Nâng cao năng lực quản lý tài chính là một trong những yêu cầu quan trọng để
nâng cao hiệu quả hoạt động đối với tất cả các tổ chức, các chủ thể kinh tế. Trong
điều kiện xã hội Việt Nam ngày càng phát triển, các quan hệ kinh tế ngày càng mở
rộng và dần phản ánh đúng bản chất vốn có của nó, thì việc làm chủ các quan hệ
kinh tế, quan hệ tài chính để hướng nó đi theo đúng mục đích của người quản lý lại
càng cần thiết, đồng thời cũng đòi hỏi các chủ thể phải có năng lực quản lý tài chính
tốt.
96 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 4665 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Đổi mới quản lý tài chính ở các đơn vị sự nghiệp thuộc Thông tấn xã Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ướng và giải pháp đổi mới quản lý tài chính ở các đơn vị sự nghiệp
thuộc Thông tấn xã Việt nam
3.1. Định hướng phát triển và quan điểm đổi mới quản lý tài chính của
thông tấn xã Việt Nam giai đoạn 2006 - 2010
3.1.1. Dự báo những tác động của môi trường đến sự phát triển Thông
tấn xã Việt Nam trong thời gian tới
Trong giai đoạn tới, TTXVN sẽ phải đối mặt với các tác động sau đây của môi
trường:
Tình hình thế giới có thể sẽ có nhiều biến động to lớn và sâu sắc, mà hệ quả là
diện mạo đời sống chính trị, kinh tế, xã hội trên bình diện quốc tế sẽ có những thay
đổi căn bản. Về mặt chính trị, "Hòa bình và hợp tác” vẫn là xu thế lớn phản ánh đòi
hỏi bức xúc của các quốc gia, dân tộc. Nhưng chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang,
xung đột sắc tộc, tôn giáo, chạy đua vũ trang, hoạt động can thiệp lật đổ, khủng bố
sẽ còn xảy ra ở nhiều nơi trên thế giới với quy mô và tính chất phức tạp ngày càng
tăng. Đặc điểm này đòi hỏi TTXVN phải nâng cao trình độ tác nghiệp, chất lượng
thông tin và mức độ linh hoạt, nhạy bén để cung cấp thông tin chính xác, đầy đủ,
kịp thời giúp Đảng và Nhà nước hoạch định chính sách và cách ứng xử phù hợp .
Nước ta bước vào thời kỳ phát triển mới theo định hướng mà Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ X đã thông qua, được cụ thể hóa trong kế hoạch phát triển kinh tế
xã hội 5 năm tới (2006- 2010) với những cơ hội và thách thức lớn. Vị thế nước ta
trên trường quốc tế đã được khẳng định và ngày càng được nâng cao. Tuy nhiên,
trong quá trình phát triển và hội nhập, nền kinh tế nước ta chịu ảnh hưởng và tác
động chi phối của thị trường và bối cảnh quốc tế. Xu thế phát triển của kinh tế thế
giới và khu vực tiếp tục diễn biến phức tạp, vừa thuận lợi cho phát triển, vừa có
những thách thức gay gắt hơn về kinh tế- xã hội và an ninh- quốc phòng. TTXVN
vừa phải thích nghi với tình huống mới, vừa phải tìm cách đổi mới mình nên nhiệm
vụ sẽ tăng phần khó khăn.
- Thách thức về trình độ thông tin: Cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội, sự
nghiệp thông tin báo chí chuyển sang một giai đoạn mới, giai đoạn toàn cầu hóa,
"bùng nổ thông tin" cả về số lượng, sự nhanh nhạy, đa dạng và ngày càng xuất hiện
nhiều nội dung mới, yêu cầu về thông tin rất lớn và nội dung thông tin phải chuyển
hướng tập trung sang lĩnh vực kinh tế, khoa học, kỹ thuật-công nghệ. Điều đó đòi
hỏi những người làm công tác thông tin phải rất nhạy bén, phải có trình độ nghiệp
vụ cao, có năng lực sử dụng và khai thác các phương tiện thông tin hiện đại, có kiến
thức sâu hơn về nhiều lĩnh vực, đặc biệt là kiến thức về kinh tế và khoa học-kỹ
thuật.
- Thách thức về công nghệ thông tin : Sự tiến bộ vượt bậc với tốc độ nhanh
chóng của công nghệ tin học tạo ra một cuộc cách mạng mới trong kỹ thuật thu
thập, xử lý, truyền tải thông tin và ấn loát, đem lại môi trường mới cho mọi hoạt
động thông tin trên nền tảng kỹ thuật và công nghệ cao. Việc phổ cập các thông tin
trực tuyến với khối lượng thông tin ngày tăng trên quy mô toàn cầu, cập nhật hay
theo kịp công nghệ mới không chỉ là thách thức riêng với TTXVN mà là thách thức
đối với mọi hãng thông tấn trên thế giới.
Mặc dù trong những năm qua cơ sở kỹ thuật của TTXVN đã được đầu tư, đổi
mới nhưng nhìn chung vẫn còn lạc hậu so với trình độ chung của khu vực và thế
giới. Do vậy, để thực hiện những nhiệm vụ mới trong những năm sắp tới, cần phải
tăng cường đầu tư vào việc đổi mới, hiện đại hóa công nghệ thông tin, để có thể đưa
kỹ thuật thông tin của TTXVN theo kịp kỹ thuật thông tin và ấn loát trên thế giới.
- Thách thức trong cạnh tranh thông tin: Trong bối cảnh bùng nổ thông tin
hiện nay, cùng với việc phát triển nhanh chóng và đa dạng hơn các phương tiện
truyền tin và hiện đại hóa công nghệ truyền tin, cùng với sự phát triển ngày càng
tăng của các hãng thông tấn nước ngoài, đang tạo nên sự cạnh tranh thông tin ngày
càng quyết liệt. Điều đó đòi hỏi chất lượng thông tin của TTXVN phải chuyển biến
mạnh mẽ, thiết bị kỹ thuật thu thập, xử lý và phát hành thông tin phải được đầu tư
nâng cấp hiện đại để TTXVN có thể hoạt động 24/24 giờ, bảo đảm cung cấp thông
tin nhanh chóng, chuẩn xác để hoàn thành được nhiệm vụ trong kỷ nguyên cạnh
tranh thông tin gay gắt.
- Nhu cầu về thông tin của xã hội ngày càng tăng cả về số lượng lẫn chất
lượng, cả về tính phong phú loại hình, hình thức và tính nhanh nhạy. Để giữ được
vai trò là nguồn cung cấp thông tin chính thống, dòng thông tin chủ lưu đối nội, đối
ngoại của Đảng và Nhà nước, TTXVN cần đổi mới, đa dạng hóa các loại hình thông
tin. Ngoài thông tin truyền thống được thể hiện bằng chữ và ảnh tĩnh, cần phát triển
các loại hình thông tin đa phương tiện, trong đó có thông tin âm thanh, thông tin
video (ảnh động) và thông tin đồ họa, đáp ứng nhu cầu về thông tin "nghe" và
"nhìn" của xã hội.
3.1.2. Định hướng phát triển Thông tấn xã Việt Nam giai đoạn 2006-2010
Cùng với định hướng phát triển chung của đất nước, TTXVN đã xác định rõ
những quan điểm phát triển cơ bản của mình đến năm 2010 là xây dựng TTXVN
thành một tập đoàn truyền thông quốc gia mạnh với các loại hình hoạt động thông
tin đa dạng, phong phú với chất lượng và hiệu quả cao. TTXVN phải thể hiện vai
trò là một trung tâm thông tin chiến lược quan trọng và đáng tin cậy của Đảng và
Nhà nước, đủ sức phục vụ đắc lực sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, góp phần
thực hiện thành công công cuộc đổi mới và công nghiệp hóa-hiện đại hóa đất nước.
Nhằm thực hiện định hướng chung đó, TTXVN dự kiến các hướng phát triển sau:
3.1.2.1. Định hướng phát triển về công tác thông tin
- Mở rộng nguồn thông tin. TTXVN sẽ mở rộng và đa dạng hóa các nguồn
thông tin bằng cách tăng cường và củng cố có hiệu quả mạng lưới các phân xã,
phóng viên thường trú trong và ngoài nước, tạo thêm nhiều nguồn thu thập thông tin
mới nhằm kịp thời đưa lượng thông tin lớn, tin mới nhất, quan trọng nhất ở các khu
vực và trên toàn thế giới.
