Luận văn Đồng tiền chung Châu Âu

Đồng EURO đánh giá một bước phát triển mới của liên minh Châu Âu và hoạt động liên kết kinh tế quốc tế nói chung. Có thể nói đây là chương trình thử nghiệm của việc lưu hành đồng tiền chung trong khối, vấn đề đặt ra và hướng tới cho các khu vực kinh tế. Sau hơn 2 năm ra đời, đồng EURO liên tục giảm giá, tình hình sử dụng không mấy khả quan. Diễn biến đó đã ảnh hưởng nhỏ đến các hoạt động kinh tế trong và ngoài EU. Sự mất giá của đồng EU do nhiều nguên nhân, song điều quan trọng là các nguyên nhân này không thuộc cấu trúc của dự án đồng tiền chung hay nói cách khác dự án đồng tiền chung Châu Âu là thiết thực và khả thi. Những khó khăn đồng EURO gặp phải chỉ là nhất thời do yếu tố khách quan. Vì vây, thực trạng diễn biến đó không ảnh hưởng hay nói lên điều gì về tương lai của nó. Mà tương lai của đồng tiền chung Châu Âu được khẳng định bởi chính nội lực của EU và quyết tâm của các nước thành viên.

doc86 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2869 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Đồng tiền chung Châu Âu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
với những dự án đang thực hiện, đồng EURO giảm giá làm cho phía các nhà đầu tư dao động, gây ảnh hưởng tới tiến độ thực hiện dự án đầu tư. Lúc này vốn ứ đọng, các hoạt động liên quan như nhân lực, việc làm, môi trường,... sẽ bị ảnh hưởng gây tác động tới sự phát triển của nền kinh tế. Mặt khác, đồng USD đang được sử dụng để tính toán các dự án EU cũng là một điểm bất lợi cho quan hệ Việt Nam - EU, khi USD lên giá so với EURO thì các nhà đầu tư Eu phải chịu chi phí đầu vào cao hơn so với các nhà đầu tư nước ngoài khác tại Việt Nam. Vì vậy nguy cơ các nhà đầu tư rút vốn của mình thì ngoại tệ vào Việt Nam giảm đáng kể, gây ảnh hưởng không nhỏ tới sự phát triển kinh tế xã hội. Một quốc gia không thể phát triển khi thiếu các dự án đầu tư trực tiếp vào quốc gia mình. Vì vậy nếu như các dự án đang thực hiện kéo dài tới năm 2002 thì Việt Nam cần có phương án để đối phó với những vấn đề liên quan tới việc chuyển đổi sang đồng EURO, giảm tối đa những rủi ro về vấn đề tỷ giá liên quan tới tiến độ thực hiện dự án và giá trị của dự án. Cần có sự tiếp xúc, làm quen với đồng EURO cũng như có những dự báo về sự biến động của đồng tiền này. Đối với những dự án mới, kể cả những dự án sắp bắt đầu và những dự án tới sau năm 2002 mới bắt đầu thực hiện được tính toán bằng đồng EURO, vì vậy đồng EURO sẽ phải được quan tâm trong các lĩnh vực như ngân hàng, tài chính. Chính phủ Việt Nam cần có những thoả thuận trước với chính phủ các quốc gia thực hiện đầu tư về tiến độ của dự án, việc dùng đồng tiền tính toán chung như thế nào? nhằm tránh những rủi ro khi đồng EURO chưa ổn định đảm bảo cho các dự án được thực hiện đúng tiến độ, tránh những ảnh hưởng xấu khi thực hiện hay không thực hiện dự án đầu tư. Tóm lại Việt Nam cần có những dự báo cũng như có những thoả thuận trước khi thực hiện dự án đầu tư với các nhà đầu tư EU khi mà đồng EURO thực sự ra đời. Vấn đề một đồng tiền mạnh đại diện cho cả một châu lục, lại là một đồng tiền có tính quốc tế cao chắc chắn sẽ có những biến động tích cực và tiêu cực. Việt Nam cần phải biết những điểm mạnh để khai thác và tránh những tác động tiêu cực trong quá trình sử dụng đồng EURO. Tác động đến các quan hệ khác. Tác động đến quan hệ vay nợ và thanh toán giữa Việt Nam với EU. Sau ngày 1 - 1 - 1999 các hiệp định vay nợ giữa chính phủ Việt Nam với các nước EU đã buộc phải tính bằng đồng EURO. Đối với các hiệp định đã ký trước ngày 1 - 1 - 1999 (tính bằng đồng NCU), việc chuyển đổi dư nợ đã tính trước đây theo các đơn vị tiền tệ quốc gia của 11 nước thành viên EU đã được thực hiện, việc chuyển đổi không ảnh hưởng tới các cam kết lãi suất và thời hạn vay của các hiệp định đã ký. Do đó việc chuyển đổi này sẽ mang lại lợi hay thiệt cho Việt Nam là phụ thuộc vào tỷ giá của đồng EURO cao hay thấp. Nếu ngay sau khi chuyển đổi sang đồng EURO, tỷ giá của đồng EURO tăng lên thì nước đi vay sẽ chịu thiệt, nhưng Việt Nam lại hoàn toàn có lợi ít nhất là từ ngay sau khi chuyển đổi tới nay vì tỷ giá của đồng EURO hiện nay đã giảm rất nhiều so với dự báo. Các khoản vay nợ của Việt Nam đối với EU được xử lý như sau: - Đối với các khoản nợ tính bằng đồng ECU thì chuyển đổi tương đương với tỷ giá 1EURO = 1 ECU. - Đối với các khoản nợ hiện đang tính bằng đồng tiền của 11 quốc gia thành viên được chia thành hai nhóm: + Nhóm các đồng tiền mạnh như DM, FF, đây là hai đồng tiền của hai quốc gia hạt nhân của EU, là cột trụ của Liên minh do đó không có lý do gì để hai quốc gia này không bảo vệ sự ổn định đồng tiền của mình cho tới khi chuyển đổi sang đồng EURO, lúc này tất cả các khoản vay nợ của Việt Nam được tính bằng đồng DM và FF đều được quy đổi sang đồng EURO theo tỷ giá quy định hiện tại lúc chuyển đổi nhằm đảm bảo sự thành công của dự án EURO mà họ là những nhà đạo diện chính. Thực tế trong thời gian vừa qua về cơ bản không có gì ảnh hưởng nhiều tới quan hệ vay nợ. Hầu hết các khoản vay nợ của Việt Nam vẫn được tính theo đồng tiền của quốc gia EU cũ mặc dù theo tỷ giá của đồng EURO. Thời gian qua nếu Việt Nam chuyển nợ từ NCU sang đồng EURO sẽ có lợi. + Đối với nhóm thứ hai là nhóm các đồng tiền còn lại do số dư nợ loại này không lớn lắm nên số nợ các đồng tiền của nước này đã được chuyển dần dần sang đồng EURO trong năm 1999. Đối với các đồng tiền của các nước chưa tham gia vào EURO thì không tác động gì tới cơ cấu nợ cũng như trách nhiệm trả nợ giữa Việt Nam với các quốc gia này như Anh, Thụy điển, Đan Mạch, Hy Lạp. Tác động của đồng EURO đến chính sách lãi suất của Việt Nam. Xu hướng cắt giảm lãi suất trên toàn thế giới nói chung đặc biệt ở Mỹ và khu vực sử dụng đồng EURO nói riêng đã được các tổ chức tài chính quốc tế như IMF, WB, ADB rất hoan nghênh và đánh giá cao bởi những tác động tích cực tới xu hướng nới lỏng chính sách tài chính tiền tệ của các nền kinh tế bị khủng hoảng ở Châu Á ngay khi có dấu hiệu được cải thiện. Chính sách tài chính và tiền tệ thắt chặt theo phương thuốc "cấp cứu khủng hoảng" của IMF đã càng làm suy sụp thêm các nền kinh tế Châu Á trong suốt khoảng thời gian dài khiến các nước này bị suy thoái kinh tế nặng nề trong năm 1998: theo tính toán thì tốc độ suy thoái kinh tế năm 1998 của Indonexia, Thái Lan, Hàn Quốc, Hồng Kông, Nhật Bản, Malaixia, và Philipin lần lượt là: - 15%, -7%, -6%, -5%, -2,8%, -2%, và -1%. Tình hình kinh tế năm 1999 có được cải thiện