tham gia cung
cấp các SP, DVCI trên địa bàn Thủ đô và các đồng nghiệp đã nhiệt tình giúp đỡ chúng tôi
trong quá trình thực hiện luận văn này.
Danh mục tài liệu tham khảo
1. TS. Đinh Văn Ân (2004), "Phát triển các loại hình doanh nghiệp trong nền kinh tế
nhiều thành phần", Tạp chí Cộng sản, 8(707), tr. 42-47.
2. Adam Smith (1997), "Của cải của các dân tộc", Nxb Giáo dục, Hà Nội.
3. Hà Anh (2005), "Xã hội hóa công tác vệ sinh môi trường để Thủ đô xanh, sạch, đẹp",
Báo Kinh tế & đô thị, 35(1119), ngày 6/4, tr. 2.
4. Ban Chỉ đạo đổi mới và phát triển doanh nghiệp (2004), "Tiếp tục sắp xếp, đổi mới,
phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước năm 2004-2005", Kinh
tế và dự báo, 3(371), tr. 1-3.
5. Chu Văn Cấp (2001), "Về mục tiêu và đặc trưng bản chất của nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta", Lý luận chính trị (5), tr. 34-38.
6. Chu Văn Cấp (2004), "Định hướng xã hội chủ nghĩa nền kinh tế thị trường ở nước
ta", Tạp chí Cộng sản, 22(721), tr. 14-18.
7. Chính phủ (1996), Nghị định số 56/CP ngày 2/10 về doanh nghiệp nhà nước hoạt
động công ích, Hà Nội.
8. Chính phủ (2005), Nghị định số 31/2005/NĐ-CP ngày 11/3 về sản xuất và cung ứng
sản phẩm, dịch vụ công ích, Hà Nội.
9. Chính phủ (2005), Quyết định số 94/2005/QĐ-TTg ngày 05-5 của Thủ tướng Chính
phủ về phê duyệt phương án sắp xếp, đổi mới công ty nhà nước thuộc ủy ban
nhân dân thành phố Hà Nội, Hà Nội.
10. Cục Thống kê thành phố Hà Nội (2005), Niên giám thống kê Hà Nội 2004, Nxb Thống
kê, Hà Nội.
11. Lê Vinh Danh (2001), Chính sách công của Hoa Kỳ, Nxb Thống kê, Hà Nội.
12. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
13. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
14. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ ba Ban Chấp
hành Trung ương (khóa IX), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
15. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban chấp hành
Trung ương khóa IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
16. Nguyễn Văn Đặng (2003), "Một số vấn đề về đổi mới và phát triển doanh nghiệp nhà
nước trong quá trình chuyển sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam", Trong sách: Chủ nghĩa xã hội và kinh tế thị trường - Kinh
nghiệm của Trung Quốc - Kinh nghiệm của Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
17. Nghiêm Xuân Đạt (2003), "Một số vấn đề chủ yếu của định hướng chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội Thủ đô giai đoạn 2001 - 2010", Kinh tế và phát triển, (50),
tr.10-15.
18. Hoàng Giang (2005), "Sau 3 tháng thực hiện xã hội hóa xe buýt: người ngoài cười
nụ, người trong khóc thầm", Báo Kinh tế & đô thị, 62(1146), ngày 8/6, tr. 4.
19. Đỗ Thị Hải Hà (2003), "Quản lý nhà nước với vấn đề dịch vụ công", Kinh tế và dự
báo, 9(365), tr. 22-23.
20. Đoàn Thị Thu Hà (2003), "Dịch vụ công và vai trò của Nhà nước trong việc cung cấp
dịch vụ công", Kinh tế và phát triển, (69), tr. 39-41.
21. An Như Hải (2004), "Học thuyết Mác - Lênin về vai trò kinh tế của Nhà nước", Lý
luận chính trị, (8), tr. 10-14.
22. Lê Thị Vân Hạnh (2004), "Về vai trò của Nhà nước và nền hành chính công trong nền
kinh tế thị trường", Thông tin khoa học xã hội, (9), tr. 19-26.
23. Nguyễn Thị Hoa (2003), "Dịch vụ công và vai trò của Nhà nước trong cung cấp dịch
vụ công", Kinh tế và dự báo, 4(360), tr.17-18.
24. Chu Hoàng (2003), "Bảo đảm xã hội, hiện trạng và cải cách của xã hội Anh", Nghiên
cứu châu Âu, 5(53), tr. 127-130.
