Có nhiều tổ chức triển khai thực hiện tín dụng ĐTPT của Nhà nước, nhưng NHPT là
tổ chức quan trọng nhất, thực hiện tín dụng ĐTPT của Nhà nước ở quy mô lớn nhất.Việc
triển khai tín dụng ĐTPT của Nhà nước qua NHPT vừa giúp tập trung nguồn lực tín dụng
của Nhà nước hướng vào các nhiệm vụ phát triển trọng tâm mà Nhà nước mong muốn, vừa
chuyên nghiệp hoá quy trình cấp tín dụng Nhà nước. Trong những năm qua, kế tục sự
nghiệp của quỹ Hỗ trợ phát triển tại Chi nhánh Thanh Hoá, Chi nhánh NHPT Thanh Hoá
đã nỗ lực triển khai hoạt động tín dụng ĐTPT của Nhà nước trên địa bàn. Một mặt, theo
nhiệm vụ được phân cấp, Chi nhánh đã huy động được một phần vốn đầu vào hỗ trợ tốt
quá trình cho vay.
130 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2470 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Đổi mới hoạt động tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước tại Chi nhánh Ngân hàng Phát triển Thanh Hoá, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chức tín dụng để thu hồi nợ. Riêng các đơn vị vay vốn cố tình chây ỳ,
có khả năng tài chính, có khả năng trả nợ nhưng không trả cho Chi nhánh thì tiến hành các
thủ tục khởi kiện vi phạm hợp đồng tín dụng theo quy định của pháp luật. Chi nhánh phải
chủ động phối hợp chặt chẽ và kiến nghị với các cơ quan pháp luật ở tỉnh để hỗ trợ thu hồi
nợ; tiến hành thu hồi tài sản để xử lý nợ, bán đấu giá thu hồi vốn cho Nhà nước đối với các
dự án đã dừng sản xuất, không có khả năng trả nợ... nhằm tránh việc tài sản xuống cấp,
gây lãng phí, thất thoát vốn tín dụng ĐTPT của Nhà nước và là động tác cảnh báo các chủ
đầu tư khác có ý chây ỳ trong trả nợ vay.
3.2.5. Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ
Công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ cần phải được thực hiện thường xuyên và kịp
thời, phải coi nó là một trong những hoạt động cơ bản của Chi nhánh. Thông qua công tác
kiểm tra, kiểm soát bảo đảm việc thực hiện nhiệm vụ tại Chi nhánh theo đúng quy định.
Hàng năm, Chi nhánh nên tổ chức kiểm tra chéo nội bộ giữa các phòng trong Chi nhánh để
nâng cao chất lượng từng hoạt động nghiệp vụ, công tác lưu giữ hồ sơ, thống kê số liệu,…
tổ chức thực hiện công tác chuyên môn vừa khoa học vừa đảm bảo tính chính xác, hợp
pháp của công việc.
Công tác kiểm tra, kiểm soát có thể tiến hành định kỳ hoặc đột xuất nhằm nâng cao
trách nhiệm của cán bộ trong Chi nhánh, tăng hiệu quả công việc, qua đó phát hiện và xử
lý kịp thời các thiếu sót nếu có, hay bổ sung, hoàn thiện các vấn đề chưa rõ ràng của hồ sơ,
chuẩn hoá hồ sơ tín dụng, rút kinh nghiệm cho việc thực hiện công việc trong thời gian
sau.
Công tác kiểm tra giám sát giúp cho công tác đào tạo cán bộ, tìm ra các cán bộ có
năng lực cần được bồi dưỡng, phát triển; hay đào tạo thêm cho các cán bộ còn chưa đủ
kinh nghiệm; tạo điều kiện trao đổi kinh nghiệm giữa các cán bộ trong cùng phòng, giữa
các phòng với nhau.
Ngoài ra, công tác này giúp cho lãnh đạo Chi nhánh nắm bắt sâu sát với tình hình
hoạt động của Chi nhánh, tâm tư nguyện vọng của cán bộ để điều hành công việc có chất
lượng và sát thực hơn; giúp cho công tác kiểm tra giám sát hàng năm được thực hiện
nhanh và có hiệu quả.
- Để nâng cao hiệu quả hoạt động kiểm tra giám sát, Chi nhánh cần phải lựa chọn một
cán bộ có năng lực, có kinh nghiệm thực tiễn và am hiểu tất cả các nghiệp vụ, đặc biệt là
nghiệp vụ thẩm định và cho vay đầu tư để bổ sung thêm cho bộ phận làm công tác kiểm tra
giám sát vốn hiện tại chỉ có một người.
- Để nâng cao tính độc lập, khách quan của cán bộ kiểm tra nội bộ ở Chi nhánh cần
giao nhiệm vụ kiểm tra cho những cán bộ không liên quan đến hoạt động cho vay ĐTPT
và các hoạt động nghiệp vụ khác của Chi nhánh.
- Đổi mới cách thức kiểm tra: Hoạt động kiểm tra cho vay ĐTPT sẽ không chỉ dừng
lại ở công tác “hậu kiểm”, mà phải được tiến hành đối với toàn bộ các khâu của quá trình
cho vay. Ngay từ khi Chi nhánh tiếp nhận hồ sơ dự án để thẩm định và quyết định cho vay
thì cán bộ kiểm tra nội bộ của Chi nhánh phải bắt tay vào kiểm tra dự án, và hoạt động sẽ
được thực hiện liên tục đối với dự án đó cho đến khi thanh lý hợp đồng tín dụng. Việc thực
hiện kiểm tra đối với toàn bộ các khâu trong quá trình cho vay sẽ giúp phát hiện sớm các
sai sót để kịp thời chấn chỉnh, từ đó có thể phòng ngừa có hiệu quả đối với các rủi ro có
thể nảy sinh.
3.2.6. Chú trọng công tác pháp chế tại Chi nhánh
Công tác pháp chế là một trong những nguyên tắc tổ chức và hoạt động của hệ thống
NHPT. Trước yêu cầu đổi mới ở đất nước ta, một khối lượng lớn Luật, văn bản pháp quy
của Nhà nước đã được ban hành (Luật doanh nghiệp, luật đấu thầu, luật dân sự,...) có liên
quan trực tiếp đến hoạt động của hệ thống NHPT. Điều này cho thấy yêu cầu đặt ra là phải
nhanh chóng tổ chức, phổ biến kiến thức và nâng cao ý thức pháp luật cho cán bộ ở Chi
nhánh.
Hiện tại ở Chi nhánh NHPT Thanh Hoá không có cán bộ làm công tác pháp chế
chuyên trách, cả Chi nhánh chưa có cán bộ nào được đào tạo tốt nghiệp ngành Luật. Chính
vì vậy, Chi nhánh cần sớm đào tạo bổ sung một cán bộ làm chuyên trách công tác pháp chế
để tăng cường công tác pháp chế, phổ biến kiến thức pháp luật giúp cán bộ trong Chi
nhánh nắm bắt kịp thời những vấn đề mới về cơ chế chính sách có liên quan đến hoạt động
tín dụng ĐTPT và tín dụng xuất khẩu của Nhà nước. Hướng dẫn và hỗ trợ pháp luật cho
cán bộ trong công tác soạn thảo, ký kết hợp đồng tín dụng, hợp đồng bảo đảm tiền vay và
hướng dẫn về công chứng chứng thực hợp đồng để hoàn thiện hồ sơ bảo đảm tiền vay
nhằm phòng ngừa và xử lý rủi ro. Mặt khác, trong những trường hợp phải khởi kiện chủ
đầu tư vi phạm hợp đồng tín dụng, cán bộ pháp chế sẽ giúp Chi nhánh nghiên cứu kỹ pháp
luật của Nhà nước tạo cơ sở pháp lý bảo vệ quyền lợi cho Chi nhánh.
