Đổi mới cung cấp dịch vụ công trực tuyến tại Bộ Nông nghiệp và
PTNT là một trọng những nhiệm vụ trọng tâm được các cấp lãnh đạo Bộ, nhất
là đồng chí Bộ trưởng, trưởng ban chỉ đạo CNTT của Bộ đặc biệt quan tâm,
xác định đây là một bước đột phá trong việc đưa ứng dụng CNTT để nâng cao
công tác quản lý, chỉ đạo điều hành chung của Bộ, phục vụ người dân và
doanh nghiệp thông qua việc xử lý và giải quyết các thủ tục hành chính nhanh
chóng, thuận tiện, thực hiện công khai, minh bạch hóa các hoạt động quản lý
Nhà nước của Bộ.
Với mong muốn đẩy mạnh công tác ứng dụng dịch vụ công trực tuyến,
nhất là các dịch vụ công trực tuyến mức độ cao nhằm phát huy tối đa những
tiện tích và thế mạnh của CNTT, hình thành nên phương thức cung cấp các
dịch vụ công trực tuyến hiện đại, nhanh chóng, xuyên suốt và hiệu quả, luận
văn: “Đổi mới cung cấp dịch vụ công trực tuyến ở Bộ Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn” đã tập trung nghiên cứu vào một số vấn đề sau:
Hệ thống cơ sở lý luận về dịch vụ công trực tuyến, cụ thể: tập trung làm
rõ những khái niệm liên quan để làm cơ sở cho quá trình nghiên cứu. Qua đó
chỉ ra mối quan hệ giữa QLHCNN với dịch vụ công trực tuyến, đó là nâng
cao chất lượng cung cấp dịch vụ công trực tuyến là giải pháp hiệu quả, hiệu
lực của QLHCNN và sự tác động qua lại của cung cấp dịch vụ công trực
tuyến đối với QLHCNN để hình thành nền hành chính hiện đại, dân chủ, hiệu
lực, hiệu quả và cung cấp những dịch vụ công tốt nhất cho xã hội.
Ngoài hệ thống cơ sở lý luận làm nền tảng cho việc đổi mới cung cấp
dịch vụ công trực tuyến, luận văn cũng đã đi sâu đánh giá thực trạng các nội
dung liên quan đến việc cung cấp dịch vụ công trực tuyến tại Bộ Nông nghiệp
và PTNT đã thực hiện trong thời gian qua, phân tích những hạn chế và chỉ ra
nguyên nhân khách quan, nguyên nhân chủ quan để từ đó thấy được bức tranh107
toàn cảnh về công tác tổ chức, xây dựng, quản lý việc cung cấp dịch vụ công
trực tuyến tại Bộ. Trên cơ sở đó, luận văn đã đưa ra các giải pháp đổi mới,
nâng cao chất lượng và hoàn thiện hoạt động cung cấp dịch vụ công trực
tuyến của Bộ.
Hệ thống các giải pháp mà luận văn đưa ra hướng tới giải quyết những
khó khăn, vướng mắc đã gặp trong thực tế triển khai ứng dụng dịch vụ công
trực tuyến tại Bộ, hướng tới mục tiêu xa hơn hơn là hoàn thiện các nội dung
đổi mới, nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ công trực tuyến góp phần sớm
đưa Bộ Nông nghiệp và PTNT trở thành Bộ điện tử. Các giải pháp của luận
văn được phân theo nhóm và có sự bổ trợ lẫn nhau để đạt hiệu quả tối ưu.
Ngoài ra luận văn đưa ra tính khả thi nhằm đảm bảo thực hiện các nội dung
đổi mới, nâng cao chất lượng cung cấp DVCTT của Bộ đạt hiệu quả cao nhất.
Như vậy, việc đổi mới cung cấp dịch vụ công trực tuyến tại Bộ Nông
nghiệp và PTNT sẽ trở thành một nhiệm vụ quan trọng tác động tích cực đến
sự phát triển của ngành, góp phần thực hiện thành công đề án “tái cơ cấu
ngành theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững”; nâng cao
hiệu quả, hiệu lực của quản lý Nhà nước; là kênh giao dịch tin cậy của công
dân, tổ chức và doanh nghiệp góp phần tạo nên nền “hành chính kiến tạo,
phục vụ” phù hợp với chủ trương của Đảng, Nhà nước và Chính phủ.
120 trang |
Chia sẻ: yenxoi77 | Lượt xem: 695 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Đổi mới cung cấp dịch vụ công trực tuyến ở bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hoạch ứng dụng CNTT
giai đoạn 2011-2015 của Bộ triển khai chậm hoặc chưa được triển khai.
2.3.3.2 Nguyên nhân chủ quan
- Nhân sự của Ban chỉ đạo ứng dụng CNTT của Bộ luôn thay đổi, các
cuộc họp của Ban chỉ đạo còn ít, dẫn tới công tác chỉ đạo, điều hành trong
thúc đẩy phát triển và ứng dụng CNTT nói chung và cung cấp DVCTT nói
riêng chưa liên tục, xuyên suốt.
- Nhận thức về vai trò, tầm quan trọng của CNTT ở nhiều cấp, nhất là
người đứng đầu chưa thực sự đầy đủ và việc cụ thể hóa, thể chế hóa, tổ chức
thực hiện các chính sách, văn bản pháp lý, các kế hoạch hàng năm, 5 năm về
lĩnh vực CNTT chưa sát sao, còn chậm và thiếu quyết liệt.
- Bên cạnh những CBCC rất tích cực trong việc ứng dụng CNTT trong
giải quyết TTHC thì vẫn còn nhiều người chưa quyết liệt trong việc ứng dụng
công nghệ mới dẫn đến không đồng bộ trong giải quyết các thủ tục đã ứng
dụng CNTT.
- Việc chuyển đổi mô hình xử lý, giải quyết công việc từ lề lối làm việc
cũ sang quy chuẩn làm việc mới, việc đổi mới cung cấp DVCTT ở Bộ Nông
nghiệp và PTNT vẫn là điều khá mới mẻ, do đó chưa có sự quyết tâm, chỉ đạo
quyết liệt từ phía lãnh đạo các cấp.
- Cung cấp DVCTT mức độ cao còn chậm, việc triển khai thực tế đôi
khi dừng ở mức thí điểm trên những TTHC đơn giản, số lượng giao dịch ít
gây ra sự lãng phí, mức độ tin học hóa tại các bộ phận một cửa chưa cao, chủ
yếu hỗ trợ quá trình theo dõi, quản lý thông tin trong quá trình xử lý TTHC.
- Công tác xây dựng kế hoạch ứng dụng CNTT, thực hiện DVCTT còn
nhiều bất cập, chưa mang tính đồng bộ, thống nhất để đảm bảo hoạt động
CNTT thông suốt, ... chưa được đầu tư bài bản, khó đáp ứng được yêu cầu
thực tế và hạ tầng công nghệ mới hiện tại.
84
- Bên cạnh đó, chưa có quy định rõ ràng trong công tác thẩm định, kiểm
tra, đôn đốc thực hiện kế hoạch ứng dụng CNTT của Bộ. Một số đơn vị sử
dụng nguồn vốn khác (ODA, hợp tác quốc tế ...) chưa rà soát, thực hiện theo
kế hoạch CNTT của Bộ đã phê duyệt mà chỉ chú trọng đến việc triển khai các
hạng mục CNTT trong các dự án được tài trợ.
- Thiếu sự kiểm tra đánh giá việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng và cung
cấp DVCTT hàng năm của các đơn vị, chưa phân công rõ ràng chức năng
nhiệm vụ của các đơn vị quản lý và thực hiện các dự án CNTT.
- Công tác tuyên truyền về DVCTT tới người dân, tổ chức và doanh
nghiệp còn hạn chế cả về số lượng, nội dung và cách thức triển khai, tiếp cận.
Mặc dù trên cổng TTĐT của Bộ và trên các trang TTĐT của các đơn vị đã cung
cấp 100% DVCTT mức độ 2 và các DVCTT mức độ 3 thuộc các lĩnh vực:
Trồng trọt, Quản lý chất lượng Nông Lâm sản và Thủy sản, Thủ sản, Bảo vệ
thực vật tuy nhiên người dân, tổ chức và doanh nghiệp còn gặp khó khăn trong
việc sử dụng các DVCTT này do thiếu sự hướng dẫn, giải thích tỉ mỉ, cặn kẽ.
Tóm lại, những hạn chế, tồn tại trong hoạt động cung cấp DVCTT phần
nào đã ảnh hưởng đến việc phát huy các nguồn lực của Bộ để phát triển kinh
tế xã hội, tạo ra những khó khăn, bức xúc đối với công dân, tổ chức và doanh
nghiệp khi giao dịch với Bộ.
