Luận văn Gia đình quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội
          
        
            
               
            
 
            
                
                    Ở nước ta cuộc cách mạng XHCN đã tạo ra những điều kiện cơ bản về luật hôn 
nhân và xây dựng gia đình đã nêu trên. Những người cộng sản quant âm đến việc xây 
dựng hạnh phúc gia đình làm cho toàn dân vì đó cũng là mục đích đấu tranh vì lý 
tưởng của con người cộng sản, đồng thời có xây dựng một gia đình tốt mới có thể 
xây dựng một xã hội tốt. Hồ Chủ Tịch nói "Rất quan tâm đến gia đình là đúng, vì 
nhiều gia đình cộng lại mới thành xã hội tốt, gia đình càng tốt, xã hội càng tốt".
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 14 trang
14 trang | 
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2568 | Lượt tải: 1 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Luận văn Gia đình quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN: 
Gia đình quyết định sự tồn tại 
và phát triển của xã hội 
Đặt vấn đề 
Trước đây các nhà XHCN không tưởng chỉ có thể nói về sự bóc lột 
của TBCN, chỉ mở ra được một xã hội mà hầu như mọi cái chưa thực tế, 
nhưng khi Mác và Anghen cho ra đời hai phát tr iển vĩ đại là "Chủ 
nghĩa duy vật lịch sử và "học thuyết giá trị thặng dư" mà XHCN từ 
không tưởng trở thành hiện thực. Chính nhờ các học thuyết đó mà sau 
này các nhà thừa kế xuất sắc như Lê nin đã tiếp thu và phát triển thêm, 
tiến tới đoàn kết các giai cấp trong xã hội để xây dựng một nhà nước 
XHCN đầu tiên, không phải là không tưởng, mà là hiện thực, mở ra một 
thời đại mới, một kỷ nguyên mới của xã hội loài người, đó là xã hội 
XHCN, lật đổ chế độ TBCN, tư bản nửa phong kiến. 
Giải quyết vấn đề 
Trước thời kỳ XHCN ra đời, xã hội luôn làm sự đấu tranh giai cấp, 
đấu tranh công nông có sự phân hoá sâu sắc, cụ thể là sau khi cộng 
đồng nguyên thuỷ tan rã, trong các giai cấp tầng lớp bị áp bức bóc lột 
đã xuất hiện những tư tưởng muốn phủ định xã hội đương thời, những 
tư tưởng đó khát vọng đó tuy chưa thực sự rõ rệt và đồng nhất với nhau 
nhưng điều đó có điểm chung là muốn có một xã hội công bằng bình 
đẳng, bác ái, nhưng đó cũng là một điểm sáng, một khát vọng nhỏ nhoi 
là những mớ giả thuyết chưa thực tế còn yêu sách. Biện pháp để đạt 
được những mơ ước khát vọng đó còn rất mơ hồ. 
Sau khi CNTB ra đời, để tích luỹ tư bản và tạo ra những đội quân 
lao động làm thuê, giai cấp tư sản dùng mọi biện pháp để bóc lột giá trị 
thặng dư, để chiếm đoạt tài sản, mang quân đội đi đánh chiếm những 
vùng đất khác để biến nó thành thuộc địa của mình để có những nguồn 
nhân công rẻ mạt biến tài nguyên của nước đó thành của mình. Trong 
bối cảnh lịch sử đó đã xuất hiện những nhà nước XHCN không tưởng, 
các ông cho rằng phải có một xã hội thực sự bác ái, phải kết hợp những 
nguyên tắc của CN nhân đạo với nguyên tắc cộng đồng dựa theo lòng 
mong muốn và trí tưởng tượng của mình. Những tư tưởng ở thời kỳ này 
tuy vẫn chỉ là ước mơ nhưng đã được kết t inh thành những học thuyết 
mang tính chặt chẽ hơn, đã phê phán ngày càng sâu sắc những hạn chế 
của CNTB và phần nào là tiếng nói của những người lao động trước 
tình trạng bị áp bức bóc lột ngày càng nặng nề. 
