Luận văn Giai cấp công nhân thành phố Hồ Chí Minh hiện nay, thực trạng và giải pháp phát triển

Tuy nhiên, sự phát triển của giai cấp công nhân Thành phố hiện nay vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập kinh tế quốc tế cả về số lượng và chất lượng. Ở Thành phố hiện đang thiếu trầm trọng các chuyên gia kỹ thuật, công nhân lành nghề nhưng lại thừa số lượng lớn lao động chưa qua đào tạo ở hầu hết các ngành, các thành phần kinh tế; tác phong công nghiệp và kỷ luật lao động của công nhân còn nhiều hạn chế, trình độ giác ngộ giai cấp và bản lĩnh chính trị của công nhân không đồng đều, có một bộ phận công nhân chưa hiểu hết về vai trò, sứ mệnh lịch sử của giai cấp mình; ít hiểu biết về chính sách, pháp luật. Tỷ lệ đảng viên xuất thân từ công nhân còn thấp. Một bộ phận công nhân chưa thiết tha phấn đấu vào Đảng và không hăng hái tham gia hoạt động trong các đoàn thể chính trị - xã hội. Việc làm và đời sống của công nhân còn nhiều khó khăn, bức xúc. Nguyên nhân cơ bản của thực trạng này là do chủ trương, đường lối lãnh đạo của Đảng đối với việc xây dựng giai cấp công nhân chưa thực sự đi vào cuộc sống, chưa ngang tầm với vị trí, vai trò của giai cấp công nhân trong thời kỳ đổi mới. Nhà nước tuy đã ban hành nhiều chính sách pháp luật chăm lo đến việc làm, đời sống, đào tạo nghề cho công nhân, nhưng việc tổ chức thực hiện chưa được tốt; còn nhiều hạn chế, yếu kém trong việc bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng của giai cấp công nhân. Bản thân giai cấp công nhân đã có nhiều nỗ lực vươn lên nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Trình độ chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp, tác phong lao động của công nhân chưa đáp ứng được yêu cầu, chưa chấp hành tốt quy trình, quy định trong sản xuất; tổ chức công đoàn và các tổ chức chính trị - xã hội khác chưa tập hợp được đông đảo công nhân, lao động để bồi dưỡng, giáo dục, rèn luyện về ý chí chính trị, ý thức pháp luật, đạo đức, lối sống. Các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế còn nhiều vi phạm về chính sách, pháp luật đối với người lao động, chưa tạo điều cho công nhân học tập, nâng cao trình độ nghề nghiệp. Với mong muốn xây dựng Thành phố Hồ Chí Minh trở thành Thành phố văn minh, hiện đại với vai trò đô thị đặc biệt, đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hoá,73 hiện đại hoá, đóng góp ngày càng lớn cho khu vực và cả nước; từng bước trở thành trung tâm lớn về kinh tế, tài chính, thương mại, khoa học – công nghệ của đất nước và khu vực Đông Nam Á; góp phần tích cực đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020, Thành phố Hồ Chí Minh cần tập trung thực hiện tốt những nhóm giải pháp cơ bản, như nâng cao chất lượng đào tạo trình độ chuyên môn, tay nghề; cải thiện đời sống vật chất và tinh thần; nâng cao ý thức chính trị, ý thức pháp luật cho công nhân. Bên cạnh đó, cần điều chỉnh cơ chế hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội để có thể đáp ứng điều kiện hiện nay. Giai cấp công nhân là một bộ phận không thể thiếu trong cơ cấu chính trị, xã hội của Thành phố Hồ Chí Minh, xây dựng và phát triển giai cấp công nhân chính là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng mà toàn hệ thống chính trị Thành phố đang hướng tới. Với sự quan tâm sâu sắc và bằng các giải pháp phù hợp, thời gian tới giai cấp công nhân Thành phố Hồ Chí Minh sẽ có bước phát triển mạnh mẽ, đủ sức thực hiện sứ mệnh lịch sử giao phó.

pdf85 trang | Chia sẻ: yenxoi77 | Lượt xem: 1031 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giai cấp công nhân thành phố Hồ Chí Minh hiện nay, thực trạng và giải pháp phát triển, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đang là vấn đề đặt ra cần được quan tâm giải quyết. Một là, nhận thức về pháp luật của một bộ phận công nhân chưa cao Thực trạng xây dựng giai cấp công nhân ở Thành phố Hồ Chí Minh cho thấy. Việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật còn nặng hình thức, nội dung, cách thức truyền tải khô cứng, khó tiếp thu với các đối tượng công nhân. Kinh phí dành cho công tác này còn eo hẹp, đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên còn thiếu và yếu. Thực tế chứng minh, khi công nhân không nắm được các chủ trương, pháp luật của Đảng và Nhà nước, sẽ không thể tự bảo vệ được lợi ích của bản thân, đừng nói đến việc thực hiện vai trò giám sát quá trình thực thi pháp luật tại doanh nghiệp. Vụ việc công nhân các khu công nghiệp ở Bình Dương và Thành phố Hồ Chí Minh phản đối Trung Quốc hạ đặt giàn khoan trong vùng biển Việt Nam, hiện tượng cá chết tại các tỉnh miền Trung, Dự thảo Luật Đặc khu bị kẻ xấu kích động thành vụ gây rối, làm mất trật tự, an ninh xã hội, cho thấy trình độ hiểu biết pháp luật của công nhân