Luận văn Franchising thực trạng và giải pháp ứng dụng tại Việt Nam

Việt Nam cam kết không hạn chế tiếp cận thị trường theo phương thức 3 (hiện diện thương mại) và yêu cầu phải thành lập liên doanh kinh doanh dịch vụ nhượng quyền thương mại với đối tác Việt Nam và tỷ lệ vốn góp của phía nước ngoài không được vượt quá 49%. Từ ngày 1/1/2008, hạn chế vốn góp 49% của phía nước ngoài sẽ được bãi bỏ. Từ ngày 1/1/2009, phía nước ngoài không bị hạn chế vốn góp. Sau 3 năm kể từ ngày gia nhập, Việt Nam cho phép thành lập chi nhánh. + Việt Nam cam kết không hạn chế đối xử quốc gia theo phương thức 3, ngoại trừ trưởng chi nhánh phải là người thường trú tại Việt Nam. + Việt Nam chưa cam kết về hạn chế tiếp cận thị trường và hạn chế đối xử quốc gia theo phương thức 4 (sự hiện diện của thể nhân). Như vậy, Việt Nam đã chấp thuận sự hiện diện thương mại của các doanh nghiệp nước ngoài kinh doanh theo hình thức nhượng quyền thương mại, cho phép các doanh nghiệp này được thực hiện dịch vụ nhượng quyền nhương mại trực tiếp tại Việt Nam thông qua liên doanh với đối tác Việt Nam hoặc lập chi nhánh. Cụ thể, theo khoản 2 Điều 2 Chương I Nghị định số 35/2006/ND-CP của Chính Phủ ngày 31/3/2006 quy định chi tiết Luật Thương mại năm 2005 về hoạt động nhượng quyền thương mại, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chuyên hoạt động mua bán hàng hoá và các hoạt động liên quan trực tiếp đến mua bán hàng hoá được thực hiện hoạt động nhượng quyền thương mại đối với những mặt hàng mà doanh nghiệp đó được kinh doanh dịch vụ phân phối tại Việt Nam. Rõ ràng, đây là cơ hội đầu tư to lớn mà các doanh nghiệp nước ngoài sẽ nắm bắt và thực hiện ngay. Thông qua con đường nhượng quyền thương mại, các doanh nghiệp nước ngoài có thể tham gia mạnh mẽ hơn nữa vào việc phát triển ngành phân phối tại Việt Nam.

pdf123 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2622 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Franchising thực trạng và giải pháp ứng dụng tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
quả khảo sát và công bố thường niên của Tập đoàn Tư vấn danh tiếng AT Kearney (Mỹ) về chỉ số phát triển năng lực bán lẻ toàn cầu (Global Retail Development Index - GRDI), Việt Nam là một trong 10 thị trường bán lẻ có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất thế giới và nằm trong số 30 thị trường bán lẻ đang trỗi dậy toàn cầu. Theo trưởng nhóm nghiên cứu Fadi Farra: “thị trường bán lẻ Việt Nam giống như một tiểu Ấn Độ - little India và có nhiều nét tương đồng với Ấn Độ 5 năm trước, có mức tăng trưởng kinh tế cao trên 8%, thị trường phân hoá mạnh với đa số là các cửa hàng bán lẻ bình dân; Năm 2005, GDP của Việt Nam tăng trên 8,43% trong khi Mỹ chỉ tăng 3,5%. Ngoài ra, thị trường Việt Nam với hơn 84 triệu dân, trong đó hơn 50% là dưới 30 tuổi. Điều này thật ấn tượng vì thế hệ trẻ là những người thích mua sắm nhất. Việt Nam cũng là nước có tỷ lệ sử dụng GDP cho tiêu dùng cao hơn so với các nước khác trong khu vực, gần 70% GDP. Cụ thể, năm 2004, mức GDP cho tiêu dùng: 71,5%; Năm 2005, mức GDP cho tiêu dùng: 69,8% và lượng tiền mà người tiêu dùng Việt Nam bỏ ra mua sắm tăng 16% so với năm trước, còn doanh số bán lẻ tăng hơn 20%; Năm 2006, mức GDP cho tiêu dùng: 69,8%” 24 . 88 Bảng 3.6: Top 10 thị trƣờng bán lẻ có sức hấp dẫn nhất năm 2006 Năm Nƣớc Xếp hạng GRDI năm 2005 Xếp hạng GRDI năm 2006 1 ấn Độ 1 1 2 Nga 2 2 3 ViÖt Nam 8 3 4 Ukraina 3 4 5 Trung Quèc 4 5 6 Chi Lª 11 6 7 Latvia 6 7 8 Slovenia 5 8 9 Croatia 7 9 10 Thæ NhÜ Kú 9 10 (Nguån: KÕt qu¶ kh¶o s¸t cña tËp ®oµn t• vÊn AT Kearney - Mü)  Cơ hội Nhượng quyền thương mại trong lĩnh vực kinh doanh đồ ăn uống Theo kết quả nghiên cứu của công ty điều tra thị trường AC Nielsen vào cuối năm 2005, Việt Nam mới có khoảng 12% người tiêu dùng quen thức ăn nhanh từ 1-3lần/tháng. Như vậy, số lượng gần 90% còn lại sẽ là cơ hội để các nhà nhượng quyền trong lĩnh vực này khai thác phát triển trong tương lai 16 . Theo ông Giám đốc KFC Việt Nam “nền kinh tế Việt Nam đã phát triển rất nhanh với tốc độ 8%/năm. Người tiêu dùng ngày càng tỏ ra tinh tế hơn trong việc lựa chọn sản phẩm cho mình. Họ chấp nhận và ủng hộ khái niệm đồ ăn nhanh. Họ cũng có ý thức hơn về chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm, cách bài trí và sự sạch sẽ của cửa hàng đồ ăn nhanh 16 ” Tất cả những điều này khiến cho Việt Nam trở thành thị trường hấp dẫn trong con mắt của nhà đầu tư nước ngoài trong ngành ăn uống.  Cơ hội Nhượng quyền thương mại trong ngành phân phối Người tiêu dùng thường biết nhiều hơn đến ngành bán lẻ từ các cửa hàng, nhỏ nhất đến các chuỗi siêu thị lớn như Big C, tuy nhiên, có một ngành thường không lộ diện ồn ào nhưng có lợi nhuận và quy mô rất lớn: ngành phân phối. 89 Trong khi mọi doanh nghiệp lớn nhỏ đều có cơ hội tham gia ngành bán lẻ, thì số lượng doanh nghiệp tham gia ngành phân phối lại rất hạn chế. Ví dụ, một sản phẩm có thể xuất hiện ở hàng chục ngàn điểm bán lẻ, nhưng mỗi nhà sản xuất thường chỉ có một vài nhà phân phối được lựa chọn kỹ lưỡng với các điều khoản hợp đồng chặt chẽ. Điều này dễ hiểu vì nhà phân phối đóng vai trò cầu nối giữa nhà sản xuất và người tiêu dùng. Khi doanh nghiệp càng lớn thì càng đòi hỏi nhà phân phối cũng phải có quy mô lớn về vốn, doanh số, uy tín phát triển tương ứng. Ở Việt Nam, hiện chưa có nhiều nhà phân phối như vậy. Do ngành phân phối Việt Nam chưa mạnh và chưa chuyên nghiệp, nên hiện nay có những nguyên lý căn bản của phân phối đang bị vi phạm mà cả nhà sản xuất và người tiêu dùng đang tạm thời phải chấp nhận. Thứ nhất, đó là hiện tượng chồng lấn giữa phân phối và bán lẻ. Ví dụ, từ 4/2007, công ty FPT tuyên bố bắt đầu tham gia thị trường bán lẻ điện thoại di động. Nhưng FPT hiện cũng đang là nhà phân phối điện thoại di động cho Nokia, Motorola, Samsung. Một doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường như FPT lại đồng thời thực hiện cả phân phối và bán lẻ là điều không dễ chịu đối với các nhà bán lẻ khác; Thứ hai, do thiếu các nhà phân phối đủ năng lực nên hiện nay một doanh nghiệp có thể phân phối nhiều sản phẩm cạnh tranh với nhau như FPT đang phân phối điện thoại di động cho cả Nokia, Motorola, Samsung. Tất nhiên, các nhà sản xuất không cảm thấy dễ chịu với điều này và họ đang không ngừng tìm kiếm cơ hội để có nhà phân phối riêng cho sản phẩm của họ; Thứ ba, cũng như ngành bán lẻ, ngành phân phối phải có cạnh tranh để đảm bảo việc phân phối có hiệu quả với chi phí thấp