Tiểu kết Chƣơng 2
Từ cái nhìn tổng quan về ngành Nông nghiệp và PTNT, bộ máy và cơ
cấu tổ chức của của Bộ nông nghiệp và PTNT, chương 2 của luận văn tập trung
đánh giá thực trạng cung cấp DVCTT ở Bộ Nông nghiệp và PTNT trên các mặt
như: tình hình ứng dụng CNTT trong đó tìm hiểu thực trạng về cơ sở hạ tầng
kỹ thuật; vấn đề đảm bảo an toàn an ninh thông tin; hoạt động ứng dụng CNTT
trong hoạt động nội bộ các đơn vị, ứng dụng CNTT phục vụ người dân và
doanh nghiệp; thực trạng về nguồn nhân lực CNTT; môi trường tổ chức, chính
85
sách CNTT; thực trạng triển khai giải quyết TTHC công theo cách thức truyền
thống, một cửa; thực trạng hoạt động cung cấp DVCTT của Bộ.
Trên cơ sở thực trạng cung cấp DVCTT tại Bộ Nông nghiệp và PTNT,
chương 2 của luận văn cũng đánh giá việc triển khai thực hiện DVCTT tại Bộ.
Bao gồm đánh giá những mặt đạt được và lợi thế, những mặt khó khăn và tồn
tại. Bên cạnh đó cũng chỉ ra nguyên nhân chủ quan và nguyên nhân khách
quan của những khó khăn.
Việc đưa ra các giải pháp đổi mới, nâng cao chất lượng cung cấp dịch
vụ công trực tuyến tại Bộ Nông nghiệp và PTNT sẽ được trình bày trong
chương 3 của luận văn.
86
CHƢƠNG 3
GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI VÀ NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG CUNG CẤP
DỊCH VỤ CÔNG TRỰC TUYẾN TẠI BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
3.1. Căn cứ xây dựng các giải pháp nhằm đổi mới và nâng cao chất
lƣợng cung cấp dịch vụ công trực tuyến tại Bộ Nông nghiệp và PTNT
3.1.1. Quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước
Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng và quan tâm đẩy mạnh ứng dụng,
phát triển CNTT. Sau gần 15 năm thực hiện chỉ thị số 58-CT-TW, ngày 17
tháng 10 năm 2000 của Bộ Chính trị khóa VIII, đến nay lĩnh vực CNTT đã trở
thành một ngành kinh tế - kỹ thuật hiện đại, đóng góp ngày càng lớn vào quá
trình phát triển đất nước. Viễn thông Việt Nam đã áp dụng công nghệ hiện
đại, tiên tiến, có tốc độ phát triển nhanh. Ứng dụng CNTT đã góp phần quan
trọng nâng cao năng suất lao động, cải thiện năng lực cạnh tranh của từng
doanh nghiệp và nền kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội
nhập quốc tế. Hệ thống luật pháp, chính sách về ứng dụng, phát triển CNTT
ngày càng được hoàn thiện; hệ thống tổ chức, bộ máy quản lý Nhà nước về
CNTT được xác lập và từng bước nâng cao hiệu lực và hiệu quả hoạt động.
Tuy nhiên, quy mô ngành công nghiệp CNTT còn nhỏ, giá trị gia tăng
chưa cao, phụ thuộc nhiều vào doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp của nước
ngoài (FDI); khản năng làm chủ công nghệ còn hạn chế, chưa có nhiều doanh
nghiệp và sản phẩm đủ sức cạnh tranh. Ứng dụng CNTT mới chủ yếu theo
chiều rộng, chưa thực sự phát huy hiệu quả và chưa đáp ứng được yêu cầu
phát triển của đất nước. Công tác bảo đảm an toàn, an ninh thông tin chưa
theo kịp sự phát triển của CNTT, yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Nhận thức sâu sắc về vai trò của CNTT trong giai đoạn phát triển mới,
ngày 01 tháng 7 năm 2014, Bộ Chính trị khóa XI đã ban hành Nghị quyết số 36-
NQ/TW về đẩy mạnh ứng dụng, phát triển CNTT đáp ứng yêu cầu phát triển bền
vững và hội nhập quốc tế. Quan điểm, chủ chương của Nghị quyết nhận định:
87
(1) Công nghệ thông tin là một công cụ hữu hiệu tạo lập phương thức phát triển
mới và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; là một trong những động lực quan
trọng phát triển kinh tế tri thức, xã hội thông tin, nâng cao năng lực cạnh tranh
quốc gia trong quá trình hội nhập quốc tế; góp phần đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, đảm bảo phát triển nhanh, bền vững đất nước; (2) Ứng dụng, phát
triển CNTT là một yếu tố quan trọng bảo đảm thực hiện thành công ba đột phá
chiến lược, cần được chú trọng, ưu tiên trong các chiến lược, quy hoạch, kết
hoạch phát triển kinh tế xã hội; (3) Ứng dụng, phát triển CNTT trong tất cả các
lĩnh vực, song có trọng tâm, trọng điểm. Ưu tiên ứng dụng CNTT trong quản lý
hành chính, cung cấp dịch vụ công, trước hết là các lĩnh vực liên quan tới doanh
nghiệp, người dân như giáo dục, ý tế, giao thông, nông nghiệp. Ưu tiên phát
triển công nghiệp phần mềm và dịch vụ CNTT, phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao, gắn với thu hút các tập đoàn công nghiệp công nghệ thông tin đa
quốc gia, hình thành các trung tâm nghiên cứu-phát triển [12, tr.2].
Bên cạnh đó, các cơ sở pháp lý quan trọng khác cũng đã được Quốc
hội ban hành để tạo các điều kiện thuận lợi cho việc ứng dụng, phát triển
CNTT ở nước ta, cụ thể:
- Luật CNTT số 67/2006/QH11 ngày 29 tháng 6 năm 2006 của Quốc
hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa việt nam;
- Luật Giao dịch điện tử số 51/2005/QH11 ngày 29 tháng 11 năm 2005
của Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa việt nam;
- Luật An toàn thông tin mạng số 86/2015/QH13 ngày 19 tháng 11 năm
2015 của Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa việt nam.
Thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 01 tháng 7 năm 2014 của Bộ
chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam về đẩy mạnh
ứng dụng, phát triển công nghệ thông tin đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và
hội nhập quốc tế, Chính phủ đã Ban hành Nghị quyết số 26/NQ-CP ngày 15
tháng 4 năm 2015 về Chương trình hành động hành động của Chính phủ để cụ
88
thể hóa Nghị quyết nêu trên với mục tiêu: (1) Tổ chức thể chế hóa và thực hiện
đầy đủ các quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp đã đề ra trong Nghị
quyết số 36-NQ/TW; thực hiện thành công đề án Đưa Việt Nam sớm trở thành
nước mạnh về công nghệ thông tin và truyền thông; (2) Xác định các nhiệm vụ
để các Bộ, ngành, địa phương xây dựng kế hoạch hành động, tổ chức triển khai,
giám sát, đánh giá việc thực hiện Nghị quyết 36-NQ/TW, để công nghệ thông tin
thực sự trở thành phương thức phát triển mới, nâng cao năng suất lao động,
hiệu quả hoạt động, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế,
của quốc gia, bảo đảm quốc phòng, an ninh [13, tr.1].
Nhằm đạt được mục tiêu Nghị quyết nêu trên, trong thời gian tới, bên
cạnh các nhiệm vụ thường xuyên, các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc
Chính phủ, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương cần
cụ thể hóa và tổ chức triển khai thực hiện các nhiệm vụ chính sau đây:
(1) Đổi mới, nâng cao nhận thức và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng
đối với ứng dụng, phát triển CNTT;
(2) Xây dựng, hoàn thiện cơ chế, chính sách pháp luật về ứng dụng,
phát triển CNTT;
(3) Xây dựng hệ thống hạ tầng thông tin quốc gia đồng bộ, hiện đại;
(4) Ứng dụng CNTT rộng rãi, thiết thực, có hiệu quả cao;
(5) Phát triển công nghiệp công nghệ thông tin, kinh tế tri thức;
(6) Phát triển nguồn nhân lực CNTT đạt chuẩn quốc tế, đẩy mạnh
nghiên cứu, ứng dụng, tiếp thu, làm chủ và sáng tạo công nghệ mới;
(7) Đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong quốc phòng, an ninh; bảo đảm an
toàn, an ninh thông tin, nâng cao năng lực quản lý các mạng viễn thông,
truyền hình, internet;
(8) Tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực CNTT [13, 2-11].
Những năm gần đây, xây dựng Chính phủ điện tử, cung cấp dịch vụ
công trực tuyến mức độ luôn được Chính phủ quan tâm, chỉ đạo trực tiếp, sát
sao điều đó được thể hiện qua những chính sách đã được ban hành sau:
89
Ngày 22/9/2010, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1755/QĐ-
TTg phê duyệt Đề án “Đưa Việt Nam sớm trở thành nước mạnh về công nghệ
thông tin và truyền thông”. Trong đó, đặt mục tiêu “đến năm 2020, Việt Nam
nằm trong nhóm 1/3 nước dẫn đầu trong bảng xếp hạng về Chính phủ điện tử
của Liên hiệp quốc và hầu hết các dịch vụ công cơ bản được cung cấp trực
tuyến cho người dân và doanh nghiệp ở mức độ 4” [30, tr.1].