còn là khoảng trống lớn. Thời gian tới, tổ chức cơ sở Đảng, Công đoàn cơ sở cần làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục ý thức pháp luật cho giai cấp công nhân. Bởi xét đến cùng, có hiểu biết pháp luật công nhân mới nhận ra pháp luật chính là vũ khí cao nhất bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình và tự giác chấp hành pháp luật. Hai là, ý thức giác ngộ giai cấp của một bộ phận công nhân chưa cao Mặc dù trong thời gian qua, Đảng bộ và chính quyền Thành phố đã rất chú trọng đến công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng cho giai cấp công nhân với nhiều biện pháp và hình thức khác nhau, bước đầu đã có những chuyển biến tích cực, phần lớn giai cấp công nhân ở Thành phố Hồ Chí Minh ý thức được địa vị và vai trò sứ mệnh lịch sử của mình. Tuy nhiên, so với mục tiêu và yêu cầu nhiệm vụ đặt ra đối với công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho công nhân trong điều kiện 56 hiện nay thì những kết quả đạt được còn hết sức hạn chế, công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng cho công nhân lao động chưa thực sự đi vào thực chất của cuộc sống. Một bộ phận công nhân thờ ơ với các vấn đề chính trị, tư tưởng, coi đây là nhiệm vụ của các tổ chức cơ sở Đảng, công đoàn cơ sở chứ không phải của mình. Tự tách mình ra khỏi sứ mệnh lịch sử của giai cấp. Tâm lý này được thể hiện rõ ở phong cách làm việc, chỉ chú trọng đến công việc, làm trọn phận sự, thụ động và ít quan tâm đến các lĩnh vực chính trị - xã hội. Trong khi đó, công tác giáo dục chính trị cho công nhân chưa bám sát thực tiễn những vấn đề chính trị, xã hội trong nước và quốc tế, chậm đổi mới nội dung, phương pháp giáo dục; đội ngũ làm công tác giáo dục chính trị, tư tưởng còn hạn chế cả về số lượng và chất lượng, dẫn đến thiếu sức hút đối với công nhân lao động. Trong hợp tác đầu tư, chỉ tập trung cho phát triển kinh tế, còn công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho giai cấp công nhân chưa được chú trọng. Công tác tuyên truyền, vận động doanh nghiệp tích cực tham gia và tạo điều kiện cho các hoạt động chính trị - xã hội của công nhân còn nhiều hạn chế. Thứ tư, hiệu quả hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội ở một số doanh nghiệp chưa theo kịp với yêu cầu phát triển của giai cấp công nhân Mặc dù Đảng bộ và Chính quyền ở Thành phố Hồ Chí Minh đã kiên trì trong nhiều năm để xây dựng các tổ chức chính trị - xã hội tại các loại hình doanh nghiệp, nhưng nhìn chung các tổ chức này mới ở bước xây dựng tổ chức và hoạt động trong điều kiện khó khăn. Tổ chức Đảng, đoàn thể ở các doanh nghiệp ngoài nhà nước còn rất mỏng, chưa được các chủ doanh nghiệp ủng hộ. Trong các doanh nghiệp nhà nước, nhiều nơi vai trò của các tổ chức này còn mờ nhạt và thiếu nội dung mang tính định hướng chính trị cho công nhân. Nhìn vào báo cáo hoạt động của tổ chức Đảng, Công đoàn, Đoàn Thanh niên, điểm dễ thấy là các hoạt động bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp; chăm lo vật chất và tinh thần cho công nhân được tổ chức khá tốt. Điều quan trong nhất hiện nay là sự trưởng thành về mọi mặt và sự tham gia một cách toàn diện vào đời sống chính trị đất nước của giai cấp công nhân, chứ không phải chỉ cải thiện trong đời sống hiện tại. Nếu dừng lại với các mục tiêu trước mắt 57 này, phong trào công nhân không thể đạt tới mục tiêu chính trị. Xây dựng giai cấp công nhân là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và bản thân giai cấp công nhân. Các chủ doanh nghiệp cũng phải coi sự phát triển giai cấp công nhân là nhân tố sống còn của mình, phải thực sự nhập cuộc. Vì vậy, những nội dung và giải pháp xây dựng giai cấp công nhân trong thời gian tới cần làm tốt hơn nữa việc phát huy nội lực của người công nhân. Trong đó, vai trò của Công đoàn, nhất là tổ chức Đảng Cộng sản và Đoàn thành niên phải trở thành trung tâm đoàn kết, tập hợp công nhân, định hướng chính trị, đưa lý luận Mác-Lênin từng bước thâm nhập mạnh mẽ và sâu rộng trong hàng ngũ công nhân và trở thành vũ khí tinh thần của giai cấp, trở thành sức mạnh nội lực để phát triển giai cấp công nhân. Tiểu kết Chƣơng 2 Giai cấp công nhân Thành phố Hồ Chí Minh là một lực lượng xã hội to lớn, phân bố trong tất cả các thành phần và các ngành, lĩnh vực kinh tế của Thành phố. Cùng với sự phát triển của quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, giai cấp công nhân tại đây không ngừng tăng lên về số lượng và chất lượng, đang hàng ngày, hàng giờ lao động sản xuất tạo ra của cải vật chất đóng góp vào sự phát triển của Thành phố. Được sự quan tâm của Đảng bộ và Chính quyền Thành phố, nhất là khi Nghị quyết hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khoá X về “tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước” giai