nhất, từ đó nhà sản xuất và người tiêu dùng cùng được lợi. Việt Nam hiện chưa có nhiều doanh nghiệp đủ mạnh về vốn cũng như uy tín để có thể tạo ra môi trường cạnh tranh trong ngành phân phối. Ngoài ra, theo các cam kết của Việt Nam trong Hiệp định Bảo hộ và Xúc tiến đầu tư Việt - Nhật, Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ (BTA) và Văn kiện cam kết gia nhập WTO, Việt nam đã và tiếp tục từng bước mở cửa thị trường dịch vụ phân phối, trong đó có dịch vụ nhượng quyền thương mại. Đến nay, những cam kết của Việt Nam gia nhập WTO về dịch vụ nhượng quyền thương mại theo 90 mã phân ngành CPC8929 [4] là có phạm vi cam kết rộng nhất và mức độ cam kết mở cửa cao nhất, cụ thể: + Việt Nam cam kết không hạn chế tiếp cận thị trường và hạn chế đối xử quốc gia theo phương thức 1 (cung ứng qua biên giới) và phương thức 2 (tiêu dùng ngoài lãnh thổ) + Việt Nam cam kết không hạn chế tiếp cận thị trường theo phương thức 3 (hiện diện thương mại) và yêu cầu phải thành lập liên doanh kinh doanh dịch vụ nhượng quyền thương mại với đối tác Việt Nam và tỷ lệ vốn góp của phía nước ngoài không được vượt quá 49%. Từ ngày 1/1/2008, hạn chế vốn góp 49% của phía nước ngoài sẽ được bãi bỏ. Từ ngày 1/1/2009, phía nước ngoài không bị hạn chế vốn góp. Sau 3 năm kể từ ngày gia nhập, Việt Nam cho phép thành lập chi nhánh. + Việt Nam cam kết không hạn chế đối xử quốc gia theo phương thức 3, ngoại trừ trưởng chi nhánh phải là người thường trú tại Việt Nam. + Việt Nam chưa cam kết về hạn chế tiếp cận thị trường và hạn chế đối xử quốc gia theo phương thức 4 (sự hiện diện của thể nhân). Như vậy, Việt Nam đã chấp thuận sự hiện diện thương mại của các doanh nghiệp nước ngoài kinh doanh theo hình thức nhượng quyền thương mại, cho phép các doanh nghiệp này được thực hiện dịch vụ nhượng quyền nhương mại trực tiếp tại Việt Nam thông qua liên doanh với đối tác Việt Nam hoặc lập chi nhánh. Cụ thể, theo khoản 2 Điều 2 Chương I Nghị định số 35/2006/ND-CP của Chính Phủ ngày 31/3/2006 quy định chi tiết Luật Thương mại năm 2005 về hoạt động nhượng quyền thương mại, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chuyên hoạt động mua bán hàng hoá và các hoạt động liên quan trực tiếp đến mua bán hàng hoá được thực hiện hoạt động nhượng quyền thương mại đối với những mặt hàng mà doanh nghiệp đó được kinh doanh dịch vụ phân phối tại Việt Nam. Rõ ràng, đây là cơ hội đầu tư to lớn mà các doanh nghiệp nước ngoài sẽ nắm bắt và thực hiện ngay. Thông qua con đường nhượng quyền thương mại, các doanh nghiệp nước ngoài có thể tham gia mạnh mẽ hơn nữa vào việc phát triển ngành phân phối tại Việt Nam.  Nhượng quyền thương mại trong kinh doanh sản phẩm, dịch vụ viễn thông 91 Sau khi chia tách Bưu chính với Viễn thông, việc kinh doanh các dịch vụ viễn thông sẽ thuộc các công ty chủ quản dịch vụ viễn thông của Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam (VNPT), còn hệ thống bưu cục lại thuộc Tổng Công ty Bưu chính. Vậy kênh phân phối các dịch vụ viễn thông sẽ được tổ chức như thế nào? Ngoài việc sử dụng mạng bưu cục của Tổng Công ty Bưu chính, VNPT có thể tạo kênh phân phối mới hay không và tạo như thế nào? Ngược lại, đối với Tổng Công ty Bưu chính, bên cạnh việc kinh doanh các dịch vụ bưu chính truyền thống, sẽ tiếp tục kinh doanh các dịch vụ viễn thông như thế nào để tăng doanh thu?. Hiện tại, “một mô hình đang được tiến hành xem xét dưới hình thức nhượng quyền thương mại của VNPT để phù hợp với đặc thù và tình hình thực tế của VNPT. Hình thức nhượng quyền thương mại này áp dụng cho các cá nhân, doanh nghiệp Việt Nam 30 ”, theo đó: Bên nhượng quyền thương mại: là VNPT/Các công ty chủ quản dịch vụ viễn thông của VNPT. Bên nhận quyền thương mại: là Tổng Công ty Bưu chính hay là các cá nhân/đơn vị muốn kinh doanh dịch vụ viễn thông dưới thương hiệu của VNPT Hợp đồng nhượng quyền thương mại: Hai bên sẽ ký hợp đồng nhượng quyền thương mại kinh doanh sản phẩm, dịch vụ viễn thông. - Đối với bên nhượng quyền: Ngoài những lợi ích như nhân rộng mô hình kinh doanh, tăng doanh thu, tiết kiệm chi phí, lớn mạnh giá trị và thương hiệu của VNPT thì trong hoạt động kinh doanh này, VNPT có quyền cho phép nhiều pháp nhân khác nhau cùng sử dụng quyền kinh doanh của mình trong cùng một thời gian. Nhờ vậy, VNPT có thể xây dựng được một hệ thống phân phối hàng hoá và + Khi bên mua là Tổng công ty Bưu chính: VNPT có thể tận dụng được hệ thống bưu cục, điểm bưu điện văn hoá xã sẵn có, đội ngũ nhân viên kinh nghiệm, quen thuộc nghiệp vụ, hiểu biết về dịch vụ viễn thông. Hơn nữa, khách hàng đã quen thuộc với việc đăng ký sử dụng các dịch vụ viễn thông tại các bưu cục. 92 + Khi bên mua là các cá nhân/đơn vị khác: VNPT sẽ tận dụng được nguồn lực về tài chính, địa điểm, nhân lực của bên mua và sẽ thuận lợi do người mua hiểu biết về phân đoạn thị trường của mình, đối tượng khách hàng của mình nhất. Ngoài ra, VNPT có thể yêu cầu bên mua mua một số nguyên liệu sản phẩm của mình (như các sản phẩm phần cứng, phần mềm viễn thông) để đảm bảo tính đồng bộ của sản phẩm, dịch vụ hay mô hình kinh doanh, mang lại lợi nhuận lớn. - Đối với bên nhận quyền: Ngoài những lợi ích như đầu tư an toàn, hạn chế rủi ro kinh doanh, được chủ thương hiệu giúp đỡ, dễ vay tiền ngân hàng, bên nhận quyền được tham gia vào hệ thống phân phối của một ngành công nghệ tiên tiến hiện đại, sẽ hạn chế tối đa rủi ro trong kinh doanh, bởi vì VNPT là nhà cung cấp sản phẩm, dịch vụ viễn thông hàng đầu của Việt Nam, đã có truyền thống lâu năm và uy tín trên thị trường, số lượng khách hàng rất đông và xã hội đánh giá cao giá trị thương hiệu của VNPT. Tóm lại, đây là cơ hội kinh doanh lâu dài cho các nhà đầu tư nhượng quyền thương mại quan tâm, nhưng để thực hiện được mô hình này đòi hỏi phải xem xét, nghiên cứu sâu hơn về mọi khía cạnh như thực trạng mạng bưu cục, những điều kiện để tham gia mua quyền thương mại của VNPT, thiết kê mô hình cửa hàng nhượng quyền, tính toán cụ thể các chi phí nhượng quyền.  