Tuy nhiên, những tư tưởng, những học thuyết này ngày càng mang 
tính chặt chẽ hơn mà sau này các nhà sáng lập CNXH - KH đã thừa kế 
một cách có chọn lọc và chứng minh chúng trên cơ sở khoa học vì đã 
nêu được những luận điểm có giá trị về sự phát triển của xã hội trong 
tương lai. Hơn nữa, đã nêu được những giá trị nhân đạo, nhân văn, lòng 
yêu thương, thông cảm và bênh vực đại đa số người lao động, muốn 
giúp đỡ và giải phóng họ trong các tác phẩm và hành động của mình. 
Ngoài ra, nó cũng góp phần làm thức tỉnh t inh thần đấu tranh của giai 
cấp bị bóc lột. 
Tuy vật, CNXH không tưởng còn có những hạn chế của nó là chưa 
khai phá ra hết bản chất và quy luật vận động của CNTB, chưa phát 
hiện ra vai trò lịch sử của giai cấp công nhân - một lực lượng xã hội có 
đủ khả năng xoá bỏ CNTB để xây dựng thành công CNXH. Lênin từng 
viết: "CNXH không tưởng không thể vạch ra được lối thoát thực sự. Nó 
không thể giải thích được bản chất của chế độ nô lệ làm thuê trong 
XHCNTB, cũng không phát hiện ra những quy luật phát triển của chế 
độ TBCN và cùng không tìm thấy lực lượng xã hội có khả năng trở 
thành người sáng tạo xã hội mới". 
Nhờ hai phát triển vĩ đại của Mác - Ănghen đó là chủ nghĩa duy vật 
lịch sử và học thuyết giá trị thặng dư mà CNXH từ không tưởng trở 
thành hiện thực. Ta lần lượt xét hai phát kiến đó: 
Chủ nghĩa duy vật lịch sử. 
Dựa trên những kết quả lý luận và tổng kết lịch sử, Mác và Ănghen 
đã nêu ra quan điểm duy vật lịch sử của mình. 
Mác đã từng viết :"Những quan hệ xã hội đều gắn liền với những 
lực lượng sản xuất. Do có lực lượng sản xuất mới mà loài người thay 
đổi phương thức sản xuất của mình và do thay đổi các phương thức sản 
xuất, cách kiếm sống của mình, loài người thay đổi tất cả những quan 
hệ xã hội của mình. Cái cối xay quay bằng tay đưa lại xã hội có lãnh 
chúa, cái cối xay chạy bằng hơi nước đưa lại xã hội có nhà tư bản công 
nghiệp". 
Mác đã dùng một tổng thể các quan hệ sản xuất làm tiêu chuẩn trực 
tiếp phân biệt những giai đoạn phát triển đặc thù trong lịch sự nhân 
loại, tức là trực t iếp phân biệt những hình thái khác nhau của xã hội. Về 
sau Anghen viết:"Trong mỗi thời đại lịch sử, phương thức chủ yếu của 
sản xuất kinh tế và trao đổi, cùng với cơ cấu xã hội do phương thức đó 
quyết định đã cấu thành cơ sở cho lịch sử chính trị của thời đại và lịch 
sử phát triển tr í tuệ của thời đại, cái cơ sở mà chỉ xuất phát từ đó mới 
cắt nghĩa được lịch sử". 