3.2.7. Phối hợp chặt chẽ với các Ngân hàng thương mại và xây dựng chiến lược
khách hàng
- Mối quan hệ giữa Chi nhánh NHPT Thanh Hoá với các Ngân hàng thương mại trên
địa bàn cần phải được mở rộng và thể hiện bằng thoả thuận hợp tác. Xây dựng cơ chế phối
hợp đồng tài trợ với các Ngân hàng và tổ chức tài chính nên được hình thành một cách bài
bản và thực chất hơn. Quan hệ được xác định trên cơ sở các bên cùng có lợi, bao gồm: chia
sẻ thông tin, tham vấn thẩm định dự án... Trước hết có thể thực hiện theo cách hỗ trợ thông
tin tín dụng, hợp tác trong tài trợ, hợp tác trong thanh toán. Cụ thể là:
Một là, hợp tác trong việc hỗ trợ các dự án đầu tư. Theo quy định cho vay của NHPT
Việt Nam thì các dự án không thể vay 100% vốn tín dụng ĐTPT của Nhà nước, nên dự án
phải huy động các nguồn vốn khác để đầu tư. Ngoài nguồn vốn tự có hạn chế, thì các
doanh nghiệp phải huy động thêm các nguồn vốn khác để cùng đầu tư, mà chủ yếu là đi
vay các Ngân hàng thương mại. Do đó, việc phối hợp chặt chẽ trong việc đồng tài trợ với
Ngân hàng thương mại là hết sức cần thiết để có thể thực hiện được nhiệm vụ cho vay
ĐTPT, tăng trưởng tín dụng mà vẫn bảo đảm được chất lượng cho vay. Phối hợp từ khâu
thẩm định, đến việc cam kết chấp hành cho vay, lựa chọn nội dung cho vay, giám sát sử
dụng tiền vay và thu hồi nợ vay.
Hai là, phối hợp và hợp tác trong việc bảo lãnh tín dụng đầu tư. Tương tự như hình
thức phối hợp cho vay đầu tư, khi dự án thuộc đối tượng vay vốn tín dụng ĐTPT của Nhà
nước mà chủ đầu tư tiến hành vay vốn tại Ngân hàng thương mại và đề nghị Chi nhánh
bảo lãnh tín dụng. Khi sự phối hợp của Chi nhánh với các Ngân hàng thương mại tốt thì sẽ
giảm thiểu được các thủ tục không cần thiết cho các doanh nghiệp.
Ba là, phối hợp trong việc hỗ trợ sau đầu tư. Như phần trên đã phân tích, đây là chính
sách quan trọng trong việc khuyến khích ngân hàng thương mại tăng trưởng tín dụng trung
dài hạn mà thực chất là tăng trưởng vốn tín dụng cho ĐTPT, do đó nguồn vốn đầu tư toàn
xã hội cũng tăng lên. Mặt khác, thực hiện chính sách này sẽ thúc đẩy các doanh nghiệp trả
nợ vay đúng hạn. Vì vậy, Chi nhánh cần hợp tác chặt chẽ với các ngân hàng thương mại từ
việc xác nhận vốn vay, lãi suất cho vay, số nợ trả theo hợp đồng,... để giúp cho việc cấp
vốn hỗ trợ sau đầu tư đảm bảo đúng, đủ và hạn chế được sự trục lợi có thể của các chủ đầu
tư.
- Cần phải xây dựng chiến lược khách hàng. Việc lựa chọn được ngày càng nhiều
khách hàng là một trong những mục tiêu quan trọng của Chi nhánh. Trước hết, cần phải
tiến hành phân loại khách hàng, chú ý lựa chọn những khách hàng kinh doanh có hiệu quả,
làm ăn có uy tín và sẵn lòng trả nợ đúng hạn, ví dụ như: Công ty cổ phần mía đường Lam
Sơn, công ty cổ phần Dược vật tư y tế Thanh Hoá... Việc lựa chọn khách hàng cần được
thực hiện một cách chủ động và phải được áp dụng cho mọi thành phần kinh tế.
Mặt khác, thông qua quan hệ giao dịch (mở tài khoản, tư vấn...) Chi nhánh nên thiết
lập mối quan hệ mang tính lâu dài với khách hàng của mình, mối quan hệ đó sẽ đem lại lợi
ích cho cả hai bên trong trường hợp phát sinh nhu cầu vay vốn. Đứng trên góc độ khách
hàng thì họ sẽ được ưu đãi về lãi suất, số tiền vay, thời hạn vay; đáp ứng trên góc độ Chi
nhánh thì sẽ tiết kiệm được thời gian, chi phí thu thập thông tin, đồng thời mối quan hệ lâu
dài với khách hàng sẽ giúp Chi nhánh đối phó với những biến động khó lường.
Hàng năm Chi nhánh cần tổ chức hội nghị khách hàng để tăng cường mối quan hệ
với các doanh nghiệp, đánh giá chất lượng đầu tư dự án và có thể huy động được nguồn
vốn tạm thời nhàn rỗi từ chính các doanh nghiệp này.
3.2.8. Cải tiến thủ tục hành chính và công tác tổ chức cán bộ, đẩy mạnh đào tạo
cán bộ và ứng dụng công nghệ thông tin
Về quy trình nghiệp vụ tín dụng cần có sự nghiên cứu, sửa đổi theo phương châm
tránh gây phiền hà cho khách hàng, cụ thể:
- Chủ đầu tư chỉ phải liên hệ với một đầu mối duy nhất, không phải đi lại nhiều lần
và qua nhiều cửa. Chỉ nên giao cho một phòng là đầu mối duy nhất hướng dẫn cho chủ đầu
tư thực hiện các thủ tục theo quy định, đồng thời cũng là đầu mối nhận hồ sơ giải đáp thắc
mắc của chủ đầu tư và thông báo kết quả cho chủ đầu tư.
- Tổ chức, phối hợp chặt chẽ giữa phòng Tổng hợp với các phòng nghiệp vụ để đảm
bảo tính chính xác và khách quan của các chỉ tiêu đánh giá về tính khả thi của dự án đầu tư
và năng lực vay vốn của chủ dự án.
- Yếu tố con người phải hết sức coi trọng, Chi nhánh cần có biện pháp quy hoạch,
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ để nâng cao năng lực nghiệp vụ, đặc biệt là cán bộ làm công tác
thẩm định và công tác tín dụng. Cần phải ban hành những tiêu chuẩn cán bộ trong từng
lĩnh vực công tác để có kế hoạch tuyển dụng, đào tạo và sử dụng cán bộ hợp lý. Đào tạo
cần được tiến hành khoa học với các nội dung mới, phương pháp hiện đại, nội dung đào
tạo cần được tập trung theo hướng kỹ năng nghiệp vụ, tránh tình trạng đào tạo rập khuôn.
Tổ chức các buổi thảo luận, trao đổi để các cán bộ được cử đi học truyền đạt lại kiến thức
cho cán bộ chưa được đi học nhằm nhân rộng kiến thức và nâng cao trách nhiệm của các
cán bộ đã được cử đi học.
- Trên cơ sở biên chế được giao, để nâng cao chất lượng cán bộ, Chi nhánh cần chú
trọng tuyển dụng cán bộ có trình độ đại học loại khá trở lên thuộc các chuyên ngành theo
yêu cầu quy định của NHPT Việt Nam. Có biện pháp khuyến khích cán bộ tự nâng cao
trình độ chuyên môn, ngoại ngữ; có kế hoạch cử cán bộ trẻ, có trình độ năng lực thuộc
diện quy hoạch phát triển lâu dài đi đào tạo, bồi dưỡng nâng cao. Có chính sách khen
thưởng, kỷ luật kịp thời nhằm khuyến khích cán bộ nghiệp vụ say mê với công việc và có
trách nhiệm cao trong công việc.
- Cần có biện pháp luân chuyển cán bộ hợp lý giữa các phòng để Chi nhánh có được
đội ngũ cán bộ đa năng, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của công việc. Trong công tác bổ
nhiệm cán bộ cần bổ nhiệm những cán bộ trẻ, có năng lực, dễ dàng đáp ứng yêu cầu ngày
càng cao của công việc.
- Yêu cầu từng cán bộ ở Chi nhánh phải có sự nhanh nhạy, cập nhật, tổng hợp và
phân tích thông tin để phục vụ quá trình thẩm định dự án và theo dõi sử dụng vốn vay,
đồng thời phải liên tục cập nhật các thành tựu mới, đặc biệt trong lĩnh vực tin học hoá
nghiệp vụ để xây dựng hệ thống thông tin chung của cơ quan.
Tin học hoá hiện nay đang là một vấn đề then chốt đối với bất cứ một tổ chức nào.
Hiện trạng hệ thống tin học và ứng dụng công nghệ thông tin của Chi nhánh còn rất hạn
chế, mỗi cán bộ còn chưa được trang bị một máy riêng. Cả chi nhánh chỉ có một cán bộ tin
học, vì vậy cần phải bổ sung thêm cán bộ đủ mạnh đảm bảo hoạt động của Chi nhánh được
trôi chảy. Cần xây dựng một hệ thống ứng dụng công nghệ thông tin với các phần mềm đủ
mạnh nhằm đáp ứng yêu cầu xử lý nhanh, cung cấp thông tin kịp thời và chính xác, phục
vụ tác nghiệp và chỉ đạo điều hành. Một hệ thống được tin học hoá tốt có nghĩa là đáp ứng
được các yêu cầu về lưu trữ, xử lý và truy xuất thông tin kịp thời, đầy đủ và chính xác.