Ngày 27/8/2010, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số
1605/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình quốc gia về ứng dụng CNTT trong
hoạt động của cơ quan Nhà nước giai đoạn 2011-2015. Trong đó đặt mục tiêu
“đến hết năm 2015, 100% các cơ quan Nhà nước từ cấp quận, huyện, sở,
ban, ngành trở lên cung cấp tất cả dịch vụ công trực tuyến mức độ 2 và hầu
hết các dịch vụ công cơ bản được cung cấp trực tuyến tối thiểu mức độ 3
tới người dân và doanh nghiệp”[31,tr.2].
Ngày 08/11/2011, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 30c/NQ-CP Ban
hành Chương trình tổng thể cải cách hành chính Nhà nước giai đoạn 2011 - 2020
trong đó có nội dung "Hoàn thiện và đẩy mạnh hoạt động của Mạng thông tin
điện tử hành chính của Chính phủ trên Internet. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ
thông tin - truyền thông trong hoạt động của cơ quan hành chính Nhà nước để
đến năm 2020: 90% các văn bản, tài liệu chính thức trao đổi giữa các cơ quan
hành chính Nhà nước được thực hiện dưới dạng điện tử; cán bộ, công chức, viên
chức thường xuyên sử dụng hệ thống thư điện tử trong công việc; bảo đảm dữ
liệu điện tử phục vụ hầu hết các hoạt động trong các cơ quan; hầu hết các giao
dịch của các cơ quan hành chính Nhà nước được thực hiện trên môi trường điện
tử, mọi lúc, mọi nơi, dựa trên các ứng dụng truyền thông đa phương tiện; hầu
hết các dịch vụ công được cung cấp trực tuyến trên Mạng thông tin điện tử hành
chính của Chính phủ ở mức độ 3 và 4, đáp ứng nhu cầu thực tế, phục vụ người
dân và doanh nghiệp mọi lúc, mọi nơi, dựa trên nhiều phương tiện khác
90
nhau"[14, tr.6-7]. Như vậy, việc ứng dụng CNTT vào công tác cải cách hành
chính (CCHC) mà trọng tâm là ứng dụng dịch vụ công trực tuyến mức độ 3 và 4
đã từng bước được đưa vào thực hiện.
Ngày 13/6/2011, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 43/2011/NĐ-CP
Quy định về cung cấp thông tin và dịch vụ công trực tuyến trên trang thông
tin điện tử hoặc cổng thông tin điện tử của cơ quan Nhà nước;
Văn bản số 3386/BTTTT-THH ngày 20/11/2014 của Bộ Thông tin và
Truyền thông về việc xây dựng lộ trình cung cấp dịch vụ công trực tuyến theo
qui định của Nghị định 43/2011/NĐ-CP;
Văn bản số 1178/BTTTT-THH ngày 21/4/2015 của Bộ Thông tin và
Truyền thông về việc Ban hành Khung Kiến trúc Chính phủ điện tử Việt
Nam, Phiên bản 1.0;
Ngày 14/10/2015, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 36a/NQ-CP về
Chính phủ điện tử. Trong đó đặt chỉ tiêu “Phấn đấu đến hết năm 2016 các bộ,
ngành Trung ương có 100% các dịch vụ công được cung cấp trực tuyến mức
độ 3, một số dịch vụ công phổ biến, liên quan nhiều tới người dân và doanh
nghiệp được cung cấp ở mức độ 4”[19,tr. 4];
Mới đây nhất, ngày 26/10/2015, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành
Quyết định số 1819/QĐ-TTg Phê duyệt Chương trình quốc gia về ứng dụng
CNTT trong hoạt động của cơ quan Nhà nước giai đoạn 2016-2020. Trong đó
đặt mục tiêu “đến hết năm 2020, 30% hồ sơ thủ tục hành chính được xử lý
trực tuyến tại mức độ 4; 95% hồ sơ khai thuế của doanh nghiệp được nộp qua
mạng” [34, tr.2].
Có thể nói, quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước nêu trên là
căn cứ pháp lý quan trọng tạo điều kiện thông thoáng trong việc quản lý, thúc
đẩy lĩnh vực CNTT-TT nói chung và thực hiện DVCTT nói riêng phát triển,
nâng cao chất lượng phục vụ nhân dân của Nhà nước.
91
3.1.2. Mục tiêu đổi mới và nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ
công trực tuyến ở Bộ Nông nghiệp và PTNT
Mục tiêu tổng quát
Ứng dụng CNTT góp phần quan trọng thực hiện ba đột phá chiến lược
giai đoạn 2016-2020 của Bộ là: (1) Triển khai có hiệu quả chương trình cải
cách hành chính; (2) Gắn kết chặt chẽ với việc xây dựng Chính phủ điện tử
của Bộ; (3) Cung cấp có hiệu quả thiết thực DVCTT tập trung ở mức độ cao
trên nhiều lĩnh vực của Bộ.
Đẩy mạnh triển khai thực hiện cung cấp DVCTT mức độ cao, nhằm
nâng cao chất lượng hoạt động của Bộ gắn với quá trình CCHC, hướng tới Bộ
điện tử và góp phần nâng cao chất lượng ngành nông nghiệp Việt Nam theo
hướng hiệu quả, bền vững, ngày một đáp ứng tốt hơn yêu cầu của người dân
và doanh nghiệp.
Cung cấp DVCTT mức độ 3 và 4, đáp ứng nhu cầu thực tế, phục vụ
người dân và doanh nghiệp mọi lúc, mọi nơi, dựa trên nhiều phương tiện khác
nhau. Ứng dụng CNTT để giảm thời gian, số lần trong một năm người dân,
doanh nghiệp phải đến trực tiếp Bộ thực hiện các TTHC thuộc phạm vi
QLNN của Bộ.
Mục tiêu cụ thể
Một là, Xây dựng Cổng dịch vụ công trực tuyến đồng bộ và tập trung
của Bộ Nông nghiệp và PTNT tại một địa chỉ duy nhất để tạo lập, quản lý,
cung cấp các DVCTT từ mức 1 đến mức 4 trên môi trường mạng.
Hai là, Xây dựng các thành phần dùng chung của hệ thống, bao gồm:
cơ chế xác thực người dùng và đăng nhập một lần tập trung (Single Sign On),
cơ chế tạo lập, điều chỉnh các quy trình, mẫu biểu của dịch vụ công, phân
quyền truy cập tập trung ở các mức chức năng (hệ điều hành mạng và cơ sở
dữ liệu), cung cấp và tiếp nhận biểu mẫu điện tử, trả kết quả xử lý hồ sơ, quản
lý tiến trình xử lý hồ sơ, hệ thống các báo cáo thống kê, tích hợp dịch vụ chữ
ký số và thanh toán trực tuyến.
92
Ba là, Phấn đấu giai đoạn 2016-2020, tiếp tục triển khai xây dựng, cung
cấp thêm DVCTT mức độ cao (mức độ 4) cho 80 TTHC theo lộ trình cung
cấp DVCTT của Bộ thuộc các lĩnh vực: trồng trọt, chăn nuôi, bảo vệ thực vật,
thú y, quản lý chất lượng nông lâm sản và thủy sản, lâm nghiệp, thủy sản
(trong đó có 27 TTHC trong hệ thống Hải quan một cửa Quốc gia tại Bộ; 53
TTHC trong hệ thống DVCTT của Bộ).
Bốn là, Tích hợp, kết nối các DVCTT mức độ 3, 4 sẵn có của các đơn
vị đã triển khai lên Cổng dịch vụ công trực tuyến của Bộ nhằm quản lý tập
trung và thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp.
Năm là, Cung cấp giải pháp sẵn sàng kết nối, liên thông với các hệ
thống khác, gồm: Cổng Thông tin điện tử của Bộ, Cổng Hải quan một cửa
quốc gia, Cổng Dịch vụ công quốc gia.
Sáu là, Đào tạo, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ CNTT chuyên
trách để quản lý, vận hành hệ thống phần mềm DVCTT của Bộ hoạt động ổn
định thông suốt.
Bảy là, Thực hiện tốt việc đào tạo, hướng dẫn chi tiết, tỉ mỉ cho người
dân, tổ chức và doanh nghiệp sử dụng thành thạo các chức năng của phần
mềm DVCTT của Bộ cung cấp; Tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền
và nâng cao nhận thức của người sử dụng về những lợi ích của DVCTT của
Bộ mang lại.