- Đa dạng hóa các đối tượng phục vụ, hình thức và nội dung thông tin. Để
phục vụ công tác thông tin tuyên truyền tốt hơn đi đôi với tăng nguồn thu, TTXVN
hướng tới tăng cường nội dung chuyên sâu cho các bản tin phục vụ lãnh đạo Đảng
và Nhà nước; mở rộng thông tin theo yêu cầu của từng cơ quan thông tin đại chúng
trong nước; thực hiện thông tin cho các đối tượng rộng rãi khác theo các yêu cầu.
Đồng thời TTXVN tiếp tục phát triển các loại hình và sản phẩm thông tin đối
ngoại; phát triển hệ thống báo chí đáp ứng thường xuyên nhu cầu thông tin trực tiếp
cho độc giả; phát triển các loại thông tin chuyên đề; cung cấp, biên soạn các tài liệu,
sách chuyên đề đa dạng, các loại ấn phẩm phổ cập, tờ rơi, sách mỏng liên quan đến
thông tin tuyên truyền đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước
bằng nhiều thứ tiếng cho độc giả có nhu cầu.
TTXVN cũng sẽ chú trọng xây dựng và phát triển thông tin điện tử của TTXVN
thành một tờ báo điện tử đa phương tiện mạnh, hoàn thiện các Website của các tờ báo in;
nghiên cứu mở thí điểm kênh truyền hình riêng của TTXVN…
- Mở rộng và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế trong lĩnh vực thông tấn:
TTXVN ưu tiên mở rộng thị trường mua - bán thông tin trong khu vực với
ASEAN và thế giới, tìm chính sách thích hợp để phát hành xuất bản phẩm đối ngoại
ra nước ngoài. TTXVN sẽ tăng cường trao đổi thông tin, chuyển giao kỹ thuật - công
nghệ, đào tạo cán bộ, trao đổi kinh nghiệm với các hãng thông tấn quốc tế, tranh thủ sự
giúp đỡ của quốc tế nhằm tăng cường năng lực của mình.
3.1.2.2. Định hướng phát triển về đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật
Để phục vụ tốt sự nghiệp phát triển đất nước trong 5 năm tới và nhìn xa hơn là
tới năm 2020, TTXVN cần đầu tư xây dựng theo hướng: Xây dựng Trung tâm ảnh
báo chí TTXVN chuyên nghiệp; Xây dựng Trung tâm kỹ thuật in của TTXVN cho
phép in tất cả các loại ấn phẩm của TTXVN; Xây dựng Trung tâm Thông tin và
Hợp tác quốc tế Thông tấn tại thành phố Hồ Chí Minh trở thành Trung tâm lớn ở
phía Nam; Xây dựng Trung tâm Thông tấn quốc gia thành cơ sở quản lý, điều hành
thông tin của toàn bộ mạng lưới phân xã trong và ngoài nước, nơi làm việc của các
ban biên tập, Tòa soạn của TTXVN; Xây dựng Trung tâm thông tin dự phòng tại T6
thành cơ sở dự phòng khi xảy ra chiến tranh. Ngoài ra, TTXVN sẽ đầu tư cho các
dự án mua nhà làm trụ sở ở nước ngoài theo Quy hoạch phát triển TTXVN đến năm
2010 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Đến năm 2010, TTXVN phấn đấu
hoàn thành việc nâng cấp, hoàn thiện cơ sở vật chất kỹ thuật cho 64 Phân xã các
tỉnh, thành phố và Văn phòng đại diện TTX tại các khu vực và thành lập cơ sở xuất
bản - phát hành ở một số phân xã.
Về phương diện đầu tư hiện đại hóa, TTXVN sẽ ưu tiên đầu tư hiện đại hóa kỹ
thuật và công nghệ của TTXVN để đạt tới trình độ kỹ thuật thông tin tiên tiến trong
khu vực; đầu tư cho nghiên cứu ứng dụng công nghệ thông tin viễn thông, cho phát
triển khả năng biên tập và cung cấp thông tin theo các loại hình mới như âm thanh,
hình ảnh động, ứng dụng công nghệ nén và mã hóa thông tin, tăng cường an ninh
trên hệ thống, tăng cường mở rộng băng thông và mạng thông tin của TTXVN, xây
dựng mạng nội bộ của ngành...
3.1.2.3. Định hướng đổi mới công tác quản lý, tổ chức đào tạo
Để thực hiện định hướng chuyên môn nêu trên, TTXVN sẽ tăng cường công
tác cải cách hành chính, tăng tính chủ động trong chỉ đạo và điều hành thực hiện,
tăng cường sự hợp tác giữa các đơn vị nhằm tạo ra sức mạnh tổng thể hướng tới
mục tiêu chung. Đồng thời, trong nghiệp vụ quản lý cụ thể, TTXVN sẽ tiếp tục
kiểm tra, rà soát việc thực hiện hệ thống định mức lao động để điều chỉnh theo hư-
ớng gắn chất lượng thông tin, hiệu quả công việc với thu nhập của cán bộ, phóng
viên, biên tập viên; sẽ triển khai việc thực hiện quy hoạch cán bộ trên cơ sở Quy
hoạch đến năm 2010 và đẩy mạnh công tác đào tạo bồi dưỡng người lao động cả về
chiều rộng lẫn chiều sâu với những chương trình đào tạo thiết thực, phù hợp với
từng đối tượng cụ thể.
3.1.2.4. Định hướng phát triển ngành thông tấn
TTXVN tiếp tục hoàn thiện và triển khai thực hiện Chiến lược phát triển kinh
tế toàn ngành Thông tấn giai đoạn 2006-2010, Chiến lược kinh doanh các sản phẩm
sẵn có và sản phẩm mới nhằm huy động nguồn lực tối đa, tăng sức cạnh tranh của
các sản phẩm thông tin, tăng nguồn thu, góp phần giảm gánh nặng ngân sách nhà
nước và nâng cao mức sống cho cán bộ công nhân viên.
Các Tòa soạn sẽ đẩy mạnh việc cải tiến hình thức trình bày, đa dạng hóa
nguồn tin và thể loại nhằm đáp ứng nhu cầu thông tin ngày càng cao, càng tinh tế
của xã hội. Mục tiêu của hoạt động thông tấn là hiệu quả kinh tế cao, nhưng kiên
quyết không chạy theo xu hướng “thương mại hóa”. Các Tòa soạn sẽ cải thiện hoạt
động bằng cách: nâng cao chất lượng giấy và khâu in ấn của các ấn phẩm, đồng thời
thay đổi cách thức trình bày, cách rút tin và makét trang bìa để thu hút độc giả; cố
gắng tăng nguồn thu từ các sản phẩm phát mạng, sản phẩm nghe nhìn và sách; đăng
ký mở thêm ấn phẩm đáp ứng yêu cầu độc giả; mở rộng lĩnh vực hoạt động có thu
theo đặc thù của từng đơn vị; đổi mới mạnh mẽ công tác phát hành…
3.1.3. Quan điểm đổi mới quản lý tài chính tại các đơn vị sự nghiệp thuộc
Thông tấn xã Việt Nam trong những năm sắp tới
Theo Quyết định 136/2001/QĐ-TTg ngày 17/9/2001 của Thủ tướng Chính
phủ, đổi mới quản lý tài chính đối ở các ĐVSN là một trong chín mục tiêu cụ thể
của chương trình cải cách tổng thể hành chính Nhà nước giai đoạn 2001-2010. Nội
dung cơ bản của đổi mới quản lý tài chính ở các ĐVSN là xóa bỏ cơ chế cấp phát
tài chính theo kiểu “xin - cho”, từng bước thực hiện cơ chế tự chủ tài chính của
ĐVSN.