Trong học thuyết của mình, Mác đã nhấn mạnh vai trò quyết định 
của nhân tố kinh tế, song không bao giờ coi kinh tế là nhân tố quyết 
định duy nhất trong lịch sử. Chứng minh luận điểm này của Mác, 
Anghen đã cho rằng "Theo quan điểm duy vật lịch sử, nhân tố quyết 
định trong lịch sử, xét đến cùng là sự sản xuất và tái sản xuất ra đời 
sống hiện thực. Do đó, nếu ai coi kinh tế là nhân tố quyết định duy nhất 
trong lịch sử, khiến cho nó có nghĩa là nhân tố quyết định duy nhất thì 
như vậy là họ đã biến thành một câu nói trống rỗng, trìu tượng và vô 
nghĩa. Tình hình kinh tế là cơ sở nhưng mọi yếu tố khác của thượng 
tầng kiến trúc, sự phát tr iển về mặt chính trị, pháp luật, triết học, tôn 
giáo, văn học, nghệ thuật.. . là dựa trên sự phát tr iển kinh tế. Hoàn toàn 
điều kiện kinh tế không phải là nguyên nhân duy nhất chủ động, còn 
mọi thứ khác chỉ có tác dụng thụ động". Mác đã nhìn thấy động lực của 
lịch sử do hoạt động thực tiễn của con người dưới tác động của các quy 
luật khách quan. Trong học thuyết của mình Mác đã bác bỏ cách miêu 
tả một xã hội nói chung một xã hội cấu thành chỉ bởi con người. Quan 
điểm phi lịch sử về xã hội phải nhường chỗ cho quan điểm lịch sử. Mác 
đã làm nổi bật những quan hệ xã hội vật chất, tức là quan hệ hình thành 
mà không thông qua ý thức. Đó là quan hệ sản xuất mà Mác đã coi 
những quan hệ cơ bản ban đầu và quyết định mọi quan hệ khác. Mác đã 
đánh đổ mọi quan niệm cho rằng xã hội là một tổ hợp có t ính chất máy 
móc, có thể tuỳ ý kiến thay đổi theo đủ kiểu, một tổ hợp sinh ra và biến 
hoá một cách ngẫu nhiên. 
Như vậy, quá tr ình lịch sử tự nhiên của sự phát triển xã hội chẳng 
diễn ra bằng con đường phát triển tuần tự mà còn bao hàm cả trường 
hợp bỏ qua một hình thái kinh tế xã hội nhất định trong những hoàn 
cảnh lịch sử cụ thể nhất định. Vì vậy những quan điểm của chủ nghĩa 
duy vật lịch sử đã làm sáng tỏ t ính chất lịch sử của hình thái kinh tế xã 
hội TBCN, t ính tất yếu và những t iền đề khách quan, chủ quan của cuộc 
cách mạng XHCN. 
Học thuyết giá trị thặng dư. 
Bắt đầu từ việc nghiên cứu hình thái tế bào của xã hội CNTB, tức 
là hình thái hàng hoá, Mác đã nói rõ lên đời sống kinh tế - xã hội của 
CNTB. ở đây, Mác đã phát hiện ra tính hai mặt của lao động sản xuất 
hàng hoá: lao động cụ thể và lao động trừu tượng. Giải thích tính hai 
mặt này, Mác đã nêu ra mâu thuẫn cơ bản của sản xuất hàng hoá (là 
mâu thuẫn giữa lao động tư nhân với lao động xã hội). Nhờ đó, chính 
Mác là người đầu tiên đã chỉ rõ: Bất cứ quá trình lao động nào cũng 
phải đòi hỏi có ba nhân tố chủ yếu là lao động có mục đích cuả con 
người, đối tượng lao động và công cụ sản xuất. Không thể xem nhẹ 
hoặc bất cứ nhân tố nào. Đặc biệt, Mác đã nhấn mạnh vai trò của công 
cụ sản xuất, Mác nói rằng công cụ sản xuất không tạo ra giá tr ị mà chỉ 
là phương t iện mạnh mẽ nhất để nâng cao sức sản xuất của lao động 
sống. Từ đó Mác đã vạch ra bản chất của giá trị thặng dư và của chế độ 
tư bản. Mác nói "Tư bản là lao động chết, nó giống như con quỷ hút 
máu, chỉ sống nhờ hút được lao động sống và nó càng hút được nhiều 
lao động sống bao nhiêu thì nó lại càng sống được nhiều bấy nhiêu". 