đôi chút xong tình hình kinh tế trong khu vực Châu Á hầu như vẫn trong trạng thái khủng hoảng. Các ngân hàng trên thế giới đã đồng loạt cắt giảm lãi suất để thu hút vốn đầu tư nhằm cải thiện trạng thái kinh tế của quốc gia mình. Là một nước thành viên trong khu vực Đông Nam Á tuy chưa bị suy thoái trầm trọng nhưng nền kinh tế Việt Nam đã và đang phải chịu những tác động tiêu cực đáng kể của cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực tới đầu tư, thương mại, lạm phát, thất nghiệp và tăng trưởng kinh tế: từ năm 1998 tốc độ tăng trưởng kinh tế giảm so với năm 1997 từ 8,7% xuống 5,8% cho tới năm 1999 tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam là 5% năm 2000 là 6,75% tỷ lệ lạm phát giảm, đầu tư nước ngoài giảm đáng kể. Vì vậy, trong giai đoạn đầu năm 1999 ngân hàng Nhà nước Việt Nam chưa có quyết định gì về việc điều chỉnh lãi suất họ e ngại việc tăng trưởng lãi suất sẽ gây khó khăn cho việc mở rộng tín dụng khiến tốc độ tăng trưởng kinh tế càng khó phục hồi và việc giảm lãi suất sẽ không khuyến khích được huy động vốn vào ngân hàng. Nhưng cho tới nay mọi việc đã thay đổi, nền kinh tế Việt Nam đang phát triển chậm, vốn trong ngân hàng ứ đọng, còn lại rất ít các nhà đầu tư muốn đầu tư vào Việt Nam vì vậy lãi suất đã được giảm rất nhiều trần lãi suất cho vay ngoại tệ chỉ là từ 5 - 6%/năm. Đồng EURO ra đời hầu như không có tác động nhiều tới nền kinh tế Việt Nam trong việc điều chỉnh lãi suất bởi vì nhìn chung mối quan hệ vay nợ giữa Việt Nam và EU trong thời điểm này được ký kết ít. Hơn nữa nền kinh tế Việt Nam còn quá nhỏ để có thể theo kịp sự biến đổi tiền tệ của thế giới, phần lớn những nhà kinh doanh Việt Nam, các nhà xuất nhập khẩu hay các nhà đầu tư đều có một tâm lý chung là muốn sử dụng đồng USD một đồng tiền mang lại cho họ niềm tin vào sự ổn định giá cả của nó mà theo họ là sẽ không phải lo tới sự mất giá như đối với sự giảm giá hiện tại của đồng EURO. Tác động của đồng EURO đến dự trữ ngoại tệ và tỷ giá hối đoái. Theo các số liệu thống kê hiện nay Việt Nam có khoảng 20% tổng kim ngạch xuất khẩu sang EU nhưng chỉ có tỷ lệ rất nhỏ vài phần trăm tỷ lệ dự trữ ngoại tệ của Việt Nam là bằng đồng tiền của các quốc gia đó. Vì vậy, đồng EURO ra đời và giảm giá chỉ gây ra một tác động nhỏ tới dự trữ ngoài tệ của Việt Nam. Ngân hàng Nhà nước chỉ chuyển đổi một phần nhỏ dự trữ ngoại tệ bằng đồng tiền của các quốc gia EU sang đồng EURO để tiện cho việc giao dịch và thanh toán trực tiếp với các nước EU mặt khác giảm được hơn phí giao dịch trong thanh toán và trao đổi ngoại tệ. Trong việc xác định tỷ giá hối đoái Việt Nam đang khai thác thế mạnh của đồng EURO xây dựng một chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi có kiểm soát linh hoạt, gắn với một tập hợp các đồng tiền mạnh có nhiều quan hệ với khu vực như EURO, USD và JPY. Chế độ tỷ giá gắn chặt với một tổ chức các đồng tiền mạnh như vậy sẽ tăng được tính ổn định tỷ gía hối đoái hiện hữu danh nghĩa do giảm bớt được các giao động giá trị đồng tiền các đối tác thương mại cũng như tránh được một số biến động của giá hàng nhập khẩu. Sự hợp tác ngày càng chặt chẽ về kinh tế đầu tư và thương mại giữa Việt Nam và các nước Châu Âu nói chung và các nước thuộc EU 11 nói riêng đã thúc đẩy phương án sử dụng đồng EURO bên cạnh đồng USD và đồng JPY trong rổ tiền tệ thay vì tỷ giá đồng Việt Nam theo một tỷ giá duy nhất là đồng USD. Những thuận lợi và khó khăn trong quan hệ Việt Nam - EU do tác động của đồng EURO. Những thuận lợi: Đồng EURO đã ra đời và chúng ta đã thấy được sự ảnh hưởng của nó tới nền kinh tế Việt Nam. Chúng ta đã phân tích được hầu hết những tác động tích cực cũng như tiêu cực của nó vì vậy ở đây chúng ta sẽ đề cập một cách tổng quát nhất đến những thuận lợi mà nền kinh tế Việt Nam đã đạt được. Đó là: - Quan hệ kinh tế Việt Nam - EU hiện nay ngày càng có chiều hướng tốt đẹp do đó sự ra đời của đồng EURO đã phần nào làm giảm bớt sự phụ thuộc vào đồng USD của Việt Nam, đồng thời Việt Nam thực hiện được chính sách mở cửa và đa dạng hoá và đa phương hoá trong quan tế quốc tế. - EU là đối tác quan trọng trong quan hệ kinh tế thương mại vì vậy đồng EURO ra đời phát huy tính tích cực của nó làm cho quan hệ kinh tế, thương mại giữa Việt Nam và EU ngày càng trôi chảy và thuận lợi hơn. Khi đồng EURO ra đời các hoạt động xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và EU sẽ trở nên dễ dàng hơn do giảm đi được những chi phí trung gian của khâu thanh toán, do cả khách hàng và người bán cũng có được những thuận lợi trong việc tìm hiểu thị trường mà không cần tới thử nghiệm trên thị trường đó, họ có thể so sánh được giá cả của mặt hàng trên nhiều thị trường của các nước Châu Âu khác nhau. Ngoài ra khi đồng EURO ra đời Việt Nam sẽ xuất sang EU nhiều hơn. Trước đây, mặc dù quan hệ buôn bán hai chiều giữa Việt Nam và EU đã liên tục phát triển nhưng những thuận lợi về mặt thanh toán là cơ sở tốt cho hoạt động này. - Thuận lợi của Việt Nam trong lĩnh vực đầu tư: EU là khu vực có nhiều dự án đầu tư vào Việt Nam. Vì vậy, với việc ra đời của đồng EURO sẽ giúp cho các nhà đầu tư của cả hai phía dễ dàng so sánh và lựa chọn cơ hội đầu tư. Mặc dù cho tới nay đồng EURO chưa có biểu hiện tác động tới Việt Nam nhưng khi đồng EURO duy nhất tồn tại thì không thể bỏ qua vấn đề quan trọng này cho các dự án đầu tư. - Một thuận lợi nữa cho kinh tế Việt Nam đó là trong hoạt động của ngân hàng Việt Nam khi sử dụng đồng EURO: Hiện nay ở Việt Nam có 10 chi nhánh ngân hàng của các nước trong khối EU hoạt động, chiếm 40% tổng số chi nhánh ngân hàng nước ngoài ở nước ta và có gần 30 văn phòng đại diện của các ngân hàng châu Âu hoạt động. Hệ thống ngân hàng Việt Nam cũng đang có quan hệ đại lý, thanh toán, bảo lãnh, vay nợ, thương mại... với hàng trăm ngân hàng thuộc khối EU. Doanh số thanh toán mức vay nợ, và bỏ lãnh, phát hành thẻ tín dụng... của các ngân hàng Việt Nam với khu vực này chiếm tỷ trọng khá lớn trong tổng số thanh toán và vay nợ quốc tế. Vì vậy, khi đồng EURO ra đời đã làm giảm đi các chi phí giao dịch hối đoái, thanh toán, giảm rủi ro về tỷ giá và lãi suất. - Cho tới hiện nay khi đồng EURO đang giảm giá thì Việt Nam trước mắt đang có lợi trong các hợp đồng vay nợ và buôn bán cũng như xuất nhập khẩu và đầu tư. Những khó khăn. Đồng EURO ra đời Việt Nam cũng gặp phải không ít khó khăn: - Việt Nam từ trước tới nay tuy quan hệ thương mại phần lớn là với EU nhưng lại sử dụng chủ yếu đồng USD trong quan hệ thanh toán, vì vậy nên