Quán triệt tư tưởng chỉ đạo của Nhà nước, quan điểm đổi mới quản lý tài chính
ở các ĐVSN thuộc TTXVN trong thời gian tới là:
- Điều chỉnh mạnh hơn, rõ hơn để tăng cường khả năng tự chủ của đơn vị, thắt
chặt và tiến tới xóa bỏ sự bao cấp của TTXVN cho các đơn vị này. Quán triệt quan
điểm này, mỗi ĐVSN thuộc TTXVN đều phải hướng tới xây dựng năng lực quản lý
để thực thi tốt quyền tự chủ tài chính được giao. Mặc dù hiện tại các ĐVSN còn
nhiều khó khăn về tài chính, chưa thể đáp ứng ngay yêu cầu tự cân đối toàn bộ thu
chi, nhưng không thể vì những khó khăn trước mắt đó mà TTXVN cứ tiếp tục duy
trì mối quan hệ bao cấp như hiện nay. Để tháo gỡ dần khó khăn cho các ĐVSN,
tránh thay đổi đột ngột về cơ chế làm xáo trộn hoạt động của các đơn vị, TTXVN
cần phải thực hiện kết hợp nhiều biện pháp hỗ trợ như: mở rộng dần phạm vi phân
cấp quản lý tài chính, tích cực khai thác các nguồn thu, khuyến khích tiết kiệm chi,
nâng cao nhận thức về quản lý tài chính, cải tiến lề lối, tư duy quản lý kinh tế, từng
bước cắt giảm các khoản bao cấp không thiết thực, không hiệu quả, tiến tới xóa bỏ
hẳn bao cấp khi các đơn vị đã có đủ khả năng tự bù đắp chi phí... Các biện pháp này
phải bám sát các quy định của Nhà nước, phát huy được tối đa các điều kiện, ưu đãi
của Nhà nước, đồng thời không được trái với quy định của pháp luật. Hơn nữa, khi
thực hiện phải đem lại hiệu quả thiết thực cho các đơn vị, tránh đề xuất các giải pháp
chung chung, không có tính khả thi hoặc không đem lại lợi ích thiết thực.
- Từng bước cải tiến và nâng cao chất lượng công tác quản lý tài chính ở các
ĐVSN theo hướng thích ứng với mô hình tổ chức mới, vị thế mới của mỗi ĐVSN.
Nâng cao năng lực quản lý tài chính của các ĐVSN thuộc TTXVN trong thời gian
tới, ngoài ý nghĩa là một hoạt động thường xuyên, liên tục, phải phù hợp với mô
hình và vị thế mới của từng ĐVSN trong quá trình cải cách tài chính chung của
TTXVN, cũng như của quản lý tài chính công. Để phù hợp với định hướng phát
triển, các ĐVSN ở vị trí khác nhau sẽ phải có những cơ chế, những phương pháp
quản lý tài chính khác nhau, thích hợp với từng vị trí, từng lĩnh vực hoạt động. Tuy
nhiên, trong điều kiện trước mắt, các ĐVSN thuộc TTXVN, một mặt, vẫn phải tuân
thủ các quy định hiện hành của Nhà nước, mặt khác, cần chủ động kiến nghị Nhà
nước cho phép thay đổi theo lộ trình của TTXVN. Ngay cả khi cơ chế tài chính của
Nhà nước chưa thay đổi thì các ĐVSN của TTXVN vẫn phải chủ động chuẩn bị
những năng lực cần thiết về con người, về nhận thức, phương án…để khi được phép
thí điểm có thể thực hiện tốt nội dung cải tổ.
Ngoài ra, để nâng cao năng lực quản lý tài chính cho các ĐVSN, TTXVN phải
xây dựng được Chiến lược đổi mới tổng thể với những bước đi, những giải pháp cụ
thể theo một lộ trình nhất định, nhưng không nên vội vàng, đốt cháy giai đoạn. Hơn
nữa, phải chú ý đến sự khác nhau về tiềm lực tài chính, khả năng quản lý của từng
ĐVSN. Đối với những đơn vị có thế và lực thì có thể nhanh chóng phân cấp quản lý
tài chính. Đối với các đơn vị có khả năng tài chính yếu thì mỗi sự thay đổi đều phải
tính toán kỹ sao cho có thể tránh được tác động tiêu cực đến hoạt động của đơn vị.
- Tập trung tháo gỡ những vướng mắc hiện có, đồng thời tích cực chuẩn bị để
các ĐVSN sẵn sàng bước vào hoạt động theo cơ chế mới một cách thuận lợi.
TTXVN cần nhanh chóng tháo gỡ những tồn tại, vướng mắc thuộc về cơ chế cũ để
tạo ra một “cơ chế tài chính” lành mạnh cho phép ĐVSN vững vàng, sẵn sàng đối
mặt với thử thách mới. Mặt khác, cần phải có những tác động mang tính thí điểm từ
TTXVN để các đơn vị dần làm quen với vị thế của mình. Chẳng hạn như, đối với
các ĐVSN sẽ chuyển sang hoạt động độc lập thì cần có hướng cắt giảm bao cấp,
khuyến khích tự trang trải, tự chủ tài chính…; đối với đơn vị còn phụ thuộc thì nên
tiến hành khoán dần từng khâu…
Bên cạnh đó, cần khuyến khích các ĐVSN nỗ lực mở rộng, đa dạng hóa các
hoạt động chuyên môn phù hợp với năng lực của đơn vị, tích cực khai thác nguồn
thu dịch vụ theo hướng cạnh tranh lành mạnh giữa các đơn vị trong ngành và ngoài
ngành vì đây là điều sẽ giúp các ĐVSN không bỡ ngỡ khi chuyển sang cơ chế hoạt
động độc lập.
- Đổi mới cần đồng bộ, gắn với các cơ chế, chính sách quản lý liên quan như:
Chính sách lương, cải cách hành chính, đào tạo nâng cao chất lượng nguồn nhân lực,...
Các giải pháp để nâng cao năng lực quản lý tài chính phải đồng bộ, để khi triển khai
thực hiện sẽ hỗ trợ, bổ sung cho nhau, tạo ra tác động tổng hợp, toàn diện trên các khía
cạnh của quản lý tài chính. Các giải pháp này cũng phải tạo ra được sự thuận lợi cho
các đơn vị trong quá trình thực hiện và phải được hoạch định một cách khoa học, có cơ
sở lý luận, thực tiễn để đảm bảo rằng khi triển khai, thực hiện chúng sẽ hạn chế tối đa
tác động tiêu cực, phát huy được những điểm mạnh của mỗi đơn vị trong công tác quản
lý tài chính.
3.2. Giải pháp đổi mới quản lý tài chính ở các đơn vị sự nghiệp thuộc
thông tấn xã Việt Nam
3.2.1. Hoàn thiện, bổ sung hệ thống định mức kinh tế kỹ thuật
3.2.1.1. Hoàn thiện, bổ sung hệ thống định mức kinh tế kỹ thuật thuộc thẩm
quyền của Thông tấn xã Việt Nam
Hệ thống định mức, quy chế chi tiêu nội bộ (số 442/QĐ/TTX) của TTXVN
hiện nay đã bộc lộ nhiều hạn chế, không còn phù hợp với yêu cầu đổi mới. Trước
mắt, cần xem xét bổ sung thêm một số mục chi có thể kế hoạch hóa được vào trong
định mức như:
- Dự phòng trợ cấp mất việc làm: Khoản chi này được trích theo tỷ lệ phần
trăm trên quỹ lương tính bảo hiểm xã hội hàng năm. Quỹ tiền lương đã được xác
định trong định mức (theo lao động định biên và hệ số lương cấp bậc bình quân)
nên khoản chi này hoàn toàn có thể lượng hóa thành định mức.
- Chi vệ sinh môi trường làm việc: Hiện nay hầu hết các đơn vị đều đi thuê
doanh nghiệp chuyên làm dịch vụ vệ sinh theo đơn giá thỏa thuận và khối lượng
công việc thực tế. Để có chi phí hợp lý, TTXVN có thể tham khảo đơn giá của các
đơn vị cung cấp dịch vụ để xây dựng định mức theo khối lượng công việc thực hiện.
- Định mức về trang bị văn phòng phẩm và công cụ, dụng cụ: hệ thống định
mức hiện nay chưa đề cập rõ, cụ thể về định mức trang bị văn phòng phẩm và công
cụ, dụng cụ cho các ĐVSN và cho cán bộ công nhân viên. Xét trong thời gian qua,
diễn biến chi phí về văn phòng phẩm và công cụ, dụng cụ trên thị trường tương đối
ổn định, có thể kế hoạch hóa được, vì vậy TTXVN nên xem xét đưa khoản mục chi
phí này vào trong định mức.
Đồng thời mức chi cho mỗi khoản mục chi phí cũng cần được nghiên cứu, xây
dựng lại cho phù hợp với mặt bằng giá cả hiện tại để loại bỏ các khoản bổ sung như:
Bổ sung tiền lương, chi thù lao nhuận bút, chi tập huấn,...và giảm các định mức chi
đối với một số chi phí đã giảm giá như cước phí điện thoại. Khi thực hiện nội dung
này, TTXVN cần có những bước điều tra, khảo sát mặt bằng giá cả nhằm xây dựng
định mức sát thực tế và có thể xây dựng các mức chi này ở dạng mở để có thể điều
chỉnh khi cần thiết.