Mác cũng nói: "Nếu đứng về mặt kết quả của nó, tức là đứng về mặt sản 
phẩm mà xét toàn bộ quá trình thì cả tư liệu lao động lẫn đối tượng lao 
động đều biểu hiện ra là tư liệu sản xuất, còn bản thân lao động thì biểu 
hiện ra là lao động sản xuất". 
Mác đã đề cập đến vai trò của lao động quản lý trong quá trình tạo 
ra giá tr ị khi nói về nền sản xuất xã hội hoá: Nền sản xuất xã hội hoá 
được ví như một dàn hợp xướng, nếu dàn hợp xướng cần phải có vai trò 
điều khiển của người nhạc trưởng thì trong công nghiệp phaỉ có những 
"sĩ quan công nghiệp và hạ sĩ quan". Nếu nhà tư bản là nhà quản lý thì 
lao động của họ trực tiếp tạo ra giá trị thặng dư, thu nhập của họ từ 
khoản này là một bộ phận nằm trong tư bản khả biến tức tiền công. 
Trên thực tế thì nhà tư bản không trực tiếp quản lý sản xuất nhưng vẫn 
có thu nhập cao trong khi những người công nhân trực tiếp tạo ra của 
cải vật chất lại được hưởng một phần giá trị thặng dư rất nhỏ. 
Như vậy, học thuyết giá trị thặng dư nhằm nghiên cứu quy luật vận 
động của xã hội tư bản, nó có ý nghĩa vạch trần bản chất bóc lột của 
chế độ tư bản, vạch rõ mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư 
sản là mâu thuẫn đối kháng, không thể điều hoà. 
Kết thúc vấn đề 
Nhờ hai phát kiến vĩ đại đó của Mác và Ănghen mà sau này Lênin 
đã thừa kế và phát huy, lãnh đạo nhân dân lao động và giai cấp công 
nhân đứng lên lật đổ chế độ Nga hoàng và mở ra một thời kỳ mới, một 
kỷ nguyên mới, một hình thái xã hội mới: Xã hội chủ nghĩa. 
Từ một kiểu nhà nước XHCN không tưởng trở thành hiện thực là 
do hai phát kiến vĩ đại của Mác - Anghen là chủ nghĩa duy vật lịch sử 
và học thuyết giá tr ị thặng dư.
Mở đầu 
Gia đình là một xã hội thu nhỏ, vậy đặc biệt nó có tác dụng rất quan trọng đối 
với sự phát triển của xã hội và Anghen chỉ rõ "Theo quan điểm duy vật thì nhân tố 
quyết định trong lịch sử, và qui cho đến cùng thì gia định là cái nôi để trực tiếp sản 
xuất và tái sản xuất ra đời sống trực tiếp nhưng bản thân nó lai có hai loại: 
Loại một: Sản xuất ra sản phẩm tiêu dùng, loại hai là sản xuất ra ngay con 
người và là tồn tại và phát triển ra con người. Một là trình độ phát triển của gia đình, 
hai là trình độ phát triển của lao động. Theo lời của Cố Tổng bí thư Lê Duẩn cũng 
viết "Gia đình là một tế bào tự nhiên của xã hội là một hình thức tồn tại của đời sống 
con người không có con người để tái sản xuất thì xã hội không thể tồn tại và phát 
triển được. 
Vì những lý do trên cộng với mối liên hệ của chính bản thân xét thấy tầm quan 
trọng của nó em xin được trình bày "Gia đình quyết định sự tồn tại và phát triển 
của xã hội". 
Nội dung 
Trong các chế độ khác nhau, vị trí gia đình có các biểu hiện khác nhau. ở xã hội 
có giai cấp vị trí và tác dụng của xã hội với gia đình bị hạn chế, nhưng ở XHCN gia 
đình là tế bào có tác dụng kích hoạt xã hội phát triển. 