cấp công nhân Thành phố được cải thiện, nâng cao trình độ học vấn, tay nghề, điều kiện làm việc, chất lượng sống, trình độ nhận thức chính trị Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, giai cấp công nhân Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay vẫn còn tồn tại một số hạn chế, đó là mặc dù có sự phát triển về số lượng và trình độ học vấn, tay nghề nhưng sự phát triển này thực sự vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu nhân lực của Thành phố, nhất là các ngành công nghiệp có hàm lượng tri thức cao; bên cạnh bộ phận công nhân trí thức có thu nhập cao, đời sống ổn định thì vẫn còn một bộ phận lớn công nhân Thành phố đang phải cố gắng xoay sở với cuộc sống khó khăn vì thu nhập thấp. Cùng với đó, trình độ nhận thức chính trị của giai cấp công nhân chưa được cải thiện nhiều, hoạt động của các tổ chức 58 chính trị - xã hội trong công nhân cũng chưa được quan tâm đáng kể nên chưa phát huy được hiệu quả tốt nhất. Từ thực trạng, nguyên nhân và những vấn đề đặt ra đối với giai cấp công nhân Thành phố hiện nay, cần xây dựng những giải pháp cơ bản, đồng bộ để tạo điều kiện cho giai cấp công nhân tại đây phát triển, từng bước cải thiện toàn diện chất lượng cuộc sống, trình độ tay nghề, trình độ nhận thức đáp ứng được yêu cầu của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế. 59 Chƣơng 3 PHƢƠNG HƢỚNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP CƠ BẢN PHÁT TRIỂN GIAI CẤP CÔNG NHÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 3.1. Phƣơng hƣớng xây dựng giai cấp công nhân Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay 3.1.1. Phương hướng phát triển kinh tế - xã hội Thành phố Hồ Chí Minh Thành phố Hồ Chí Minh là đô thị đặc biệt, một trung tâm lớn về kinh tế, văn hóa, giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ, đầu mối giao lưu và hội nhập quốc tế, là đầu tàu có sức thu hút và sức lan tỏa lớn của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, có vị trí chính trị quan trọng của cả nước. Sau hơn 30 năm đổi mới và gần 10 năm thực hiện Nghị quyết 20-NQ/TW của Bộ Chính trị, thành phố Hồ Chí Minh đạt được những thành tựu to lớn, toàn diện, tạo sự chuyển biến căn bản trong đời sống xã hội, góp phần rất quan trọng vào thành tựu chung của vùng và cả nước. Để tiếp tục phát huy tiềm năng, thế mạnh, vị trí chiến lược của mình. Thành phố Hồ Chí Minh đã xây dựng phương hướng phát triển kinh tế - xã hội Thành phố đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2025 cơ bản như sau: Từ nay đến năm 2020, trên cơ sở vận dụng sáng tạo Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, Nghị quyết Đại hội X của Đảng bộ, thành phố tiếp tục phát huy truyền thống cách mạng vẻ vang, kiên định con đường xã hội chủ nghĩa, nỗ lực phấn đấu, chủ động nắm bắt thời cơ, vượt qua thách thức, giữ vững ổn định chính trị - xã hội, cơ cấu lại nền kinh tế, xây dựng đồng bộ kết cấu hạ tầng, phát triển thành phố nhanh và bền vững với chất lượng và tốc độ cao hơn mức bình quân chung của cả nước; không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, bảo đảm an ninh, quốc phòng. Xây dựng thành phố Hồ Chí Minh văn minh, hiện đại với vai trò đô thị đặc biệt, đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đóng góp ngày càng lớn với khu vực và cả nước; từng bước trở thành trung tâm lớn về kinh tế, tài chính, thương mại, khoa học - công nghệ của đất nước và khu vực Đông Nam Á; góp phần tích cực đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020. Trong đó, Thành phố tập trung một số nhiệm vụ trọng điểm: 60 Khai thác tốt nhất tiềm năng, lợi thế, phát triển kinh tế nhanh, bền vững, gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại, nâng cao chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh; phấn đấu tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm nội địa (GDP) bình quân thời kỳ 2011 - 2020 cao hơn 1,5 lần mức tăng trưởng bình quân của cả nước; GDP bình quân đầu người cuối năm 2020 đạt khoảng 8.500 USD; Tốc độ tăng trưởng GDP khu vực công nghiệp - xây dựng giai đoạn 2016 - 2020 đạt bình quân 8,7%/năm và giai đoạn 2021 - 2025 đạt bình quân 8,5%/năm. Tiếp tục thực hiện Bảy chương trình đột phá: Chương trình nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; Chương trình cải cách hành chính; Chương trình nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng lực cạnh tranh của kinh tế thành phố đáp ứng yêu cầu hội nhập; Chương trình giảm ùn tắc giao thông, giảm tai nạn giao thông; Chương trình giảm ngập nước; Chương trình giảm ô nhiễm môi trường; Chương trình chỉnh trang và phát triển đô thị. Đẩy mạnh và có những ưu đãi nhằm khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào 9 nhóm ngành ưu tiên phát triển gồm: Tài chính, tín