Cơ hội Nhượng quyền thương mại trong lĩnh vực bất động sản Kinh doanh theo hình thức nhượng quyền thương mại trong lĩnh vực bất động sản tại Việt Nam hiện gặp nhiều khó khăn hơn và vẫn chưa phát triển mạnh tại Việt Nam, mặc dù ở các nước trên thế giới, hình thức này rất phát triển và mang lại lợi nhuận cao cho các nhà đầu tư. Cần phải nhìn nhận chính xác là hình thức kinh doanh này thực sự mang lại nhiều hứa hẹn cho cộng đồng các doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực bất động tại Việt Nam nhất là trong bối cảnh Việt Nam đã gia nhập WTO, sự gia tăng đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào thị trường bất động sản Việt Nam trong những tháng đầu năm 2007 với hàng loạt các dự án đầu tư bất động sản được cấp phép và sự tham gia của nhiều thành phần, tổ chức mới vào thị trường bất động sản trong nước như Quỹ đầu tư bất động sản Vinacapital. Trong thời gian tới, Việt Nam chắc chắn sẽ là điểm nóng về nhượng quyền thương 93 mại bất động sản với hàng loạt các tập đoàn địa ốc đến từ Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore và Mỹ. Tuy nhiên, nhượng quyền thương mại trong lĩnh vực bất động sản đòi hỏi mô hình nhượng quyền thương mại, cách thức tổ chức quản lý và nguồn vốn đầu tư ban đầu khá lớn; mức độ yêu cầu về cơ sở pháp lý có phần khắt khe hơn; rất chú trọng đến tư cách pháp nhân, tiềm lực tài chính mạnh cũng như uy tín trên thương trường của bên nhận quyền; điều kiện phạm vi hoạt động cho các công ty tham gia trong lĩnh vực nhượng quyền thương mại bất động sản phải nghiêm ngặt và chặt chẽ về luật pháp, tài chính (ví dụ, các hình thức xử phạt, đền bù thiệt hại vi phạm hợp đồng nhượng quyền phải được quy định rất cụ thể). Theo ông Nguyễn An Bình, Chủ tịch Hiệp hội Bất động sản Việt Nam: “nhượng quyền thương mại bất động sản rất đa dạng và các doanh nghiệp Việt Nam có thể xây dựng mô hình nhượng quyền theo kiểu đầu tư, môi giới, tư vấn vì các doanh nghiệp Việt nam có thế mạnh phát triển ở hai lĩnh vực tư vấn và môi giới bất động sản hoặc theo kiểu trọn gói tư vấn - thẩm định - môi giới - xây dựng 8 ”. Theo các chuyên gia trong ngành bất động sản, những quy định về nhượng quyền thương mại trong các văn bản pháp lý hiện thời chưa đủ, Chính phủ Việt Nam cần tiến tới sớm ban hành thêm một bộ luật về nhượng quyền thương mại bất động sản riêng mới đáp ứng được nhu cầu phát triển của doanh nghiệp và đòi hỏi của thị trường. Ngoài ra, Việt Nam đã gia nhập tổ chức WTO, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ có thuận lợi hơn trong thủ tục ký hợp đồng nhượng quyền thương mại. Thứ nhât, hệ thống pháp luật đã được xây dựng, điều chỉnh, bổ sung cho phù hợp với các quy định của tổ chức quốc tế này. Như vậy các doanh nghiệp sẽ không phải lo lắng về hợp đồng của Việt Nam có được quốc tế công nhận hay không; thứ hai, sau khi Việt Nam gia nhập WTO, việc giải quyết tranh chấp pháp lý trong lĩnh vực nhượng quyền thương mại có yếu tố nước ngoài sẽ rõ ràng và công bằng hơn. Nhờ đó, các doanh nghiệp nước ngoài thêm tin tưởng vào làm ăn tại thị trường Việt Nam. 3.1.3 Thách thức phát triển Nhƣợng quyền thƣơng mại tại Việt Nam  Thách thức về cạnh tranh từ các tập đoàn nước ngoài 94 Các Tập đoàn phân phối và bán lẻ nước ngoài đang và sẽ dùng hình thức kinh doanh nhượng quyền thương mại để mở rộng và kiểm soát thị trường trong nước, khiến cho số lượng các doanh nghiệp Việt Nam trong lĩnh vực này ngày càng giảm, trong khi đó số cửa hàng phân phối, bán lẻ sẽ ngày càng tăng. Theo báo cáo của Bà Vũ Kim Hạnh, Giám đốc Trung tâm xúc tiến thương mại và đầu tư thành phố Hồ Chí Minh (ITPC), trong khoảng thời gian từ 1999-2003, số doanh nghiệp bán lẻ giảm 17,5%, trong khi đó số cửa hàng bán lẻ tăng 0,9% 17 . Nếu xu hướng này kéo dài sẽ làm thu hẹp các kênh phân phối truyền thống và thay vào đó là kênh phân phối hiện đại với nhiều thương hiệu nổi tiếng của nước ngoài. Rõ ràng, hệ thống phân phối, bán lẻ nội địa ở Việt Nam đang có nguy cơ bị điều khiển bởi các tập đoàn nước ngoài, khi mà các doanh nghiệp trong nước thiếu một kế hoạch vững chắc cho việc phát triển ngành phân phối, bán lẻ nội địa. Các doanh nghiệp Việt Nam đang đứng trước nhiều thách thức và lựa chọn để tồn tại, chấp nhận cạnh tranh hay cùng hợp tác để thích ứng với sự bành trướng của các kênh phân phối mới từ bên ngoài vào. Trong các lựa chọn đó, nhượng quyền thương mại được đánh giá có thế mạnh đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa của Việt Nam giúp tăng khả năng cạnh tranh nhanh nhất, vì nó là công cụ duy nhất chuyển giao công nghệ kinh doanh một cách hoàn chỉnh và có thể tạo nên những dòng sản phẩm, dịch vụ đồng nhất khắp nơi, tạo nên yếu tố “dễ mua” cho khách hàng. Chắc chắn, nhượng quyền thương mại sẽ là phương tiện của kênh phân phối hiện đại.  Thách thức về nạn vi phạm vi phạm sở hữu công nghiệp Tình trạng vi phạm sở hữu công nghiệp và hiện tượng hàng giả, hàng nhái, kinh doanh không phép tại Việt Nam rất cao, song song với trình độ nhận thức, công tác quản lý thị trường còn rất yếu. Tất cả những điểm này sẽ gây thiệt hại về vật chất và uy tín cho các doanh nghiệp kinh doanh nhượng quyền, đặc biệt là chủ thương hiệu, đồng thời làm nản lòng những nhà đầu tư trong và ngoài nước đang mong muốn tìm kiếm cơ hội kinh doanh theo hình thức này tại Việt Nam. 95  Thách thức về đặc điểm thị hiếu, tập quán tiêu dùng của người Việt Nam Thách thức đối với các doanh nghiệp nước ngoài muốn nhượng quyền thương mại vào Việt Nam là phải làm cho sản phẩm, dịch vụ của hệ thống nhượng quyền phù hợp với văn hoá, thị hiếu và tập quán tiêu dùng của người Việt Nam.  Thách thức về ý thức chấp hành kỷ luật của người Việt Nam Phong cách, ý thức kỷ luật của người Việt Nam chưa cao rất dễ xảy ra những trường hợp vi phạm nội quy, quy định của hệ thống nhượng quyền. Điều này có thể gây ra tranh chấp giữa hai bên, ảnh hưởng tới sự phát triển và mở rộng các hệ thống nhượng quyền tại Việt Nam.  Thách thức về thiết lập kênh thông tin liên lạc Một trong những thách thức lớn đối với việc nhận quyền từ các thương hiệu quốc tế là kênh thông tin liên lạc giữa bên nhượng quyền và bên nhận quyền. Đối với các thương hiệu lớn và nổi tiếng thì chắc chắn sẽ có văn phòng đại diện tại mỗi quốc gia hay khu vực mà thượng hiệu này có nhượng quyền. Tuy nhiên, đối với các hệ thống nhượng quyền tuy là quốc tế nhưng còn mới mẻ trên thương trường thì việc xây dựng một văn phòng đại diện cho chủ thương hiệu hay đại lý franchise độc quyền lại là một thách thức lớn. Do đó, bên nhận quyền phải tìm hiểu thật kỹ để biết cách bên nhượng quyền sẽ có thể hỗ trợ thường xuyên và kịp thời cho mình trong thời hạn hợp đồng nhượng quyền. 