3.2. Các nhóm giải pháp thực hiện
3.2.1. Giải pháp về kỹ thuật, công nghệ
Từ thực trạng cung cấp DVCTT của Bộ Nông nghiệp và PTNT; Căn cứ
vào Nghị quyết số 36a/NQ-CP ngày 14/10/2015 của Chính phủ về Chính phủ
điện tử; Văn bản số 1178/BTTTT-THH ngày 21/4/2015 của Bộ Thông tin và
Truyền thông về việc Ban hành Khung Kiến trúc Chính phủ điện tử Việt
93
Nam, Phiên bản 1.0 và Các văn bản pháp lý định hướng liên quan của Bộ
Nông nghiệp và PTNT về lộ trình triển khai xây dựng và cung cấp DVCTT
của Bộ phù hợp với quy hoạch, lộ trình và định hướng của Chính phủ. Xét
trên quy mô cấp Bộ, hình 3.1 là mô hình tổng thể Hệ thống cung cấp DVCTT
của Bộ trong thời gian tới.
InternetInternet
Doanh nghiêp/tổ chức i /t
DVC các
đơn vị đã
có
Một cửa điện tử
các cơ quan, đơn vị
t i t
, ịHệ thống khác
(Cổng TTĐT của Bộ. Cổng DVC quốc gia,
Hải quan một cửa quốc gia...)
t
( . i ,
i t i ...)
Doanh nghiệp/tổ
chức
Tích hợp/liên thông
Tích hợp, liên thông
Tích
h
ợ
p
, liên
th
ô
n
g
Thanh toán
điện tử Tích hợp, liên thông
Thanh
toán
Hệ thống DVC
tập trung
Cổng DVC
Hình 3.1: Mô hình tổng thể của Hệ thống cung cấp dịch vụ công trực tuyến
của Bộ Nông nghiệp và PTNT
Giải thích mô hình:
Hệ thống DVCTT của Bộ Nông nghiệp và PTNT sẽ được xây dựng,
triển khai tập trung. Hệ thống bao gồm 4 thành phần: Cổng DVCTT cho toàn
ngành Nông nghiệp và PTNT, DVCTT của các đơn vị (dành cho các đơn vị
của thuộc Bộ), hệ thống khác và người dân, doanh nghiệp tham gia sử dụng
DVCTT, cụ thể như sau:
94
(1) Cổng dịch vụ công: Là hệ thống tập trung của toàn ngành Nông
nghiệp và PTNT (từ cấp bộ, tỉnh và địa phương), các DVCTT mức 1,2,3,4 sẽ
được tích hợp tập trung tại đây và là kênh giao dịch điện tử và điều phối các
nghiệp vụ xử lý liên quan đến các cơ quan, đơn vị. Các chức năng chính bao
gồm tiếp nhận hồ sơ, tra cứu trạng thái xử lý hồ sơ, trả kết quả, điều phối thủ
tục, các DVCTT mức độ 1, 2 và tổng hợp thống kê báo cáo liên quan.
+ DVC tập trung và DVC của các đơn vị: Là nơi xử lý nghiệp vụ sau
khi tiếp nhận hồ sơ tại Cổng DVCTT và trực tiếp thụ lý giải quyết theo quy
trình tại cơ quan, đơn vị thụ lý. Sau khi có kết quả thụ lý hệ thống sẽ cập trạng
thái xử lý hồ sơ lên Cổng DVCTT để thông báo cho người dân, doanh nghiệp.
Đối với các cơ quan, đơn vị đã có DVCTT mức độ 3 và 4 hệ thống sẽ tích hợp
để lấy thông tin tra cứu cho doanh nghiệp.
+ Hệ thống khác: Bao gồm Cổng DVCTT quốc gia, Cổng TTĐT của
Bộ, Cổng Thông tin DVCTT Hải quan một cửa quốc giacác hệ thống này
sẽ được tích hợp qua giải pháp tích hợp và chia sẻ thông tin (trục tích hợp
ESB-Enterprise Service Bus hoặc dịch vụ Webservice,) nhằm gửi/nhận dữ
liệu giữa cách hệ thống với nhau.
+ Thanh toán điện tử: Thành phần này được tích hợp vào hệ thống để
thực hiện chức năng thanh toán trực tuyến. Giải pháp ở đây sử dụng nhà cung
cấp dịch vụ thanh toán trực tuyến giữa doanh nghiệp với cơ quan Nhà nước
làm trung gian thực hiện giao dịch.
+ Một cửa điện tử: Là nơi trực tiếp tiếp nhận hồ sơ của doanh nghiệp từ
nhiều kênh (bao gồm trực tiếp nộp, qua hệ thống dịch vụ công) sẽ thụ lý giải
quyết các thủ tục từ hệ thống gửi đến và trả kết quả qua hệ thống DVC.
+ Công dân, doanh nghiệp: Thực hiện các quy trình sau:
* Công dân, doanh nghiệp có thể thực hiện việc đăng ký hồ sơ bằng hai
hình thức: đăng ký trực tiếp tại một cửa các đơn vị quản lý Nhà nước (Tổng
cục, Cục) của Bộ; đăng ký trên hệ thống DVCTT của Bộ.
95
* Hồ sơ được công dân, doanh nghiệp đăng ký trên hệ thống DVCTT
Bộ sẽ được đẩy về theo đúng phần mềm xử lý nghiệp vụ của các đơn vị (Tổng
cục, Cục) tương ứng mà người dân đăng ký để xử lý.
* Hồ sơ được công dân, doanh nghiệp đăng ký trực tiếp tại một cửa
điện tử của các các cơ quan, đơn vị (Tổng cục, Cục) sẽ được các đơn vị
nhận xử lý trực tiếp.
* Hệ thống DVCTT của Bộ còn có thể kết nối, trao đổi dữ liệu với các
hệ thống khác bên ngoài như: Cổng DVCTT quốc gia, Hệ thống hải quan một
cửa quốc gia, Cổng thông tin điện tử của Bộ
* Hệ thống thanh toán trực tuyến sử dụng đơn vị trung gian cung cấp dịch
vụ thanh toán điện tử giữa ngân hàng – doanh nghiệp – cơ quan Nhà nước.
Ngoài ra, hệ thống DVCTT của Bộ còn có thể truy cập khai thác thông
tin quá trình xử lý của hồ sơ từ một cửa điện tử của các các cơ quan, đơn vị
(Tổng cục, Cục). Các thông tin này phục vụ cho công dân, doanh nghiệp
khi họ có nhu cầu tra cứu thông tin và xem báo cáo, thống kê.
Vậy, để đảm bảo nền tảng cho việc hình thành và xây dựng được mô
hình trên trong thời gian tới Bộ cần làm tốt những công việc sau:
a) Hoàn thiện môi trường cơ sở hạ tầng kỹ thuật đảm bảo cho các
hoạt đông cung cấp dịch vụ công trực tuyến của Bộ được diễn ra đồng bộ,
thông suốt, liên tục, thuận lợi:
- Hoàn thiện, nâng cấp hệ thống mạng LAN cho tất cả các đơn vị
thuộc Bộ và kết nối WAN giữa cụm các đơn vị tại Số 2 Ngọc Hà, 10 Nguyễn
Công Hoan và 16 Thụy khuê, tận dụng mạng truyền số liệu chuyên dùng của
các cơ quan Đảng và Nhà nước (CPNET) trong việc kết nối các mạng LAN
của các Cục chuyên ngành trên địa bàn Hà Nội, các Sở Nông nghiệp và PTNT
tạo thành mạng WAN thống nhất của Bộ làm nền tảng cho việc triển khai các
ứng dụng CNTT, DVCTT của Bộ được thống nhất, thông suốt, đảm bảo tất cả
96
các cơ quan, đơn vị trực thuộc Bộ đều có thể truy cập, kết nối, chia sẻ thông
tin, giao dịch thư điện tử công vụ,tra cứu thông tin và khai thác các cơ sở dữ
liệu dùng chung của Bộ phù hợp với Khung kiến trúc Chính phủ điện tử;
- Tăng cường trang bị thay thế máy tính (cá nhân, máy chủ) không đáp
ứng năng lực xử lý, các thiết bị tin học và các thiết bị an toàn ( báo cháy, báo
nổ, chống sét,..), cung cấp các phần mềm có bản quyền như hệ điều hành
Windows, Microsoft Office, phần mềm diệt virus ..., để đảm bảo các máy tính
trong bộ được cài đặt các phần mềm bản quyền đồng bộ cho các đơn vị trực
thuộc Bộ, các cán bộ, công chức thuộc Bộ.
- Xây dựng và tăng cường trang thiết bị cho hệ thống an toàn an ninh
thông tin mạng WAN chung của Bộ, trang bị phần mềm rà soát, giám sát bảo
mật,hệ thống sao lưu dữ liệu cho hạ tầng mạng chung của Bộ đảm bảo cho tất
cả các giao dịch trên mạng WAN của Bộ được diễn ra an toàn;
- Phối hợp với Ban cơ yếu Chính phủ tiếp tục nhân rộng ứng dụng việc
ký số trong các giao dịch điện tử và giải pháp chữ ký số cho các DVCTT mức
4 của Bộ đi vào thực chất.