dụng, ngân hàng, bảo hiểm; thương mại; vận tải, kho bãi, dịch vụ cảng, hậu cần hàng hải và xuất nhập khẩu; bưu chính – viễn thông và công nghệ thông tin – truyền thông; kinh doanh tài sản – bất động sản; dịch vụ thông tin tư vấn, khoa học – công nghệ; du lịch; y tế; giáo dục – đào tạo. Tập trung phát triển 4 ngành công nghiệp có hàm lượng khoa học - công nghệ và giá trị gia tăng cao (cơ khí; điện tử - công nghệ thông tin; hóa dược - cao su; chế biến tinh lương thực, thực phẩm) và các ngành công nghệ sinh học, công nghiệp sạch, tiết kiệm năng lượng; phát triển công nghiệp thời trang ngành dệt may - da giày, công nghiệp thiết kế; chuyển dần từ hoạt động gia công lắp ráp sang hoạt động sản xuất. 3.1.2. Phương hướng xây dựng giai cấp công nhân Thành phố Hồ Chí Minh Để giai cấp công nhân tiếp tục phát triển, thực hiện thắng lợi phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội Thành phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay, Đảng bộ và Chính quyền Thành phố xác định phương hướng xây dựng giai cấp công nhân với các nội dung cơ bản sau: 61 Xây dựng giai cấp công nhân Thành phố lớn mạnh, có giác ngộ giai cấp và bản lĩnh chính trị vững vàng; có ý thức công dân, yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, tiêu biểu cho tinh hoa văn hóa của dân tộc; nhạy bén và vững vàng trước những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới và những biến đổi của tình hình trong nước; có tinh thần đoàn kết dân tộc, đoàn kết hợp tác quốc tế; ngày càng được trí thức hóa, đáp ứng yêu cầu “xây dựng thành phố Hồ Chí Minh đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển nhanh và bền vững, trở thành một thành phố xã hội chủ nghĩa văn minh, hiện đại, một trung tâm lớn về nhiều mặt của đất nước và có tầm cỡ ở khu vực Đông Nam Á”; năng động, sáng tạo, nghĩa tình, nòng cốt trong khối liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng; thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt Nam; đa số các doanh nghiệp đều có tổ chức cơ sở Đảng, Công đoàn, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam. Đẩy mạnh công tác đào tạo trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, nhất là đào tạo nghề. Tập trung đào tạo các ngành kinh tế mũi nhọn như cơ khí chế tạo, điện tử - viễn thông - tin học, công nghiệp hóa chất và dược phẩm, chế biến lương thực - thực phẩm; đáp ứng được nhu cầu của sản xuất công nghiệp, phát triển công nghiệp công nghệ cao. Tập trung giải quyết kịp thời, hiệu quả những bức xúc của công nhân về việc làm và thu nhập, nhà ở, điều kiện chăm sóc sức khỏe, cơ sở nuôi dạy trẻ, nơi sinh hoạt văn hóa; hạn chế đến mức thấp nhất những vi phạm chính sách, pháp luật của các doanh nghiệp và người sử dụng lao động đối với người lao động. Xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định, tiến bộ trong các loại hình doanh nghiệp; hạn chế đến mức thấp nhất tình trạng ngưng việc trái pháp luật. Xây dựng nội dung, chương trình bồi dưỡng chính trị và phương thức tổ chức học tập phù hợp với trình độ, điều kiện làm việc của công nhân, nhằm nâng cao giác ngộ giai cấp, bản lĩnh chính trị, hiểu biết pháp luật, tác phong công nghiệp và kỷ luật lao động, xây dựng lối sống lành mạnh trong công nhân, nhất là công nhân trẻ. 62 Tăng tỷ lệ đảng viên là công nhân trên 20% trong tổng số đảng viên kết nạp hàng năm; chú ý công nhân trực tiếp sản xuất, công nhân trong các lĩnh vực, ngành mũi nhọn, công nhân nữ, công nhân trẻ. Quan tâm đào tạo, bồi dưỡng, bố trí công nhân ưu tú trở thành cán bộ lãnh đạo, quản lý. Phấn đấu thành lập tổ chức đảng trong 100% doanh nghiệp cổ phần có vốn Nhà nước, 50% tổ chức Đảng trong doanh nghiệp tư nhân có từ 500 công nhân trở lên; thành lập tổ chức công đoàn trong 100% doanh nghiệp có đủ điều kiện; phấn đấu tăng gấp đôi tổ chức Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh trong các doanh nghiệp so với hiện nay. Nâng cao số lượng, chất lượng đoàn viên, hội viên và chất lượng hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội trong các loại hình doanh nghiệp. Với vị thế, tiềm năng của Thành phố và vai trò ngày càng quan trọng của giai cấp công nhân Thành phố hiện nay, nếu Đảng bộ và chính quyền Thành phố thực hiện đúng, đầy đủ phương hướng đưa ra, thời gian tới giai cấp công nhân Thành phố Hồ Chí Minh sẽ có bước phát triển đột phá, đóng góp vô cùng to lớn vào sự phát triển mọi mặt không chỉ của Thành phố mà của cả nước nói chung. 