3.2 Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả ứng dụng hình thức Nhƣợng quyền thƣơng mại tại Việt Nam trong thời gian tới 3.2.1 Nhóm giải pháp tạo môi trƣờng phát triển  Xây dựng môi trường pháp luật cho nhượng quyền thương mại phát triển - Các quy định của pháp luật hiện hành của Việt Nam hiện nay đã được xây dựng theo hướng ngày càng phù hợp với luật pháp của các nước trên thế giới. Tuy nhiên, hệ thống luật pháp của Việt Nam vẫn tồn tại một số điểm chưa phù hợp và chưa đáp ứng đuợc yêu cầu của các văn bản quốc tế này. Hệ thống pháp luật của Việt Nam chỉ mới cải thiện được khâu gia nhập thị trường, còn môi trường kinh doanh chậm chưa được cải thiện. Nhà nước xây dựng pháp luật là đã tạo ra hành lang pháp lý để điều tiết các hành vi và bảo vệ lợi ích hợp pháp của các bên tham 96 gia kinh doanh. Do vậy, pháp luật phải rõ ràng, được thực hiện nhất quán trong cả nước, không thể để pháp luật không rõ ràng, được giải thích và vận dụng khác nhau - Nhà nước phải đảm bảo và thực hiện đúng nguyên tắc cạnh tranh bình đẳng theo pháp luật trong kinh doanh. Cạnh tranh là nguyên tắc có tính nền tảng của kinh tế thị trường, nó đòi hỏi các doanh nghiệp phải hoạt động có hiệu quả và thường xuyên nâng cao hiệu quả để thu được lợi nhận. Việt Nam cho đến nay đã thông qua Luật về cạnh tranh lành mạnh nhưng vẫn còn rất nhiều việc phải làm để đưa luật đó vào cuộc sống góp phần làm tăng năng lực cạnh tranh trong kinh doanh của Việt Nam nói chung, của các doanh nghiệp nói riêng. - Nhà nước phải đảm bảo và thực hiện nhất quán nguyên tắc công khai, minh bạch của doanh nghiệp trong kinh doanh thông qua các quy định pháp lý. Để kinh doanh bình đẳng, bên nhượng quyền và bên nhận quyền phải đầy đủ các thông tin liên quan cần thiết và công khai, minh bạch để cho các bên có lợi ích tự kiểm tra và quyết định theo pháp luật. Do vậy, Nhà nước cần hoàn thiện và xây dựng pháp luật theo hướng buộc các doanh nghiệp phải công khai, minh bạch trong kinh doanh. Một phương pháp thực hiện công khai, minh bạch và khắc phụ bất đối xứng về thông tin giữa các bên đó là Nhà nước bắt buộc các doanh nghiệp phải sử dụng kiểm toán độc lập trong kinh doanh. - Về những quy định pháp luật hiện thời, Nhà nước cần phải xem xét, làm rõ các khái niệm, phạm vi điều chỉnh giữa các luật, các văn bản pháp quy có liên quan, từ đó có sự điều chỉnh, sửa đổi phù hợp, ban hành các quy định mới để kịp thời đáp ứng công tác quản lý Nhà nước và tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nhượng quyền thương mại, cụ thể: Ban hành Luật điều chỉnh riêng về hoạt động nhượng quyền thương mại; Ban hành Thông tư quy định về mức phí đăng ký hoạt động nhượng quyền và cách xác định phí trong hoạt động nhượng quyền thương mại; Ban hành Thông tư hướng dẫn về mức phí quảng cáo áp dụng cho hoạt động nhượng quyền thương mại. Nghị quyết Đại hội X của Đảng và các cam kết hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi Nhà nước phải tiếp tục xây dựng và hoàn thiện môi trường pháp luật cho mọi 97 hoạt động kinh doanh, trong đó có kinh doanh nhượng quyền thương mại phát triển. Đây là những đòi hỏi nỗ lực cải cách thực chất chứ không chỉ là những điều chỉnh kỹ thuật và mang tính nhất thời.  Nâng cao nhận thức và hiểu biết của toàn xã hội về kinh doanh nhượng quyền Trong bối cảnh hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế thế giới, khu vực và với những điều kiện kinh tế xã hội ở Việt Nam hiện có sẽ tạo những thế và lực mới cho sự phát triển mạnh mẽ các hệ thống nhượng quyền thương mại ở Việt Nam thời gian tới. Tuy nhiên, nhận thức và hiểu biết về nhượng quyền thương mại ở nước ta còn chưa đầy đủ và chính xác. Chính vì vậy, công tác tuyên truyền, giáo dục, đào tạo nhằm nâng cao nhận thức, hiểu biết của toàn xã hội là rất cần thiết và bức xúc để hoạt động này có thể chuyên môn hoá cao đảm bảo điều kiện và môi trường phát triển lâu dài. Những nội dung cần làm bao gồm tuyên truyền phổ biến kiến thức pháp luật liên quan tới kinh doanh nhượng quyền thương mại; về sự cần thiết khách quan, những cơ hội và thách thức của việc hội nhập kinh tế quốc tế với phát triển nhượng quyền thương mại ở Việt nam; việc thực hiện các cam kết quốc tế trong lĩnh vực dịch vụ phân phối, bán lẻ; về luật chơi quốc tế mà Việt Nam tham gia; nội dung các hiệp định của WTO...Đối tượng cần được tuyên truyền giáo dục: toàn xã hội, trong đó cần xây dựng và thực hiện các chương trình, kế hoạch đào tạo cụ thể và phù hợp cho từng đối tượng là các nhà hoạch định chính sách, các doanh nghiệp, các tổ chức hiệp hội và người tiêu dùng. Một số biện pháp thực hiện: Bộ Thương mại trực tiếp chỉ đạo và hướng dẫn thực hiện các hoạt động tuyên truyền phổ biến kiến thức, đồng thời phối hợp với các bộ ngành khác liên quan lập và thực hiện các kế hoạch và chương trình thông tin quốc gia về phát triển các hệ thống thương mại văn minh hiện đại trong đó có phát triển theo hình thức nhượng quyền thương mại; Chính thức đưa nội dung nhượng quyền thương mại vào nội dung chương trình giảng dạy ở các trường đại học thuộc khối kinh tế, quản trị kinh doanh; Các tổ chức xúc tiến, cơ quan ban ngành chủ động phối hợp liên kết với các tổ chức giáo dục có uy tín trong và ngoài nước xây dựng các chương trình đào tạo về nhượng quyền thương mại ngắn, trung 98 và dài hạn; có thể mời các chuyên gia nước ngoài về giảng dạy; tổ chức hội thảo chuyên đề cho cộng đồng doanh nghiệp kinh doanh nhượng quyền thương mại.  Xây dựng các chương trình hỗ trợ khuyến khích phát triển các doanh nghiệp nhượng quyền thương hiệu Trong những năm gần đây, các chương trình hỗ trợ khuyến khích doanh nghiệp nhằm nâng cao sự hiểu biết, nhận thức, khuyến khích phát triển cũng như đánh giá khả năng của doanh nghiệp đã được thực hiện rầm rộ trên toàn quốc như Chương trình nhãn hàng Việt Nam chất lượng cao được tổ chức hàng năm của báo Sài gòn Tiếp thị; Dự án hỗ trợ Doanh nghiệp xây dựng và quảng bá thương hiệu năm 2003 của Câu lạc bộ doanh nghiệp hàng Việt Nam chất lượng cao; Chương trình xây dựng và phát triển thương hiệu quốc gia do Bộ Thương mại chủ trì; Giải thưởng Sao vàng Đất Việt nằm tôn vinh các thương hiệu và sản phẩm có uy tín của Câu lạc bộ Doanh nghiệp trẻ hàng năm bắt đầu từ năm 2003. Các chương trình như vậy cần phải tăng cường được xây dựng và tổ chức. Bên cạnh đó, trong lĩnh vực nhượng quyền thương mại, Nhà nước cần có định hướng, chính sách và các chương trình cụ thể riêng cho việc phát triển loại hình kinh doanh nhượng quyền thương mại và các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này như Nhượng quyền thương mại có thể được xếp vào những loại hình kinh doanh được ưu tiên phát triển; có chính sách ưu đãi đối với việc vay vốn để mở rộng hệ thống của các doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam; tổ chức các hội chợ, hội thảo quốc gia và quốc tế về nhượng quyền thương mại với quy mô lớn và mang tính chuyên nghiệp; tổ chức các chuyến đi nước ngoài có tài trợ một phần kinh phí cho các doanh nghiệp Việt Nam để tìm hiểu về kinh nghiệm, cơ hội kinh doanh nhượng quyền ở nước ngoài, đồng thời quảng bá, giới thiệu hình ảnh Việt Nam và doanh nghiệp kinh doanh nhượng quyền Việt Nam. Bên cạnh đó, Nhà nước hỗ trợ và khuyến khích trực tiếp các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nhượng quyền thương mại thông qua các công cụ về tài chính, thuế, thông tin hoặc Nhà nước hỗ trợ gián tiếp thông qua việc cải thiện, phát triển cơ sở hạ tâng, mạng lưới viễn thông, hệ thống ngân hàng để các doanh nghiệp hoạt động dễ dàng hơn trong một môi trường kinh doanh hiện đại 99  Thành lập Hiệp hội Nhượng quyền thương mại Việt Nam Đây không chỉ là xu hướng phổ biến mà còn là một yêu cầu tất yếu, Trong một môi trường xúc tiến ổn định và thực sự chất lượng thì không thể thiếu vắng vai trò lãnh đạo trụ cột của một Hiệp hội, cụ thể hơn ở đây là Hiệp hội Nhượng quyền thương mại Việt Nam (Vietnam Franchise Association). Xây dựng Hiệp hội Nhượng quyền thương mại Việt Nam với các chức năng chính như chức năng đại diện, chức năng thông tin và chức năng xúc tiến hoạt động nhượng quyền nhằm làm cấu nối giữa các doanh nghiệp với các cơ quan quản lý của Nhà nước, giữa các doanh nghiệp với nhau để cùng hỗ trợ tìm kiếm, trao đổi thông tin thị trường hay hợp tác trong đào tạo kỹ năng quản lý, nghiên cứu thị trường. Ngoài ra, Hiệp hội đóng vai trò quan trọng trong việc hạn chế hàng giả, hàng nhái và sẽ là người đại diện cho quyền lợi hợp pháp của các doanh nghiệp thành viên, có tiếng nói và tham gia bảo vệ quyền lợi hợp pháp của của các doanh nghiệp thành viên trước các hành vi cạnh tranh không lành mạnh của các đối thủ khác trong bối cảnh cạnh tranh và hội nhập. Hiệp hội cũng có thể phối hợp cùng các ngân hàng, quỹ đầu tư trong việc thẩm định, phê duyệt các dự án vay vốn đầu tư của doanh nghiệp muốn kinh doanh nhượng quyền hoặc có thể đứng ra bảo lãnh cho những đối tác tiềm năng. Vì vậy, việc thành lập Hiệp hội Nhượng quyền thương mại Việt Nam cần được tiến hành ngay và Nhà nước cần có các hỗ trợ cần thiết để Hiệp hội đi vào hoạt động chính thức và có hiệu quả trong năm 2007. Hiệp hội Nhượng quyền thương mại Việt Nam nên là một tổ chức phi lợi nhuận và được hỗ trợ thành lập bởi Bộ Thương mại.  Nâng cao năng lực của cơ quan quản lý Nhà nước về nhượng quyền thương mại - Tiếp tục thực hiện cải cách các thủ tục hành chính tại các cơ quan quản lý của Nhà nước một cách mạnh mẽ theo hướng tiêu chuẩn hoá và đơn giản hoá các thủ tục hành chính cấp phép kinh doanh tránh gây phiền hà cho doanh nghiệp và làm hạn chế kết quả kinh doanh. - Phối hợp giữa các cơ quan chức năng như cơ quan thuế, công an kinh tế, cơ quan quản lý thị trường trong việc kiểm tra, giám sát thị trường nhằm xử lý kịp 100 thời các cơ sở kinh doanh hàng giả, hàng nhái nhãn hiệu, ăn cắp hoặc tự ý sử dụng thương hiệu, biển hiệu của các công ty kinh doanh nhượng quyền mà chưa được phép, kiểm tra về vệ sinh an toàn thực phẩm, xuất xứ hàng hoá, chất lương hàng hoá, thời hạn sử dụng, kiểm tra các công tác đảm bảo an toàn như PCCN của các cơ sở kinh doanh nhượng quyền. - Nâng cao nhận thức, sự hiểu biết, nghiệp vụ trong môi trường hội nhập kinh tế quốc tế cho các cán bộ quản lý, nhân viên của các cơ quan quản lý Nhà nước về hoạt động nhượng quyền thương mại nhằm tránh những sai lầm đáng tiếc do không hiểu hoặc hiểu không đúng các quy định pháp luật của Nhà nước. - Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 có quy định rất cụ thể về “quyền tự bảo vệ” của chủ sở hữu quyền sở hữu trí tuệ hay người được sử dụng hợp pháp các quyền sở hữu trí tuệ. Tuy nhiên, câu hỏi lại được đặt ra khi việc tuyên bố “chủ quyền” như vậy không còn là quyền theo đúng nghĩa có nữa, mà trở thành một nghĩa vụ đối với chủ sở hữu hay chủ sử dụng quyền sở hữu trí tuệ. Đã là quyền năng, việc thực hiện hay không thực hiện luôn được hiểu là do người có quyền đó tự quyết định. Tuy nhiên, trong các hoạt động xử lý vi phạm quyền sở hữu trí tuệ, vấn đề trở nên phức tạp hơn rất nhiều khi pháp luật bắt buộc người nắm quyền phải cảnh báo với bên nghi ngờ vi phạm, trước khi yêu cầu các cơ quan hành chính có thẩm quyền xem xét để kết luận và xử lý vi phạm này. Liệu việc biến “quyền” thành nghĩa vụ như vậy có phải thực sự hợp lý hay không? Và khi đã là quy định của pháp luật thì việc áp dụng sẽ như thế nào?. Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 cũng như các văn bản hướng dẫn có phân định rõ ràng rằng yêu cầu này chỉ được áp dụng đối với các hành vi vi phạm quyền sở hữu thông thường, tức là nếu hành vi vi phạm là giả mạo sản phẩm chính hãng, làm hàng “nhái” với các chi tiết trùng lặp hoàn toàn, pháp luật không yêu cầu gửi cảnh báo, người nắm quyền có thể yêu cầu các cơ quan có thẩm quyền xử lý ngay lập tức. Ngược lại, nếu sản phẩm vi phạm chỉ là tương tự chứ không hoàn toàn trùng lặp, các cơ quan chức năng có thể sẽ từ chối thụ lý vụ việc nếu người có quyền chưa cảnh báo người vi phạm quyền sở hữu trí tuệ. Vậy làm thế nào để phân định trong trường hợp nào chủ thể phải gửi thư khuyến cáo cho bên vi phạm và trường hợp nào, chủ thể có quyền yêu cầu cơ 101 quan có thẩm quyền hành động để ngăn chặn và xử lý các hành vi vi phạm sở hữu trí tuệ. Điều này cũng đồng nghĩa với việc, bản thân các cơ quan có thẩm quyền, hơn ai hết, phải có một đội ngũ chuyên gia am hiểu pháp luật hiện hành để ứng phó với từng trường hợp, tránh làm tổn hại đến chủ thể quyền sở hữu trí tuệ và lợi ích của xã hội.  Xây dựng cơ chế cung cấp thông tin Để thị trường nhượng quyền thương mại phát triển, bên nhượng quyền và bên nhận quyền đều rất cần các thông tin liên quan, mới nhất về tình hình thị trường nhượng quyền thương mại, lĩnh vực nhượng quyền thương mại quan tâm, đối tác trong lĩnh vực nhượng quyền thương mại...Một trong các kênh để có thể thu thập thông tin cần thiết đó là việc các doanh nghiệp sử dụng dịch vụ tư vấn thông tin qua các công ty tư vấn. Thị trường dịch vụ tư vấn, hay cách gọi khác là thị trường kinh doanh chất xám tại Việt Nam đã phát triển với sự tăng dần lên của cung - cầu và quan trọng hơn là chất lượng dịch vụ tư vấn. Những công ty tên tuổi như Baker & Mc. Kenzie, Ernst & Young, InvestConsult, Vilaf Hồng Đức, FISC...