ngay cả người dân Việt Nam cũng không muốn thay đổi thói quen đó khi không có cơ sở để tin tưởng vào sự chắc chắn của đồng EURO nhất là trong trong thời kỳ chuyển đổi này. - Nền kinh tế Việt Nam còn quá nhỏ nên chưa thấy hết được những thuận lợi để tận dụng một cách triệt để, chủ quan trước những tác động tiêu cực nhỏ mà không hiểu rằng chỉ trong một thời gian ngắn nữa đó là một vấn đề không thể quan tâm thường xuyên. - Ngân hàng nhà nước Việt Nam còn có tỷ lệ dự trữ ngoại tệ bằng đồng tiền của các nước Châu Âu quá nhỏ dẫn tới rủi ro về tỷ giá. Bởi vì khi đồng EURO duy nhất hoạt động thay cho toàn bộ các đồng tiền của các quốc gia thành viên thì lúc này đồng EURO sẽ có một sức mạnh tương đương với đồng USD và đồng JPY hiện nay. Nên nếu như Việt Nam không có một cơ cấu ngoại tệ hợp lý sẽ khó khăn trong việc thanh toán trực tiếp lại vừa có rủi ro cao về tỷ giá hối đoái trong các quan hệ tài chính do chỉ phụ thuộc một loại ngoại tệ mạnh là đồng USD. - Khó khăn nữa đối với Việt Nam đó là ngay cả những nhà xuất nhập khẩu hiện nay cũng chưa xác định đúng tính cần thiết trong việc nghiên cứu những kiến thức cơ bản để hiểu biết về đồng EURO để thực hiện tốt hơn các hoạt động xuất nhập khẩu của mình, không có sự quan tâm chính đáng với đồng EURO các nhà xuất nhập khẩu Việt Nam sẽ bỏ qua những cơ hội để tăng sản lượng xuất khẩu của mình mà cần phải bỏ ra chi phí nào. Như vậy, Việt Nam cần phải có những nhìn nhận đúng đắn trước những tác động của đồng EURO đối với nền kinh tế Việt Nam. Tận dụng mọi cơ hội trong tất cả mọi lĩnh vực, chủ động ứng phó với tất cả những tác động ngược trở lại của đồng EURO. Quan trọng nhất là trong hoạt động ngân hàng cần phải có những cơ cấu ngoại tệ thích hợp giữa các đồng tiền để giảm bớt được những rủi ro tiền tệ, rủi ro tỷ giá, tránh những tác động tiêu cực mạnh làm suy sụp nền kinh tế, nhất là hiện tại nền kinh tế Việt Nam còn đang nghèo và đang phát triển. CHƯƠNG 4: CUỘC KHỦNG HOẢNG CỦA CHÂU ÂU - KHỦNG HOẢNG CỦA HY LẠP - ẢNH HƯỞNG VÀ BÀI HỌC CHO VIỆT NAM Cuộc khủng hoảng của Châu Âu Nguyên nhân Nguyên nhân đầu tiên và rõ nét nhất thường được các nhà lãnh đạo EU đề cập là tác động của khủng hoảng tài chính năm 2008. Để cứu vãn nền kinh tế khỏi cơn suy thoái, các chính phủ đã tung ra những gói hỗ trợ khổng lồ nhằm kích thích kinh tế phát triển. Gói hỗ trợ này làm gia tăng chi ngân sách và nợ công một cách đáng kể. Tuy nhiên, thực trạng này diễn ra tại hầu hết các nước trên thế giới, không chỉ có Hy Lạp và EU. Do vậy, bên cạnh các tác nhân bên ngoài, Hy Lạp còn có những nguy cơ tiềm ẩn - đó là các yếu tố nội sinh của khu vực đồng tiền chung. Việc không tuân thủ chặt chẽ các quy định trong liên minh tiền tệ Tác động tiêu cực của tiến trình hội nhập kinh tế khu vực Mối quan hệ giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài chính Những mốc chính của khủng hoảng nợ châu Âu Thế giới bắt đầu run sợ với khủng hoảng nợ châu Âu khi chính phủ mới của Hy Lạp vào ngày 5/11/2009 công bố mức thâm hụt ngân sách 12,7% GDP, gấp 4 lần mức cho phép của eurozone. Dưới đây là những mốc quan trọng trong khủng hoảng nợ châu Âu tính từ tháng 11/2009 khi chính phủ mới của Hy Lạp khiến thế giới chấn động với việc tuyên bố nâng gấp đôi ước tính về thâm hụt ngân sách năm 2009. 10/6/2010 Thỏa thuận để cải tổ thị trường lao động Tây Ban Nha sụp đổ. Chính phủ buộc phải áp dụng quy định tuyển dụng và sa thải lỏng lẻo hơn dù không có sự hỗ trợ của nghiệp đoàn lao động. 9/6/2010 Kế hoạch thắt chặt ngân sách được bàn đến trong các cuộc bầu cử và Đảng có chủ trương này đã chiến thắng. Tuy nhiên cuối cùng, thật khó để các nhà hoạch định chính sách thống nhất với nhau. 8/6/2010 Công đoàn Tây Ban Nha công bố 75% người lao động trong lĩnh vực công không đi làm để thể hiện sự phản đối kế hoạch thắt chặt chi tiêu của chính phủ. Tỷ lệ lạm phát của Hy Lạp tháng 5/2010 tăng 5,4%, vượt mọi kỳ vọng của các chuyên gia và lên mức cao nhất từ tháng 8/1997. 7/6/2010 Đảng của Thủ tướng Đức chấp thuận kế hoạch thắt chặt ngân sách và thuế để hoàn thành mục tiêu đưa thâm hụt ngân sách của Đức về mức quy định của Liên minh châu Âu trong khoảng thời gian từ nay đến năm 2013. 29/5/2010 Hàng ngàn người biểu tình ở Lisbon - Bồ Đào Nha để phản đối kế hoạch thắt chặt ngân sách của chính phủ. 28/5/2010 Fitch hạ xếp hạng tín dụng của Tây Ban Nha từ AAA xuống AA+ bởi nợ tiêu dùng và doanh nghiệp tại nước này tăng lên mức quá cao, đó là chưa kể đến nợ công đang ở mức đáng báo động. 27/5/2010 Quốc hội Tây Ban Nha chấp thuận kế hoạch thắt chặt ngân sách nhằm tiết kiệm 15 tỷ euro tương đương 18,4 tỷ USD 25/5/2010 Nội các Italia bỏ phiếu thông qua kế hoạch thắt chặt ngân sách, tiết kiệm 24 tỷ euro với mục tiêu đến năm 2012 đưa thâm hụt ngân sách về mức 2,7% GDP từ mức 5,3% của năm 2009. 18/5/2010 Chính phủ Đức, trong nỗ lực ngăn hoạt động đầu cơ tài chính được coi như nguyên nhân dẫn dến khủng hoảng nợ, công bố cấm bán khống vô căn cứ cổ phiếu của 10 tổ chức tài chính lớn nhất tại Đức, trái phiếu chính phủ đồng euro và hợp đồng hoán đổi vỡ nợ tín dụng (CDS). 10/5/2010 Các nhà hoạch định chính sách kinh tế toàn cầu đưa ra kế hoạch khẩn cấp trị giá 750 tỷ euro để hỗ trợ thị trường tài chính và vực dậy đồng euro, ngăn đồng tiền này chịu ảnh hưởng tệ hại từ khủng hoảng nợ Hy Lạp. Gói giải cứu bao gồm 440 tỷ euro từ các nước thuộc khu vực đồng tiền chung châu Âu, 60 tỷ euro từ công cụ nợ của châu Âu. IMF đóng góp 250 tỷ euro, tổng số tiền lên tới 750 tỷ euro tương đương khoảng gần 1.000 tỷ USD tính theo tỷ giá ở thời điểm đó. 9/5/2010 IMF đơn phương chấp thuận trước một phần kế hoạch giải cứu, cung cấp lập tức 5,5 tỷ euro. 2/5/2010 Thủ tướng Hy Lạp cho biết chính phủ nước này đã đạt được thỏa thuận với EU và IMF để nhận được gói giải cứu, đổi lại nước này phải giảm chi tiêu 30 tỷ euro trong 3 năm tới. Gói giải cứu Hy Lạp nhận được bao gồm 110 tỷ euro trong 3 năm. Đây là nước đầu tiên tại khu vực đồng tiền chung châu Âu được hỗ trợ. Chính phủ Đức đồng ý góp 22,4 tỷ euro tương đương 30 tỷ USD cho kế hoạch cứu Hy Lạp. 23/4/2010 Hy Lạp cầu cứu EU và IMF. 11/4/2010 Bộ trưởng Tài chính các nước thuộc khu vực đồng tiền chung châu Âu chấp thuận kế hoạch 30 tỷ euro dành cho Hy Lạp, tuy nhiên Hy Lạp tuyên bố không cần. 29/1/2010 Chính phủ Tây Ban Nha công bố kế hoạch tiết kiệm 50 tỷ euro tương đương 70 tỷ USD trong đó tổng số tiền chi tiêu giảm tương đương 4% GDP. Lương lao động trong lĩnh vực công giảm 4%. 