3.2. Những giải pháp cơ bản phát triển giai cấp công nhân Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay Để phát triển giai cấp công nhân ở Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố cần tập trung thực hiện các nhóm nhiệm vụ, giải pháp sau: 3.2.1. Tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân ở Thành phố Hồ Chí Minh phát triển về số lượng, chất lượng và cơ cấu, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong điều kiện cách mạng 4.0. Nghị quyết của Đảng bộ Thành phố nhiệm kỳ 2010-2015 xác định: đến năm 2020 tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề làm việc trong các thành phần kinh tế đạt 90%. Mục tiêu này đưa Thành phố Hồ Chí Minh vào nhóm các địa phương đạt tỷ lệ lao động qua đào tạo ở mức cao của cả nước. Để đạt được mục tiêu đó cần thực hiện các giải pháp sau: Thứ nhất, tập trung triển khai thực hiện 7 chương trình nhánh thuộc chương trình phát triển nguồn nhân lực của Thành phố. Phát triển và cải cách toàn diện giáo 63 dục và đào tạo từ mục tiêu, đến nội dung, phương pháp giảng dạy, tổ chức, quản lý để hướng tới một nền giáo dục chuyên nghiệp, chất lượng, hiệu quả. Thứ hai, Các cơ sở đào tạo cần nắm bắt nhu cầu lao động của xã hội để tổ chức đào tạo theo yêu cầu của thực tiễn. Đẩy mạnh xã hội hoá giáo dục chuyên nghiệp và dạy nghề, đào tạo người lao động có kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp, có năng lực thực hành nghề tương xứng với trình độ đào tạo. Thứ ba, nhận thức lại việc đào tạo cho người lao động, không chỉ là đào tạo nghề, mà còn trang bị các kiến thức pháp luật, ý thức kỷ luật, an toàn lao động, vệ sinh lao động, quyền lợi, trách nhiệm đối với doanh nghiệp; văn hoá doanh nghiệp; ý thức kỷ luật; thái độ ứng xử trong quan hệ lao động để họ phân biệt được đâu là quyền và lợi ích được pháp luật thừa nhận, đâu là lợi ích chính đáng cần phải thoả thuận thương lượng để đạt được quan hệ lao động hài hoà, hợp lý. 3.2.2. Đẩy mạnh hoạt động đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho các ngành kinh tế và dịch vụ mũi nhọn của Thành phố Thứ nhất, thực hiện các giải pháp đẩy mạnh quá trình trí thức hoá công nhân. Tăng chỉ tiêu đào tạo cho các trường dạy nghề và có chính sách hỗ trợ, khuyến khích sinh viên giỏi các ngành kỹ thuật, công nghệ, những ngành nghề mới có hàm lượng công nghệ cao, bảo đảm nhu cầu lao động chất lượng cao cho 9 ngành dịch vụ, 4 ngành công nghiệp trọng yếu, đáp ứng yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế và xuất khẩu lao động. Tăng tỷ lệ công nhân, kỹ sư tham gia các chương trình đào tạo chất lượng cao của Thành phố. Thứ hai, có chế độ, chính sách ưu đãi về lương, phụ cấp, nhà ở cũng như điều kiện làm việc cho cán bộ làm công tác nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao công nghệ đang làm việc ở các viện nghiên cứu, các khu công nghệ cao, công viên phần mềm, các chuyên gia và công nhân kỹ thuật khắc phục tình trạng bỏ việc vì cuộc sống khó khăn đang diễn ra ở các khu công nghệ cao hiện nay. Thành phố cần có chính sách bảo trợ các đề tài nghiên cứu khoa học, công nghệ mang tính ứng dụng. Tạo điều kiện về cơ sở vật chất, chính sách để phát triển nhanh các doanh nghiệp phát triển công nghệ; khuyến khích các hoạt động chuyển giao công nghệ, 64 ứng dụng các tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất; tăng cường mối quan hệ hợp tác, liên kết giữa các tổ chức khoa học, công nghệ với các cơ sở đào tạo và doanh nghiệp. Thứ ba, tiếp tục đầu tư xây dựng đội ngũ cán bộ khoa học – kỹ thuật có trình độ cao phục vụ cho các ngành kinh tế trọng điểm, khu công nghệ cao, viện khoa học công nghệ và giảng dạy tại các trường đại học. Có chế độ đãi ngộ xứng đáng, thu hút các chuyên gia, nhà khoa học trong và ngoài nước làm việc trong các cơ sở nghiên cứu, sáng tạo, ứng dụng công nghệ mới. Thứ tư, xây dựng một hệ chuẩn nguồn nhân lực cho các ngành kinh tế, trước hết là những ngành được xác định là mũi nhọn đột phá của thành phố. Đó là 4 ngành công nghiệp có hàm lượng khoa học – công nghệ và giá trị tăng cao; 9 nhóm ngành dịch vụ, trong đó đặc biệt có ngành: thương mại quốc tế, tài chính – tín dụng - ngân hàng, dịch vụ cảng – kho bãi – hậu cần hàng hải và xuất nhập khẩu, vận tải đa phương thức, du lịch. Hệ chuẩn này sẽ xác định và xây dựng những tiêu chí phải đạt được về trình độ, tay nghề, kỹ năng, phẩm chất cho người lao động, làm căn cứ để xây dựng đội ngũ công nhân. Từ đó, phát triển hệ thống đào tạo nghề theo những tiêu chí được xác định. Có như vậy chúng ta mới thực hiện được được chủ trương xã hội hoá hoạt động dạy nghề, gắn kết hoạt động đào tạo nghề với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. 