Về lâu dài, TTXVN chỉ nên cấp 100% kinh phí cho những ĐVSN không có
thu (khối văn phòng), tiến tới sẽ chuyển toàn bộ các ĐVSN sang chế độ có thu và
mức cấp kinh phí sẽ tùy thuộc vào nguồn thu của từng đơn vị. TTXVN chỉ nên ban
hành các yêu cầu, nguyên tắc tính toán xây dựng định mức chi sự nghiệp, còn định
mức cụ thể sẽ do từng đơn vị cụ thể xây dựng theo tình hình thực tế, phù hợp với xu
hướng mở rộng phân cấp.
3.2.1.2. Hoàn thiện, bổ sung hệ thống định mức kinh tế kỹ thuật thuộc thẩm
quyền của các đơn vị sự nghiệp thuộc Thông tấn xã Việt Nam
Hiện nay, các ĐVSN thuộc TTXVN đã ban hành được một số định mức, tiêu
chuẩn nội bộ nhưng chưa đầy đủ, đồng bộ. Trong thời gian tới, mỗi ĐVSN cần phải
tự rà soát lại hệ thống định mức, tiêu chuẩn, chế độ chi tiêu nội bộ của đơn vị mình,
đánh giá sự phù hợp của các văn bản này với tình hình mới để có sự điều chỉnh cho
thích hợp. Mỗi ĐVSN phải thiết lập đủ các quy định nội bộ cho tất cả các nội dung
thu, chi tài chính với các hướng dẫn nội bộ rõ ràng, phù hợp với đặc điểm của đơn
vị mình.
3.2.2. Tăng cường hoạt động kiểm tra, giám sát quá trình chấp hành kỷ
luật tài chính tại các đơn vị sự nghiệp thuộc Thông tấn xã Việt Nam
3.2.2.1. Tăng cường hoạt động kiểm tra, giám sát quá trình chấp hành kỷ luật
tài chính nội bộ các đơn vị sự nghiệp trực thuộc Thông tấn xã Việt Nam
Kỷ luật tài chính ở các ĐVSN thuộc TTXVN hiện nay còn chưa nghiêm, bản
thân mỗi đơn vị chưa muốn áp dụng các chế tài để tăng cường kỷ luật tài chính nên
còn những vấn đề tài chính tồn đọng chưa giải quyết được. Vì vậy, đồng thời với
việc đề cao ý thức trách nhiệm của mỗi bộ phận, mỗi cá nhân trong công tác quản lý
tài chính, việc áp dụng các chế tài trong những trường hợp vi phạm nguyên tắc quản
lý tài chính là điều rất cần thiết và hoàn toàn hợp lý.
Các ĐVSN cần rà soát lại toàn bộ các quy định nội bộ đã ban hành, nghiên
cứu, bổ sung cụ thể trách nhiệm từng cá nhân, tập thể có liên quan và các chế tài
trong mỗi quy định nội bộ đó. Đồng thời, cần phải coi kỷ luật tài chính là một nội
dung cấu thành, không thể thiếu trong mỗi quy định tài chính nội bộ chuẩn bị xây
dựng mới. Ví dụ, trong quy chế quản lý kinh phí xây dựng cơ bản, cần quy định rõ
với mỗi mức độ vi phạm về mục đích sử dụng kinh phí, thời hạn thanh quyết toán
kinh phí, lãng phí,....sẽ có hình thức xử phạt tài chính tương ứng với từng đối tượng
(tập thể, cá nhân), nếu lặp lại sai lầm cần chuyển sang cấp độ xử phạt cao hơn...
Mặt khác, trong quá trình xử lý các nghiệp vụ tài chính hiện nay, các ĐVSN
thường mới chỉ thực hiện theo tư duy chủ quan của cá nhân người thực hiện, nên
không có sự đồng bộ, nhất quán trong toàn đơn vị, không cho phép chủ thể quản lý
kiểm soát được đầy đủ các nội dung cần thực hiện. Trong thời gian tới, các ĐVSN
nên xem xét, phân loại các nghiệp vụ tài chính phát sinh tại đơn vị thành những
nhóm nghiệp vụ chủ yếu và thiết lập các quy trình tác nghiệp, kiểm soát cụ thể cho
từng nhóm nghiệp vụ. Các quy trình này cần được ban hành thành văn bản, áp dụng
thống nhất trong toàn đơn vị để đảm bảo tính thống nhất, nhất quán, tránh bỏ sót các
thao tác nghiệp vụ tài chính cần thiết. Ví dụ như: quy trình theo dõi và kiểm soát
các nguồn thu (theo nội dung thu, theo đơn vị thực hiện, theo thời gian thực
hiện,...), kiểm soát các khoản chi (theo nội dung chi, theo đơn vị thực hiện, theo độ
lớn các khoản chi, theo thời gian thực hiện,...).
Việc tăng cường kỷ luật tài chính phải bắt đầu từ chính cán bộ lãnh đạo đơn vị.
Bởi vì, chỉ khi các cán bộ lãnh đạo đơn vị nhận thức rõ tầm quan trọng của kỷ luật
tài chính, gương mẫu thực hiện kỷ luật tài chính và trực tiếp chỉ đạo các bộ phận
trong đơn vị thực hiện nghiêm kỷ luật tài chính đã được thiết lập, thì các quy chế tài
chính nội bộ của đơn vị mới phát huy được tác dụng mong muốn. Nếu không đáp
ứng yêu cầu này, thì một quy chế dù được xây dựng chặt chẽ, khoa học đến đâu
cũng chỉ là một tập giấy vô nghĩa nằm trong tủ tài liệu.
Hàng năm, các ĐVSN cũng cần có tổng kết, đánh giá về tình hình thực hiện kỷ
luật tài chính tại đơn vị mình, tuyên dương, khen thưởng các bộ phận chấp hành tốt
kỷ luật tài chính và kiên quyết xử lý các bộ phận chấp hành chưa tốt kỷ luật tài
chính của đơn vị mình.
3.2.2.2. Tăng cường hoạt động kiểm tra, giám sát của các Ban chức năng
thuộc Thông tấn xã Việt Nam đối với quá trình chấp hành kỷ luật tài chính ở
đơn vị sự nghiệp
Hiện tại, mức độ kiểm tra, giám sát tài chính tại các ĐVSN của các Ban chức
năng giúp việc cho lãnh đạo TTXVN chưa đồng đều, chưa phối hợp tốt với nhau. Để
khắc phục nhược điểm này, trước mắt, hoạt động kiểm tra, giám sát tài chính của các
Ban chức năng thuộc TTXVN cần được tăng cường theo hướng:
- Ban kiểm tra nội bộ cần thay đổi quan điểm làm việc theo kiểu “đóng cửa
bảo nhau”. Cần có thái độ kiên quyết khi xử lý những sai sót mang tính hệ thống
trong công tác quản lý tài chính của các ĐVSN. Sau mỗi đợt kiểm toán, quyết toán
cần báo cáo lãnh đạo TTXVN ban hành chỉ thị để chấn chỉnh sai sót và yêu cầu đơn
vị phải báo cáo kết quả thực hiện các kiến nghị của kiểm toán, không để tình trạng
các kiến nghị chỉ dừng lại ở biên bản kiểm toán. Trường hợp thấy cần thiết, kiểm
toán viên nội bộ có thể đề xuất thành lập đoàn phúc tra kết quả kiểm toán tại đơn vị
được kiểm toán. Công tác kiểm toán nội bộ cũng cần tập trung vào việc tuân thủ chế
độ tài chính, kế toán. Thay kiểm toán hoạt động của các ĐVSN cho việc kiểm toán
báo cáo tài chính của các đơn vị này như hiện nay vẫn đang thực hiện. Quá trình
kiểm toán tuân thủ, kiểm toán hoạt động sẽ tập trung vào đánh giá hệ thống kiểm
soát nội bộ trong mỗi đơn vị để giúp các đơn vị phát hiện và chấn chỉnh kịp thời các
điểm yếu trong hệ thống kiểm soát nội bộ.
- Ban Kế hoạch Tài vụ cần kiên quyết thu hồi nguồn kinh phí đã cấp cho các
ĐVSN nhưng chưa sử dụng hết về tài khoản của TTXVN. Cần có chương trình
kiểm tra, giám sát định kỳ tại ĐVSN để phối hợp với đơn vị này chấn chỉnh ngay
những sai sót, tháo gỡ kịp thời những vướng mắc ngay từ khi mới phát sinh.