Đồng thời, hệ thống được tin học hoá còn đòi hỏi có sự kết nối và thông tin với các hệ
thống bên ngoài theo những nguyên tắc bảo mật đủ độ tin cậy. Có một hệ thống được tin
học hoá cao sẽ là một điều kiện hết sức quan trọng để nâng cao chất lượng các mặt công
tác, đặc biệt là thẩm định dự án và quản lý tín dụng.
3.2.9. Thành lập trang WEB cập nhật và trao đổi thông tin
Chi nhánh cần xây dựng trang WEB với các chức năng:
- Phổ cập thông tin về tín dụng ĐTPT của Nhà nước tới các doanh nghiệp. Cần đưa
lên trang Web thông tin về tổ chức, hoạt động của Chi nhánh NHPT Thanh Hoá tới các
doanh nghiệp, tổ chức có liên quan và có quan tâm ở trong và ngoài nước. Qua đó có thể
mở rộng các khách hàng vay vốn, mở rộng các kênh huy động vốn và tăng tính dân chủ
trong quá trình thực hiện tín dụng ĐTPT của Nhà nước trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá.
- Cập nhật các thay đổi về cơ chế chính sách cho chủ đầu tư: Trang Web giúp cho các
chủ đầu tư nắm bắt được các thông tin về cơ chế tín dụng ĐTPT của Nhà nước. Mỗi khi có
thay đổi thì sẽ được thông tin một cách sớm nhất và dễ nhất, cho phép các chủ đầu tư dễ
dàng tiếp cận với Chi nhánh NHPT Thanh Hoá không phải qua trung gian, đồng thời giúp
Chi nhánh giải quyết cho vay nhanh chóng, có hiệu quả hơn.
- Lắng nghe ý kiến góp ý của chủ đầu tư để thực hiện tốt hơn nữa công tác tín dụng
ĐTPT của Nhà nước trên địa bàn tỉnh: Trang Web có mục góp ý và phản ánh ngược chiều
của chủ đầu tư đã giao dịch, đang giao dịch và sẽ giao dịch với Chi nhánh, nhờ đó Chi
nhánh có thể phát hiện, khắc phục khiếm khuyết... để góp phần nâng cao hiệu quả công tác
tín dụng ĐTPT của Nhà nước trên địa bàn tỉnh.
3.3. Một số kiến nghị
3.3.1. Kiến nghị Chính phủ
3.3.1.1. Hoàn thiện cơ chế tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước
- ổn định đối tượng cho vay
Đối tượng cho vay bằng nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước trong
thời gian qua chưa ổn định. Để tín dụng ĐTPT của Nhà nước phát huy được tác dụng tích
cực, là công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế quốc dân, thì việc xác định đối tượng cho vay
phải rất linh hoạt và bám sát chiến lược phát triển KT-XH trong từng thời kỳ. Cần thể hiện
một cách rõ ràng và kiên định các định hướng phát triển KT-XH theo vùng, lãnh thổ; danh
mục các đối tượng phải đảm bảo tính ổn định tương đối, phù hợp với kế hoạch phát triển
KT-XH theo chu kỳ 5 năm.
Theo đó, ngoài việc giữ nguyên đối tượng vay vốn theo quy định tại Nghị định số
151/2006/NĐ-CP, các đối tượng cần tập trung vào lĩnh vực công nghiệp trọng điểm, có lợi
thế so sánh của quốc gia gắn kết chặt chẽ và phù hợp, phân biệt theo từng vùng lãnh thổ;
tập trung vào các cơ sở hạ tầng, phát triển khoa học công nghệ và ứng dụng công nghệ
mới, sản xuất vật liệu mới, công nghiệp chế biến và sản xuất hàng xuất khẩu; các dự án
thuộc lĩnh vực xã hội hoá; các dự án nằm trong khu công nghiệp được Chính phủ phê
duyệt quyết định; các dự án phục vụ cho sản xuất nông nghiệp như phân bón, cơ khí phục
vụ nông nghiệp, lâm nghiệp, công nghiệp chế biến, nội địa hoá các phụ tùng lắp ráp các
loại, trong đó, nên ưu tiên đưa các dự án thuộc lĩnh vực xã hội hoá vào danh mục các dự án
vay vốn tín dụng ĐTPT của Nhà nước và cần định rõ loại hình được nhận tín dụng của
Nhà nước. Quy định đối tượng được vay vốn cần phải cụ thể, rõ ràng dễ hiểu để tạo điều
kiện cho các nhà đầu tư có thể tiếp cận và nắm bắt được quy định của Nhà nước, NHPT
cũng sẽ thuận lợi hơn trong việc thực hiện cơ chế cho vay, từ đó hạn chế được những tiêu
cực do việc vận dụng các quy định chưa rõ ràng.
- Cải tiến chính sách lãi suất cho vay
Theo phân tích tại chương 2, cơ chế cho vay với lãi suất rất thấp trong thời gian qua
chính là nguyên nhân làm phát sinh rủi ro tài chính, làm gia tăng gánh nặng cho NSNN,
đồng thời không phù hợp với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Vì vậy, đề nghị Chính
phủ giữ nguyên hai mức lãi suất và cách tính lãi suất như hiện hành, nhưng hai mức lãi
suất này phải có sự chênh lệch đáng kể, cụ thể:
+ Những dự án tại những vùng có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn và đặc biệt khó
khăn, vùng bãi ngang ven biển, vùng hải đảo và các dự án thuộc lĩnh vực xã hội hoá có sự
hỗ trợ lãi suất cao hơn đối với khu vực khác để khuyến khích thu hút đầu tư và phát triển
kinh tế địa phương.
+ Đối với các dự án thuộc đối tượng khác còn lại nên cho vay với mức lãi suất cao
hơn, cụ thể sát với mức lãi suất các tổ chức tín dụng cho vay. Tức là mức lãi suất cho vay
các đối tượng này của NHPT phải tiếp cận được với lãi suất thương mại nhằm hạn chế
được cấp bù chênh lệch lãi suất và phí quản lý từ NSNN. Đồng thời hạn chế tối đa sự
chiếm dụng vốn của chủ đầu tư do lãi suất quá thấp, mà cụ thể như lãi suất quá hạn thời
gian vừa qua của NHPT vẫn còn thấp hơn so với lãi suất cho vay của các tổ chức tín dụng.
- Cải tiến chính sách đồng tiền cho vay
Để hỗ trợ tốt hơn cho việc thu nợ, tăng tính chủ động cho chủ đầu tư và NHPT, đề
nghị Chính phủ cho phép NHPT thoả thuận với chủ đầu tư dự án hoặc nhà xuất khẩu,
không nhất thiết phải sử dụng đồng Việt Nam.
Hiện nay nhiều dự án thuộc đối tượng phục vụ có nhu cầu vay ngoại tệ, việc cho vay
các dự án cần ngoại tệ để nhập khẩu thiết bị và công nghệ từ nước ngoài là con đường
ngắn nhất và tích cực nhất hỗ trợ cho dự án thay vì chỉ cho dự án vay nội tệ như hiện nay.
Vấn đề quan trọng là cho vay, hạch toán cho vay bằng ngoại tệ sẽ giúp NHPT giảm các rủi
ro lớn khi tỷ giá ngoại tệ tăng, giảm mạnh (tỷ giá tăng sẽ thiệt hại trong trường hợp chuyển
đổi ngoại tệ để cho vay VND, tỷ giá giảm gây thiệt hại trong trường hợp thu nợ chưa kịp
mua ngoại tệ ngay) vì theo nguyên tắc đi vay - cho vay cùng một đồng tiền (chỉ quy đổi ra
tiền VND theo tỷ lệ nhất định được NHNN cho phép), như vậy cán cân ngoại hối luôn cân
bằng.
- Thay đổi yêu cầu bảo đảm tiền vay
+ Hiện tại trong Bộ Luật Dân sự và Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006
về giao dịch bảo đảm không sử dụng cụm từ “tài sản hình thành từ vốn vay”. Do vậy, đề
nghị Chính phủ sửa đổi cụm từ “tài sản hình thành từ vốn vay” trong Điều 37 Nghị định số
151/2006/NĐ-CP thành cụm từ “tài sản hình thành trong tương lai” để phù hợp với quy
định của Bộ Luật Dân sự và Nghị định số 163/2006/NĐ-CP.