14/1/2010 Chính phủ Hy Lạp công bố kế hoạch bình ổn, chính phủ Hy Lạp tuyên bố muốn giảm thâm hụt ngân sách xuống mức 2,8% GDP vào năm 2012. 22/12/2009 Moody hạ xếp hạng nợ của Hy Lạp xuống mức A2 từ mức A1 bởi thâm hụt ngân sách của nước này tăng cao. Đây là cơ quan thứ 3 hạ xếp hạng tín dụng của Hy Lạp. 5/11/2009 Thủ tướng Hy Lạp cho biết thâm hụt ngân sách năm 2009 sẽ ở mức 12,7% GDP, cao gấp đôi con số công bố trước đó và sẽ cố gắng cứu Hy Lạp khỏi khả năng vỡ nợ. Ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng Châu Âu Đồng EURO bị giảm giá Sự giảm giá của euro cũng sẽ làm cho những người trước đây được lợi lớn từ việc chuyển sang giữ euro (lên tới trên 80% trong vòng hơn 1 năm) thì nay sẽ được đẩy ra để găm giữ USD... Giá euro giảm là yếu tố khách quan ngoài tầm tay của các tổ chức, cá nhân. Nhưng từ đó có thể điều chỉnh các hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, du lịch, vay trả nợ với khu vực này. Khu vực đồng tiền chung châu Âu vẫn chưa có cơ chế ràng buộc và cơ chế bảo đảm hiệu quả. Cuộc khủng hoảng nợ công chỉ nằm ở các con số và loại tiền tệ, không có sự thay đổi, cải tiến hay bổ sung nào về chế độ và cơ cấu. Đáng lưu ý, có tới hơn 60% dân số của các nước thành viên khu vực sử dụng đồng euro không hài lòng về đồng euro, điều này khiến cho đồng euro đối diện với nguy cơ sụp đổ. Cuộc khủng hoảng tài chính kéo dài hơn 3 năm qua đã khiến Anh thực sự không muốn gia nhập vào khu vực này trong khi một số người Đức có tư tưởng rút ra khỏi khu vực và ngày càng có nhiều ý kiến đối lập, mẫu thuẫn giữa các nước trong khu vực Trên thị trường Tài chính: Đồng EUR đã làm hạn chế sự tăng trường của thị trường Chứng khoán Châu Âu. Thị trường vàng quốc tế tíếp tục xu thế tăng cao. Biên độ giá vàng có thể lên tới 20%. Xuất khẩu khó khăn kéo GDP giảm sút Cuộc khủng hoảng nợ châu Âu kéo theo một loạt hệ quả tất yếu: tốc độ phục hồi kinh tế thế giới chậm lại, có thể theo hình chữ W thay vì chữ V, đặc biệt khu vực châu Âu sẽ phải chứng kiến tình hình thất nghiệp và lạm phát tăng cao, tăng trưởng GDP giảm sút, làm cho thu nhập thực tế người dân và cầu tiêu dùng với hàng nhập khẩu giảm mạnh. Lãi suất thấp, chấp nhận lạm phát Do lo ngại tác động tiêu cực từ khủng hoảng nợ công, nhiều ngân hàng trung ước các nước phát triển vẫn huy trì mức lãi suất sàn thấp lịch sử nhằm kích thích sự phục hồi kinh tế và chấp nhận lạm phát trong chừng mực nhất định. Lãi suất cơ bản tiệm cận 0% ở hầu hết các nước: FED (Mỹ): 0,25%; ECB (EU): 1%; BOE (Anh): 0,5%; Nhật Bản 0,1%. FDI suy giảm Khủng hoảng nợ công châu Âu có thể tạo ra hai tac động trái chiều hoàn toàn với luồng vốn FDI trên phạm vi toàn cầu. Trong những quốc gia có trình độ phát triển tương đương với các nước thuộc EU sẽ hưởng lợi do nguồn vốn FDI sẽ dịch chuyển từ châu Âu sang các quốc gia này khi nhà đầu tư muốn tránh thuế thu nhập doanh nghiệp đang có xu hướng tăng cao tại các quốc gia châu Âu. Giá vàng bùng nổ hút vốn đầu tư Các nhà đầu tư trên thế giới đang tìm vàng như một nơi trú ẩn an toàn trước nguy cơ cuộc khủng hoảng nợ châu Âu ngày một lan rộng, làm cho giá vàng trong thời gian qua tăng mạnh, lên mức trên 1.300 USD/ounce. Điều này phản ánh nhu cầu về dự trữ an toàn hơn so với đồng tiền giấy, sau khi nhiều cá nhân và tổ chức ở châu Âu, châu Á đua nhau mua vàng, mua bạch kim và bạc. Bảo hiểu rủi ro tín dụng (CDS) xu hướng tăng lên Vấn đề Hy Lạp đang làm cho các nhà đầu tư trên thế giới càng trở nên thận trọng hơn với các quốc gia có vấn nạn tương tự: 3 số liệu cảnh báo bao gồm: nợ quá nhiều, thể hiện ở tỷ lệ nợ trên GDP cao; chi tiêu quá mức, thể hiện ở mức thâm hụt ngân sách lớn so với GDP; và tốc độ tăng trưởng GDP sụt giảm. Tăng rủi ro hối đoái và biến động tỷ giá vào cuối năm  Khủng hoảng nợ châu Âu cũng tạo ra những biến động khó lường về tỷ giá. Đồng USD và đặc biệt là đồng Yên sẽ tiếp tục đà tăng mạnh so với đồng Euro do tính an toàn từ phía các đồng tiền này. Từ khi cuộc khủng hoảng có dấu hiệu nghiêm trọng, đồng Euro mất giá tương đối so với USD.  Khủng hoảng của Hy lạp - Ảnh hưởng và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam khủng hoảng của Hy Lạp Hy Lạp là một quốc gia nhỏ ở Nam Âu là thành viên của khu vực đồng tiền chung (eurozone hay EU-16). Dân số Hy Lạp khoảng 11 triệu người chiếm 2,2% EU, đóng góp 2,8% GDP của EU. Hy Lạp có thu nhập bình quân đầu người khoảng 17.440 đô la Mỹ, tỷ lệ thất nghiệp trung bình là 10,2% (trong khi tỷ lệ này của EU là 10%) nhưng lại duy trì được tốc độ tăng trưởng cao so với các nước trong EU-16. Trong những năm qua, tình trạng thâm hụt ngân sách của Hy Lạp ngày càng gia tăng. Năm 2009, mức thâm hụt ngân sách là 12,7% GDP (xem bảng 1) vượt ngưỡng an toàn là 5% GDP và vượt mức cho phép của khu vực đồng tiền chung là 3%/GDP. Để bù đắp thâm hụt ngân sách, Chính phủ Hy Lạp đã vay nợ dưới nhiều hình thức. ‘Nguồn: Ngân hàng Thanh toán quốc tế (BIS), Ngân hàng Trung ương Hy Lạp” Đồ thị 4.1: Biểu diễn tỷ lệ thâm hụt Ngân sách so với FDP của một số quốc gia trong EU Tình hình nợ công của Hy Lạp nói riêng và khu vực đồng euro nói chung từ năm 1999-2009 liên tục gia tăng. Hiện nay, tổng số nợ công trong khu vực euro vào khoảng 7.062 tỉ euro, trong đó khoản nợ của Hy Lạp là 273 tỉ euro, chiếm khoảng 4% tổng nợ của khu vực đồng tiền chung. Tỷ lệ nợ công trên GDP của Hy Lạp là 108,1%. Với mức vay nợ như trên, Hy Lạp đang phải đối mặt với khoản nợ đến hạn phải thanh toán 8,5 tỉ euro (tương đương 11,3 tỉ đô la Mỹ) trái phiếu chính phủ vào ngày 19-5-2010. Hầu hết các khoản nợ của Hy Lạp là ngắn hạn, trong đó, số nợ phải trả trong năm 2010 là 16% tổng nợ. Khủng hoảng Hy Lạp làm đồng euro liên tục giảm giá, đang tác động mạnh mẽ đến thị trường chứng khoán châu Âu và thị trường tài chính toàn cầu. Những bất ổn của Hy Lạp đang đe dọa các nền kinh tế khác; trước hết là các tổ chức đang sở hữu tài sản Hy Lạp và kế tiếp là các quốc gia có mức thâm hụt ngân sách lớn, tỷ lệ nợ công cao như Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Ireland... và có nguy cơ khởi tạo một cuộc khủng hoảng nợ toàn cầu. Bảng 4.1: Số liệu về thực trạng nợ và thâm hụt ngân sách năm 2009 của EU Đơn vị tính: tỷ lệ % GDP STT Quốc gia Nợ nước ngoài Nợ công Thâm hụt ngân sách GDP/ người 1 Áo 233,7 66, 4,3 26.730 2 Bỉ 348,7 99 5,9 25.520 3 Bồ Đào Nha 188,6 75,2 8 18,150 4 Đức 185,2 77,2 3,4 25.350 5 Hà Lan 62,3 62,2 4,7 27.190 6 Hy Lạp 153 108,1 12,7 177.440 7 Ireland 960,9 63,7 12,5 32.410 8 Luxembourg 4.973,7 14,5 2,2 53.780 9 Pháp 227,4 79,7 8,3 23.990 