- Ban Thanh tra, Ban Kế hoạch Tài vụ, Ban Tổ chức cán bộ cần có sự phối hợp
chặt chẽ trong quá trình kiểm tra, giám sát tài chính tại các ĐVSN để tránh chồng
chéo và cho phép đạt hiệu quả cao trong công việc.
- Ban Thi đua khen thưởng cần nghiên cứu, xem xét, đưa chỉ tiêu đánh giá về
chất lượng thực hiện kỷ luật tài chính thành một nội dung để xét thành tích thi đua,
khen thưởng của các đơn vị thuộc TTXVN.
Về lâu dài, TTXVN sẽ không can thiệp sâu vào hoạt động tài chính của các
ĐVSN, vì vậy cần có hướng giám sát tài chính các đơn vị này thông qua kênh cấp
vốn và kênh đặt hàng tiêu thụ sản phẩm dịch vụ của các ĐVSN.
3.2.3. Mở rộng phân cấp quyền tự chủ về tài chính cho các đơn vị sự
nghiệp
Hiện tại, TTXVN chưa mạnh dạn phân cấp quyền tự chủ về tài chính cho các
ĐVSN nên các đơn vị này còn phụ thuộc rất nhiều vào TTXVN, tính tự chủ về tài
chính của các ĐVSN chỉ giới hạn trong nguồn kinh phí được cấp phát cho đơn vị và
các hoạt động dịch vụ do đơn vị tự khai thác.
Để giúp các đơn vị ngày càng nâng cao chất lượng công tác quản lý tài chính
và chuyển sang hướng tự chủ hoàn toàn về tài chính thì TTXVN cần sớm nghiên
cứu và sửa đổi cơ chế phân cấp quản lý tài chính cho các ĐVSN. Cần coi đây
như là một bước đột phá làm thay đổi hẳn tư tưởng bao cấp trước đây.
Trước mắt, cần chú ý các nội dung như:
- Phân cấp cho các đơn vị được ra quyết định đầu tư xây dựng cơ bản đến một
mức nhất định bằng nguồn vốn tự bổ sung của đơn vị và các nguồn thu khác do đơn
vị tự khai thác.
- Cho phép các đơn vị được tự chủ trong thực hiện hoạt động tài chính của
mình nhằm tạo ra nhiều nguồn thu.
- Cho phép các ĐVSN được chủ động liên doanh liên kết với các tập thể, cá
nhân thực hiện các hoạt động trong lĩnh vực hoạt động dịch vụ của mình trên tinh
thần không trái với pháp luật, đảm bảo lợi ích của các bên và mang lại chất lượng
dịch vụ tốt nhất cho xã hội.
Việc phân cấp quản lý tài chính này cũng phải đi liền với việc làm rõ trách
nhiệm của thủ trưởng các ĐVSN trên tinh thần quyền hạn và trách nhiệm không
tách rời nhau. Trách nhiệm của cá nhân người lãnh đạo phải đặt lên hàng đầu rồi
mới đến trách nhiệm của tập thể.
3.2.4. Nâng cao hiệu quả quản lý các nguồn thu
3.2.4.1. Đổi mới quản lý thu ở đơn vị sự nghiệp
Trước mắt, TTXVN vẫn phải cấp phần lớn kinh phí hoạt động cho các ĐVSN
vì vậy ĐVSN cần tính toán các chỉ tiêu một cách hợp lý, tiết kiệm, đảm bảo chính
xác và khoa học.
Bên cạnh đó, các ĐVSN cần quản lý chặt chẽ các nguồn thu tại đơn vị mà trước
đây còn quản lý lỏng lẻo như quản lý thu quảng cáo, thu do tăng lượng phát hành, thu
từ bán tin trên mạng,... Đồng thời các ĐVSN cần nỗ lực khai thác, tìm kiếm các nguồn
thu mới để năng dần tỷ trọng nguồn thu tại đơn vị.
Quan điểm về phát triển hoạt động dịch vụ của các ĐVSN cần thay đổi
theo hướng chủ động, tích cực phát triển nguồn thu, phải coi đây là kênh tạo ra
nguồn thu quan trọng, giúp cho đơn vị tự cân bằng dần cán cân thu chi của đơn
vị, xóa bỏ tư tưởng tăng thu chỉ để tăng thu nhập cho người lao động.
Các đơn vị cũng chủ động nghiên cứu, xây dựng đơn giá thu của hoạt động
dịch vụ phù hợp với mặt bằng giá cả, chất lượng dịch vụ của đơn vị sao cho đảm
bảo giá cả có tính cạnh tranh và có lãi.
3.2.4.1. Đổi mới quản lý thu của văn phòng Thông tấn xã Việt Nam
Trước mắt, các ban chức năng của TTXVN cần giúp lãnh đạo TTXVN rà soát
lại cơ chế quản lý, cấp phát kinh phí hiện thời để sửa đổi những điểm còn bất cập,
cụ thể là:
- Khi xét duyệt kinh phí sự nghiệp, ngoài việc kiểm tra các khoản mục lương,
cũng cần phải xem xét đến tính chất cân đối, phù hợp của các khoản mục chi khác
so với định mức để đảm bảo không có khoản mục kinh phí nào bị sử dụng lãng phí
mà vẫn được phê duyệt.
- Đối với các khoản kinh phí còn thừa trong năm trước thì bổ sung và trừ vào
kinh phí năm sau và chấn chỉnh ý thức quản lý nguồn thu của ĐVSN.
- Để khuyến khích các đơn vị tích cực tăng trưởng nguồn thu tại đơn vị,
TTXVN cũng cần nghiên cứu, tạo cơ chế thưởng các đơn vị có nguồn thu tại đơn vị
tăng trưởng nhanh, vượt kế hoạch, phạt các đơn vị không hoàn thành kế hoạch thu
tại đơn vị thông qua các hình thức: điều chỉnh giảm mức lương bình quân khi phạt
thu không đạt kế hoạch và thưởng cho các đơn vị vượt kế hoạch bằng cách điều
chỉnh tăng mức lương bình quân của đơn vị đó….
Về lâu dài, đối với các ĐVSN không có thu thì cần phải nhanh chóng tạo dịch
vụ để có thu, sau đó chuyển sang tăng thu. Cần coi đây là yêu cầu bắt buộc đối với
ĐVSN không có thu.
Đối với các đơn vị có khả năng chuyển sang hoạt động độc lập không cần
nguồn kinh phí nhà nước cấp, TTXVN cần định hướng cho các đơn vị đó hoạt động
thích ứng theo yêu cầu của các quy luật kinh tế khách quan như quy luật cạnh tranh,
quy luật cung cầu, quy luật trao đổi ngang giá,... Khi xét thấy đơn vị này đã tự cân
đối được toàn bộ thu chi thường xuyên thì cần kiên quyết chấm dứt quan hệ cấp
phát kinh phí như hiện nay.
3.2.5. Sử dụng tiết kiệm, hiệu quả và giám sát chặt chẽ các khoản chi
3.2.5.1. Giải pháp tăng cường quản lý chi của các đơn vị sự nghiệp
Để quản lý tốt các khoản chi, bản thân mỗi ĐVSN cần thực hiện tốt các thủ
tục, quy trình kiểm soát nội bộ theo nhiều cấp. Quy trình kiểm soát phổ biến nên áp
dụng là kiểm soát qua 3 cấp: Kiểm soát từ cấp phòng, bộ phận thực hiện, kiểm soát
của bộ phận kế toán tài chính và cuối cùng mới là sự kiểm soát và phê duyệt của
lãnh đạo đơn vị. Để thực hiện được quy trình này, bộ phận trực tiếp thực hiện chi
phí nhất thiết phải tập hợp chứng từ và chuyển cho kế toán đơn vị kiểm soát trước
khi trình lãnh đạo phê duyệt. Sau khi đã qua 3 cấp kiểm soát đầy đủ, kế toán mới
được phản ánh nghiệp vụ đó vào chi phí. Cần kiên quyết xóa bỏ tình trạng chứng từ
được bộ phận thực hiện chuyển thẳng lên thủ trưởng đơn vị phê duyệt trước khi có
sự kiểm soát của bộ phận kế toán tài chính.
Trong các khoản mục chi phí, các ĐVSN thuộc TTXVN cần quan tâm chấn
chỉnh việc tính toán chi phí khấu hao TSCĐ cho đầy đủ, đúng quy định của Nhà
nước, để đảm bảo đúng đắn diễn biến, kết quả hoạt động của đơn vị.