+ Để đảm bảo an toàn cho nguồn vốn tín dụng ĐTPT của Nhà nước, đề nghị Chính
phủ quy định trong trường hợp tài sản hình thành trong tương lai không đủ điều kiện bảo
đảm tiền vay và bảo lãnh thì NHPT được quyền yêu cầu chủ đầu tư bổ sung tài sản để bảo
đảm tiền vay trên cơ sở thoả thuận giữa hai bên, không nên quy định cụ thể giá trị tài sản
bổ sung tối thiểu 15% giá trị tổng mức vốn vay như hiện tại.
- Đổi mới chính sách huy động vốn
Cần trao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho NHPT Việt Nam trong việc quyết
định và lãi suất huy động theo kế hoạch tổng thể hàng năm (bao gồm cả việc huy động nội
tệ và ngoại tệ) nhằm đảm bảo tính chủ động, huy động đủ vốn đáp ứng nhu cầu ĐTPT của
đất n−ớc. Theo đó, NHPT Việt Nam phải tự chịu trách nhiệm cân đối vốn và đ−ợc quyền
quyết định: hình thức, khối l−ợng, kỳ hạn và lãi suất huy động theo quy định của pháp luật
trong phạm vi kế hoạch tổng thể hàng năm đ−ợc Chính phủ phê duyệt. Sự hỗ trợ của Nhà
n−ớc là việc đảm bảo khả năng thanh toán cho NHPT Việt Nam và bảo lãnh cho các khoản
huy động vốn của NHPT Việt Nam.
- Đổi mới chính sách hỗ trợ sau đầu tư:
Về lâu dài nên điều chỉnh giảm mức hỗ trợ nhằm giảm bớt khó khăn cho NSNN và
phù hợp với các cam kết của Việt Nam khi gia nhập Tổ chức thương mại thế giới. Tuy
nhiên, đề nghị Chính phủ công bố mức hỗ trợ sau đầu tư trong từng thời kỳ để tạo điều
kiện thuận lợi cho NHPT khi xác định mức hỗ trợ cho các chủ đầu tư dự án.
3.3.1.2. Hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến hoạt động đầu
tư xây dựng và tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước
- Hoàn thiện cơ chế chính sách về đầu tư xây dựng, nhất là những quy định liên quan đến
giải phóng mặt bằng, đấu thầu, về thanh toán thiết bị nhập khẩu…
- Bổ sung các quy định nhằm xác định rõ địa vị pháp lý của NHPT Việt Nam, tạo
điều kiện để NHPT Việt Nam được áp dụng các quy định liên quan như những TCTD
khác; tiến tới xây dựng Luật NHPT Việt Nam.
- Bổ sung quy định về cho vay đồng tài trợ giữa NHPT và các NHTM (trước hết là
NHTM nhà nước) đối với các dự án ĐTPT để giảm thiểu rủi ro cho NHPT Việt Nam, đồng
thời nâng cao trách nhiệm của các NHTM tham gia đồng tài trợ trong việc giám sát sử
dụng vốn vay và thu hồi nợ.
- Bổ sung chức năng của NHPT Việt Nam theo hướng ngoài việc thực hiện nhiệm vụ
tín dụng ĐTPT và tín dụng xuất khẩu không vì mục đích lợi nhuận theo chính sách Nhà
nước, NHPT Việt Nam còn được thực hiện kinh doanh một số dịch vụ ngân hàng. Trước
mắt, Nhà nước cho phép NHPT Việt Nam cho vay vốn lưu động đối với những dự án vay
vốn ĐTPT của Nhà nước nhằm tạo điều kiện để NHPT Việt Nam kiểm soát hoạt động
SXKD và thu hồi nợ các dự án.
3.3.2. Kiến nghị Ngân hàng Phát triển Việt Nam
3.3.2.1. Xây dựng hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ
Thực chất xếp hạng tín dụng nội bộ là việc sử dụng các phương pháp và công cụ để
đánh giá, xếp loại khách hàng dựa trên những tiêu chí nhất định để từ đó đề ra các chính
sách cho vay và các biện pháp quản lý khác phù hợp với từng khách hàng và nhóm khách
hàng nhằm nâng cao hiệu quả và đảm bảo an toàn cho hoạt động cho vay của ngân hàng.
Trong quản lý rủi ro cho vay của các ngân hàng thì hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ
có vai trò rất quan trọng bởi nó vừa là cơ sở để quyết định cấp tín dụng phù hợp với điều
kiện của từng khách hàng vay vốn, vừa là cơ sở để phân loại và quản lý khoản vay. Tuy
nhiên, trong cho vay ĐTPT cũng như các nghiệp vụ cấp tín dụng khác, NHPT Việt Nam
chưa xây dựng được hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ để hỗ trợ cho việc phân loại nợ,
quản lý chất lượng cho vay, do đó việc quản lý khách hàng và quản lý nợ vay của NHPT
vẫn còn nhiều điểm bất cập.
Để nâng cao hiệu quả trong hoạt động tín dụng ĐTPT của Nhà nước, NHPT Việt
Nam cần nhanh chóng triển khai xây dựng và đưa vào áp dụng hệ thống xếp hạng tín dụng nội
bộ. Đối với hoạt động cho vay ĐTPT, hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ phải được xây dựng
với các nội dung chủ yếu sau đây:
- Đối tượng xếp hạng: việc xếp hạng được áp dụng đối với toàn bộ các doanh nghiệp,
tổ chức kinh tế vay vốn ĐTPT tại NHPT Việt Nam (các đối tượng này được Chính phủ
quy định tại Nghị định số 151/2006/NĐ-CP ngày 20/12/2006 về tín dụng đầu tư và TDXK
của nhà nước).
- Tiêu chí xếp hạng: việc xếp hạng đối với mỗi khách được thực hiện chủ yếu thông
qua chấm điểm các chỉ tiêu tài chính (khả năng thanh toán, khả năng tự tài trợ, khả năng
sinh lời, các chỉ tiêu hoạt động…) và phi tài chính (mức độ tín nhiệm trong quan hệ tín
dụng với NHPT và các tổ chức tín dụng, tình hình SXKD, tình hình bảo đảm tiền vay, vị
thế trong lĩnh vực sản xuất…); ngoài ra còn phải tính đến các yếu tố ảnh hưởng liên quan
(quy mô hoạt động; ngành nghề hoạt động; loại hình sở hữu của khách hàng). Tuỳ theo
tổng số điểm đạt được mà mỗi khách hàng sẽ được phân vào một trong số các nhóm hạng
tương ứng với mức độ rủi ro của khách hàng đó. Theo quan điểm của chúng tôi, với điều
kiện về thông tin và trình độ quản lý của NHPT Việt Nam hiện nay, trước mắt có thể xây
dựng hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ phù hợp với phạm vi hoạt động và tình hình thực
tế của NHPT với những tiêu chí tối thiểu được quy định tại Quyết định số 493/2005/QĐ-
NHNN của NHNN.
- Xác định các nhóm khách hàng: việc xác định các nhóm khách hàng phải đảm bảo
đủ chi tiết để thuận tiện cho quá trình phân loại và xếp hạng; tuy nhiên NHPT không nên
phân loại khách hàng thành quá nhiều nhóm, bởi như vậy sẽ làm cho việc theo dõi trở nên
phức tạp. Theo quan điểm chúng tôi, về lâu dài thì việc xếp hạng khách hàng thành 7
nhóm giống như Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam. Tuy nhiên, trước mắt, để phù
hợp với trình độ quản lý rủi ro còn thấp, NHPT Việt Nam có thể xây dựng hệ thống xếp
hạng tín dụng nội bộ với 3 - 4 nhóm khách hàng, chẳng hạn:
+ Nhóm khách hàng đủ tiêu chuẩn cấp tín dụng;
+ Nhóm khách hàng có thể cấp tín dụng với điều kiện đơn giản;
+ Nhóm khách hàng có thể cấp tín dụng với điều kiện phức tạp;
+ Nhóm khách hàng không đủ tiêu chuẩn cấp tín dụng.
- Sử dụng kết quả xếp hạng tín dụng nội bộ: Căn cứ vào kết quả xếp hạng của từng
khách hàng mà NHPT có chính sách cho vay thích hợp đối với từng khách hàng (về mức
vốn cho vay, điều kiện cho vay, bảo đảm tiền vay, phân cấp thẩm quyền quyết định cho
vay…). Đương nhiên, đối với nhóm khách hàng không đủ tiêu chuẩn cấp tín dụng thì
NHPT phải từ chối cho vay. Ngoài ra, kết quả xếp hạng tín dụng nội bộ còn là căn cứ để
NHPT phân loại dư nợ cho vay ĐTPT sát với tình hình tài chính, kết quả SXKD của khách
hàng, từ đó có chính sách trích lập dự phòng rủi ro chính xác, phù hợp với mức độ rủi ro
của khoản vay.