- Tiếp tục duy trì sự phối hợp với Bộ Thông tin và Truyền thông, A68-
Bộ Công an và các cơ quan liên quan trong việc diễn tập, phòng, chống và
khắc phục những hậu quả do việc mất an toàn an ninh gây ra nhằm đảm bảo
điều kiện tốt nhất cho các hoạt động ứng dụng CNTT, DVCTT của Bộ được
diễn ra an toàn,hiệu quả và thông suốt.
b) Phát triển và hoàn hiện các ứng dụng CNTT nội bộ phục vụ công tác
quản lý chỉ đạo điều hành chung của Bộ:
- Nâng cấp, hoàn thiện và mở rộng phạm vi ứng dụng phần mềm quản
lý văn bản và tác nghiệp điều hành (văn phòng điện tử) tới các Viện nghiên
cứu, các Sở Nông nghiệp và PTNT để thống nhất thực hiện các chế độ báo
cáo, chỉ đạo điều hành, xử lý văn bản, trao đổi thông tin qua môi trường
97
mạng, đồng thời triển khai ứng dụng chứng thực điện tử và chữ ký số gắn với
các giao dịch nêu trên.
- Nâng cấp chất lượng hệ thống thư điện tử công vụ của Bộ, thống nhất
chỉ sử dụng duy nhất một hệ thống thư điện tử công vụ của Bộ với tên miền
(@mard.gov.vn), đảm bảo mỗi cán bộ, công chức được cấp 01 địa chỉ hòm
thư công vụ và thường xuyên sử dụng thư điện tử công vụ trong giao dịch
công việc hàng ngày.
- Xây dựng các hệ thống báo cáo trực tuyến phục vụ công tác chỉ đạo
điều hành tại các cơ quan quản lý Nhà nước của Bộ Nông nghiệp và PTNT:
ưu tiên cho các lĩnh vực chưa có hệ thống báo cáo trực tuyến như chăn nuôi,
thú y, bảo vệ thực vật, quản lý đề tài Khoa học công nghệ; hoàn thiện phần
mềm báo cáo thống kê trực tuyến của Bộ; phần mềm CSDL thị trường nông
sản; Các hệ thống này được thiết kế để phù hợp với khung kiến trúc chính phủ
điện tử và sẵn sàng tích hợp cho giai đoạn sau.
c) Phát triển và hoàn hiện các ứng dụng CNTT phục vụ người dân và
doanh nghiệp:
- Các đơn vị thuộc Bộ có Cổng/Trang thông tin điện tử cung cấp đầy đủ
thông tin theo Điều 28 của Luật Công nghệ thông tin, triển khai xây dựng,
cung cấp dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, 4 và cơ chế hải quan một cửa
quốc gia theo Kế hoạch của Bộ.
- Hoàn thiện việc xây dựng Cổng DVCTT của Bộ tập trung tại một địa
chỉ duy nhất.
- Xác định thứ tự ưu tiên từng TTHC thực hiện cung cấp DVCTT mức
độ 3 và 4 tại các đơn vị, đảm bảo tính hiệu quả, tính khả thi theo một số tiêu
chí như: Những TTHC thuộc thẩm quyền của Bộ thực hiện tại các đơn vị liên
quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh của người dân, doanh nghiệp; Ưu
tiên triển khai trước những TTHC có tần suất, số lượng hồ sơ giải quyết lớn
98
trong năm; TTHC có tính ổn định tương đối (như văn bản qui định liên quan
ít thay đổi); Những TTHC có quy trình, thủ tục hồ sơ không quá phức tạp, dễ
áp dụng cho người dân, doanh nghiệp và cơ quan quản lý.
- Song song với việc phát triển hệ thống DVCTT của Bộ theo lộ trình thì tiêp
tục triển khai mở rộng cơ chế Hải quan một cửa quốc gia tại Bộ Nông nghiệp và
PTNT như theo lộ trình của Chính phủ: xây dựng phần mềm cổng điều phối thông
tin, xây dựng 27 nhóm phần mềm dịch vụ công trực tuyến tại 7 đơn vị thuộc Bộ là:
02 Tổng cục: Lâm nghiệp, Thủy sản và 05 Cục chuyên ngành: Trồng trọt, Chăn
nuôi, Bảo vệ thực vật, Thú y, Quản lý chất lượng NLS và TS.
- Xây dựng hệ thống và hướng dẫn thực hiện qua mạng điện tử trên
toàn quốc đối với việc kiểm dịch động vật, sản phẩm động vật, kiểm tra vệ
sinh thú y, Kiểm dịch thực vật, quản lý vật tư nông nghiệp và an toàn thực
phẩm; tích hợp các thông tin nêu trên lên Cổng dịch vụ công quốc gia.
3.2.2 . Giải pháp về nguồn nhân lực CNTT
Tính chuyên môn hóa và nghề nghiệp cao là một trong những đặc trưng
cơ bản của quản lý hành chính công, là một yêu cầu bắt buộc của CQHCNN,
và cũng là đòi hỏi của một nền hành chính phát triển, khoa học. Do đó, việc
nâng cao chất lượng đội ngũ CBCC thực hiện quản lý và cung cấp DVCTT
được xác định, chú trọng như:
- Đặt yêu cầu về đạo đức công vụ lên hàng đầu nhằm hạn chế tiêu cực,
nhũng nhiễu, thái độ không đúng mực trong giao tiếp. Mặt khác, chất lượng
cung cấp dịch vụ được quyết định bởi nhiều yếu tố, trong đó có thái độ giao
tiếp đối với khách hàng. Vì vậy, cần xây dựng bộ tiêu chí về giao tiếp, thay
đổi tư duy của đội ngũ CBCC từ giải quyết TTHC là thực hiện quyền lực Nhà
nước giao phó sang tư duy phục vụ khách hàng là công dân, doanh nghiệp.
- Đào tạo bổ sung về chuyên môn nghiệp vụ đảm bảo nắm đầy đủ TTHC
theo từng nhóm ngành đối với công chức tiếp nhận và trả kết quả. Thường xuyên
bổ sung kiến thức về sử dụng trang thiết bị CNTT, phần mềm ứng dụng.
99
- Bên cạnh đó, đào tạo đội ngũ kỹ thuật để tiếp nhận các phần mềm DVCTT,
đảm bảo khả năng hỗ trợ vận hành, chỉnh sửa, bổ sung biểu mẫu khi thay đổi quy
trình, biểu mẫu một cách chủ động không phụ thuộc vào đơn vị ngoài.
- Kiện toàn củng cố mạng lưới cán bộ đầu mối về CNTT ,thu hút mới
và phát triển nguồn nhân lực CNTT hiện tại đảm đảm đạt số lượng và chất
lượng, đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng, tiếp thu, làm chủ và sáng tạo ra
những công nghệ mới.
3.2.3 . Giải pháp về tổ chức, chính sách
- Tăng số lượng cuộc họp của Ban chỉ đạo CNTT của Bộ ít nhất 2
cuộc/năm nhằm chỉ đạo trực tiếp, đôn đốc, đánh giá và giám sát việc thực
hiện DVCTT của các cấp lãnh đạo Bộ và các đơn vị có thẩm quyền.
- Tăng cường chỉ đạo trực tiếp việc triển khai thực hiện Kế hoạch ứng
dụng CNTT giai đoạn 2016-2020; Các Quyết định, Kế hoạch hành động và
các Văn bản liên quan của Bộ về Phê duyệt lộ trình cung cấp DVCTT năm
2015 và định hướng đến năm 2020 đảm bảo yêu cầu, chất lượng và hiệu quả;
gắn mức độ hoàn thành nhiệm vụ ứng dụng CNTT, thực hiện DVCTT với
việc xét thi đua, khen thưởng đối với Thủ trưởng, tập thể và cá nhân của các
đơn vị triển khai thực hiện;
- Giao đơn vị chuyên trách CNTT của Bộ quản lý, duy trì và vận hành
các hệ thống DVCTT, hệ thống thông tin, CSDL chuyên ngành, của Bộ
một cách tập trung; đồng thời quản lý và vận hành toàn bộ hạ tầng mạng bao
gồm cả kết nối ra Internet nhằm đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất, an toàn an
ninh thông tin, phòng chống virus chung cho toàn hạ tầng CNTT của Bộ;
- Thường xuyên theo dõi, kiểm tra chất lượng các dự án CNTT, đánh giá
tác động sau 3 năm vận hành theo Nghị định số 84/2015/NĐ-CP ngày 30/9/2015
của Chính phủ về giám sát và đánh giá đầu tư. Xem xét kỷ luật với những đơn vị
được đầu tư dự án CNTT nhưng không vận hành, ứng dụng hiệu quả;
100
- Cần đẩy nhanh xây dựng quy chế vận hành, khai thác và sử dụng hệ
thống DVCTT của Bộ; Hướng dẫn các đơn vị thực hiện DVCTT mức độ 3 và
4 (hiện các TTHC thực hiện DVCTT mức độ 3 và 4 trong phương thức thực
hiện chưa có quy định yêu cầu thực hiện bằng hồ sơ điện tử);
- Rà soát, ban hành các quy định, quy chế về ứng dụng CNTT gắn với
việc cải cách hành chính nhằm quản lý, vận hành, khai thác có hiệu quả các
hệ thống thông tin chuyên ngành trên môi trường mạng phục vụ quản lý, điều
hành của Bộ và các đơn vị trực thuộc. Xây dựng, ban hành các quy chế, quy
định trong việc khai thác và sử dụng các phần mềm chuyên ngành. Xây dựng,
ban hành các chính sách, quy chế đảm bảo an toàn, an ninh thông tin trong
hoạt động của Bộ và các cơ quan, đơn vị trực thuộc;
- Hoàn thiện các cơ chế, chính sách hỗ trợ việc phát triển và ứng dụng
CNTT của Bộ như thực hiện chuẩn hóa quy trình nghiệp vụ; ban hành các
chuẩn thông tin; Xây dựng cơ chế, chính sách ưu đãi đối với đội ngũ cán bộ
chuyên trách về CNTT của Bộ;
- Việc xây dựng, xét duyệt, triển khai thực hiện các nhiệm vụ, chương
trình, dự án ứng dụng CNTT nói chung và DVCTT nói riêng (bao gồm cả các
chương trình hợp tác quốc tế) phải đáp ứng nội dung của Kế hoạch ứng dụng
CNTT của Bộ giai đoạn 2016-2020; lộ trình cung cấp DVCTT của Bộ và phù
hợp với nhu cầu thực tiễn, đảm bảo kế thừa được kết quả của các nhiệm vụ,
chương trình, dự án đã được triển khai trước đó để đảm bảo sự đồng bộ về cơ
sở hạ tầng CNTT, tương thích về công nghệ phát triển, tránh tình trạng phân
tán, xung đột về thông tin, dữ liệu.