3.2.3. Tạo chuyển biến căn bản nâng cao chất lượng cuộc sống cho giai cấp công nhân Thành phố Đời sống vật chất, tinh thần hiện còn nhiều khó khăn đã và đang cản trở lớn cho sự phát triển toàn diện của giai cấp công nhân ở Thành phố Hồ Chí Minh. Việc luôn phải đối phó với những khó khăn đời sống thường nhật, thu nhập không có tích luỹ, đời sống tinh thần nghèo nàn đang làm mất dần nội lực vươn lên của giai cấp công nhân. Vì vậy, giải pháp nâng cao chất lượng cuộc sống cho giai cấp công nhân phải có vị trí quan trọng trong những nỗ lực xây dựng giai cấp công nhân. Cụ thể: Thứ nhất, nâng cao trách nhiệm của các bên có quan hệ lao động nhằm tạo chuyển biến căn bản nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho giai cấp công nhân. 65 Chất lượng cuộc sống của giai cấp công nhân phụ thuộc phần lớn vào thu nhập, chế độ lương thưởng và phúc lợi xã hội. Vì vậy, để tạo chuyển biến căn bản nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho giai cấp công nhân, thì ba chủ thể trong quan hệ lao động: doanh nghiệp, người lao động và nhà nước có vai trò quan trọng. Trong đó, doanh nghiệp và công nhân là hai chủ thể có vai trò trực tiếp để cải thiện chất lượng cuộc sống và việc làm cho công nhân, nhà nước đóng vai trò là trọng tài, bảo đảm môi trường pháp lý thuận lợi cho quan hệ lao động giữa doanh nghiệp và người lao động diễn ra thuận lợi. Cụ thể: Về phía doanh nghiệp. Xây dựng, đăng ký và thực hiện thang, bảng lương theo quy định hiện hành; Bảo đảm an toàn và vệ sinh lao động theo đúng pháp luật; Chủ động xây dựng quan hệ lao động lành mạnh. Về phía người công nhân. Không ngừng tự nâng cao trình độ tay nghề, hiểu biết pháp luật, rèn luyện kỹ năng lao động; Chấp hành kỷ luật lao động, nội quy của doanh nghiệp; Tích cực tham gia sinh hoạt tổ chức, đoàn thể; có trách nhiệm xây dựng tổ chức và coi tổ chức là người đại diện hợp pháp cho mình để đối thoại với người sử dụng lao động. Các cơ quan quản lý nhà nước. Nhà nước vừa là bà đỡ, vừa là người bảo vệ cho những giao dịch trên thị trường lao động diễn ra thuận lợi, chống lại các tác động xấu từ bên ngoài và những nguy cơ bên trong của quan hệ lao động. Để thực hiện các nhiệm vụ đó, các cơ quan này cần phải nhanh chóng rà soát, điều chỉnh những bất cập trong hệ thống pháp luật về lao động. Thứ hai, tiếp tục huy động, khuyến khích các thành phần kinh tế, các lực lượng xã hội đầu tư xây dựng nhà ở, xây dựng thiết chế văn hoá phục vụ cho công nhân, lao động. Chính quyền Thành phố cần có những chính sách ưu đãi về thuế hoặc quỹ đất đối với các doanh nghiệp đầu tư vào hệ thống hạ tầng văn hoá - xã hội, khuyến khích việc mở nhà máy, nhà trẻ, trường học, siêu thị ở các khu công nghiệp; kêu gọi xã hội hoá đầu tư nhà ở cho công nhân nhằm hình thành những làng công nhân, hoặc chung cư công nhân thay thế các khu nhà trọ tự phát, không đảm bảo điều kiện sinh hoạt vật chất, tinh thần cho công nhân. 66 3.2.4. Tiếp tục củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội trong công nhân - lao động. Kiên trì xây dựng và kiện toàn hệ thống chính trị trong các doanh nghiệp, làm tốt công tác tập hợp, giáo dục quần chúng công nhân, giám sát tình hình thực hiện chính sách và kịp thời can thiệp trong các trường hợp quyền lợi của công nhân bị vi phạm thông qua hệ thống chính trị trong doanh nghiệp, đẩy mạnh công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho công nhân lao động, thực hiện đúng các quy định về an toàn lao động, thực hiện tốt trách nhiệm và nghĩa vụ của mình đối với doanh nghiệp. Để làm được điều này, phải có sự phối hợp hành động của Đảng bộ, Liên đoàn lao động và Thành đoàn Thành phố Hồ Chí Minh trong việc tổ chức bộ máy, phân công đào tạo cán bộ, định hướng hoạt động cho cơ sở. Đối với tổ chức Đảng. Tiếp tục đẩy mạnh hoạt động của các tổ chức Đảng cơ sở ở các doanh nghiệp ngoài nhà nước. Cần tranh thủ sự đồng thuận của giới chủ và Ban giám đốc doanh nghiệp về sự hiện diện của các tổ chức chính trị trong doanh nghiệp. Đảng uỷ cấp trên cần hướng dẫn nội dung sinh hoạt chính trị tư tưởng hàng tháng cho các chi bộ Đảng, hỗ trợ kịp thời cho những nơi gặp khó khăn. Hỗ trợ báo cáo viên, tuyên truyền viên cho cơ sở phục vụ công tác tuyên truyền các chủ trương đường lối, chính sách pháp luật của nhà nước đến đông đảo quần chúng công nhân. Đối với tổ chức Công đoàn. Một là, tăng cường hơn nữa công tác tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ công đoàn nhằm không ngừng phát huy tính chủ động, sáng tạo của đội ngũ này; Hai là, đổi mới công tác tuyên truyền, giáo dục để nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân về giai cấp công nhân và tổ chức công đoàn, làm cho mỗi đảng viên, mỗi công dân và toàn xã hội nhận thức được giai cấp công nhân Việt Nam chính là cơ sở xã hội chủ yếu của Đảng, Nhà nước. Đối với tổ chức Đoàn thanh niên. Thứ nhất, xác định để phát triển tổ chức Đoàn trong các doanh nghiệp nhất là các doanh nghiệp ngoài nhà nước cần tiếp cận với lãnh đạo các doanh nghiệp để giới thiệu về tổ chức Đoàn. Thực tiễn những năm qua cho thấy, ở đâu lãnh đạo doanh nghiệp quan tâm tổ chức Đoàn thì ở đó phong trào Ðoàn phát triển và có nhiều