Để hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ phản ánh kịp thời diễn biến của tình hình thực
tiễn và phát huy được hiệu quả thiết thực, NHPT phải thường xuyên thực hiện việc phân
tích, chấm điểm nhằm phát hiện các dấu hiệu cảnh báo rủi ro liên quan đến khách hàng
(giảm khả năng thanh toán, giảm khả năng tự tài trợ, thua lỗ trong kinh doanh, nợ quá hạn
tăng…), từ đó điều chỉnh thứ hạng của khách hàng vào nhóm phù hợp. Đồng thời, cũng
giống như quy định của NHNN đối với các tổ chức tín dụng khác, NHPT không được
thông báo cho khách hàng vay vốn biết về kết quả xếp hạng tín dụng.
3.3.2.2. Kiểm soát chặt chẽ việc sử dụng vốn vay
Kiểm soát quá trình sử dụng vốn vay của khách hàng là một nội dung rất quan trọng
trong công tác cho vay. Mục đích của việc làm này là nhằm hạn chế, ngăn ngừa việc khách
hàng sử dụng vốn vay sai mục đích so với dự án ban đầu được duyệt, dẫn tới những trường
hợp rủi ro, không trả được nợ.
Đối với NHPT Việt Nam, do kiểm soát thiếu chặt chẽ quá trình sử dụng vốn vay của
khách hàng nên thời gian qua đã xảy ra nhiều trường hợp khách hàng sử dụng vốn vay sai
mục đích, hoặc sử dụng tài sản hình thành bằng vốn vay của NHPT để thế chấp, cầm cố tại
các tổ chức tín dụng. Nguyên nhân của tình trạng này, một mặt là do cán bộ tín dụng chưa
thường xuyên bám sát tình hình SXKD của chủ đầu tư, hoặc do năng lực của cán bộ tín
dụng hạn chế nên không phát hiện ra được những biểu hiện bất thường trong quá trình sử
dụng vốn vay của khách hàng; nhưng mặt khác cũng là do những quy định của NHPT Việt
Nam về kiểm tra, giám sát quá trình sử dụng vốn vay của chủ đầu tư còn chưa đầy đủ và rõ
ràng.
Để hạn chế tối đa việc sử dụng vốn sai mục đích do khách hàng gây ra, NHPT cần
ban hành những quy định chặt chẽ về kiểm tra, giám sát vốn vay. Nội dung của các quy
định này phải thể hiện được những vấn đề chủ yếu:
- Tiền vay phải được chuyển trực tiếp cho các đơn vị thụ hưởng; hạn chế việc chuyển
tiền cho chủ đầu tư. Thực hiện việc chuyển tiền qua hệ thống thanh toán của NHPT Việt
Nam.
- Quy định những công việc cụ thể mà cán bộ tín dụng phải thực hiện trong quá trình
giám sát sử dụng vốn vay. Những công việc chủ yếu mà cán bộ tín dụng phải thực hiện là:
+ Kiểm tra mục đích sử dụng vốn vay thông qua xem xét hồ sơ từng lần giải ngân và
hiện trường của dự án, trong đó việc kiểm tra hiện trường dự án phải được hết sức coi
trọng.
+ Phân tích tình hình SXKD của dự án thông qua xem xét, phân tích các báo cáo tài
chính định kỳ (trong đó cần chú trọng sử dụng kết quả kiểm toán độc lập);
+ Kiểm tra, đánh giá hiện trạng của tài sản bảo đảm tiền vay; định kỳ đánh giá lại giá trị
tài sản bảo đảm tiền vay để có những biện pháp bảo đảm bổ sung trong trường hợp có sự sụt
giảm lớn về giá trị tài sản bảo đảm tiền vay.
- Quy định trách nhiệm của cán bộ tín dụng (đặc biệt là trách nhiệm về vật chất)
trong trường hợp để xảy ra rủi ro do giám sát không chặt chẽ việc sử dụng vốn vay của
khách hàng.
3.3.2.3. Nâng cao chất l−ợng kế hoạch huy động và quản lý nguồn vốn
- NHPT Việt Nam cần xây dựng và triển khai Chiến l−ợc về huy động vốn cho giai
đoạn 2010-2015. Từng b−ớc nghiên cứu, đổi mới công tác kế hoạch hoá và tăng c−ờng
quản lý chặt chẽ nguồn vốn theo h−ớng tập trung trong toàn hệ thống; cải thiện cơ cấu vốn
để hạn chế rủi ro kỳ hạn, gắn chặt với quản lý rủi ro theo ngành nghề và vũng lãnh thổ.
Ph−ơng h−ớng chiến l−ợc lâu dài là huy động từ thị tr−ờng mà trong đó từ thị tr−ờng trái
phiếu là trọng tâm nhằm thu hẹp khe hở kỳ hạn, đa dạng hoá các hình thức huy động và
loại tiền huy động.
- Cùng với việc đẩy mạnh huy động thông qua phát hành trái phiếu của mình và đa
dạng hoá các nguồn vốn huy động về: kỳ hạn, loại tiền, đối t−ợng huy động, NHPT Việt
Nam cần kiến nghị Chính phủ nâng cao nguồn vốn chủ sở hữu (tăng vốn điều lệ). Trong
điều kiện NSNN hạn chế, có thể giao phần vốn Nhà n−ớc (cổ phần) tại các doanh nghiệp
mạnh cho NHPT Việt Nam để tăng vốn điều lệ. Giải pháp này sẽ làm tăng vốn chủ sở hữu
và uy tín của NHPT Việt Nam, tăng khả năng huy động trên thị tr−ờng, hạn chế rủi ro.
3.3.2.4. Phân loại nợ trên cơ sở định hạng rủi ro của khoản vay
Việc phân loại nợ chính xác sẽ giúp NHPT có biện pháp quản lý phù hợp đối với
từng khoản nợ nhằm phòng ngừa, giảm thiểu rủi ro có thể xảy ra đối với các khoản nợ.
ở NHPT Việt Nam hiện nay, dư nợ cho vay ĐTPT được phân loại thành 4 nhóm (dư
nợ bình thường, dư nợ có khó khăn tạm thời, dư nợ khó thu, dư nợ không có khả năng
thu). Tiêu chí để phân loại nợ của NHPT về cơ bản cũng đã có sự kết hợp giữa yếu tố định
lượng (thời gian quá hạn của khoản vay) và yếu tố định tính (đánh giá của Chi nhánh
NHPT về khả năng thu hồi nợ). Tuy nhiên, NHPT Việt Nam chưa có quy định cụ thể và
thống nhất về cách thức đánh giá khả năng thu hồi nợ, mà việc đánh giá hoàn toàn do các
Chi nhánh NHPT tự thực hiện, vì vậy kết quả phân loại dư nợ chưa chính xác, thiếu đồng
nhất giữa các Chi nhánh khác nhau, mặc dù chất lượng các khoản nợ ở các Chi nhánh có
thể tương đương nhau. Để việc quản lý nợ có hiệu quả, NHPT cần phân loại nợ theo
hướng:
- Thực hiện phân loại nợ thành 5 nhóm theo các tiêu chí phù hợp với quy định của
NHNN tại Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN, trong đó phải quy định rõ những nhóm nợ
được xếp vào “nợ xấu” để có biện pháp quản lý riêng phù hợp với chất lượng của khoản
nợ. Theo quan điểm chúng tôi, trước mắt, NHPT có thể xếp vào “nợ xấu” đối với các
khoản nợ có thời gian quá hạn từ 90 ngày trở lên và các khoản nợ đã được điều chỉnh kỳ
hạn trả nợ hoặc gia hạn nợ nhưng vẫn tiếp tục quá hạn.
- Ban hành các quy định về cách thức đánh giá khả năng thu hồi nợ vay để áp dụng
thống nhất giữa các Chi nhánh trong việc phân loại nợ vay. Kinh nghiệm của nhiều ngân
hàng trong và ngoài nước cho thấy, để đánh giá đúng khả năng thu hồi của khoản vay thì
ngoài việc sử dụng kết quả xếp hạng tín dụng nội bộ, NHPT còn phải xây dựng được hệ
thống đánh giá chất lượng của khoản vay bao gồm các nội dung cơ bản về tình hình
SXKD, tình hình thực hiện nghĩa vụ trả nợ của khách hàng; giá trị tài sản bảo đảm tiền vay
so với giá trị của khoản vay; thời gian quá hạn của khoản vay… Đối với mỗi nội dung này,
NHPT Việt Nam cũng phải quy định chi tiết các dấu hiệu để nhận biết rủi ro liên quan đến
khả năng trả nợ của khách hàng vay vốn.