3.2.4 . Giải pháp về tài chính
- Kinh phí thực hiện từ các nguồn vốn:
+ Vốn Ngân sách Nhà nước: Đầu tư phát triển trung hạn 2016-2020,
Chính phủ điện tử, Chương trình Mục tiêu quốc gia về CNTT, nguồn kinh phí sự
nghiệp chi thường xuyên, Sự nghiệp KHCN, Cải cách hành chính;
101
+ Huy động tối đa các nguồn vồn hợp tác quốc tế như: vốn ODA, Dự
án nước ngoài, ...ưu tiên nhiệm vụ, dự án về triển khai, xây dựng và cung cấp
DVCTT quan trọng, cần thiết triển khai để tạo nền tảng cho các hoạt động
tiếp theo.
3.2.5 . Giải pháp thông tin, tuyên truyền và nâng cao nhận thức
- Bộ Nông nghiệp và PTNT phối hợp với cơ quan thông tin truyền
thông cần tăng cường và đổi mới công tác tuyên truyền, phổ biến, nâng cao
nhận thức và kiến thức về những lợi ích mạng lại của việc ứng dụng CNTT
nói chung và cung cấp DVCTT phục vụ người dân và doanh nghiệp nói riêng.
Xây dựng và nhân rộng gương điển hình tiên tiến của đơn vị trong hoạt động
cung cấp DVCTT.
- Tuyên truyền nâng cao hiểu biết, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của
CBCCVC về vai trò, tiện ích, hiệu quả của việc ứng dụng CNTT trong quản
lý, chỉ đạo và điều hành.
- Tổ chức các hội nghị, hội thảo chuyên đề về DVCTT cho các tổ chức,
doanh nghiệp, cán bộ đầu mối, chuyên trách về CNTT của các đơn vị thuộc
Bộ nhằm tạo điều kiện trao đổi, học hỏi lẫn nhau, hướng dẫn sử dụng một
cách chi tiết, giải đáp vướng mắc tại mỗi đơn vị về triển khai thực hiện và ứng
dụng DVCTT.
3.2.6 . Giải pháp khác
a) Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, đánh giá độc lập về chất
lượng cung cấp DVCTT
Đối với CQNN như Bộ Nông nghiệp và PTNT, để công tác kiểm tra,
giám sát được thực hiện tốt, cần xây dựng quy định về cơ chế báo cáo, cập
nhật tự động về các giao dịch của từng đơn vị trên hệ thống mạng internet về
một đầu mối để phục vụ công tác kiểm tra, giám sát định kỳ và không định
kỳ. Có như vậy mới thúc đẩy, cải thiện được nỗ lực cung cấp dịch vụ ngày
càng chất lượng của các đơn vị.
102
Để nâng cao chất lượng DVCTT của Bộ nên tổ chức việc đánh giá mức
độ hài lòng và chất lượng của DVCTT căn cứ theo tiêu chuẩn chất lượng đã
được công bố để xây dựng tiêu chí đánh giá hợp lý. Công tác đánh giá mức độ
hài lòng và chất lượng dịch vụ cần được thực hiện bởi một tổ chức nghiên cứu
mang tính độc lập, thậm chí mời các chuyên gia uy tín tham gia, thực hiện
liên tục trong năm theo định kỳ quý và tổng kết cả năm với đối tượng sử dụng
dịch vụ là công dân, tổ chức, doanh nghiệp và đảm bảo điều kiện đối tượng sử
dụng có phát sinh giao dịch với cơ quan, đơn vị Nhà nước trong kỳ đánh giá.
Báo cáo đánh giá độc lập về chất lượng DVCTT còn là cơ sở khoa học và
thực tiễn cho việc xây dựng chiến lược, từ việc đánh giá được mức độ hài
lòng của người dân và doanh nghiệp đối với các DVCTT của Bộ cung cấp, đó
là sở cứ đẻ hoàn thiện công tác quản lý của Bộ về cung cấp các DVCTT trong
nhiều lĩnh vực khác nhau.
b) Thực hiện việc xã hội hóa đầu tư thực hiện DVCTT
Xã hội hóa DVC là xu thế hiện nay trên thế giới và được nhiều nước
thực hiện có hiệu quả. Ở nước ta, việc xã hội hóa cung cấp DVC được thực
hiện đối với DVC khu vực sự nghiệp và công ích của ngành giáo dục, y tế, thể
thao... Đối với dịch vụ hành chính công, hiện nay Nhà nước ta cũng đã cho
phép một số tổ chức tư thực hiện cung cấp các dịch vụ như công chứng, đăng
kiểm,... Tuy nhiên, đối với các DVCTT hiện đang được các cơ quan Nhà
nước cung cấp trong đó có Bộ Nông nghiệp và PTNT, vấn đề xã hội hóa đầu
tư DVCTT sẽ gặp nhiều khó khăn bởi làm sao để vừa tạo ra sức hút về cơ chế,
lợi nhuận đối với các nhà đầu tư khi tham gia đầu tư vào việc cung cấp
DVCTT, vừa đảm bảo vai trò chịu trách nhiệm đến cùng của Nhà nước đối
với xã hội về chất lượng dịch vụ được cung cấp. Do đó, giải pháp được đề
xuất là cơ quan Nhà nước nói chung và Bộ Nông nghiệp và PTNT kêu gọi
nhà đầu tư bỏ vốn xây dựng các DVCTT và được hoàn trả thông qua quyền
103
khai thác quảng cáo trực tuyến trên Cổng/Trang TTĐT cung cấp DVCTT
phục vụ người dân, doanh nghiệp và quảng cáo trên tin nhắn điện thoại khi tra
cứu kết quả giải quyết hồ sơ DVCTT.
Đó là đối với các DVCTT mà Chính phủ trong đó có Bộ Nông nghiệp
và PTNT cần phải có kế hoạch xây dựng, kết hợp với khu vực tư nhân triển
khai, cung cấp các DVCTT dưới hình thức cộng tác đôi bên cùng có lợi. Bộ
có thể tổ chức đấu thầu giữa các nhà cung cấp dịch vụ chuyển phát về quyền
khai thác dịch vụ trả hồ sơ và thu phí - lệ phí giải quyết TTHC tận nơi cho
khách hàng để thu một phần kinh phí bù đắp hoặc hỗ trợ cho việc vận hành
các DVCTT. Việc để cho nhiều nhà cung cấp DVCTT tham gia sẽ tạo ra một
môi trường cạnh tranh về chất lượng, cũng như làm giảm chi phí đối với việc
cung cấp DVCTT và việc này vẫn nằm dưới quyền kiểm soát của Cơ quan
Nhà nước và Bộ Nông nghiệp và PTNT.
3.3. Tính khả thi của các giải pháp
Đối với Bộ Nông nghiệp và PTNT:
- Giải pháp đổi mới và nâng cao chất lượng cung cấp DVCTT được
thực hiện thành công sẽ hỗ trợ công tác quản lý hồ sơ, khai báo thủ tục hành
chính trực tiếp qua mạng, thông tin trao đổi giữa tổ chức, cá nhân với đơn vị
xử lý TTHC được thực hiện trên mạng theo quy trình thống nhất, giảm thiểu
chi phí trong các công tác lưu trữ, sao lục và chi phí về thời gian xử lý.