I. Mối quan hệ cá nhân và gia đình xã hội. 
Và trong lịch gia đình và các hình thức gia đình phát triển từ thấp đến cao do sự 
tác động của điều kiện kinh tế xã hội cụ thể, đồng thời gia đình còn chịu tác động 
mạnh của chính trị, văn hoá, đạo đức, tôn giáo. Mác chỉ rõ tôn giáo gia đình nhà 
nước, pháp quyền, đạo đức, khoa học v.v... chỉ là một quá trình hình thức đặc thù của 
nhà nước phục tùng những qui luật chung của sản xuất. 
Cá nhân, gia đình và xã hội có mối quan hệ hữu cơ và gia đình là khâu trung 
gian, cá nhân là thành viên của xã hội nhưng trước tiên phải là thành viên của xã hội 
nhưng trước tiên phải là thành viên của mỗi gia đình và do gia đình nuôi dưỡng, bảo 
vệ, và giáo dục, gia đình, gần với đời sống hạnh phúc của cá nhân và là đơn vị nhỏ 
nhất của xã hội và là hạt nhân của xã hôị. Và khi con người mới cải tiến khác đầu tiên 
thì việc đầu tiên tiếp xúc với người mẹ, người cha và những thành viên khác vì vậy 
xấu, tốt một phần ảnh hưởng của từng gia đình, khi mới sinh ra trẻ nhỏ đối với các đồ 
vật, sinh vật. Xung quanh đều rất là và dần dần cũng nắm bớt được những điều hay 
hoặc xuất rất nhanh, tỉ lệ cao cho những gia đình có sự giáo dục tốt. 
Dưới chủ nghĩa xã hội thì việc lợi ích của mỗi cá nhân, gia đình và xã hội là có 
sự đồng nhất và cả 3 có mối quan hệ biện chứng thúc đẩy nhau cùng tương hỗ để 
phát triển, xây dựng đúng đắn mối quan hệ giữa cá nhân gia đình và xã hội. Cần phải 
gác bỏ gia đình là việc riêng không liên quan mật thiết với nhau và không cho rằng 
quan tâm đến gia đình là biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân là tiểu tư sản ... Nhưng 
cũng tránh tình trạng vì lợi ích của gia đình mà quên đi nghĩa vụ của một công dân. 
II. Chức năng của gia đình dưới CNXH. 
1. Tái sản xuất là nguồn lao động mới cho xã hội. 
Gia đình có nhiệm vụ tái sản xuất ra con người đó là nguồn lao động mới để 
xây dựng và phát triển kinh tế củng cố quốc phòng và bảo đảm an ninh trật tự... và 
gia đình dưới CNXH đảm bảo cho con cái sinh ra trong mỗi gia đình mưu cầu được 
nuôi dưỡng, có kiến thức, có sức khoẻ, đạo đức để trưởng thành là những người có 
ích cho xã hội. 
2. Tổ chức đời sống gia đình đảm bảo gia đình hạnh phúc. 
Gia đình là một đơn vị kinh tế - tiêu dùng lâu dài gắn bó mật thiết với xã hội. 
Xuất phát từ mục đích XHCN nhà nước chuyên chính vô sản tuỳ theo trình độ phát 
triển của sản xuất mà thực hiện các chế độ chính sách phân phối nhằm thoả mãn nhu 
cầu của đời sống người lao động. Gia đình phải có nhiệm vụ tổ chức tốt đời sống cho 
mỗi thành viên trong gia đình nhằm góp phần tăng năng suất lao động xã hội. 
3. Nuôi dạy thế hệ trẻ và xây dựng con người mới. 
Nuôi dưỡng và giáo dục con cái theo yêu cầu của chế độ mới cũng như là một 
chức năng quan trọng của gia đình dưới chế độ XHCN. Hồ Chủ tịch chỉ rõ "vì lợi ích 
mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người". 
Trong thời gian trẻ nhỏ phần lớn thời gian sống trong gia đình chịu ảnh hưởng 
nếp sống và sự giáo dục tình thương yêu cha mẹ là điều kiện tốt để giáo dục con trẻ. 