- Theo quy định tại Thông tư 25/TT-BTC ngày 21/3/2002 của Bộ Tài chính
thì: Trên cơ sở định mức kinh tế kỹ thuật và chế độ chi tiêu tài chính hiện hành của
Nhà nước, đơn vị chủ động xây dựng tiêu chuẩn, định mức và chế độ chi tiêu nội
bộ, để bảo đảm hoạt động thường xuyên cho phù hợp với hoạt động đặc thù của đơn
vị và tăng cường công tác quản lý, sử dụng kinh phí tiết kiệm có hiệu quả.
TTXVN cũng đã thường xuyên yêu cầu các đơn vị phải tự xây dựng hệ thống
định mức chi phí hoạt động dịch vụ, trình lên TTXVN phê duyệt trước khi thực
hiện, nhưng đến thời điểm này chỉ có một số ĐVSN là thực hiện được. Sắp tới, các
ĐVSN chưa xây dựng thì khẩn trương xây dựng quy chế chi tiêu nội bộ cho đơn vị
mình, trình lên TTXVN duyệt để làm căn cứ chi. Chấm dứt tình trạng chi phí tự
phát như hiện nay. Đặc biệt, cần chú ý các khoản mục chí phí sau:
- Làm rõ căn cứ để trích lập quỹ lương. Tổng quỹ lương của ĐVSN không
được vượt quá quy định của Nhà nước tại Thông tư 25/2002/TT-BTC.
- Các khoản chi phí như khấu hao TSCĐ, công cụ dụng cụ, chi phí khác,...phải
xác định rõ để phân bổ vào chi phí để đảm bảo sự phù hợp giữa doanh thu và chi
phí, đảm bảo phản ánh đúng kết quả hoạt động của đơn vị.
- Các khoản chi thuê khoán chuyên môn như thuê chuyên gia đọc dò, dịch
bài,... phải có đầy đủ hợp đồng thuê khoán do Thủ trưởng đơn vị trực tiếp ký với
từng đối tượng. Khi thanh toán các khoản chi này phải do các đối tượng được thuê
trực tiếp đề nghị thanh toán, hoặc ủy quyền bằng văn bản cho người trong đơn vị
thanh toán hộ.
- Các khoản trả tiền nhuận bút thì nhất thiết phải có giấy biên nhận ghi rõ
người được hưởng và trả tiền cho bài viết nào, nếu vượt trên 500.000đ/lần thì phải
nộp thuế vãng lai.
- Các khoản tiền hoa hồng quảng cáo cũng phải có giấy biên nhận ghi rõ người
được hưởng và nếu vượt trên 500.000đ/lần thì phải nộp thuế vãng lai.
3.2.5.2. Giải pháp về phía Thông tấn xã Việt Nam
TTXVN cần nghiên cứu, ban hành cơ chế khuyến khích bằng vật chất đối với
các đơn vị có ý thức tiết kiệm chi phí và đảm bảo hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu
kế hoạch. Chẳng hạn như: Tính một tỷ lệ nhất định trên số tiết kiệm chi phí so với
kế hoạch vào kinh phí được cấp cho đơn vị, coi đây là một nội dung để xếp loại thi
đua, khen thưởng của đơn vị,...
Việc một số ĐVSN chậm trễ trong xây dựng định mức chi tiêu nội bộ cũng có
một phần trách nhiệm của TTXVN vì hàng năm, TTXVN vẫn chấp nhận số quyết
toán của đơn vị, chỉ loại bỏ một số ít khoản chi không đúng. Để hoạt động của các
ĐVSN đi vào khuôn khổ, TTXVN cần có biện pháp quản lý mạnh hơn như: tạm
thời chưa phê duyệt một số khoản chi cho đến khi có định mức chi tiêu nội bộ của
đơn vị; trừ điểm thi đua của đơn vị đó,...
3.2.6. Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ tài chính, kế toán giỏi nghiệp vụ,
có tinh thần trách nhiệm, có phẩm chất đạo đức tốt
Nâng cao năng lực quản lý tài chính phải xây dựng trên nền tảng nâng cao
năng lực chuyên môn nghiệp vụ của từng cán bộ làm công tác tài chính kế toán.
Trong khi đó, năng lực hiện tại của đội ngũ cán bộ tài chính, kế toán ở các ĐVSN
còn chưa đều, chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu chuyên môn, chưa am hiểu về công tác
quản lý, chưa cố gắng tự đào tạo mình. Vì vậy các ĐVSN cần nhanh chóng khắc
phục điểm yếu này.
Đối với đội ngũ nhân viên hiện có, các đơn vị cần có chính sách bồi dưỡng phẩm
chất đạo đức nghề nghiệp; đào tạo củng cố kiến thức chuyên môn như:
- Nêu cao tinh thần đạo đức nghề nghiệp, kiên quyết không sử dụng những cá
nhân có phẩm chất đạo đức kém làm công tác tài chính, kế toán.
- Thường xuyên cử cán bộ, nhân viên làm công tác tài chính, kế toán đi đào
tạo, bồi dưỡng, cập nhật kiến thức ngắn hạn, dài hạn.
- Khuyến khích cán bộ, nhân viên đi học tập, nghiên cứu để phục vụ cho công
việc bằng các hình thức khen thưởng vật chất, cơ chế trả lương theo trình độ, chất
lượng công việc.
- Tạo điều kiện để từng cá nhân tự đào tạo mình thông qua việc hỗ trợ kinh phí
học tập, tạo điều kiện về thời gian,...
Cùng với chính sách đào tạo tốt, các ĐVSN cũng cần có chính sách sử dụng
lao động là công tác tài chính, kế toán khoa học hợp lý, như:
- Trọng dụng người lao động có năng lực chuyên môn tốt.
- Phân công lao động đúng với năng lực trình độ của từng người, đúng nguyên tắc
bất kiêm nhiệm, đảm bảo sự kiểm soát lẫn nhau trong chuyên môn.
- Luân chuyển công việc theo định kỳ để các cá nhân có điều kiện tiếp cận với
nhiều vị trí công tác khác nhau, bổ sung được các kiến thức còn thiếu.
- Định kỳ, phải tổ chức kiểm tra, sát hạch, đánh giá trình độ chuyên môn của
từng người lao động. Nếu không đạt yêu cầu thì phải chuyển sang làm công tác
khác.
Bên cạnh đó, khi có nhu cầu bổ sung thêm nguồn nhân lực làm công tác tài
chính, kế toán, các ĐVSN cần có chính sách tuyển dụng lao động chặt chẽ, nghiêm
túc, chất lượng chuyên môn và phẩm chất đạo đức phải được đặt lên hàng đầu. Cần
tổ chức thi tuyển nhân viên công khai, có tiêu chí đánh giá đầy đủ các mặt, minh
bạch, khách quan,.. để có thể tuyển chọn được nguồn nhân lực có chất lượng tốt
nhất cho công tác tài chính, kế toán.
3.2.7. Tăng cường cơ sở vật chất, mở rộng ứng dụng tin học vào công tác
quản lý tài chính
Việc ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác tài chính, kế toán tại các
ĐVSN thuộc TTXVN còn hạn chế như hiện nay không chỉ làm giảm năng suất lao
động mà còn không tương xứng với khả năng của bản thân các ĐVSN nói riêng và
của TTXVN nói chung. Điều đáng tiếc là vấn đề tin học hóa công tác quản lý tài
chính, kế toán chưa được sự quan tâm đúng mức của lãnh đạo TTXVN cũng như
lãnh đạo các ĐVSN nên đến thời điểm này, việc áp dụng công nghệ thông tin trong
công tác tài chính, kế toán ở các đơn vị vẫn còn bỏ ngỏ, các ĐVSN vẫn tự xoay sở,
vận dụng chắp vá tùy theo khả năng của mình.
Qua khảo sát thực tế tại từng đơn vị cho thấy, chủ yếu các chương trình kế
toán của các ĐVSN thuộc TTXVN cũng chỉ sử dụng phần mềm foxpro rất lạc hậu,
chương trình được viết rất sơ sài, chắp vá, không đáp ứng được yêu cầu quản lý. Hệ
thống máy tính hiện có ở phòng Kế toán của các ĐVSN cũng chưa được trang bị
đồng bộ, một số máy tính có cấu hình thấp, máy in còn hạn chế và hầu như không
có máy photocopy riêng.