- Nâng cao hiệu quả công tác điều hành tác nghiệp của các cấp lãnh đạo
và các chuyên viên: Việc luân chuyển hồ sơ, văn bản trên mạng rút ngắn thời
gian gửi/nhận và thời gian trao đổi thông tin. Thông tin được cập nhật liên tục
và sắp xếp có hệ thống phục vụ công tác chỉ đạo điều hành của lãnh đạo và
các hoạt động nghiệp vụ của chuyên viên. Hỗ trợ lãnh đạo và chuyên viên
trong việc quản lý, giám sát, kiểm soát các công việc cần thực hiện, nâng cao
chất lượng, hiệu quả quản lý Nhà nước và phối hợp chặt chẽ với các đơn vị
104
liên quan. Lãnh đạo đơn vị thường xuyên theo dõi được tình hình hoạt động
của đơn vị mình, luôn có những báo cáo mới nhất và chính xác nhất. Kho dữ
liệu điện tử với khả năng lưu trữ dữ liệu lớn và khả năng truy xuất dữ liệu
nhanh giúp công tác thống kê, tra cứu được thuận tiện, góp phần vào phát
triển sản xuất và tăng trưởng kinh tế, đáp ứng yêu cầu hội nhập.
- Việc triển khai ứng dụng CNTT, DVCTT sẽ nâng cao trình độ quản lý
chuyên môn, nhân sự với các cấp quản lý của Bộ, các đơn vị thông qua các khoá
đào tạo liên quan đến quản lý dự án, quản lý luồng công việc, chuyên môn...
Đối với tổ chức, doanh nghiệp
- Giải pháp được thực hiện thành công sẽ giảm chi phí đi lại và rút ngắn
thời gian thực hiện TTHC cho các tổ chức, doanh nghiệp: việc khai báo
TTHC trực tiếp qua mạng giúp tổ chức, doanh nghiệp rút ngắn thời gian thực
hiện các TTHC, đơn giản hoá TTHC giúp các doanh nghiệp xuất, nhập khẩu
thực hiện các TTHC một cách thuận tiện.
- Tăng cường năng lực quản lý, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả
xử lý hồ sơ TTHC trong các lĩnh vực, nâng cao tính minh bạch và hiệu quả hoạt
động của bộ máy hành chính Nhà nước, tạo sự đơn giản và thuận tiện cho tổ
chức, doanh nghiệp.
Đối với hoạt động phục vụ người dân, doanh nghiệp
Triển khai DVCTT, Cổng dịch vụ công trực tuyến tập trung này sẽ giúp
người dân, doanh nghiệp có thể giao tiếp với các cơ quan Nhà nước 24/24 giờ
trong ngày, tại bất cứ đâu có kết nối Internet. Các giao dịch trong quá trình xử
lý hồ sơ và cung cấp dịch vụ được thực hiện trên môi trường mạng.
Việc thanh toán lệ phí và nhận kết quả được thực hiện trực tiếp tại cơ
quan Nhà nước cung cấp dịch vụ. Như vậy, người dân, doanh nghiệp chỉ phải
đến duy nhất một lần để thanh toán lệ phí (nếu có) và nhận kết quả được thực
hiện trực tiếp tại Bộ phận “một cửa” của các cơ quan. Qua đó, người dân,
105
doanh nghiệp được sử dụng dịch vụ thuận lợi, tiết kiệm chi phí, thời gian
đăng ký, làm các TTHC. Việc áp dụng DVCTT giúp CQNN giảm được áp lực
công việc, giải quyết công việc nhanh hơn, thuận tiện, khoa học hơn. Các
doanh nghiệp, cá nhân hoặc lãnh đạo các cơ quan có thể trực tiếp theo dõi
được quá trình thực hiện của từng thủ tục và các thủ tục hành chính được đảm
bảo thực hiện đúng thời gian quy định.
Tiểu kết Chƣơng 3
Trên cở sở nội dung Chương 2 đánh giá thực trạng hoạt động cung cấp
DVCTT ở Bộ Nông nghiệp và PTNT, Chương 3 tác giả đưa ra các căn cứ xây
dựng giải pháp đổi mới và nâng cao chất lượng cung cấp dịch công trực tuyến
ở Bộ Nông nghiệp và PTNT và chỉ rõ các nhóm giải pháp thực hiện bao gồm:
Giải pháp về kỹ thuật, công nghệ: Có đưa ra mô hình tổng thể hệ thống
cung cấp DVCTT cho Bộ, chỉ ra các công việc cần thực hiện.
Giải pháp về nguồn nhân lực.
Giải pháp về môi trường, tổ chức chính sách.
Giải pháp về tài chính.
Giải pháp thông tin, tuyên truyền và nâng cao nhận thức
Các giải pháp cần thiết khác.
Bên cạnh đó, tác giả cũng đưa ra tính khả thi của các giải pháp để đảm bảo
khi thực hiện hoạt động cung cấp DVCTT của Bộ sẽ thành công và hiệu quả.
106
KẾT LUẬN
Đổi mới cung cấp dịch vụ công trực tuyến tại Bộ Nông nghiệp và
PTNT là một trọng những nhiệm vụ trọng tâm được các cấp lãnh đạo Bộ, nhất
là đồng chí Bộ trưởng, trưởng ban chỉ đạo CNTT của Bộ đặc biệt quan tâm,
xác định đây là một bước đột phá trong việc đưa ứng dụng CNTT để nâng cao
công tác quản lý, chỉ đạo điều hành chung của Bộ, phục vụ người dân và
doanh nghiệp thông qua việc xử lý và giải quyết các thủ tục hành chính nhanh
chóng, thuận tiện, thực hiện công khai, minh bạch hóa các hoạt động quản lý
Nhà nước của Bộ.
Với mong muốn đẩy mạnh công tác ứng dụng dịch vụ công trực tuyến,
nhất là các dịch vụ công trực tuyến mức độ cao nhằm phát huy tối đa những
tiện tích và thế mạnh của CNTT, hình thành nên phương thức cung cấp các
dịch vụ công trực tuyến hiện đại, nhanh chóng, xuyên suốt và hiệu quả, luận
văn: “Đổi mới cung cấp dịch vụ công trực tuyến ở Bộ Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn” đã tập trung nghiên cứu vào một số vấn đề sau:
Hệ thống cơ sở lý luận về dịch vụ công trực tuyến, cụ thể: tập trung làm
rõ những khái niệm liên quan để làm cơ sở cho quá trình nghiên cứu. Qua đó
chỉ ra mối quan hệ giữa QLHCNN với dịch vụ công trực tuyến, đó là nâng
cao chất lượng cung cấp dịch vụ công trực tuyến là giải pháp hiệu quả, hiệu
lực của QLHCNN và sự tác động qua lại của cung cấp dịch vụ công trực
tuyến đối với QLHCNN để hình thành nền hành chính hiện đại, dân chủ, hiệu
lực, hiệu quả và cung cấp những dịch vụ công tốt nhất cho xã hội.
Ngoài hệ thống cơ sở lý luận làm nền tảng cho việc đổi mới cung cấp
dịch vụ công trực tuyến, luận văn cũng đã đi sâu đánh giá thực trạng các nội
dung liên quan đến việc cung cấp dịch vụ công trực tuyến tại Bộ Nông nghiệp
và PTNT đã thực hiện trong thời gian qua, phân tích những hạn chế và chỉ ra
nguyên nhân khách quan, nguyên nhân chủ quan để từ đó thấy được bức tranh
107
toàn cảnh về công tác tổ chức, xây dựng, quản lý việc cung cấp dịch vụ công
trực tuyến tại Bộ. Trên cơ sở đó, luận văn đã đưa ra các giải pháp đổi mới,
nâng cao chất lượng và hoàn thiện hoạt động cung cấp dịch vụ công trực
tuyến của Bộ.
Hệ thống các giải pháp mà luận văn đưa ra hướng tới giải quyết những
khó khăn, vướng mắc đã gặp trong thực tế triển khai ứng dụng dịch vụ công
trực tuyến tại Bộ, hướng tới mục tiêu xa hơn hơn là hoàn thiện các nội dung
đổi mới, nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ công trực tuyến góp phần sớm
đưa Bộ Nông nghiệp và PTNT trở thành Bộ điện tử. Các giải pháp của luận
văn được phân theo nhóm và có sự bổ trợ lẫn nhau để đạt hiệu quả tối ưu.
Ngoài ra luận văn đưa ra tính khả thi nhằm đảm bảo thực hiện các nội dung
đổi mới, nâng cao chất lượng cung cấp DVCTT của Bộ đạt hiệu quả cao nhất.
Như vậy, việc đổi mới cung cấp dịch vụ công trực tuyến tại Bộ Nông
nghiệp và PTNT sẽ trở thành một nhiệm vụ quan trọng tác động tích cực đến
sự phát triển của ngành, góp phần thực hiện thành công đề án “tái cơ cấu
ngành theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững”; nâng cao
hiệu quả, hiệu lực của quản lý Nhà nước; là kênh giao dịch tin cậy của công
dân, tổ chức và doanh nghiệp góp phần tạo nên nền “hành chính kiến tạo,
phục vụ” phù hợp với chủ trương của Đảng, Nhà nước và Chính phủ.