25. Nguyễn Mạnh Hùng (2003), "Lồng ghép quy hoạch phát triển với bảo vệ môi trường
phát triển bền vững", Kinh tế và dự báo, 11 (367), tr. 16-18.
26. Bùi Văn Huyền (2002), "Đổi mới cơ chế quản lý doanh nghiệp nhà nước hoạt động
công ích", Báo chí và tuyên truyền, (4), tr. 30-33.
27. Phan Văn Khải (2004), "Xây dựng Hà Nội xứng với vai trò Thủ đô, người Hà Nội
tiêu biểu cho dân tộc Việt Nam", Báo Kinh tế & đô thị, 91 (1018), ngày 30/7, tr.
3-5.
28. Phan Văn Khải (2004), "Chuyển các hoạt động sự nghiệp công ích sang cơ chế dịch
vụ phù hợp với kinh tế thị truờng định hướng xã hội chủ nghĩa", Lao động & xã
hội, (250), tr. 1-2.
29. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (2002), Những vấn đề quản lý của nhà
nước đối với hàng hóa công cộng ở nước ta hiện nay, Kỷ yếu khoa học cấp bộ,
Hà Nội.
30. Luật Doanh nghiệp nhà nước (1995), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
31. Luật Doanh nghiệp nhà nước năm 2003 (2003), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
32. Bộ luật Lao động của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (đã được sửa đổi
bổ sung năm 2002) (2002), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
33. Ngô Quang Minh (2001), Kinh tế nhà nước và quá trình đổi mới doanh nghiệp nhà
nước, (Sách tham khảo), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
34. "Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới và phát triển doanh nghiệp nhà nước", Phát triển
kinh tế, (121), tr.18-21.
35. Lê Hữu Nghĩa (2003), "Vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản và quản lý của Nhà nước
trong quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa", Tạp
chí Cộng sản, 31(694), tr. 13-17.
36. Trần Thiên Nhiên (2004), "Thủ tướng với Hà Nội", Báo Kinh tế & đô thị, 91(1018),
ngày 30/7, tr. 1-2.
37. D.W. Pearce (Biên tập) (1999), Từ điển kinh tế học hiện đại, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
38. Nguyễn Đình Phan (2003), "Một số ý kiến về phát triển và hoàn thiện cơ chế quản lý
các doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích ở Việt Nam", Kinh tế và phát
triển, (70), tr. 30-34.
39. Nguyễn Đình Phan - Trần Kim Hào (2004), "Đổi mới quản lý hoạt động công ích",
Kinh tế và dự báo, 4(372), tr. 3-5.
40. Nguyễn Đình Phan - Trần Kim Hào (2004), "Đổi mới hoạt động công ích", Kinh tế
và phát triển, (84), tr. 13-15.
41. Tào Hữu Phùng (2004), "Nâng cao hiệu quả sử dụng ngân sách nhà nước phục vụ sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa", Tạp chí Cộng sản 4(703), tr. 12-16.
42. Trần Quý (2001), "Sứ mệnh, vị trí của xí nghiệp quốc doanh trong điều kiện kinh tế
thị trường ở Trung quốc", Kinh tế - khoa học - công nghệ (4), tr. 93-98.
43. Tô Huy Rứa (2002), "Doanh nghiệp nhà nước trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam", Tạp chí Cộng sản, (Số
đặc biệt + (2)), tr. 31-38.
44. Tô Huy Rứa (2004), "Nâng cao vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa", Tạp chí Cộng sản, 6(705), tr. 13-17.
45. P.A. Samuelson - W.D. Nordhaus (1997), Kinh tế học, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
46. Sở Giao thông Công chính Hà Nội (1999), Nghiên cứu đề xuất mô hình quản lý các
doanh nghiệp công ích trong lĩnh vực giao thông công chính, Đề tài nghiên cứu
khoa học và công nghệ, Hà Nội.
47. Sở Giao thông Công chính Hà Nội (2001), Nghiên cứu đề xuất mô hình quản lý các
doanh nghiệp công ích trong lĩnh vực giao thông công chính, Tóm tắt đề tài
nghiên cứu khoa học, Hà Nội.
48. Sở Giao thông Công chính Hà Nội (2004), Báo cáo tình hình thực hiện kế hoạch năm
2004 và nhiệm vụ trọng tâm của quý I năm 2005 của ngành Giao thông Công
chính Hà Nội, Hà Nội.