Khắc phục điểm hạn chế này là điều hoàn toàn nằm trong tầm tay của
TTXVN. Về phần mình, các ĐVSN cần chủ động tự liên hệ với các Công ty phần
mềm đặt mua chương trình kế toán tiên tiến và phù hợp với đơn vị mình. Việc trang
bị hệ thống thiết bị tin học (phần cứng) cũng phải do TTXVN quyết định (vì các
ĐVSN không được tự quyết định đầu tư). Để giúp đơn vị tăng năng suất lao động,
có thêm thiết bị, công cụ quản lý hữu hiệu, đề nghị lãnh đạo TTXVN quan tâm
trang bị đủ thiết bị văn phòng cho bộ phận kế toán của các ĐVSN.
3.3. Kiến nghị điều kiện hỗ trợ đổi mới quản lý tài chính ở các ĐVSN
thuộc thông tấn xã Việt Nam
3.3.1. Kiến nghị với Chính phủ
-Nhà nước cần quan tâm tới phân cấp và ủy quyền mạnh mẽ, đơn giản hóa các
thủ tục trình duyệt, thực hiện cơ chế một cửa, giảm bớt các tầng lớp trung gian,
nhằm tạo quyền chủ động thực sự cho các ĐVSN trong quá trình tổ chức hoạt động.
- Việc hoàn thiện cơ chế chính sách phải tiến hành từ khâu rà soát, đánh giá
các cơ chế, chính sách, chế độ đã thực hiện trong thời gian qua, xem xét nhu cầu
hiện tại và tính đến đòi hỏi trong tương lai. Cơ chế, chính sách mới phải theo hướng
đồng bộ, tránh tình trạng chồng chéo, không minh bạch, không tạo ra kẽ hở và
không gây cản trở cho quá trình thực hiện.
- Qua hơn 3 năm thực hiện, Nghị định số 10/2002/NĐ-CP đã có những tác
động đáng kể, nhiều ĐVSN đã hưởng ứng tích cực, đã chuyển sang cơ chế tự chủ
tài chính để phát huy khả năng của mình, tăng thu nhập cho người lao động. Tuy
nhiên, Nghị định số 10/2002/NĐ-CP cũng có những điểm bất cập cần được xem
xét, sửa đổi như:
+ Thực tế cho thấy nếu chỉ tự chủ về tài chính mà chưa được tự chủ về nhiệm
vụ, tự chủ về tổ chức bộ máy và biên chế thì các ĐVSN chưa phát huy được quyền
tự chủ thực sự trong tổ chức hoạt động của mình. Do vậy, Chính phủ cần quy định
cụ thể về quyền tự chủ về nhiệm vụ, tự chủ về tổ chức và biên chế của ĐVSN để
các đơn vị này thực sự thực hiện quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của mình.
+ Điều 12 Nghị định 10/2002/NĐ-CP quy định: Khi Nhà nước điều chỉnh các
quy định về tiền lương, nâng lương tối thiểu hoặc thay đổi định mức, chế độ, tiêu
chuẩn chi ngân sách nhà nước, ĐVSN có thu tự trang trải các khoản chi tăng thêm
theo chính sách chế độ mới. Quy định này có thể làm cho các ĐVSN gặp khó khăn
vì không đủ nguồn kinh phí để thực hiện cải cách tiền lương theo quy định của
Chính phủ. Trên thực tế, đợt cải cách tiền lương năm 2003, ngân sách nhà nước vẫn
phải giải quyết một phần tiền lương tăng thêm đối với những ĐVSN mà nguồn tự
thu không đảm bảo được số tiền lương tăng thêm theo quy định. Vì vậy, đề nghị
Chính phủ xem xét, sửa đổi lại quy định này một cách linh hoạt hơn (chẳng hạn như
Nhà nước sẽ hỗ trợ các ĐVSN trang trải một phần khoản chi tăng thêm do thay đổi
cơ chế) để các ĐVSN có thể mạnh dạn chuyển đổi sang cơ chế tự chủ.
- Các ĐVSN nói chung đã và đang quản lý trong tay những nguồn lực tài
chính tương đối lớn mà nguồn gốc của nó chủ yếu xuất phát từ ngân sách nhà nước.
Để đảm bảo việc quản lý và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực tài chính này, thì
việc đánh giá được hiệu quả sử dụng tài chính của các ĐVSN rất có ý nghĩa. Cùng
với xu hướng giao quyền tự chủ tài chính gắn liền với trách nhiệm nhiều hơn cho
các ĐVSN có thu thì việc xác định tính hiệu quả trong quản lý tài chính lại càng cần
thiết. Đề nghị Chính phủ sớm ban hành các văn bản hướng dẫn về việc đánh giá
hiệu quả hoạt động của các ĐVSN, trong đó chú trọng thiết lập hệ thống các chỉ tiêu
đánh giá cụ thể để các ĐVSN căn cứ vào đó có thể xác định được năng lực của
mình và hướng phấn đấu để ngày càng phát triển lớn mạnh hơn.
3.3.2. Kiến nghị với Bộ Tài chính
Kiểm soát chặt chẽ các khoản chi của các ĐVSN nhằm tăng cường công tác
quản lý tài chính của các đơn vị này là một quá trình phức tạp, liên quan đến nhiều
ngành, trong đó vai trò chủ yếu là hệ thống Kho bạc Nhà nước thuộc Bộ Tài chính.
Để góp phần tăng cường quản lý chi đối với các ĐVSN thuộc TTXVN, để quản lý
các khoản chi ngân sách nhà nước theo nguyên tắc “tiết kiệm, hiệu quả”, đề nghị
Kho bạc Nhà nước và Bộ Tài chính nên:
Một là, có cơ chế phối hợp chặt chẽ với TTXVN trong hoạt động kiểm soát
chi đối với các ĐVSN thuộc TTXVN nhằm đảm bảo sự thống nhất, tuân thủ các
quy định chung về chế độ, định mức chi tiêu, phương thức thanh toán,...của Nhà
nước đối với các ĐVSN nói chung, cũng như các chế độ chính sách đã được quy
định riêng theo đặc thù của TTXVN.
Hai là, phải có văn bản hướng dẫn thực hiện kiểm soát chi thống nhất và đồng
bộ, kiểm soát tất cả các khoản chi ngân sách qua Kho bạc, không để bất kỳ một
khoản chi nào không được kiểm soát. Hạn chế dần và đi đến chấm dứt tình trạng
kiểm soát chỉ là “hình thức” theo các bảng kê thanh toán, không đúng theo thực tế
phát sinh.
3.3.3. Kiến nghị với Thông tấn xã Việt Nam
- Quy chế chi tiêu nội bộ của TTXVN số 422/QĐ-TTX đến nay đã có nhiều
bất cập, nhiều chỉ tiêu định mức không còn phù hợp với giá cả thị trường, nhiều
khoản mục mới phát sinh. Do vậy, đề nghị TTXVN cần sớm xây dựng lại quy chế
chi tiêu nội bộ của ngành để tạo điều kiện cho các ĐVSN có thể xây dựng định mức
chi tiêu của đơn vị mình.
- Hiện nay, sự tồn tại của ĐVSN không có thu thể hiện rất nhiều bất lợi. Nên
chăng TTXVN cần có giải pháp để tạo nguồn thu cho đơn vị đó, dần chuyển ĐVSN
không có thu thành ĐVSN có thu nhằm tăng thêm tính tự chủ trong hoạt động tài
chính của các đơn vị đó.
Kết luận
Nâng cao năng lực quản lý tài chính là một trong những yêu cầu quan trọng để
nâng cao hiệu quả hoạt động đối với tất cả các tổ chức, các chủ thể kinh tế. Trong
điều kiện xã hội Việt Nam ngày càng phát triển, các quan hệ kinh tế ngày càng mở
rộng và dần phản ánh đúng bản chất vốn có của nó, thì việc làm chủ các quan hệ
kinh tế, quan hệ tài chính để hướng nó đi theo đúng mục đích của người quản lý lại
càng cần thiết, đồng thời cũng đòi hỏi các chủ thể phải có năng lực quản lý tài chính
tốt.
Để góp phần củng cố, phát triển năng lực tài chính tại các ĐVSN thuộc Thông
tấn xã Việt nam ngày càng lớn mạnh và bền vững, đề tài “Đổi mới quản lý tài chính
ở các đơn vị sự nghiệp thuộc Thông tấn xã Việt nam” đã được tác giả nghiên cứu và
hoàn thiện. Đề tài tập trung giải quyết được một số vấn đề cơ bản sau đây:
- Đã làm rõ được các vấn đề lý luận về ĐVSN; đã tập trung phân tích được các
nội dung cần quản lý đối với tài chính của ĐVSN. Luận văn cũng đã phân tích được
tương đối cụ thể các nhân tố ảnh hưởng chủ yếu đến công tác quản lý tài chính của
ĐVSN.