10 Phần Lan 144 46,6 2,8 24.430 11 Tây Ban Nha 150,7 50 11,2 20.150 12 Ý 58,2 115,2 5,3 24.670 13 Slovennia 71,9 31,4 6,3 - 14 Maita 2 - 4,5 - 15 Cyprus 126 52,4 3,5 - 16 Slovakia 33,2 34,6 6,3 11.960 Nguyên nhân của cuộc khủng hoảng Nguyên nhân đầu tiên và rõ nét nhất thường được các nhà lãnh đạo EU đề cập là tác động của khủng hoảng tài chính năm 2008. Để cứu vãn nền kinh tế khỏi cơn suy thoái, các chính phủ đã tung ra những gói hỗ trợ khổng lồ nhằm kích thích kinh tế phát triển. Gói hỗ trợ này làm gia tăng chi ngân sách và nợ công một cách đáng kể. Tuy nhiên, thực trạng này diễn ra tại hầu hết các nước trên thế giới, không chỉ có Hy Lạp và EU. Do vậy, bên cạnh các tác nhân bên ngoài, Hy Lạp còn có những nguy cơ tiềm ẩn - đó là các yếu tố nội sinh của khu vực đồng tiền chung. Trước hết, đó là việc không tuân thủ chặt chẽ các quy định trong liên minh tiền tệ Thật vậy, theo Hiệp ước Maastricht, để tham gia vào khu vực đồng tiền chung, các quốc gia thành viên phải đáp ứng nhiều chuẩn mực, trong đó có quy định mức bội chi của ngân sách phải nhỏ hơn hoặc bằng 3% GDP, có xem xét trường hợp mức thâm hụt đang trong xu hướng được cải thiện hoặc mức thâm hụt lớn hơn 3% nhưng mang tính tạm thời, không đáng kể, không là mức bội chi cơ cấu; nợ chính phủ nhỏ hơn hoặc bằng 60% GDP, có xem xét các trường hợp đang điều chỉnh. Theo quy định này, Hy Lạp chưa đủ điều kiện tham gia khu vực đồng tiền chung châu Âu vào tháng 5-1998. Nhưng hai năm sau, ngày 1-1-2001, mặc dù vẫn chưa đủ chuẩn, Hy Lạp cũng được chấp thuận gia nhập vào khu vực đồng tiền chung với điều kiện phải nỗ lực cải thiện mức thâm hụt ngân sách và nợ chính phủ. Tuy nhiên, đến nay, các ràng buộc trên vẫn chỉ là lời hứa của Hy Lạp. Bội chi ngân sách và nợ nước ngoài không những không được cải thiện mà có xu hướng ngày càng tăng. Thứ hai, tác động tiêu cực của tiến trình hội nhập kinh tế khu vực Quá trình hình thành đồng tiền chung được chia thành ba giai đoạn nhằm giúp các quốc gia điều chỉnh nền kinh tế theo hướng hội nhập toàn diện và sâu rộng - hàng hóa, vốn và sức lao động được tự do hóa hoàn toàn. Tuy nhiên, hội nhập cũng có mặt trái của nó. Đối với các quốc gia nhỏ, năng lực cạnh tranh yếu thì đây thực sự là thách thức. Với một quốc gia có nguồn tài nguyên hạn hẹp, lợi thế thương mại thấp, năng lực cạnh tranh thấp thì họ không thể xây dựng rào cản để bảo hộ nền sản xuất trong nước. Hàng hóa thiếu cạnh tranh, sản xuất đình trệ, tỷ lệ thất nghiệp gia tăng, thu ngân sách giảm, chi an sinh xã hội cao. Ngoài ra, theo quy định của EU, các quốc gia được phép giữ lại 25% thuế xuất nhập khẩu hàng hóa vào EU để trang trải chi phí hoạt động và 75% còn lại được chuyển vào ngân sách chung của EU. Điều này có nghĩa, các quốc gia có vị trí thuận lợi về giao thông quốc tế: sân bay, bến cảng... sẽ nhận được một nguồn thu đặc biệt từ thuế nhập khẩu vào EU mà các quốc gia nhỏ hơn, ở vị trí bất lợi hơn như Hy Lạp không nhận được; thậm chí đó là khoản thuế đánh trên hàng hóa nhập khẩu đang tiêu thụ tại nước mình. Nguồn thu ngân sách của họ bị suy giảm. Ngoài ra, tại các nước kém phát triển hơn như Hy Lạp, để tránh làn sóng di dân khi thực hiện tự do hóa lao động, chính phủ buộc phải gia tăng các khoản chi phúc lợi, chi an sinh xã hội cho công dân của mình. Điều này góp phần làm gia tăng thâm hụt ngân sách. Thứ ba, mối quan hệ giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài chính Đồng tiền chung hệ thống ngân hàng trung ương châu Âu bao gồm Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) và 16 ngân hàng trung ương của các quốc gia thành viên. ECB điều hành chính sách tiền tệ theo mục tiêu lạm phát. Quy định này tạo nền tảng cho việc hình thành và ổn định đồng euro. Nhưng nó cũng mang lại nhiều thách thức cho các chính phủ do họ không thể sử dụng chính sách tiền tệ làm công cụ hữu hiệu để hỗ trợ kinh tế phát triển. Các quốc gia thành viên khu vực đồng euro chấp thuận một ngân hàng trung ương chung, một chính sách tiền tệ chung nhưng không chấp thuận một chính sách thuế chung. Nguyên nhân sâu xa là mỗi quốc gia có một nhà nước riêng và nhà nước riêng thì cần có ngân sách riêng với hàng loạt nguyên tắc chi tiêu đính kèm. Điều này hợp lý nhưng lại là rào cản đối với khu vực đồng tiền chung bởi vì chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa luôn có mối quan hệ khắng khít với nhau. Cụ thể, lãi suất trên thị trường tiền tệ phụ thuộc vào chính sách lãi suất do ECB định đoạt. Lãi suất trái phiếu chính phủ lại do bộ tài chính của từng quốc gia quyết định. Quyết định của bộ tài chính phụ thuộc vào chính sách tài khóa của từng quốc gia. Đối với một số nước có năng lực cạnh tranh kém hơn, thâm hụt ngân sách lớn hơn các quốc gia khác trong khối, để bình ổn nền kinh tế, phát hành trái phiếu chính phủ với lãi suất cao hơn là giải pháp được ưa chuộng. Vì vậy, khủng hoảng nợ do mất khả năng chi trả chỉ còn là vấn đề thời gian. Ngoài ra, so với các quốc gia khác, khoản chi phúc lợi - an sinh xã hội và thu thuế của EU rất cao so với nhiều quốc gia khác trên thế giới. Thật vậy, Mỹ có thu nhập bình quân đầu người là 34.320 đô la nhưng chỉ dành 19,4% GDP chi phúc lợi và an sinh xã hội. Con số tương tự ở Nhật là 25.130 đô la Mỹ/người và 18,6%. Trong khi đó, tại EU, tỷ lệ này dao động từ trên 20-38,2%. Để có tiền chi phúc lợi và an sinh xã hội, các nước buộc phải gia tăng các khoản thuế. Thực tế cho thấy, tỷ lệ thu thuế tính trên GDP của các nước trong khối EU cũng tăng vượt trội so với các quốc gia khác trên toàn cầu. Tỷ lệ này biến động từ trên 30-50% GDP. Trong khi đó, tỷ lệ này tại Mỹ, Nhật, Canada lần lượt là 28,2%; 27,4%; 33,4%. Để có nguồn thu lớn, EU đã xây dựng một biểu thuế suất cao hơn. Thuế giá trị gia tăng trung bình trên 20%, trong khi tỷ lệ này ở Mỹ và Hàn Quốc khoảng 10%; tại Nhật và Canada là 5%. Chính điều này đã làm cho EU trở thành thiên đường của hưởng thụ hơn là nơi hấp dẫn nhà đầu tư bỏ vốn kinh doanh. Lợi thế trong thu hút nguồn vốn nước ngoài của EU cũng bị tác động Là một thành viên của EU, trong các hoạt động kinh tế đối ngoại với các quốc gia ngoài EU, Hy Lạp cũng gặp những khó khăn tương tự. Không chỉ bị tác động bởi các yếu tố bên ngoài, Hy Lạp còn bị thất thế trong các giao dịch nội khối. Là một quốc gia nhỏ, nghèo tài nguyên, năng lực cạnh tranh của Hy Lạp giảm. Mặc dù Hy Lạp thiết lập một tỷ lệ thu thuế và chi phúc lợi và an sinh xã hội ở mức trung bình của khu vực đồng tiền chung, nhưng nó cũng làm tăng mức thâm hụt ngân