đóng góp cho doanh nghiệp; Thứ hai, cần nắm bắt 67 tâm tư, nguyện vọng, đặc điểm công việc, đặc điểm tâm lý của thanh niên công nhân đang làm việc tại doanh nghiệp ngoài nhà nước để tổ chức các hoạt động phù hợp nhằm thu hút sự tham gia của họ vào tổ chức Đoàn; Thứ ba, thực hiện thường xuyên công tác khảo sát, điều tra, thống kê tình hình đoàn viên thanh niên trong các doanh nghiệp để có số liệu thống kê chính xác làm căn cứ lập kế hoạch phát triển đoàn viên và thành lập tổ chức Đoàn trong các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động trẻ. 3.2.5. Tạo chuyển biến cơ bản trong công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, nâng cao ý thức chính trị cho giai cấp công nhân Nâng cao nhận thức chính trị, ý thức giai cấp cho công nhân thực chất là quá trình hoạt động tự giác của Đảng Cộng sản, đưa hệ tư tưởng chủ nghĩa Mác-Lênin vào phong trào công nhân. Đồng thời cũng là quá trình giác ngộ của giai cấp công nhân về lý tưởng cách mạng, ý thức được vị trí, vai trò, sứ mệnh lịch sử của giai cấp mình trước Tổ quốc và dân tộc. Từ đó, đưa phong trào công nhân chuyển từ tự phát sang tự giác, tạo sự thống nhất về ý chí và hành động ngày càng vững vàng với tư cách là giai cấp lãnh đạo xã hội. Để xây dựng ý thức chính trị cho giai cấp công nhân cần chú ý các giải pháp sau: Thứ nhất, đổi mới nội dung và phương pháp giáo dục chính trị, tư tưởng cho giai cấp công nhân theo hướng đa dạng, linh hoạt và mềm dẻo với nhiều hình thức phong phú, hấp dẫn, sinh động; Thứ hai, nâng cao nhận thức của các tổ chức cơ sở Đảng và từng đảng viên trong việc lãnh đạo thực hiện công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho công nhân; Thứ ba, các tổ chức chính trị - xã hội của công nhân cần có sự liên kết, phối hợp hành động để tăng thêm hiệu quả công tác giáo dục, bảo vệ lợi ích chính đáng của công nhân, tạo sự tín nhiệm và khuyến khích công nhân tham gia tích cực các hoạt động phong trào.Bên cạnh đó, cần thuyết phục chủ doanh nghiệp về sự cần thiết xây dựng các tổ chức công nhân và tạo điều kiện cho các tổ chức này hoạt động trong doanh nghiệp. 3.2.6. Tiếp tục rà soát, bổ sung và hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật để phát triển giai cấp công nhân Thứ nhất, hoàn thiện chính sách xã hội, hệ thống dịch vụ và an sinh xã hội. 68 Đẩy mạnh việc thực hiện chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 15-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XI về một số vấn đề chính sách xã hội giai đoạn 2015-2020 trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống chính sách xã hội cho các đối tượng công nhân lao động, bảo đảm mức tối thiểu về thu nhập, giáo dục, y tế, nhà ở, nước sạch, thông tin và truyền thông. Phát triển hệ thống bảo hiểm xã hội, an sinh xã hội, góp phần bảo đảm nhu cầu sống cơ bản cho người lao động. Thứ hai, tiếp tục hoàn thiện các chính sách phát triển thị trường lao động, chấn chỉnh hoạt động các cơ quan quản lý nhà nước về quản lý lao động. Do quan hệ lao động chịu sự điều phối của chính sách quản lý nhà nước, chủ yếu hình thành trên thị trường lao động, nên việc xây dựng hệ thống pháp luật, tạo dựng hành lang pháp lý thông thoáng cho thị trường lao động vận hành là nội dung quan trọng nhất của nhà nước hiện nay, nhằm tạo lập vị thế bình đẳng cho các bên có quan hệ lao động. Bảo đảm tăng cường việc làm và an sinh xã hội cho người lao động. Như vậy, để phát triển giai cấp công nhân đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, chúng ta cần phải thực hiện một cách đồng bộ những giải pháp cơ bản nêu trên. Đây chính là cơ sở để xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam nói chung, giai cấp công nhân ở Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng ngày càng vững mạnh cả về số lượng và chất lượng, đáp ứng ngày càng cao nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong bối cảnh đổi mới và hội nhập quốc tế hiện nay. 3.3. Kiến nghị Để giai cấp công nhân Thành phố Hồ Chí Minh ngày càng phát triển, thực hiện tốt vai trò của mình trong sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, chúng tôi kiến nghị một số nội dung cơ bản sau: 3.3.1. Đối với Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Tiếp tục nghiên cứu, tổng kết thực tiễn sớm hoàn thiện khái niệm giai cấp công nhân phù hợp với tình hình phát triển của kinh tế - xã hội hiện nay. 69 3.3.2. Đối với Thành uỷ Thành phố Hồ Chí Minh Trên cơ sở tiếp thu chủ trương, đường lối của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, chỉ đạo của Chính phủ; căn cứ vào điều kiện cụ thể của Thành phố, xây dựng các chủ trương, đường lối phù hợp để phát triển giai cấp công nhân tại đây. Đồng thời lãnh đạo các Sở, Ban, Ngành, Liên đoàn Lao động Thành phố thực hiện có hiệu quả công