- Đã nghiên cứu, đi sâu phân tích, đánh giá thực trạng công tác quản lý tài
chính ở các ĐVSN thuộc TTXVN, Chỉ ra những kết quả, hạn chế và nguyên nhân
của những hạn chế trong công tác quản lý tài chính ở các ĐVSN thuộc TTXVN.
- Trên cơ sở xem xét nguyên nhân và định hướng phát triển của TTXVN trong
những năm tới, luận văn đã đề xuất quan điểm, giải pháp đổi mới quản lý tài chính
ở các ĐVSN này, trong đó vấn đề mang đậm tính thời sự và có ý nghĩa thực tiễn
cao là đề xuất các giải pháp tài chính cần thiết để hướng các đơn vị này từng bước
nâng cao hơn tính tự chủ về tài chính, tự cân đối thu chi. Bên cạnh đó, tác giả cũng
mạnh dạn đưa ra các kiến nghị với các cơ quan quản lý Nhà nước về những bất cập
trong cơ chế quản lý tài chính ở các ĐVSN hiện nay với mong muốn sớm được Nhà
nước tháo gỡ, tạo hành lang pháp lý thông thoáng, đầy đủ cho hoạt động của các
ĐVSN.
Với lượng thời gian nghiên cứu còn hạn chế, mặc dù đã có rất nhiều cố gắng,
song luận văn không tránh khỏi còn khiếm khuyết. Tác giả luận văn hy vọng sẽ
nhận được nhiều ý kiến góp ý để hoàn thiện công trình nghiên cứu về sau này.
danh mục tài liệu tham khảo
1. Bộ Tài chính (2002), Thông tư số 25/2002/TT-BTC ngày 21 tháng 3 năm 2002
hướng dẫn thực hiện Nghị định số 10/2002/NĐ-CP ngày 16 tháng 1 năm
2002 về chế độ tài chính áp dụng cho đơn vị sự nghiệp có thu.
2. Bộ Tài chính (2002), Thông tư số 81/2002/TT-BTC ngày 16 tháng 9 năm 2002
hướng dẫn kiểm soát chi đối với cơ quan hành chính Nhà nước thực hiện
khoán biên chế và kinh phí quản lý hành chính; đơn vị thực hiện chế độ
tài chính áp dựng cho đơn vị sự nghiệp có thu.
3. Bộ Tài chính - Bộ Văn hóa Thông tin - Bộ Nội vụ (2003), Thông tư liên tịch số
20/2003/TTLT/BTC-BVHTT-BNV ngày 24 tháng 3 năm 2003 hướng dẫn
chế độ quản lý tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp có thu hoạt động
trong lĩnh vực văn hóa-thông tin.
4. Bộ Tài chính (2003), Thông tư số 50/2003/TT-BTC ngày 22 tháng 5 năm 2003
hướng dẫn các đơn vị sự nghiệp có thu xây dựng quy chế chi tiêu nội bộ
theo quy định tại Nghị định số 10/2002/NĐ-CP ngày 16/01/2002 của
Chính phủ.
5. Bộ Tài chính (2004), Thông tư số 03/2004/TT-BTC ngày 13 tháng 1 năm 2004
hướng dẫn kế toán các đơn vị hành chính sự nghiệp thực hiện luật ngân
sách nhà nước và khoán chi hành chính.
6. Bộ Tài chính, Văn bản pháp quy, Tập 9.
7. Bộ Tài chính, Văn bản pháp quy, Tập 10.
8. Bộ Tài chính, Văn bản pháp quy, Tập 11.
9. Chính phủ (2002), Nghị định số 10/2002/NĐ-CP của Chính phủ, ngày 16
tháng 1 năm 2002 về chế độ tài chính áp dụng cho đơn vị sự nghiệp có
thu.
10. Chính phủ (2002), Nghị định số 82/2002/NĐ-CP ngày 18 tháng 7 năm 2003
của Chính phủ “Quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ
chức của Thông tấn xã Việt Nam".
11. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991) Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung
ương lần thứ 4 khóa VII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
12. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung
ương lần thứ 2 khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
13. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
X, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
14. Joseph E.Stiglitz (1995), Kinh tế học công cộng, Nxb Khoa học và kỹ thuật,
Hà Nội.
15. Giáo trình Quản lý tài chính Nhà nước (2002), Nxb Tài chính, Hà Nội.
16. Giáo trình Tài chính học (2002), Nxb Tài chính, Hà Nội.
17. Luật ngân sách Nhà nước (2002), Nxb Tài chính, Hà Nội.
18. Quản lý tài chính công- Lý luận và thực tiễn (2003), Học viện Hành chính
quốc gia.
19. Quản lý tài chính công (2003), Nxb Lao động.
20. Quy hoạch phát triển ngành TTXVN (2005-2010).
21. Thông tấn xã Việt Nam (2003), Báo cáo quyết toán tài chính năm 2003.
22. Thông tấn xã Việt Nam (2004), Báo cáo quyết toán tài chính năm 2004.
23. Thông tấn xã Việt Nam (2005), Báo cáo quyết toán tài chính năm 2005.
24. Thủ tướng Chính phủ (2004), Chương trình đổi mới quản lý tài chính đối với
các cơ quan hành chính nhà nước và đơn vị sự nghiệp công giai đoạn
2004-2005” ban hành kèm theo Quyết định số 08/2004/QĐ-TTg ngày
15.1.2004.
25. Thủ tướng Chính phủ (2004), Chương trình đổi mới cơ chế quản lý tài chính
đối với các cơ quan hành chính Nhà nước và đơn vị sự nghiệp công giai
đoạn 2001-2010.
26. Văn bản pháp quy của Thông tấn xã Việt Nam.
27. Viện khoa học Tài chính, Đổi mới quản lý chi tiêu công cộng ở Việt nam.
28. WWW.caicachhanhchinh.gov.vn
29. WWW.mof.gov.vn
Mục lục
Trang
mở đầu 1
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của quản lý tài chính ở các đơn
vị sự nghiệp 6
1.1. Một số khái niệm liên quan đến quản lý tài chính ở các đơn vị sự nghiệp 6
1.2. Mục tiêu, nguyên tắc và nội dung quản lý tài chính ở các đơn vị sự
nghiệp 17
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý tài chính ở đơn vị sự nghiệp 28
Chương 2: Thực trạng quản lý tài chính ở các đơn vị Sự nghiệp thuộc
Thông Tấn Xã việt nam 37
2.1. Quá trình hình thành và đặc điểm của Thông tấn xã Việt Nam 37
2.2. Thực trạng quản lý tài chính ở các đơn vị sự nghiệp của Thông tấn xã
Việt Nam 43
2.3. Đánh giá chung về công tác quản lý tài chính ở các đơn vị sự nghiệp
thuộc Thông tấn xã Việt Nam 70
Chương 3: Phương hướng và giải pháp đổi mới quản lý tài chính ở các 75
đơn vị sự nghiệp thuộc Thông tấn xã Việt nam
3.1. Định hướng phát triển và quan điểm đổi mới quản lý tài chính của
Thông tấn xã Việt Nam giai đoạn 2006 - 2010 75
3.2. Giải pháp đổi mới quản lý tài chính ở các đơn vị sự nghiệp thuộc
Thông tấn xã Việt Nam 83
3.3. Kiến nghị điều kiện hỗ trợ đổi mới quản lý tài chính ở các đơn vị sự
nghiệp thuộc Thông tấn xã Việt Nam 94
Kết luận 97
Danh mục tài liệu tham khảo 99
Danh mục các chữ viết tắt
ĐVSN Đơn vị sự nghiệp
NSNN Ngân sách Nhà nước
TTXVN Thông tấn xã Việt nam
Danh mục bảng biểu
Trang
Bảng 2.1: Tổng hợp chi sự nghiệp của Thông tấn xã Việt Nam 63
Bảng 2.2: Nguồn thu của các đơn vị sự nghiệp thuộc Thông tấn xã
Việt Nam 67
Bảng 2.3: Tổng hợp chi sự nghiệp của các đơn vị sự nghiệp thuộc
Thông tấn xã Việt Nam 68
Bảng 2.4: Cơ cấu các khoản chi thường xuyên của các đơn vị sự
nghiệp 68
Bảng 2.5: Tổng hợp thu, chi của các đơn vị sự nghiệp 70
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- Đổi mới quản lý tài chính ở các đơn vị sự nghiệp thuộc Thông tấn xã Việt Nam.pdf