sách, tạo áp lực gia tăng nợ công. Ảnh hưởng và bài học kinh nghiệm đến Việt Nam Kinh tế Việt Nam đã hội nhập khá sâu vào kinh tế thế giới, thể hiện qua tỷ lệ xuất nhập khẩu và dòng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam chiếm tỷ lệ khá cao. Cuộc khủng hoảng nợ của Hy Lạp xảy ra làm kinh tế của Việt Nam cũng chịu ảnh hưởng nặng nề. Khủng hoảng nợ công của Hy Lạp cũng là một bài học cho Việt Nam khi nhìn lại vấn đề nợ công và mô hình tăng trưởng của nền kinh tế. Ảnh hưởng đến hoạt động xuất nhập khẩu, dòng vốn đầu tư trực tiếp và gián tiếp vào Việt Nam. Dù Hy Lạp không phải là một nền kinh tế lớn ở châu Âu và quan hệ thương mại, dòng vốn đầu tư giữa Việt Nam không lớn, nhưng Việt Nam sẽ chịu tác động gián tiếp nếu cuộc khủng hoảng này nổ ra. Với việc EU và IMF cam kết sử dụng gần 1,000 tỷ USD để cứu trợ cho nước này và một số nước có liên quan, chúng tôi cho rằng khả năng vỡ nợ của Hy Lạp sẽ khó diễn ra. Tuy vậy, cuộc khủng hoảng này sẽ làm chậm lại đà phục hồi của kinh tế toàn cầu và đặc biệt là kinh tế châu Âu. Là khu vực có quan hệ thương mại và dòng vốn đầu tư khá lớn vào Việt Nam, nền kinh tế Việt Nam sẽ không tránh khỏi những ảnh hưởng. Ổn định tỷ giá và tâm lý trên TTCK. Các dòng vốn đầu tư từ khu vực châu Âu suy giảm, hay đà tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu sang khu vực này chậm lại đều tạo ra mối đe doạ lên sự phát triển kinh tế Việt Nam và ổn định của tỷ giá tiền đồng. Tâm lý nhà đầu tư trên TTCK cũng sẽ bị tác động không nhỏ bởi sự sút giảm của thị trường chứng khoán châu Âu và thế giới. Không loại trừ khả năng có một đợt rút lui mạnh mẽ của dòng tiền từ nhà đầu tư trong nước và cả nước ngoài nếu khủng hoảng nợ công bùng nổ. Chi tiêu công mở rộng gây sức ép lên thâm hụt ngân sách của Việt Nam. Trong thời gian gần đây, Uỷ ban Tài chính - Ngân sách của Quốc hội đã đưa ra cảnh báo về mức dư nợ chính phủ và nợ quốc gia đã tăng sát mức trần cho phép. Cũng tương tự như Hy Lạp, thâm hụt thương mại của Việt Nam luôn duy trì ở mức cao và kéo dài. Một tỷ lệ khá lớn vốn tài trợ cho thâm hụt cũng đến từ bên ngoài, trong đó số tiền vay nợ qua (ODA, vay thương mại, phát hành trái phiếu chính phủ quốc tế) ngày càng lớn. Dù hiện tại tỷ lệ nợ công/GDP vẫn ở mức an toàn (dưới 50%), nhưng tỷ lệ này đang ngày càng tăng nhanh và sẽ nhanh chóng tiệm cận mức giới hạn an toàn 50%. Việt Nam cũng đã phải thực hiện chính sách nới lỏng tiền tệ và kích thích kinh tế để lấy lại đà tăng trưởng sau khủng hoảng. Áp lực thâm hụt ngân sách càng nặng hơn khi sắp tới Việt Nam đang có hàng loạt dự án quy mô rất lớn như mở rộng thủ đô Hà Nội, xây dựng nhà máy điện hạt nhân, dự án đường cao tốc Bắc Nam,... Đây là những dự án tiêu tốn chi phí cao và phần lớn số tiền không phải là tiền tiết kiệm trong nước, mà đến từ nguồn vốn vay từ nước ngoài. Mô hình tăng trưởng dựa quá nhiều vào nguồn vốn đầu tư bên ngoài sẽ dễ bị tổn thương nếu kinh tế thế giới ngưng trệ. Khủng hoảng nợ công của Hy Lạp và các nước châu Âu cũng khiến Việt Nam phải suy nghĩ lại về bài toán chất lượng tăng trưởng. Tỷ lệ đầu tư/GDP trong những năm gần đây đều ở mức trên 40%. Đây là một tỷ lệ rất cao so trung bình các nước trong khu vực và trên thế giới. Trong số hơn 40% nói trên, khoảng 27-30% được tài trợ bởi nguồn vốn tiết kiệm trong nước. Hơn 10% còn lại là từ dòng vốn từ bên ngoài (FDI, FPI, ODA và các khoản vay khác), trong đó vốn vay chiếm một tỷ lệ không nhỏ. Với việc dòng vốn đầu tư nước ngoài chiếm một tỷ lệ quá lớn trong cơ cấu vốn đầu tư, nền kinh tế Việt Nam sẽ rất dễ bị tổn thương một khi kinh tế thế giới ngưng trệ. Tuy vậy, một kịch bản xấu ít có khả năng xảy ra, và trong ngắn hạn Việt Nam chưa phải chịu áp lực quá nhiều từ việc suy giảm các dòng vốn đến từ bên ngoài. Xét về dài hạn, tình trạng phụ thuộc quá nhiều vào các dòng vốn đầu tư nước ngoài kéo dài sẽ khiến Việt Nam gặp phải nhiều rủi ro tương tự như Hy Lạp. Kinh tế Việt Nam vẫn đạt được tốc độ tăng trưởng cao mà sẽ không phải phụ thuộc quá nhiều đến dòng vốn từ bên ngoài như hiện tại, nếu Việt Nam sử dụng vốn đầu tư một cách hiệu quả (ICOR khoảng 3.5-4, bằng mức trung bình các nước đang phát triển). Vì vậy, giải pháp dài hạn của Việt Nam vẫn là phải nâng cao hiệu quả đầu tư, giúp giảm được hàng loạt những rủi ro đối với nền kinh tế. Tóm lại, từ cuộc khủng hoảng Hy Lạp một lần nữa cho chúng ta thấy kinh tế Việt Nam vẫn đang tiềm ẩn những rủi ro, khi tăng trưởng dựa quá nhiều vào dòng vốn đầu tư từ bên ngoài. Tình trạng của Việt Nam cũng giống Hy Lạp ở một số yếu tố như: thâm hụt tài khoản vãng lai kéo dài, yếu kém trong quan lý chi tiêu công… Chỉ có tái cấu trúc nền kinh tế và cải thiện chất lượng tăng trưởng mới giúp Việt Nam duy trì được tốc độ tăng trưởng cao trong những năm sắp tới. CHƯƠNG 5: ĐỒNG TIỀN CHUNG CHÂU ÂU THÁCH THỨC, TRIỂN VỌNG VÀ BÀI HỌC CHO CHÂU Á Đồng tiền chung Châu Âu và xu hướng của nó trong thời gian tới Châu Âu được biết đến là nơi có điều kiện sống hàng đầu thế giới với cuộc sống vật chất và tinh thần rất cao, chế độ chính trị và xã hội khá ổn định, đồng tiền chung của 16 quốc gia ngày càng khẳng định được vị thế, tạo sự tin cậy, từng bước thay thế vị trí độc tôn của USD trong gần chục năm qua về thanh toán và dự trữ quốc tế....Tỷ trọng của  Euro trong quỹ dự trữ của các Ngân hàng trung ương trên thế giới vào cuối năm 2009 đã lên tới gần 30%, so với mức 17,9% từ khi ra đời. Nhưng khi một số nước Châu Âu rơi vào cuộc khủng hoảng nợ, các món nợ khổng lồ và chồng chéo nhau(i) được lộ rõ, thì sức mua của Euro suy giảm sút mạnh. Tính đến tháng 7/2010(ii), Euro đã giảm giá khoảng 15,7% so với USD, 8,5% so với GBP và 20% so với JPY… Những gì đang diễn ra bên trong khu vực EU, khiến nhiều người phải đặt câu hỏi về sự gắn kết ở khu vực này.Tương lai của Euro sẽ ra sao? Tiếp tục tồn tại và phát triển hay đồng tiền chung Châu Âu bị tan vỡ…? “Nguồn: RatesFX” Đồ thị 5.1: Biểu diễn Tỷ giá USD/EUR từ tháng 7/2009 đến tháng 7/2010  Nhận định về xu hướng này, các nước trong khu vực không dễ dàng để Euro chết yểu, Euro vẫn tồn tại, nhưng sẽ bị giảm giá trong trung hạn. Nhận định này được xuất phát từ ba lý do sau: Một là, cuộc khủng hoảng nợ công ở các nước eurozone cùng với các kế hoạch cắt giảm chi tiêu, cứu trợ kinh tế tiếp tục là mối đe dọa nghiêm trọng đến tăng trưởng kinh tế của eurozone. Việc cứu trợ Hy Lạp có thể sẽ phải kéo dài, thậm chí có thể phải cơ cấu lại nợ. Kế hoạch cứu trợ kinh tế của các nước tiếp theo như Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha,… sẽ tác động xấu đến tăng trưởng kinh tế của khu vực Euro. Đồ thị 5.2: Biểu diễn cân đối ngân sách của một số nước EU Vì thế, Châu Âu khó tránh khỏi cuộc suy thoái kinh tế vào năm 2011 và tình trạng trì trệ vào những năm tiếp theo. Như vậy, tăng trưởng kinh tế của khu vực này sẽ chậm hơn các nền kinh tế lớn như Hoa Kỳ, Trung Quốc và các nền kinh tế phát triển khác, trong khi lượng tiền không nhỏ đưa ra để cứu trợ, sẽ đẩy nhanh đà mất giá của Euro. Hai là, Sự suy giảm niềm tin của giới đầu tư và người tiêu dùng sẽ tiếp tục đặt áp lực giảm giá Euro. Niềm tin đối với triển vọng kinh tế của 16 quốc gia khu vực sử dụng Euro  đã sụt giảm trong quí 2 và 3 năm 2010. Theo số liệu của IMF, chỉ số  niềm tin của giới chủ doanh nghiệp và người tiêu dùng tại Eurozone đã giảm từ mức 100,6 điểm trong tháng 4 xuống 94,5 điểm trong tháng 6, trong đó, tại Hy Lạp giảm từ mức 69,1 điểm xuống còn 51,9 điểm, tại Bồ Đào Nha giảm từ 93,8 điểm xuống còn 87,1 điểm. Xu hướng giảm giá Euro càng thể hiện rõ khi Liên minh Châu Âu và IMF phải đưa ra quyết định về việc thành lập Quỹ cứu trợ khẩn cấp trị giá 1.000 tỷ USD, nhằm ngăn ngừa sự sụt giảm liên tục của Euro hiện tại và trong tương lai. Ba là, Khi các gói cứu trợ nhằm giúp các nước trong khu vực Euro thoát khởi cuộc khủng hoảng nợ, phục hồi tăng trưởng kinh tế, thì việc Euro suy yếu cũng tạo cơ hội để khu vực này phát triển. Bởi khi Euro mất giá, hàng hóa nhập khẩu vào Châu Âu trở nên đắt hơn, sẽ giúp giảm thâm hụt thương mại, đồng thời tăng cường xuất khẩu, cải thiện sức cạnh tranh vốn đang rất yếu của các nước trong Eurozone, từ đó thúc đẩy tiến trình phục hồi kinh tế của khu vực. Như vậy, chính sự suy yếu của Euro có thể sẽ là một sự hỗ trợ quan trọng không chỉ đối với một vài nền kinh tế khu vực đang nỗ lực để thoát suy thoái, mà còn đối với  các quốc gia thành viên Euro đang gặp khó khăn trong việc thúc đẩy những chương trình cắt giảm thâm hụt ngân sách. Đây cũng có thể là điều mà các nước trong Eurozone mong muốn. Nhiều ý kiến cho rằng: Euro sẽ giảm giá trong những năm tới, nhưng khả năng phục hồi của nó nhanh hay chậm,  điều này phụ thuộc rất lớn vào việc cải cách mạnh mẽ hệ thống tài chính từng quốc gia, việc thực thi chính sách tài khóa và kỷ luật tài chính nghiêm ngặt, cũng như việc điều hành chính sách tiền tệ của ECB ngay trong năm 2011, 2012. Bài học rút từ khu vực đồng tiền chung Châu Âu cho khu vực Châu Á Nghiên cứu quá trình phát triển của Euro, có thể rút ra một số bài học cho khu vực Châu Á: Thứ nhất, liên minh kinh tế và tiền tệ ra đời là một phát triển tất yếu của quá trình nhất thể hoá khu vực. Kinh nghiệm khu vực Châu Âu cho thấy, sự cạnh tranh quyết liệt giữa các nền kinh tế đã đẩy nhanh quá trình liên kết và hoà nhập kinh tế của các nước EU. Kết quả của những nỗ lực thống nhất Châu Âu là đã ký được Hiệp ước Maastricht tháng 2/1992, trong đó đề ra mục tiêu quan trọng nhất là thành lập Liên minh tiền tệ châu Âu, nhằm xoá bỏ hàng rào cuối cùng ngăn cản quá trình nhất thể hoá kinh tế. Vì thế, sự ra đời của Euro là một tất yếu trong xu thế toàn cầu hoá kinh tế thế giới và nhất thể hoá kinh tế khu vực. Mặt khác, sự ra đời Euro là kết quả của một quá trình phát triển và hòa nhập về kinh tế lẫn chính trị, có tác động sâu sắc không chỉ với các nước thành viên mà với cả Châu Âu và các nước có quan hệ thương mại với Eurozone. Thứ hai, tính minh bạch trong hệ thống tài chính, đặc biệt là minh bạch trong chi tiêu ngân sách là một yếu tố quan trọng quyết định sự bền vững của liên minh khu vực cũng như triển vọng của đồng tiền khu vực. Với những tiêu chí và tiêu chuẩn chặt chẽ( vi) của eurozone, Euro đã tạo được sự tin cậy khá cao. Nhưng nguyên nhân gây bất ổn, thậm chí gây nguy cơ khủng hoảng Eurozone cũng lại chính ở khía cạnh này.    Đồ thị 5.3: Biểu diễn công nợ/GDP Của một số nước Châu Âu Do việc nhất thể hóa chính trị không theo kịp nhất thể hóa tiền tệ, mà quan trọng hơn là sự chậm trễ trong nhất thể hóa kinh tế, nhất là nguyên tắc phối hợp giữa chính sách tiền tệ với chính sách tài khóa, trong khi giao quyền về chính sách tiền tệ cho ECB, nhưng mỗi thành viên vẫn hoạch định chính sách tài khóa riêng. Vì thế, khi thâm hụt ngân sách, chính phủ các nước thành viên không thể phát hành thêm tiền để bù đắp thiếu hụt, mà buộc phải tăng vay nợ và tìm mọi cách che dấu. “Nguồn: website của Ngân hàng trung ương châu Âu - ECB “   Đồ thị 5.4: Biểu diễn thâm hụt Ngân sách của KV sử dụng Euro Hy Lạp rơi vào cuộc khủng hoảng nợ, thì nhiều nghi vấn được đặt ra, bởi các số liệu công bố khác xa với thực tế. Do đó một bài học rất có giá trị đối với khu vực Châu Á chính là việc minh bạch tài chính nói chung, minh bạch về chi tiêu công nói riêng nếu muốn hướng đến hội nhập khu vực. Trong khi các vấn đề về minh bạch tài chính, minh bạch nợ công và hiệu quả của chi tiêu công và kỷ luật tài khóa ở Châu Á còn hạn chế hơn nhiều so với Châu Âu. Vì vậy, vấn đề tạo sự cân bằng giữa tích lũy và tiêu dùng, giữa lợi ích ngắn hạn với phát triển bền vững trong dài hạn cùng các cơ chế điều hành chính sách tài khóa – tiền tệ hợp lý là rất cấp thiết cho Châu Á cũng như các khu vực khác trên thế giới. Thứ ba, vấn đề quản lý các dòng vốn vào ra của khu vực Euro được coi một đồng tiền mạnh, nhưng sự luân chuyển toàn cầu của Euro lại bị chi phối bởi các trung tâm tài chính lớn trên thế giới. Vì vậy, khi gặp khó khăn về tài chính, một số thành viên phải trông chờ vào sự giúp đỡ từ bên ngoài. Mặt khác cũng do chưa nhất thể hóa trong việc quản lý dòng vốn vào – ra (vốn FDI, FII và ODA), đặc biệt là hoạt động vay mượn của Chính phủ và doanh nghiệp, nên khi có bất ổn nảy sinh, thì mối đe dọa về khủng hoảng tài chính, khủng hoảng kinh tế là khó tránh khỏi. Đây cũng là bài học cho khu vực Châu Á, khi thực hiện tự do hóa tài khoản vốn, nhưng vẫn thiếu các chế tài để giám sát chặt chẽ dòng vốn vào – ra trên thị trường. Thứ tư, sự khác biệt về trình độ phát triển trong khu vực EURO có chiều hướng gia tăng, khiến các nước khu vực Châu Á cần xem xét nghiêm túc về chênh lệch mức độ phát triển, nếu muốn hướng đến hội nhập khu vực. Về mức độ phát triển của các nước ở khu vực Euro là khá đồng đều, đây là một thuận lợi cho quá trình hội nhập khu vực. Tuy nhiên, sau một số năm gia nhập, khoảng cách và sự chênh lệch về phát triển kinh tế - xã hội của khu vực này không những không thu hẹp mà còn nới rộng hơn, trong khi các nước Nam Âu tăng trưởng rất chậm, thì Đức