4. Sự tiến bộ của gia đình gắn với bước phát triển của sự cải tạo XHCN. 
 Dưới XHCN gia đình mật thiết với xã hội cuộc đấu tranh để cải tạo các quan hệ 
gia đình cũ và xây dựng gia đình mới là một quá trình gắn liền với công cuộc cải tạo 
XHCN và xây dựng XHCN, sự phát triển của một giai đoạn lịch sử là nhân tố quyết 
định tính chất kết cấu của gia đình, vì vậy để xây dựng gia đình mới trước hết phải 
đẩy mạnh công cuộc cải tạo các thành phần kinh tế cá thể, làm cho gia đình không 
còn là đơn vị kinh tế riêng lẻ đó là yêu cầu đầu tiên rất quan trọng để xây dựng gia 
đình mới, nếu không thì hậu quả vợ hoặc chồng giữa bố và mẹ và con cái trong gia 
đình còn là nơi ẩn náu những tiêu cực ích kỷ hẹp hòi cản trở sự tiến bộ của xã hội. 
Xây dựng gia đình dưới XHCN phải gắn liền với công cuộc xây dựng và phát 
triển nền công nghiệp, xây dựng cơ sở vật chất ... vì sản xuất có phát triển mới có 
điều kiện phát triển tăng cường phúc lợi tập thể. 
Nâng cao trình độ năng lực của người phụ nữ, thực hiện triệt để sự nghiệp giải 
phóng người phụ nữ để cho mối quan hệ được bình đẳng, mặt khác chúng ta thấy rõ 
cuộc đấu tranh để xây dựng gia đình mới phải kết hợp chặt chẽ với cuộc cách mạng 
về tư tưởng và văn hoá, ý thức tư tưởng vốn mang tính bảo thủ so với sự phát triển 
của điều kiện kinh tế - xã hội để xây dựng gia đình mới. Cùng với cuộc cải tạo và 
phát triển kinh tế phải coi trọng công tác tư tưởng, công tác phát triển văn hoá chống 
những tư tưởng cũ về luật hôn nhân và gia đình. 
ở nước ta cuộc cách mạng XHCN đã tạo ra những điều kiện cơ bản về luật hôn 
nhân và xây dựng gia đình đã nêu trên. Những người cộng sản quant âm đến việc xây 
dựng hạnh phúc gia đình làm cho toàn dân vì đó cũng là mục đích đấu tranh vì lý 
tưởng của con người cộng sản, đồng thời có xây dựng một gia đình tốt mới có thể 
xây dựng một xã hội tốt. Hồ Chủ Tịch nói "Rất quan tâm đến gia đình là đúng, vì 
nhiều gia đình cộng lại mới thành xã hội tốt, gia đình càng tốt, xã hội càng tốt". 
Kết luận 
Gia đình coi là tế bào của xã hội nó là nhân tố tích cực thúc đẩy sự phát triển 
của xã hội thông qua việc thực hiện các chức năng tái sản xuất ra con người, tái sản 
xuất ra sức lao động nhằm đáp ứng cho con người nhu cầu trong mỗi gia đình và xã 
hội, hơn thế nữa gia đình còn phát huy và truyền thụ giá trị bản sắc dân tộc tinh thần 
xuyên suốt và một xã hội có phát triển hay không được phản ánh trực tiếp vào từng 
thành viên trong mỗi gia đình. 
Tài liệu tham khảo 
1. Các Mác, Ănghen: tuyển tập tập II Nhà nước bản sự thật, Hà Nội 1971. 
2. Lê Duẩn vai trò nhiệm vụ của người phụ nữ Việt Nam trong giai đoạn mới 
của cách mạng, Nhà xuất bản sự thật 1974. 
3. Các Mác bản thảo kinh tế - triết học năm 1844, Nhà xuất bản sự thật Hà Nội 
1962. 
4. Hồ Chí Minh tuyển tập, Nhà xuất bản sự thật năm 1960. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 LUẬN VĂN- Gia đình quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội.pdf LUẬN VĂN- Gia đình quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội.pdf