49. Sở Giao thông Công chính Hà Nội (2005), 15 năm (1990 - 2005) ngành Giao thông
công chính Hà Nội đổi mới và phát triển, Nxb Giao thông vận tải, Hà Nội.
50. Sở Giao thông Công chánh Thành phố Hồ Chí Minh (2002), Tài liệu trao đổi kinh
nghiệm về công tác quản lý khai thác hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật giao
thông công chánh Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.
51. J. E.Stiglitz (1995), Kinh tế học công cộng, Nxb Khoa học kỹ thuật, Hà Nội.
52. Thành ủy Hà Nội (2004), Đề án số 31-ĐA/TU về một số nhiệm vụ trọng điểm về cải
thiện môi trường xã hội trong hai năm 2004 - 2005, Hà Nội.
53. Vũ Đình Tích (2001), "Quán triệt Nghị quyết Trung ương 3 (khóa IX) trong sắp xếp
đổi mới doanh nghiệp hoạt động kinh doanh và doanh nghiệp hoạt động công
ích", Kinh tế và dự báo, 10 (342), tr. 4-6.
54. Phùng Tử Tiêu - Triệu Húc Lượng (1993), "Thực chất việc thị trường hóa kinh tế
quốc hữu", Kinh tế nghiên cứu Trung quốc, (11), tr. 36-39.
55. Nguyễn Phú Trọng (2002), "Xây dựng Thủ đô ngày càng giàu đẹp, văn minh, hiện
đại", Tạp chí Cộng sản, (Số đặc biệt +(2)), tr. 6-9.
56. Nguyễn Phú Trọng (2003), "Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: Quan niệm
và giải pháp phát triển", Tạp chí Cộng sản, 31(694), tr. 3-12.
57. Nguyễn Phú Trọng (2004), "Thủ đô Hà nội 35 năm thực hiện di chúc của Chủ tịch
Hồ Chí Minh", Tạp chí Cộng sản, 17(716), tr. 6-10.
57. Nguyễn Phú Trọng (2004), "Thủ đô Hà Nội: Sau 50 năm nhìn lại", Tạp chí Cộng sản,
19(718), tr. 3-8.
58. Nguyễn Phú Trọng (2004), "Phát huy thành tựu 50 năm, viết tiếp trang sử mới làm
rạng rỡ Thăng Long - Hà Nội ngàn năm văn hiến", Báo Kinh tế & đô thị,
122(1049), tr. 2-3.
59. Nguyễn Phú Trọng (2004), "Nhiệm vụ trọng tâm năm 2005 vẫn là cải cách hành
chính, nâng cao hiệu quả kinh tế và cải thiện môi trường xã hội", Báo Kinh tế &
đô thị, 147(1074), ngày 8/12, tr. 3.
60. Vũ Huy Từ (1998), Quản lý khu vực công, Nxb Khoa học kỹ thuật, Hà Nội.
61. Từ điển Kinh tế chính trị học (1987), Nxb Tiến bộ, Matxcơva - Sự thật, Hà Nội.
62. Trần Xuân Trường (2004), "Bản chất của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam", Tạp chí Cộng sản, 20(719), tr. 26-29.
63. Phạm Văn Vận - Vũ Cương (2004), Giáo trình Kinh tế công cộng, Trường Đại học
Kinh tế quốc dân, Nxb Thống kê, Hà Nội.
64. "Về một số chủ trương, chính sách, giải pháp lớn nhằm thực hiện thắng lợi Nghị
quyết Đại hội toàn quốc lần thứ IX của Đảng" (2004), Tạp chí Cộng sản,
4(703), tr. 3-8.
65. "Về một số chủ trương, chính sách, giải pháp lớn nhằm thực hiện thắng lợi Nghị
quyết Đại hội toàn quốc lần thứ IX của Đảng" (2004), Tạp chí Cộng sản,
5(704), tr. 3-8.
66. Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương (2003), Cơ sở khoa học và thực tiễn
đổi mới chính sách, cơ chế quản lý đối với hoạt động công ích và doanh nghiệp
hoạt động công ích, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ, Hà Nội.
67. Đức Vượng (2003), "Chủ nghĩa xã hội và kinh tế thị trường: Kinh nghiệm của Trung
Quốc và kinh nghiệm của Việt Nam", Tạp chí Cộng sản, 34(697), tr. 22-26.
58. 25 vấn đề lý luận trong công cuộc cải cách mở cửa ở Trung Quốc, (Sách tham khảo)
(2003), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN-Doanh nghiệp công ích trên địa bàn Hà Nội (2).pdf