nhanh chóng trở thành “đầu tàu kinh tế” của Châu Âu. Thực tế này đòi hỏi ECB phải đưa ra được chính sách tiền tệ phù hợp cho các nền kinh tế trong khu vực. Đối với Châu Á, tính đa dạng và không đồng nhất về thể chế chính trị, văn hóa,  xã hội & kinh tế  giữa các nền kinh tế (thu nhập bình quân đầu người, mức độ phát triển của thị trường tài chính, quy mô và phạm vi kiểm soát về vốn, thể chế chính trị và các điều kiện xã hội khác) sẽ là một trở ngại lớn trong phối hợp chính sách khu vực. Do đó để hướng đến khu vực đồng tiền chung, trước hết Châu Á (cụ thể là các nước Đông Á) cần khắc phục được những bất cập này. Triển vọng về một đồng tiền chung Châu Á Đồng tiền chung Châu Á là vấn đề đã được đề cập khá nhiều trong các Hội nghị quốc tế và khu vực, kể từ sau cuộc khủng hoảng tiền tệ 1997-1998. Theo Kế hoạch Hành động Hà Nội (tháng 12/1998) và Hội nghị thượng đỉnh ASEAN+3 ở Manila (tháng 11/1999), và ASEAN+3 ở Chiềng Mai (Thái Lan - tháng 5/2000). Ý tưởng về việc hình thành đồng tiền chung châu Á (AS) là rất tích cực trong xu thế liên kết khu vực, một mặt thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội, tăng khả năng cạnh tranh, mặt khác sẽ giúp các quốc gia Châu Á hạn chế sự lệ thuộc quá nhiều vào USD và tránh được những biến động trên thị trường tiền tệ quốc tế. Nhưng khó khăn lớn nhất cho việc ra đời AS là sự khác biệt lớn giữa các thành viên và cốt lõi của quá trình chuẩn bị cho aszone là đạt được sự thống nhất trong sự khác biệt quá lớn này. Do tính đa dạng về kinh tế, văn hóa, chính trị giữa các quốc gia Châu Á cũng hình thành nhiều cấp độ phát triển kinh tế khác nhau trong khu vực, tạo nên khoảng cách chênh lệch về trình độ phát triển của quốc gia. Chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế dẫn đến việc xác định khác nhau giữa các lợi ích và vấn đề ưu tiên trong hợp tác. Khoảng cách chênh lệch trên cũng tạo bất lợi đối với các nước kém phát triển trong phân công lao động quốc tế, do các nước lớn có lợi thế hơn về vốn, công nghệ và khả năng cạnh. Đến nay, việc công bố sử dụng ACU (2006) khá tương tự như ECU thành lập Quĩ châu Á, cho ra đời thị trường trái phiếu châu Á, qui định các điều kiện chuẩn bị gia nhập khu vực… dường như mô phỏng lại quá trình hình thành khu vực Euro. Vì vậy, rút kinh nghiệm từ khu vực EURO, vấn đề nhất thể hoá tiền tệ,  phối hợp chính sách tài khoá với một lộ trình phù hợp với xu thế quốc tế luôn thay đổi, phải được xử lý ngay trong quá trình chuẩn bị ra đời aszone. Đây là một trong những nội dung trọng tâm của đồng tiền chung Châu Á. Tóm lại, thời đại ngày nay luôn biến đổi, sự biến đổi là vô hạn, còn dự báo luôn là hữu hạn. Do vậy việc tính toán và dự báo về việc nhất thể hoá tiền tệ và việc ra đời AS sẽ là hợp qui luật, sẽ là rất hấp dẫn, sẽ rất quan trọng, nếu chuẩn bị lộ trình và bước đi cho aszone hợp lý, trong đó khởi đầu phải là thể chế cho các bước tiếp theo. CHƯƠNG 6: KẾT LUẬN Đồng EURO đánh giá một bước phát triển mới của liên minh Châu Âu và hoạt động liên kết kinh tế quốc tế nói chung. Có thể nói đây là chương trình thử nghiệm của việc lưu hành đồng tiền chung trong khối, vấn đề đặt ra và hướng tới cho các khu vực kinh tế. Sau hơn 2 năm ra đời, đồng EURO liên tục giảm giá, tình hình sử dụng không mấy khả quan. Diễn biến đó đã ảnh hưởng nhỏ đến các hoạt động kinh tế trong và ngoài EU. Sự mất giá của đồng EU do nhiều nguên nhân, song điều quan trọng là các nguyên nhân này không thuộc cấu trúc của dự án đồng tiền chung hay nói cách khác dự án đồng tiền chung Châu Âu là thiết thực và khả thi. Những khó khăn đồng EURO gặp phải chỉ là nhất thời do yếu tố khách quan. Vì vây, thực trạng diễn biến đó không ảnh hưởng hay nói lên điều gì về tương lai của nó. Mà tương lai của đồng tiền chung Châu Âu được khẳng định bởi chính nội lực của EU và quyết tâm của các nước thành viên. Tương lai của EU đầy lạc quan sẽ là nhân tố tích cực của EU trở thành một sức mạnh mới, sức mạnh tổng hợp từ sự thống nhất tiền tệ tạo điều kiện cho Châu Âu phát triển hợp tác và cạnh tranh hiệu quả hơn vơí các nền kinh tế quốc gia đặc biệt là các ku vực kinh tế. Bên cạnh đó sự ra đời của đồng EURO cũng đã tạo ra những thác thức cho EU và các nước bên ngoài trong đó có Việt Nam. Vì vậy cần phải có sự quan tâm nghiên cứu của các nước trong và ngoài EU kể cả Việt Nam để thấy được triển vọng chung của đồng EURO và xu hướng tác động của nó đến nền kinh tế trong và ngoài EU. Tuỳ thuộc vào quan hệ với các nước EU mà xu hướng tác động có sự khác nhau. Từ đó có cách tiếp cận khác nhau và đưa ra các giải pháp phù hợp nhất để tận dụng tốt nhất các cơ hội và hạn chế tối thiểu của nó tới nền kinh tế nước mình. Riêng đối với EU còn nghiên cứu không những để đưa ra giải pháp cho nền kinh tế của mình mà còn phải đưa ra các giải pháp để nuôi sống dự án đồng tiền chung, ước muốn đã được thai nền từ nhiều thập kỷ qua. Đối với Việt Nam có nhiều quan hệ với EU, cần phải nghiên cứu và chuẩn bị trước cho vấn đề đồng EU. Sự ra đời đồng EURO là một cơ hội cho Việt Nam tăng cường, mở rộng hoạt động kinh tế quốc tế, phát triển nền kinh tế mở theo hướng đa dạng hoá đa phương hoá các quan hệ kinh tế, bước kịp vào thời đại khu vực hoá toàn cầu hoá, tham gia hoạt động kinh tế quốc tế hiệu quả hơn. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] TS. Đinh Công Tuấn ,Đồng Euro và tác động của nó đến nền kinh tế thới giới và Việt Nam , Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn Quốc Gia, Tung tâm nghiên cứu Châu Âu, Nhà xuất bản thống kê, Hà Nội. [2] TS. Lê Phan Thị Diệu Thảo, Khủng hoảng Hy Lạp -thách thức cho đồng Euro; 13tháng 5 năm 2010; [3] Trị giá xuất khẩu hàng hoá phân theo khối nước, phân theo nước và vùng lãnh thổ. Trị giá nhập khẩu hàng hoá phân theo khối nước, phân theo nước và vùng lãnh thổ [Trực tuyến]. Tổng cục thống kê, Ba Đình- Hà Nội. Địa chỉ: [Truy cập: 30/08/2012]. [4] Xuất khẩu các mặt hàng chủ lực của Việt Nam vào EU năm 2011. Nhập khẩu các mặt hàng chính từ EU vào Việt Nam năm 2011 [Trực tuyến]. Thị trường nước ngoài-Trung tâm Phát triển Thương mại điện tử (ECOMVIET) Cục Thương mại điện tử và Công nghệ thông tin - Bộ Công Thương. Địa chỉ: [Truy cập: 28/08/2012]. [5] Đồng EURO Giảm giá có ảnh hưởng gì đến Việt Nam? [Trực tuyến]. Bộ Tài chính- Trang Thông Tin Pháp Luật Tài Chính- Trần Hưng Đạo, Hà Nội. Địa chỉ: [Truy cập: 30/08/2012].

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docdong_tien_chung_chau_au_anh_huong_den_viet_nam_1983.doc
Luận văn liên quan