- Việc phân loại nợ vay phải được thực hiện ngay từ khi khoản vay xuất hiện, và thực
hiện thường xuyên. Hiện nay NHPT Việt Nam đang thực hiện chế độ phân loại nợ định kỳ
hàng quý, không phân biệt giữa “nợ xấu” và “nợ tốt”. Tuy nhiên, theo quan điểm của
chúng tôi, để có thể quản lý tốt các khoản nợ, NHPT cần thực hiện chế độ phân loại nợ
định kỳ hàng tháng đối với các khoản nợ được xếp vào nhóm “nợ xấu” theo quy định của
NHNN tại Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN.
3.3.2.5. Trích lập quỹ dự phòng phù hợp với mức độ rủi ro
Theo quy định hiện nay, các ngân hàng khi cho vay được trích lập dự phòng rủi ro,
và khoản dự phòng này được hạch toán vào chi phí hoạt động của ngân hàng. Mục đích
của việc trích lập dự phòng rủi ro là đảm bảo đủ nguồn để xử lý rủi ro do người vay không
trả được nợ. Việc trích lập dự phòng rủi ro được thực hiện trên cơ sở kết quả phân loại nợ
của ngân hàng.
Đối với NHPT Việt Nam, Chính phủ cũng cho phép lập quỹ dự phòng để xử lý rủi ro
do chủ đầu tư không trả được nợ. Tuy nhiên, việc trích lập dự phòng rủi ro của NHPT Việt
Nam hiện nay lại được thực hiện không phải trên cơ sở kết quả phân loại nợ, mà thực hiện
trích theo tỷ lệ cố định trên dư nợ bình quân cho vay ĐTPT. Việc trích lập dự phòng theo
quy định này không phản ánh đúng mức độ rủi ro của khoản vay, làm hạn chế khả năng
gánh chịu tổn thất, từ đó đe doạ đến sự tồn tại lâu dài của NHPT Việt Nam.
Theo chúng tôi, để bảo đảm khả năng chống đỡ của NHPT trước những tổn thất về tài
sản do rủi ro trong cho vay ĐTPT gây ra, NHPT cần phải thực hiện việc trích lập dự phòng
phù hợp với mức độ rủi ro của khoản vay, theo đó:
- Đối với các dự án không đáp ứng được yêu cầu về hiệu quả nhưng NHPT Việt Nam
phải cho vay theo yêu cầu của Chính phủ và được Chính phủ bảo lãnh, thì NHPT Việt
Nam thực hiện việc trích lập theo cơ chế riêng do Chính phủ quy định. (Đương nhiên, đối
với những khoản nợ này, Chính phủ phải đảm bảo nguồn để xử lý rủi ro cho NHPT).
- Đối với các dự án do NHPT Việt Nam thẩm định và quyết định cho vay, việc trích
lập dự phòng rủi ro được thực hiện dựa trên kết quả phân loại nợ vay theo tỷ lệ do NHNN
quy định tại Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN. Mặc dù quyết định này của NHNN không
phải là quy định ràng buộc đối với NHPT, song việc trích lập dự phòng rủi ro theo mức độ
rủi ro là việc làm cần thiết mà bất kỳ tổ chức cho vay nào cũng phải thực hiện nhằm đảm
bảo khả năng chống đỡ trước những tổn thất do rủi ro cho vay gây ra. Việc trích lập dự
phòng theo mức độ rủi ro cũng là cơ sở để NHPT có thể bảo toàn được vốn.
Ngoài ra, để việc trích lập dự phòng thực sự trở nên có ý nghĩa thì thẩm quyền sử
dụng dự phòng để xử lý rủi ro trong cho vay ĐTPT cũng cần được quy định lại theo hướng
từng bước tăng quyền chủ động cho NHPT Việt Nam:
+ Hội đồng quản lý NHPT được quyết định một số trường hợp xoá nợ gốc của các dự
án (thay vì toàn bộ các trường hợp xoá nợ gốc đều phải do Thủ tướng Chính phủ quyết định
như quy định của Nghị định số 151/2006/NĐ-CP).
+ Tổng giám đốc NHPT được quyết định một số trường hợp xoá nợ lãi của các dự án
(thay vì toàn bộ các trường hợp xoá nợ lãi đều phải do Bộ trưởng Bộ Tài chính quyết định
như quy định của Nghị định số 151/2006/NĐ-CP).
3.3.2.6. Xây dựng cơ sở dữ liệu phục vụ công tác thẩm định và quản lý tín dụng
Để nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng ĐTPT của Nhà nước thì NHPT cần phải
có đầy đủ các thông tin liên quan. Những thông tin này có ý nghĩa rất quan trọng đối
với việc xây dựng và thực hiện các nghiệp vụ tín dụng đầu tư, bởi nó là cơ sở để NHPT
Việt Nam thẩm định và quyết định cho vay, phân loại và xếp hạng khách hàng, phân
loại và xếp hạng khoản vay… Do đó, NHPT Việt Nam phải sớm hình thành cho riêng
mình một “kho dữ liệu” phục vụ công tác này. Những thông tin mà NHPT Việt Nam
cần phải thu thập bao gồm: chiến lược, kế hoạch phát triển KT-XH trong từng thời kỳ;
quy hoạch phát triển các vùng, các ngành, các lĩnh vực; các định mức kinh tế - kỹ thuật
của các ngành sản xuất; thông tin về khách hàng (năng lực tài chính, năng lực SXKD,
tài sản bảo đảm…); thông tin về các dự án vay vốn ĐTPT của NHPT (tình hình thực
hiện dự án, nguyên nhân của thành công, thất bại…).
Thông tin phục vụ trong hoạt động ĐTPT của NHPT Việt Nam có thể tập hợp từ
phân tích các hồ sơ, tài liệu do khách hàng cung cấp; từ các cơ quan quản lý nhà nước có
thẩm quyền (cơ quan cấp phép đầu tư, cơ quan thuế…); từ Trung tâm thông tin tín dụng
thuộc NHNN; từ các phương tiện thông tin đại chúng; từ các ngân hàng khác… Đối với
thông tin về tình hình tài chính của khách hàng, NHPT Việt Nam cần chú trọng khai thác
thông tin từ cơ quan thuế và các công ty kiểm toán độc lập nhằm đảm bảo tính khách quan
và độ tin cậy của thông tin.
Để có thể tập hợp được các thông tin hữu ích, hình thành “kho dữ liệu” phục vụ công
tác thẩm định dự án và quản lý tín dụng, NHPT Việt Nam cần ban hành quy định hướng
dẫn các đơn vị trong toàn hệ thống NHPT sưu tầm, đóng góp thông tin xây dựng hệ thống
cơ sở dữ liệu. Ngoài ra, NHPT Việt Nam cần phải dành một khoản kinh phí thích đáng cho
việc sưu tầm thông tin; thậm chí trong một số trường hợp, NHPT cần mạnh dạn trả giá cao
để mua những thông tin có giá trị. NHPT Việt Nam cũng cần ban hành quy định về khai
thác và sử dụng thông tin phục vụ thẩm định dự án và quản lý tín dụng trong hệ thống
NHPT.
3.3.3. Kiến nghị Uỷ ban nhân dân tỉnh Thanh Hoá, các Sở ban ngành có liên
quan và các doanh nghiệp
- Kiến nghị UBND tỉnh và các Sở ban ngành:
+ Giảm thời gian ra Quyết định cấp đất cho các dự án được khuyến khích đầu tư,
nhất là các dự án vay vốn tín dụng ĐTPT của Nhà nước, giúp cho chính sách ĐTPT của
Nhà nước đi vào thực thi nhanh hơn. Công bố ngân sách tỉnh dành cho đầu tư sớm và công
bố quy hoạch phát triển các ngành, các khu công nghiệp của tỉnh rõ ràng, chi tiết,… giúp
chủ đầu tư có thể triển khai dự án sớm hơn.
+ Trao đổi thông tin ba chiều thường xuyên: UBND tỉnh - chủ đầu tư - Chi nhánh
NHPT Thanh Hoá. Tổ chức các cuộc gặp và trao đổi thông tin nhằm giúp tháo gỡ các khó
khăn, vướng mắc trong việc triển khai hoạt động tín dụng ĐTPT của Nhà nước. Tăng
cường phối hợp trong việc trao đổi thông tin qua lại để quản lý dự án, quản lý chủ đầu tư
giúp Chi nhánh NHPT Thanh Hoá triển khai tín dụng ĐTPT của Nhà nước có hiệu quả
trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá.