108
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng việt
1. Bế Trung Anh (2012), chủ nhiệm đề tài khoa học cấp Học viện “Phát
triển CPĐT nhằm nâng cao tính minh bạch của các dịch vụ công”, Học viện
Hành chính Quốc gia, Hà Nội.
2. Đinh Văn Ân - Hoàng Thu Hòa đồng chủ biên (2006), Cuốn sách về
Đổi mới cung ứng dịch vụ công ở Việt Nam, Nxb. Thống kê, Hà Nội.
3. Dương Tôn Bảo (31/8/2016), Giải pháp đẩy mạnh cung cấp và sử
dụng dịch vụ công trực tuyến tại Việt Nam, Bài viết đăng trên Trang tin điện
tử của Cục Tin học hóa, Bộ Thông tin và Truyền thông.
4. Bộ Nông nghiệp và PTNT (tháng 11/2016), Báo cáo đẩy mạnh
CCHC thực hiện tái cơ cấu ngành nông nghiệp.
5. Bộ Nông nghiệp và PTNT (2015), Quyết định số 694/QĐ-BNN-TCCB
ngày 04/3/2015 về Phê duyệt lộ trình cung cấp dịch vụ công trực tuyến của Bộ
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn năm 2015 và định hướng đến năm 2020.
6. Bộ Nông nghiệp và PTNT (2015), Quyết định số 4631/QĐ-BNN-
TCCB ngày 09/11/2015 về Ban hành Kế hoạch Cải cách hành chính của Bộ
Nông nghiệp và PTNT giai đoạn 2016-2020.
7. Bộ Nông nghiệp và PTNT (2011), Quyết định số 2955/QĐ-BNN-KHCN
ngày 02/12/2011 về Phê duyệt Chiến lược phát triển CNTT phục vụ công tác quản
lý Nhà nước của Bộ giai đoạn 2011-2015 và tầm nhìn đến năm 2020.
8. Bộ Nông nghiệp và PTNT (2015), Quyết định số 5134/QĐ-BNN-
KHCN ngày 11/12/2015 về việc Ban hành Kế hoạch thực hiện Nghị quyết số
36a/NQ-CP của Chính phủ.
9. Bộ Nông nghiệp và PTNT (2015), Quyết định số 4332/QĐ-BNN-
KHCN ngày 30/10/2015 phê duyệt kế hoạch ứng dụng CNTT của Bộ Nông
nghiêp và Phát triển nông thôn giai đoạn 2016-2020.
109
10. Bộ Nông nghiệp và PTNT (2016), Quyết định số 63/QĐ-BNN-PC
ngày 11/1/2016 về việc Ban hành danh mục thủ tục hành chính chuẩn hóa
thuộc trách nhiệm quản lý Nhà nước của Bộ Nông nghiệp và PTNT.
11. Bộ Thông tin và Truyền thông đồng chủ trì (2015), Văn bản số
1178/BTTTT-THH ngày 21/4/2015 về việc Ban hành khung Kiến trúc Chính
phủ điện tử Việt Nam phiên bản 1.0.
12. Bộ Chính trị (2014), Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 01/7/2014, về
đẩy mạnh ứng dụng, phát triển CNTT đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và
hội nhập quốc tế.
13. Chính phủ (2015), Nghị quyết số 26/NQ-CP ngày 15/4/ 2015 về
Chương trình hành động hành động của Chính phủ để cụ thể hóa Nghị quyết
quyết số 36-NQ/TW ngày 01/7/2014, về đẩy mạnh ứng dụng, phát triển CNTT
đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và hội nhập quốc tế.
14. Chính phủ (2011), Nghị quyết số 30c/NQ-CP ngày 08/11/2011 về
Chương trình tổng thể cải cách hành chính Nhà nước giai đoạn 2011-2020.
15. Chính phủ (2007), Nghị định số 64/2007 ngày 10/4/2007 về Ứng
dụng CNTT trong hoạt động của cơ quan Nhà nước.
16. Chính phủ (2007), Nghị định số 26/2007/NĐ-CP ngày 15/02/2007
Quy định chi tiết thi hành Luật Giao dịch điện tử về chữ ký số và dịch vụ
chứng thực chữ ký số.
17. Chính phủ (2009), Nghị định số 102/2009/NĐ-CP ngày 06/11/2009
Quy định về quản lý đầu tư ứng dụng CNTT sử dụng nguồn vốn ngân sách
Nhà nước.
18. Chính phủ (2011), Nghị định số 43/2011/NĐ-CP ngày 13/6/2011
Quy định về việc cung cấp thông tin và DVCTT trên trang thông tin điện tử
hoặc cổng thông tin điện tử của cơ quan Nhà nước.
110
19. Chính phủ (2015), Nghị quyết 36a/NQ-CP ngày 14/11/2015 về
Chính phủ điện tử.
20. Phan Thị Thúy Hoa (2012), Các giải pháp vĩ mô nhằm nâng cao
hiệu quả xây dựng Chính phủ điện tử ở Việt Nam, Luận văn thạc sĩ quản lý
công, Học viện hành chính Quốc gia.
21. Hội tin học Việt Nam - Bộ Thông tin và Truyền thông
(2013,2014,2015), Báo cáo đánh giá xếp hạng về ứng dụng và phát triển
CNTT (ICT-INDEX) giữa các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính
phủ; các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; các Ngân hàng Thương mại
và các Tập đoàn kinh tế, Tổng công ty lớn, Nxb. Thông tin và Truyền thông.
22. Tạ Thu Lan (2015), Xây dựng Chính quyền điện tử tại Quận Thanh
Xuân, TP. Hà Nội, Luận văn Thạc sĩ quản lý công, Học viện Hành chính.
23. Lê Chi Mai (2003), Cải cách dịch vụ hành chính công ở Việt Nam,
Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội.
24. Lê Chi Mai (2006), Dịch vụ hành chính công, Nxb. Lý luận chính
trị, Hà Nội.
25. Phan Hằng Nga (2013), Chính phủ điện tử trong cung cấp dịch vụ
công, Luận văn thạc sĩ quản lý công, Học viện hành chính Quốc gia.
26. Mai Thị Phương, Cung cấp dịch vụ công trực tuyến tại Thành phố
Hồ Chí Minh, Luận văn Thạc sĩ, Học viện Hành chính.
27. Quốc hội khóa 11 (2005), Luật Giao dịch điện tử nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam số 51/2005/QH11 ban hành ngày 29/11/2005.
28. Quốc hội khóa 11 (2006), Luật Công nghệ thông tin nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam số 67/2006/QH11ban hành ngày 29/6/2006.
29. Quốc hội khóa 13 (2015), Luật Tổ chức chính phủ nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam số 76/2015/QH13 ban hành ngày 19/6/2015.
111
30. Thủ tướng Chính phủ (2010), Quyết định số 1755/QĐ-TTg ngày
22/09/2010 phê duyệt Đề án “Đưa Việt Nam sớm trở thành nước mạnh về CNTT”.
31. Thủ tướng Chính phủ (2010), Quyết định số 1605/QĐ-TTg ngày
27/8/2010 về Phê duyệt Chương trình quốc gia về ứng dụng công nghệ thông
tin trong hoạt động của cơ quan Nhà nước giai đoạn 2011 – 2015.
32. Thủ tướng Chính phủ (2014), Quyết định số 80/2014/QĐ-TTg ngày
30/12/2014 Quy định thí điểm về thuê dịch vụ CNTT trong cơ quan Nhà nước.
33. Thủ tướng Chính phủ (2014), Quyết định số 80/2014/QĐ-TTg ngày
30 tháng 12 năm 2014 về thí điểm về thuê dịch vụ công nghệ thông tin trong
cơ quan Nhà nước.
34. Thủ tướng Chính phủ (2015), Quyết định số 1819/QĐ-TTg ngày
26/10/2015 về Phê duyệt Chương trình quốc gia về ứng dụng công nghệ
thông tin trong hoạt động của cơ quan Nhà nước giai đoạn 2016 – 2020.
35. Thủ tướng Chính phủ (2013), Quyết định số 899/QĐ-TTg ngày
10/6/2013 về Phê duyệt Đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng nâng
cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững.
36. UNDP Việt Nam (2009), Cải cách nền hành chính Việt Nam: Thực
trạng và giải pháp, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Tài liệu trên mạng Internet
Website của Bộ Thông tin và Truyền thông: www.mic.gov.vn;
Website của Cục Tin học hóa, Bộ Thông tin và Truyền thông:
Website của Bộ Tài chính: www.mof.gov.vn;
Website của Bộ Công thương: www.moit.gov.vn;
Website của Hải quan một cửa quốc gia: https://vnsw.gov.vn;
Website của Chính phủ Úc: www.austrila.gov.vn;
www.bussiness.gov.vn; Chính phủ New Zealand: https://www.govt.nz;
Website của Chính phủ Hoa kỳ: https://www.usa.gov.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_van_doi_moi_cung_cap_dich_vu_cong_truc_tuyen_o_bo_nong.pdf