đã và đang được các doanh nghiệp hoạt động tại Việt Nam biết đến, nhưng các dịch vụ đi kèm, hỗ trợ cho sự phát triển của thị trường dịch vụ tư vấn này dường như không theo kịp. Được bàn nhiều nhất và cũng đang là mối băn khoăn lớn nhất của nhiều công ty tư vấn chính là cơ chế cung cấp thông tin. Các nguồn thông tin được coi là chính thức hiện nay có thể kể đến như các trang web của các bộ, ngành, công báo..nhưng các nguồn đó chỉ cung cấp được những văn bản dưới hình thức như Luật, Nghị định, Thông tư mà đó chỉ là một phần của thông tin. Trong khi tiến hành tư vấn cho doanh nghiệp về một dự án nào đó thì phải cần rất nhiều thông tin như tình hình phát triển của ngành, các kế hoạch phát triển, số liệu thống kê, báo cáo đánh giá thực trạng phát triển...Để có thông tin, các công ty tư vấn buộc phải dựa vào các mối quan hệ cá nhân để lấy thông tin. Nguồn thông tin thu được rất tản mạn và nhiều khi không thể kiểm chứng nổi độ chính xác khi có sự vênh nhau hay thậm chí là trái ngược về nội dung của thông tin. Hiện nay, độ chính xác của thông tin mà các công ty tư vấn khai thác được nằm ngoài tầm kiểm soát của họ và đây 102 chính là cản trở lớn ảnh hưởng đến sự phát triển, tính chuyên nghiệp của thị trường dịch vụ đặc biệt này, gián tiếp ảnh hưởng đến sự phát triển thị trường thương mại trong nước nói chung, thị trường nhượng quyền thương mại nói riêng. Thực tế, nhiều nhà đầu tư đã thất vọng khi họ không có được sự đảm bảo về thông tin mà các công ty tư vấn đưa ra. Theo các nhà đầu tư nước ngoài, thông tin về thị trường Việt Nam đang là khó khăn lớn nhất không chỉ riêng đối với họ do Việt Nam thiếu một cơ chế về cung cấp thông tin như một dịch vụ hành chính. Đã đến lúc Chính Phủ phải có những quy định về cung cấp thông tin để mọi cá nhân, doanh nghiệp có nhu cầu đều có thể tiếp cận được và tạo thuận lợi trong kinh doanh 3.2.2 Nhóm giải pháp nhằm nâng cao ứng dụng hình thức nhƣợng quyền thƣơng mại đối với các doanh nghiệp 3.2.2.1 Đối với các Doanh nghiệp Nhƣợng quyền thƣơng mại.  Xây dựng và phát triển thương hiệu Mục đích của việc xây dựng thương hiệu là để phân biệt hàng hoá hay dịch vụ của doanh nghiệp này với hàng hoá hay dịch vụ của một doanh nghiệp khác, tạo uy tín cho doanh nghiệp và sản phẩm của doanh nghiệp đồng thời được bảo vệ trước pháp luật. Bảo vệ thương hiệu chính là thông qua đăng ký bảo hộ các yếu tố cấu thành thương hiệu với cơ quan có thẩm quyền nhằm hai mục đích: thứ nhất, bảo hộ nhãn hiệu và các yếu tố cấu thành thương hiệu; thứ hai, xây dựng hệ thống rào cản cần thiết ngăn chặn sự tấn công của các thương hiệu cạnh tranh. Hiện nay, nhiều doanh nghiệp vẫn còn lẫn lộn hoặc lầm tưởng thương hiệu và nhãn hiệu là hai thuật ngữ đồng nghĩa. Điều này hoàn toàn sai lầm. Thương hiệu là khái niệm rộng hơn, bao trùm hơn so với nhãn hiệu và có thể bao hàm cả nhãn hiệu. 103 Bảng 3.7: Phân biệt giữa thƣơng hiệu và nhãn hiệu (1) Tiêu chí Nhãn hiệu Thƣơng hiệu Là một tên đúng đúng Nói về một hàng hoá hay dịch vụ đúng đúng Là chủ thể của luật về quyền sở hữu trí tuệ đúng Không Đăng ký đúng Không Thể hiện uy tín danh tiếng của hàng hoá hoặc công ty Không đúng (Nguồn: Tạp chí kinh tế đối ngoại số 18, tháng 7/2006-Đại học Ngoại Thương) Bảng 3.8: Phân biệt giữa thƣơng hiệu và nhãn hiệu (2) Nhãn hiệu Thƣơng hiệu Khái niệm về luật pháp, tài sản hữu hình Khái niệm về thương mại, tài sản vô hình Hiện diện trên văn bản pháp lý Hiện diện trong tâm trí người tiêu dùng Doanh nghiệp đăng ký, cơ quan chức năng công nhận Doanh nghiệp xây dựng, người tiêu dùng chấp nhận và tin tưởng Xây dựng trên hệ thống luật pháp quốc gia Xây dựng do hệ thống tổ chức của công ty Là phần thân thể của doanh nghiệp Là phần linh hồn của doanh nghiệp (Nguồn: Tạp chí Kinh tế đối ngoại số 18, tháng 7/2006, Đại học Ngoại Thương) Thương hiệu là tài sản vô hình . Một khi hàng hoá được gắn với một thương hiệu, nhất là những thương hiệu mạnh nổi tiếng, khách hàng sẽ cảm thấy yên tâm khi mua hàng và thấy được đảm bảo về chất lượng. Kết quả là khách hàng sẽ tự tìm đến mua hàng của doanh nghiệp. Do vậy, các doanh nghiệp tham gia kinh doanh theo hình thức nhượng quyền thương mại muốn thành công không thể bỏ qua khâu Xây dựng, Quảng bá, Duy trì và Bảo hộ thương hiệu của doanh nghiệp và cũng chính là của hệ thống nhượng quyền thương mại. Khi xây dựng và phát triển thương hiệu, các khó khăn mà doanh nghiệp Việt Nam gặp phải chủ yếu là khó khăn về vốn, nạn vi phạm bản quyền và cơ chế chính sách. Trong các yếu tố đó, theo đánh giá của doanh nghiệp thì khó khăn lớn nhất về phía Nhà nước là luật pháp không nghiêm trong hoạt động bảo hộ các doanh nghiệp, chống lại hiện tượng hàng giả, hàng nhái; các quy định được ban hành chưa rõ ràng hay trói buộc 104 là mất thời gian và giảm cạnh tranh của doanh nghiệp. Hơn nữa, khả năng tài chính của doanh nghiệp cho nghiên cứu và phát triển nhãn hiệu hàng hoá lại rất thấp. Phần lớn các doanh nghiệp đều không có chức danh về nghiên cứu, quản lý nhãn hiệu. Bảng 3.9: Khó khăn trong xây dựng thƣơng hiệu của doanh nghiệp Việt Nam Stt Vấn đề khó khăn Tỷ lệ % 1 Vốn/tài chính 23,1 2 Hàng giả/vi phạm bản quyền 19,0 3 Cơ chế, chính sách, quy định, thủ tục, đặc biệt là giới hạn chi phí 18,2 4 Nguồn nhân lực 11,8 5 Xây dựng chiến lược và cách thức thực hiện 8,5 6 Giá dịch vụ 6,3 7 Thiếu thông tin 4,5 8 Chất lượng dịch vụ 2,8 (Nguồn: Báo Sài gòn Tiếp thị và Câu lạc bộ doanh nghiệp hàng VNCLC (2002), Báo cáo cuộc khảo sát 500 doanh nghiệp Việt Nam về hiện trạng xây dựng thương hiệu) Cơ quan đăng ký bảo hộ sở hữu trí tuệ tại Việt Nam là Cục Sở hữu Công nghiệp. Các doanh nghiệp có thể tự mình trực tiếp nộp hồ sơ đăng ký. Ngoài ra, nếu hạn chế về kinh nghiệm, kiến thức chuyên môn, chủ thương hiệu có thể thông qua công ty luật để được tư vấn vừa hợp pháp, vừa tiết kiệm thời gian tìm hiểu.  Giải pháp về chọn lựa đúng đối tác nhận quyền Việc chọn lựa chính xác những đối tác có khả năng nhận quyền kinh doanh có ý nghĩa quan trọng đối với chủ doanh nghiệp nhượng quyền. Một khi đã chọn sai đối tượng, chủ thương hiệu không thể khiếu kiện hay đơn phương chấm dứt. Quan hệ là liên tục phải trợ giúp, nâng đỡ, hay ít nhất là “ chịu đựng” sự hiện diện của mắt xích kém hiệu quả ấy trong chuỗi cửa hàng cho đến khi hợp đồng hết hạn mới thôi. Do vậy, mỗi doanh nghiệp nhượng quyền phải xác định những tiêu chí chọn lựa riêng, có thể tham khảo một số tiêu chí thường được các chủ thương hiệu đề xuất như có kinh nghiệm trong ngành hàng định kinh doanh; có năng lực tài chính và huy động vốn; ít nhiều khả năng quản trị, lãnh đạo; tâm huyết tuyệt đối 105 với mô hình kinh doanh của chủ thương hiệu”; mức độ tuân thủ các tiêu chuẩn đồng bộ của hệ thống.  