+ Phối hợp và hỗ trợ Chi nhánh NHPT Thanh Hoá trong việc giải quyết hậu quả đối
với dự án đầu tư dở dang, dự án dừng sản xuất do mất vùng nguyên liệu, hoặc dự án không
trả được nợ vay do sản xuất kinh doanh thua lỗ thuộc phạm vi trách nhiệm theo quy định
của pháp luật.
+ Cập nhật danh mục đối tượng được vay vốn tín dụng ĐTPT của Nhà nước tới các
doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá. Chỉ đạo kiểm tra các chủ đầu tư triển khai thực
hiện đầu tư theo đúng quy định của Nhà nước về đầu tư, đảm bảo tiến độ và hoàn trả vốn
vay theo đúng cam kết của hợp đồng tín dụng.
- Kiến nghị các doanh nghiệp:
Các chủ đầu tư cần thuê các cơ quan tư vấn chuyên lập dự án, đánh giá dự án, lựa
chọn cán bộ thực hiện dự án và trực tiếp nắm bắt dự án để hiểu, lập và thực hiện dự án
đúng quy định. Có như vậy mới giảm bớt thời gian trong khâu thẩm định dự án, ít phải sửa
đổi, bổ sung chỉnh sửa dự án khi đã gửi dự án đến Chi nhánh NHPT Thanh Hoá. Để quản
lý dự án được thuận lợi, chủ đầu tư cần học tập rút kinh nghiệm từ công tác quản lý ở các
dự án tương tự đã được đầu tư, nhằm giảm thiểu được các chi phí và thời gian thực hiện.
Các chủ đầu tư cần có sự trao đổi và thường xuyên tham gia các hội thảo của UBND
tỉnh để học hỏi kinh nghiệm thực tế và cập nhật thông tin mới về tín dụng ĐTPT của Nhà
nước, về đầu tư xây dựng cơ bản và về các chính sách ưu đãi của Nhà nước. Để khâu đầu
tư được chuẩn bị tốt, chủ đầu tư cần nắm bắt các thông tin về chính sách ưu đãi được
hưởng và cách thức thực hiện các thủ tục cần thiết để được hưởng ưu đãi đó. Tránh tình
trạng được hưởng ưu đãi (chủ yếu là ưu đãi về Hỗ trợ sau đầu tư) mà không biết, hoặc khi
biết thì lại không được hưởng hỗ trợ vì không hoàn thiện được hồ sơ theo trình tự đầu tư
xây dựng cơ bản hiện hành.
Khi thực hiện dự án, chủ đầu tư phải chuẩn bị kỹ lưỡng đội ngũ cán bộ tài chính và
kỹ thuật có chuyên môn để giám sát thực hiện dự án, tránh trường hợp chỉ có lãnh đạo
doanh nghiệp nắm bắt được trình tự đầu tư xây dựng, còn cán bộ cấp dưới thì kém hiểu
biết về lĩnh vực này. Cần phải nâng cao trình độ cán bộ của doanh nghiệp, nhất là các
doanh nghiệp địa phương, bằng cách cử đi đào tạo chuyên môn, bồi dưỡng kiến thức cấp
tốc và học tập kinh nghiệm thực tế tại các dự án đầu tư khác.
Kết luận
Tín dụng ĐTPT của Nhà nước có vai trò quan trọng trong nền kinh tế thị trường nước
ta. Cùng với đầu tư trực tiếp của Nhà nước, tín dụng ĐTPT của Nhà nước định hướng
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao hiệu quả phát triển KT-XH của đất nước, hỗ trợ các
ngành, vùng khó khăn cùng phát triển hoà nhịp chung cả nước.
Có nhiều tổ chức triển khai thực hiện tín dụng ĐTPT của Nhà nước, nhưng NHPT là
tổ chức quan trọng nhất, thực hiện tín dụng ĐTPT của Nhà nước ở quy mô lớn nhất.Việc
triển khai tín dụng ĐTPT của Nhà nước qua NHPT vừa giúp tập trung nguồn lực tín dụng
của Nhà nước hướng vào các nhiệm vụ phát triển trọng tâm mà Nhà nước mong muốn, vừa
chuyên nghiệp hoá quy trình cấp tín dụng Nhà nước. Trong những năm qua, kế tục sự
nghiệp của quỹ Hỗ trợ phát triển tại Chi nhánh Thanh Hoá, Chi nhánh NHPT Thanh Hoá
đã nỗ lực triển khai hoạt động tín dụng ĐTPT của Nhà nước trên địa bàn. Một mặt, theo
nhiệm vụ được phân cấp, Chi nhánh đã huy động được một phần vốn đầu vào hỗ trợ tốt
quá trình cho vay. Nhiệm vụ cho vay ĐTPT cũng được Chi nhánh triển khai thực hiện theo
các đối tượng, dự án được phân cấp. Nhìn chung, hàng năm Chi nhánh đều hoàn thành kế
hoạch được giao với quy mô và tính phức tạp ngày càng mở rộng. Hoạt động của Chi
nhánh cũng ngày càng thích hợp hơn với nhu cầu phát triển trên địa bàn. Tuy nhiên, một số
mặt hoạt động tín dụng chưa thực sự đem lại kết quả mong muốn. Chẳng hạn, việc huy
động vốn còn khó khăn, một số loại hình tín dụng khó triển khai, số nợ khó thu hồi vẫn
còn lớn, hiệu quả tác động đến phát triển chưa cao… Thực trạng hoạt động tín dụng đó
xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân chủ yếu là hoạt động tín dụng
của Chi nhánh còn chưa có chất lượng cao, năng lực quản lý tín dụng còn có vấn đề. Chính
vì thế, để tạo điều kiện cho Chi nhánh NHPT Thanh Hoá phát triển tốt trong thời gian tới,
cần phải tiếp tục đổi mới hoạt động tín dụng ĐTPT ở Chi nhánh theo hướng nâng cao chất
lượng hơn nữa, phù hợp với định hướng hướng phát triển KT- XH trên địa bàn tỉnh Thanh
Hoá đến năm 2010 và định hướng phát triển tín dụng ĐTPT của Nhà nước trong hệ thống
NHPT, hướng tới các mục tiêu: mở rộng và nâng cao hiệu quả tín dụng ĐTPT của Nhà
nước, phù hợp với các cam kết quốc tế.
Đồng thời Chi nhánh NHPT Thanh hoá phải đổi mới hoạt động tín dụng ĐTPT tại
chi Nhánh đáp ứng các yêu cầu; khai thác triệt để nguồn huy động, nâng cao năng lực tự
chủ, tự chịu trách nhiệm của Chi nhánh, đẩy mạnh đào tạo cán bộ, tăng cường kiểm tra,
kiểm soát nội bộ. Để hoàn thành nhiệm vụ đó, Chi nhánh cần áp dụng một hệ thống các
giải pháp đồng bộ, từ khâu tích cực tìm kiếm nguồn huy động đến khâu nâng cao chất
lượng thẩm định dự án, tìm mọi cách thu hồi nợ, tăng cường kiểm soát nội bộ và người
vay vốn, cải tiến công tác cán bộ, tăng cường phối hợp với các ngân hàng thương mại để
cùng tài trợ… Tuy nhiên, để Chi nhánh NHPT Thanh Hoá có thể thực thi các giải pháp đó,
Chính phủ cần sửa đổi chính sách tín dụng nhà nước theo hướng đa dạng hoá đối tượng và
đơn giản hoá thủ tục quản lý, NHPT cần hoàn thiện quy chế hoạt động chung theo hướng
mở rộng tự chủ hơn nữa cho các chi nhánh, Chính quyền tỉnh Thanh Hoá tích cực phối kết
hợp với Chi nhánh trong giải quyết khó khăn tại một số dự án…
danh mục tài liệu tham khảo
1. Bộ Tài chính (2007), Thông tư số 69/2007/TT-BTC về hướng dẫn một số điều của Nghị
định 151/NĐ-CPngμy 20/12/2006 về tín dụng đầu tư và tín dụng xuất khẩu của
Nhà nước.
2. Chi nhánh Ngân hàng Nhà nước tỉnh Thanh Hoá (2000-2007), Báo cáo Hoạt động tiền
tệ - tín dụng các ngân hàng trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá hàng năm từ 2000 đến
2007.
3. Chi nhánh Ngân hàng Phát triển Thanh Hoá (2006-2007), Các báo cáo tổng kết hàng
năm từ 2006 đến 2007.