Xây dựng đội ngũ nhân sự chuyên nghiệp về nhượng quyền thương mại Để tiến hành quy trình nhượng quyền thương mại một cách trôi chảy và đạt hiệu quả, ngay từ đầu bên nhượng quyền phải thấy được tầm quan trọng của việc xây dựng đội ngũ nhân sự chuyên nghiệp về nhượng quyền thương mại thông qua tổ chức đào tạo tại chỗ: thuê chuyên gia về công ty để giám sát và huấn luyện. Chuyên gia có thể là người có kinh nghiệm lâu năm tại các doanh nghiệp bán franchise trong và ngoài nước, có điều kiện hơn thì mời chuyên gia nước ngoài; tuyển dụng nhân viên có năng lực đã từng làm việc tại doanh nghiệp nhượng quyền nổi tiếng. Đây được coi là cách thức bổ sung đội ngũ nhân sự khả thi và ít tốn kém nhất. Theo Chủ tịch Hội đồng quản trị kiêm Tổng giám đốc điều hành của công ty Starbucks - Haward Schultz khẳng định: “các doanh nghiệp phải dám thuê những chuyên gia giỏi thậm chí trước khi thực sự cần đến, thay vì thuê những người quá trẻ tuổi và thiếu kinh nghiệm [28]”.  Quảng cáo và xúc tiến thương mại phát triển bán hàng qua hệ thống nhượng quyền thương mại Do đặc điểm hoạt động nhượng quyền thương mại dựa trên cơ sở khai thác một thương hiệu có uy tín, nên bên nhượng quyền phải không ngừng củng cố, xây dựng và phát triển thương hiệu của mình song hành cùng với việc quản lý phát triển hệ thống cửa hàng, nhân sự để thu hút khách hàng và các đối tác nhận quyền tiềm năng. Tuỳ theo đặc điểm hoạt động của mình, bên nhượng quyền có thể lựa chọn hình thức quảng cáo, tuyên truyền phù hợp qua báo chí, truyền hình, các buổi hội thảo, hội nghị khách hàng, hội chợ triển lãm về nhượng quyền thương mại. Đặc biệt, hàng năm các doanh nghiệp đều phải dành ra một khoản kinh phí nhất định để thực hiện các chương trình quảng cáo, xúc tiến thương mại cho doanh nghiệp và cả hệ thống kinh doanh của mình. Cuối năm, doanh nghiệp phải tổng kết, rút kinh nghiệm trên toàn hệ thống. 106 3.2.2.1 Đối với các Doanh nghiệp Nhận quyền thƣơng mại  Tìm hiểu thông tin về hoạt động nhượng quyền thương mại Các doanh nghiệp có thể tìm hiểu thông tin về hoạt động nhượng quyền thương mại trong nước thông qua + Một số trang Web điện tử đầu tiên tại Việt Nam như www.pfdc.com của Công ty cổ phần Phát triển Nhượng quyền thương mại Thái Bình Dương; www.vietfranchise.com hoặc www.vietfranchising.vn của Công ty Tư vấn đầu tư và Thông tin Sen Việt hoặc các trang web của Bộ Thương mại, Bộ Tài chính. Ở những trang này, các nội dung về nhượng quyền được trình bày tương đối bài bản, rõ ràng. Bên cạnh đó, những tin tức, sự kiện mới nhất về nhượng quyền thương mại cũng được cập nhật thường xuyên. Đặc biệt là những trang web này có độ tương tác cao với các chuyên gia tư vấn trả lời thắc mắc hoặc các diễn đàn trao đổi thông tin. + Thông qua các Trung tâm tư vấn chuyên nghiệp về nhượng quyền thương mại như VietLotus Pte của Công ty Sen Việt. Vừa qua, VietLotus Pte đã tiến hành tham vấn, hỗ trợ thành công cho Doanh nghiệp Đức triều trong việc nhận quyền kinh doanh các sản phẩm giày dép mang nhãn hiệu T&T. + Thông qua Câu lạc bộ Nhượng quyền Thương mại Việt nam (Viet Franchise Club) tập hợp các doanh nghiệp đầu ngành trong lĩnh vực nhượng quyền thương mại tại Việt nam có trụ sở tại 5B, số 12 Lê Thánh Tôn, Quận 1, thành phố Hồ Chí Minh hoặc trang web www.viet-franchise.com Các doanh nghiệp có thể tìm hiểu thông tin về hoạt động nhượng quyền quốc tế thông qua các trang Web của các Hiệp hội Nhượng quyền quốc tế, các quốc gia liên quan, từ báo chí chuyên ngành, hội trợ triển lãm, các buổi hội thảo.  Đánh giá khả năng phát triển của hệ thống nhượng quyền thương mại Trên cơ sở đặt ra câu hỏi và tìm hiểu những khía cạnh về chủ thương hiệu nhượng quyền với một thương hiệu tốt, một công thức kinh doanh đã được chứng minh là hoàn thiện và một hệ thống nhượng quyền nhiều tiềm năng phát triển như thế nào; Thương hiệu, nhãn hiệu có được nhiều người biết đến, đã được đăng ký 107 bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trong và ngoài nước hay chưa; Sản phẩm có ưu thế cạnh tranh nổi trội; Khả năng cạnh tranh đó có thể duy trì lâu dài không; Quá trình kinh doanh đã được chủ thương hiệu tiêu chuẩn hoá và đồng bộ như thế nào. Đánh giá hiệu quả hoạt động của hệ thống nhượng quyền; Những hỗ trợ ưu đãi cho đối tác nhận quyền; Mối quan hệ giữa chủ thương hiệu và các cửa hàng trong hệ thống như thế nào; Khả năng kiểm tra, giám sát và hỗ trợ, đào tạo của chủ thương hiệu; Mức độ và hiệu quả của các chiến dịch quảng cáo, marketing và khả năng thu lợi nhuận cho một cửa hàng mới trong hệ thống nhượng quyền ?  Xác định mức độ phù hợp đối với mô hình nhượng quyền thương mại Mỗi chủ thương hiệu/bên nhượng quyền đều có cách riêng để đánh giá tiềm năng của đối tác muốn nhận quyền, tuy nhiên, nhà đầu tư cũng phải tự xác định mức độ phù hợp của mình với các tiêu chuẩn, những đòi hỏi đặc thù của hoạt động này như: Mức độ trang trải kinh phí đầu tư ban đầu bao gồm cả phí franchise? (thông thường mức phí này khá cao do ngay từ ban đầu, nhà đầu tư đã phải đáp ứng các tiêu chuẩn đồng bộ của hệ thống nhượng quyền); Khả năng tuân thủ các nội quy, quy định của hệ thống và việc tuân theo một cách tuyệt đối các ý tưởng của bên nhượng quyền cho mô hình kinh doanh của mình; Kỹ năng làm việc theo nhóm, kinh nghiệm quản lý, lãnh đạo và khả năng giao tiếp với đối tác, nhân viên; Đánh giá mức độ tâm huyết để củng cố chất lượng sản phẩm, xây dựng thương hiệu thuộc sở hữu của bên nhượng quyền; Sự tin tưởng, ủng hộ của gia đình trong quyết định kinh doanh nhượng quyền. Chỉ khi nào nhà đầu tư cảm thấy thật sự sẵn sàng và quyết tâm tìm kiếm cơ hội kinh doanh trong lĩnh vực nhượng quyền thương mại thì họ mới không nản lòng bỏ cụôc và sẽ có những biện pháp giải quyết tình thế thích hợp cho mỗi chặng đường khó khăn để trở thành nhà nhận quyền thành đạt.  Nghiên cứu kỹ các điều khoản của hợp đồng trước khi ký Thông thường, hợp đồng nhượng quyền luôn được luật sư của chủ thương hiệu/bên nhượng quyền soạn thảo nên có khuynh hướng bảo vệ lợi ích của chủ thương hiệu/bên nhượng quyền. Do đó trước khi ký, bên nhận quyền nên dành ra khoảng thời gian nhất định (khoảng 10 ngày) để nghiên cứu kỹ các điều khoản, 108 điều kiện trong hợp đồng. Các đối tác nhận quyền nên tận dụng ưu thế của luật sư trong việc trợ giúp các vấn đề pháp lý và hoặc hỗ trợ đàm phán trước khi ký về các hạng mục trong hợp đồng nếu thấy chưa hợp lý hay bất lợi cho mình. Tất cả những hạng mục mà bên nhượng quyền đồng ý điều chỉnh hay bổ sung (nếu có) phải được chỉnh sửa, cập nhật cẩn thận đến từng chữ, từng dòng và yêu cầu lập thành hai bản gốc để mỗi bên giữ một bản. Ngoài ra, khi ký tên vào hợp đồng, bên nhận quyền nên ghi rõ ngày ký ngay phía dưới hay bên cạnh chữ ký. Tương tự, đối với ngày ký nhận bản giới thiệu nhượng quyền thương mại, ngày đầu tiên chính thức họp với chủ thương hiệu hoặc bên nhượng quyền. Những mốc thời gian như vậy đều rất quan trọng khi thực hiện hợp đồng nhượng quyền thương mại.  Khi nhận quyền từ các thương hiệu nước ngoài Sản phẩm, dịch vụ và thương hiệu quốc tế phải phù hợp với văn hoá, phong tục tập quán của người Việt Nam. Kiểm tra công ty đại diện chủ thương hiệu có thực hiện nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật Việt Nam trong lĩnh vực kinh doanh nhượng quyền hay không?; Kiểm tra thương hiệu của đối tác đã đăng ký bảo hộ tại Việt Nam hay chưa ? Yêu cầu bên nhượng quyền cung cấp đầy đủ các tài liệu bắt buộc và các thông tin cần thiết khác theo đúng luật. Vấn đề phạm vi độc quyền trong trường hợp mua đại lý franchise độc quyền hay nhượng quyền phát triển khu vực. Trong trường hợp nhận quyền riêng lẻ thì mua trực tiếp từ chủ thương hiệu hay từ đại lý franchise độc quyền tại đâu?, cách thức hỗ trợ sẽ như thế nào trong điều kiện cách trở về địa lý.  Tuân thủ tính đồng bộ và mô hình kinh doanh của bên nhượng quyền Hoạt động kinh doanh nhượng quyền đòi hỏi mỗi một cửa hàng trong hệ thống phải tuân thủ chính xác, nghiêm ngặt những yêu cầu đã đề ra của bên nhượng quyền về tiêu chuẩn đồng bộ từ hệ thống nhận diện bên ngoài đến bên trong của cửa hàng, đồng phục của nhân viên, trang thiết bị, cách thức kinh doanh, quản lý cửa hàng, chế độ báo cáo. Với các công ty Việt Nam khi nhượng quyền, tính đồng bộ hệ thống đều rất yếu do thiếu “hệ thống kiểm soát chặt chẽ”. Các công ty nhận quyền ở Việt Nam còn quá “dựa hơi” hoặc kinh doanh tuỳ ý, lộn xộn, mà quên rằng muốn thành công, bản thân các công ty này cũng phải chịu trách 109 nhiệm làm tiếp thị, quảng bá tại khu vực địa phương kinh doanh đó và phải giữ đúng cam kết để đảm bảo tính đồng bộ hệ thống và quyền lợi cho người tiêu dùng. Cuối cùng, điều quan trong hơn hết chính là các doanh nghiệp, thông qua hoạt động thực tế của mình, phải tích cực hơn nữa trong việc đề xuất đóng góp ý kiến cho Nhà nước trong việc ban hành các chính sách, quy định pháp luật phù hợp để xây dựng các chương trình phát triển nhượng quyền thương mại. 110 KẾT LUẬN Nhượng quyền thương mại đã hình thành và phát triển ở Việt Nam từ hơn 10 năm qua và đang ngày càng phát triển, đã góp phần làm thay đổi diện mạo ngành thương mại của đất nước và thiết thực góp phần vào phát triển kinh tế xã hội đất nước theo hướng văn minh, hiện đại. Với mục đích nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn của hoạt động nhượng quyền thương mại ở Việt Nam và tìm những giải pháp để phát triển hình thức nhượng quyền thương mại tại Việt Nam cho phù hợp với trình độ phát triển kinh tế xã hội đất nước trong quá trình hội nhập sâu sắc hơn vào nền kinh tế thế giới và khu vực thời gian tới, tác giả đã thực hiện các công việc cụ thể sau đây: - Giới thiệu những vấn đề lý luận cơ bản về nhượng quyền thương mại như khái niệm, đặc điểm, các loại hình nhượng quyền thương mại, so sánh nhượng quyền thương mại với các hình thức khác, đồng thời tác giả cũng đề cập đến các văn bản pháp luật liên quan đến nhượng quyền thương mại, trình bày những xu hướng phát triển nhượng quyền thương mại trong thời gian tới - Từ cách tiếp cận nhượng quyền thương mại là một hình thức kinh doanh mới mẻ trên thị trường Việt Nam, tác giả tiến hành phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động nhượng quyền thương mại hiện nay tại Việt Nam theo các nội dung: đó là hiện trạng của bản thân các hệ thống nhượng quyền thương mại và hiện trạng công tác quản lý Nhà nước đối với hoạt động nhượng quyền thương mại. - Trên cơ sở những phân tích có tính lý luận và thực tiễn về nhượng quyền thương mại, tác giả đã đề xuất một số giải pháp cụ thể nhằm nâng cao khả năng ứng dụng nhượng quyền thương mại tại Việt Nam trong thời gian tới. Bên cạnh đó, tác giả cũng nhận thấy còn nhiều nội dung cần được tiếp tục nghiên cứu liên quan đến nhượng quyền thương mại như xây dựng kênh truyền thông nội bộ trong hệ thống nhượng quyền thương mại; vấn đề điều hòa và phát triển mối liên kết về lợi ích và trách nhiệm giữa các cửa hàng khác nhau trong cùng hệ thống. Do hạn chế về thời gian, nguồn tài liệu nghiên cứu cũng như kinh nghiệm của bản thân nên bài viết của tác giả không tránh khỏi những hạn chế và thiếu sót. Vì vậy, tác giả rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của các nhà khoa học, 111 các thầy cô giáo, các độc giả và những người có quan tâm đến đề tài này để bài viết được hoàn thiện hơn. Cuối cùng xin trích những lời nói tâm huyết của Tiến Sĩ Lê Đăng Doanh thay cho lời kết của tác giả: Doanh nhân Việt Nam ngày nay vừa mới lập nghiệp trong những năm đổi mới, vốn còn mỏng, phạm vi kinh doanh còn hạn chế, trong khi còn phải đối phó hàng ngày với nhiều hạn chế, cản trở để bảo đảm phát triển an toàn cho doanh nghiệp, đã phải đối mặt với môi trường kinh doanh toàn cầu hoá, phải cạnh tranh với những đối thủ nặng ký hơn mình vượt bậc. Để thành đạt, doanh nhân không thể không có TRÍ để hiểu biết thị trường, nắm được khoa học công nghệ tiên tiến; không thể không có DŨNG để dám dấn thên vào thương trường và quyết thắng. Nhưng trước hết và trên hết, doanh nhân phải có NHÂN để lập thân, khẳng định nhân cách của mình qua kinh doanh, qua đó tạo việc làm và con đường phát triển cho người lao động, đóng góp cho đất nước, góp phần xoá đi đói nghèo, lạc hậu. Sự thành đạt của doanh nhân chỉ có thể là sự thành đạt thông qua cạnh tranh gay gắt trên thương trường, qua sự nghiệp, qua sự thừa nhận của cộng đồng trong nước và quốc tế. Trong cuộc trường trinh mới của dân tộc trong thế kỷ 21 vượt lên đói nghèo, lạc hậu, tiến tới văn minh, hiện đại, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, xin chúc các doanh nhân Việt Nam đủ nghị lực, trí, dũng, nhân để thành đạt, thành đạt cho cá nhân mình và cho đất nước 9 .

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf3116_7604.pdf
Luận văn liên quan