4. Chi nhánh Ngân hàng Phát triển Thanh Hoá (2006-2007), Các báo cáo thống kê cho
vay - thu nợ hàng năm từ 2006 đến 2007 và báo cáo 6 tháng đầu năm 2008.
5. Chi nhánh Quỹ Hỗ trợ phát triển Thanh Hoá (2004), Báo cáo kết quả 5 năm hoạt động từ 2000
đến 2004.
6. Chi nhánh Quỹ Hỗ trợ Phát triển Thanh Hoá (2000-2005), Báo cáo cho vay chương
trình kinh tế hàng năm.
7. Chi nhánh Quỹ Hỗ trợ Phát triển Thanh Hoá (2000-2005), Báo cáo công tác Hỗ trợ
sau đầu tư hàng năm.
8. Chi nhánh Quỹ Hỗ trợ Phát triển Thanh Hoá (2000-2005), Các báo cáo tổng kết hàng
năm từ 2000 đến 2005.
9. Chi nhánh Quỹ Hỗ trợ Phát triển Thanh Hoá (2000-2005), Các báo cáo thống kê cho
vay - thu nợ hàng năm từ 2000 đến 2005.
10. Chi nhánh Ngân hàng Phát triển Thanh Hoá (2006-2007), Báo cáo cho vay chương
trình kinh tế hàng năm.
11. Chi nhánh Ngân hàng Phát triển Thanh Hoá (2006-2007), Báo cáo công tác Hỗ trợ sau
đầu tư hàng năm.
12. Chính phủ (1999), Các Nghị định số 52/1999/NĐ-CP ngày 08/7/1999, Chính phủ về
việc ban hành Quy chế Quản lý Đầu tư và Xây dựng..
13. Chính phủ (1999), Nghị định 43/1999/NĐ-CP ngày 29/6/1999 về tín dụng đầu tư phát
triển của Nhà nước.
14. Chính phủ (1999), Nghị định 50/1999/NĐ-CP ngày 08/7/1999 về việc thành lập Quỹ
Hỗ trợ phát triển.
15. Chính phủ (2000), Nghị định 12/2000/NĐ-CP ngày 05/5/2000 và Nghị định
07/2003/NĐ-CP ngày 30/01/2003 về việc sửa đổi và bổ sung một số điều của
Quy chế quản lý đầu tư và xây dựng của Nghị định số 52/1999/NĐ-CP ngày
08/7/1999.
16. Chính phủ (2004), Nghị định số 106/2004/NĐ-CP ngμy 01/4/2004 về tín dụng đầu tư
phát triển của Nhà nước.
17. Chính phủ (2005), Nghị định số 16/2005/NĐ-CP ngày 07/2/2005 Chính phủ về quản lý
dự án đầu tư xây dựng công trình.
18. Chính phủ (2006), Nghị định 112/2006/NĐ-CP ngày 29/9/2006 của Chính phủ về sửa
đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 16/2005/NĐ-CP ngày 07/2/2005
Chính phủ về quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình.
19. Chính phủ (2006), Nghị định số 151/2006/NĐ-CP ngμy 20/12/2006 về tín dụng đầu tư
và tín dụng xuất khẩu của Nhà nước.
20. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
21. Trần Thị Mỹ Hạnh (2003), Giải pháp nâng cao hiệu quả tín dụng nhà n−ớc qua Quỹ
HTPT, Luận văn thạc sĩ kinh tế, Học viện Ngân hàng.
22. Trần Công Hoà (2007), Nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng ĐTPT của Nhà n−ớc,
Luận án tiến sĩ kinh tế, Trường Đại học Kinh tế quốc dân.
23. Học viện Ngân hàng (2003), Giáo trình quản trị và kinh doanh ngân hàng, Nxb Thống
kê, Hà Nội.
24. Hội đồng quản lý Ngân hàng Phát triển Việt Nam (2007), Quyết định số 41/QĐ-HĐQL
ngày 14/9/2007 về việc ban hành Quy chế cho vay vốn tín dụng ĐTPT của Nhà
nước.
25. Lê Thị Định Hương (2004), Giải pháp nâng cao hiệu quả tín dụng ĐTPT tại Quỹ Hỗ
trợ phát triển TP.HCM, Luận văn thạc sĩ kinh tế, Trường Đại học Kinh tế
TP.HCM.
26. Lê Hùng Lam (2006), Giải pháp đổi mới hoạt động của Chi nhánh Ngân hàng Chính
sách xã hội tỉnh Quảng Nam, Luận văn thạc sĩ kinh doanh và quản lý, Học viện
Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh,Hà Nội.
27. Nguyễn Thị Loan (2005), Nâng cao chất lượng tín dụng tại Sở Giao dịch I - Ngân
hàng Công thương Việt Nam, thực trạng và giải pháp, Luận văn thạc sĩ kinh
doanh và quản lý, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
28. Đặng Tố Loan (2003), Mở rộng tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước tại Quỹ Hỗ
trợ phát triển chi nhánh Hà Nội, Luận văn thạc sĩ kinh tế, Trường Đại học Kinh
tế quốc dân, Hà Nội.
29. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2005), Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN về việc phân
loại tài sản có và trích lập dự phòng rủi ro trong hoạt động tín dụng của tổ chức
tín dụng, Hà Nội.
30. Ngân hàng Phát triển Việt Nam, Các Quy chế, quy trình nghiệp vụ của Quỹ HTPT và
Ngân hàng Phát triển.
31. Ngân hàng Phát triển Việt Nam (2004-2007), Các số tạp chí Hỗ trợ phát triển của Quỹ
HTPT/ năm 2006, 2007 và đến tháng 6 năm 2008.
32. Ngân hàng Phát triển Việt Nam (2007), Chiến lược phát triển Ngân hàng Phát triển Việt
Nam đến năm 2010 và 2015, tầm nhìn đến năm 2020.
33. Nguyễn Văn Quang (2006), “Kinh nghiệm quốc tế về tín dụng ĐTPT của Nhà nước và bài
học đối với Việt Nam”, Tạp chí Hỗ trợ phát triển, (19).
34. Nguyễn Thiện Quân (2005), Nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng của Ngân hàng
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh,
Luận văn thạc sĩ kinh doanh và quản lý, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí
Minh, Hà Nội.
35. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1998), Luật Khuyến khích đầu
tư trong nước sửa đổi.
36. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2002), Luật NSNN ngày
16/12/2002.
37. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1997), Luật các TCTD ngày
12/12/1997; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật các TCTD ngày
15/6/2004.
38. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2005), Luật doanh nghiệp 2005.
39. Nguyễn Gia Thế (2004), Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng
ĐTPT của Nhà nước qua hệ thống Quỹ Hỗ trợ phát triển, Luận văn thạc sĩ kinh
tế, Tr−ờng Đại học Th−ơng mại.
40. Thủ tướng Chính phủ (1999), Quyết định số 231/1999/QĐ-TTg ngày 17/12/1999 phê
duyệt tổ chức và hoạt động của Quỹ Hỗ trợ phát triển.
41. Thủ tướng Chính phủ (2005), Quyết định 253/QĐ-TTg phê duyệt đề án phát triển kinh tế -
xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh miền Tây tỉnh Thanh Hoá đến năm 2010.
42. Thủ tướng Chính phủ (2006), Quyết định số 108/2006/QĐ-TTg ngày 19/5/2006 về việc
thành lập Ngân hàng Phát triển Việt Nam.
43. Thủ tướng Chính phủ (2006), Quyết định số 110/2006/QĐ-TTg ngày 19/5/2006 về việc
phê duyệt Điều lệ tổ chức và hoạt động của Ngân hàng Phát triển Việt Nam.
44. Thủ tướng Chính phủ (2006), Đề án Phát triển ngành Ngân hàng Việt Nam đến năm
2010 và định hướng đến năm 2020 (ban hành kèm theo Quyết định số
112/2006/QĐ-TTg ngày 24/5/2006).
45. Thủ tướng Chính phủ (2006), Đề án “Định hướng thu hút và sử dụng nguồn hỗ trợ phát
triển chính thức thời kỳ 2006 - 2010” (ban hành kèm theo Quyết định số
290/2006/QĐ-TTg ngày 29/12/2006).
46. Uỷ ban nhân dân tỉnh Thanh Hoá (2006), Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, quốc
phòng - an ninh 5 năm 2006-2010 tỉnh Thanh Hoá.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- Đổi mới hoạt động tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước tại Chi nhánh Ngân hàng Phát triển Thanh Hoá.pdf