tác xây dựng và phát triển giai cấp công nhân trên địa bàn Thành phố. 3.3.3. Đối với UBND Thành phố Hồ Chí Minh Là cơ quan thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, UBND Thành phố căn cứ điều kiện cụ thể của Thành phố, thực trạng giai cấp công nhân hiện nay xây dựng các giải pháp phát triển phù hợp, kịp thời, đồng thời đôn đốc, chỉ đạo các Sở, Ban, Ngành, UBND các cấp thực hiện nhiệm vụ liên quan được giao. 3.3.4. Đối với các Sở, Ban, ngành của Thành phố Nghiêm chỉnh thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng bộ Thành phố, chỉ đạo của Chính quyền; Căn cứ nhiệm vụ cụ thể của mình rà soát, bổ sung, đề xuất sửa đổi các chính sách, pháp luật về lao động, việc làm và đời sống vật chất, tinh thần, thể lực cho công nhân. Tập trung giải quyết những vấn đề bức xúc đang đặt ra đối với công nhân như việc làm, tiền lương; quan tâm hơn nữa vấn đề nhà ở, điều kiện lao động, bảo đảm và phát huy quyền dân chủ của công nhân trong các nhà máy, xí nghiệp, các loại hình kinh tế. 3.3.5. Đối với Liên đoàn Lao động Thành phố Là cơ quan có liên hệ trực tiếp với giai cấp công nhân, chỉ đạo các tổ chức cơ sở nắm bắt tâm tư tình cảm, nguyện vọng của giai cấp công nhân. Báo cáo tình hình, đề xuất các giải pháp, đồng thời tham mưu cho UBND Thành phố, giúp UBND đưa ra các quyết sách phù hợp. Kiện toàn tổ chức và phát huy vai trò của công đoàn trong xây dựng giai cấp công nhân hiện nay. Theo đó, công đoàn các cấp cần đổi mới mạnh mẽ về tổ chức, nội dung, phương thức hoạt động; đẩy mạnh công tác vận động, tập hợp công nhân tự giác gia nhập và tham gia hoạt động công đoàn. Các cấp công đoàn cần hướng mạnh hoạt động về cơ sở, lấy cơ sở làm địa bàn hoạt động chủ yếu, lấy lao động 70 làm đối tượng vận động, lấy chăm lo bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp chính đáng của người lao động, xây dựng quan hệ lao động hài hoà, ổn định, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội làm mục tiêu hoạt động, chú trong đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ năng lực, hiểu biết chính sách, pháp luật và bản lĩnh cán bộ công đoàn, nhất là chủ tịch công đoàn cơ sở ở các doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. 3.3.6. Đối với Sở Lao động, thương binh và xã hội Chú trọng công tác Dự báo nhu cầu nguồn nhân lực và thông tin thị trường của Thành phố. Nghiên cứu đưa ra sự báo chính xác, kịp thời để giải quyết việc làm cho người lao động, doanh nghiệp, ổn định tình hình kinh tế - xã hội của Thành phố Hồ Chí Minh. Tiểu kết Chƣơng 3 Để giai cấp công nhân Thành phố Hồ Chí Minh thực sự phát triển, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của nền kinh tế - xã hội Thành phố hiện nay, cả hệ thống chính trị cũng như mỗi công nhân tại đây phải thực hiện đồng bộ nhiều nhóm giải pháp cơ bản, cụ thể như: nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao cho các ngành công nghiệp trọng điểm, nâng cao chất lượng cuộc sống, trình độ nhận thức chính trị, pháp luật của công nhân; hiệu quả hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội Trong đó cần tập trung vào nhóm giải pháp đẩy mạnh công tác đào tạo nâng cao trình độ học vấn, tay nghề cho công nhân. Trong điều kiện cách mạng 4.0 hiện nay, tri thức nhân tạo, robot thông minh đang ngày càng phát triển và đi vào thực tiễn sản xuất, nếu giai cấp công nhân Thành phố không sớm cải thiện được trình độ học vấn, tay nghề đáp ứng yêu cầu lao động sản xuất sẽ phải đối diện với nguy cơ thất nghiệp hàng loạt, cùng với đó là các vấn đề bất ổn về kinh tế - xã hội. Đây là trách nhiệm to lớn của cả hệ thống chính trị và giai cấp công nhân ở Thành phố Hồ Chí Minh. Với quyết tâm xây dựng Thành phố trở thành đô thị hiện đại, phát triển bậc nhất của cả nước và khu vực, Thành phố sẽ sớm cải thiện vấn đề này, để giai cấp công nhân không ngừng lớn mạnh, góp sức cùng nhân dân cả nước thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. 71 KẾT LUẬN Giai cấp công nhân Việt Nam là một lực lượng xã hội to lớn, đang ngày càng phát triển. Về mặt kinh tế, giai cấp công nhân là lực lượng cơ bản, chủ yếu, có vai trò to lớn trong nền kinh tế quốc dân. Mặc dù về số lượng, giai cấp công nhân nước ta chiếm tỷ lệ không lớn trong tổng số dân cư nhưng lại nắm giữ những cơ sở vật chất và các phương tiện sản xuất vật chất hiện đại nhất của xã hội, quyết định các phương hướng phát triển chủ yếu của nền kinh tế. Giai cấp công nhân là lực lượng lao động đóng góp nhiều nhất vào ngân sách nhà nước, với khoảng 60% tổng sản phẩm xã hội và 70% ngân sách nhà nước. Về mặt xã hội, giai cấp công nhân nước ta ngày càng tăng lên cùng với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, làm nòng cốt trong việc xây dựng khối liên minh vững chắc với nông dân, trí thức và các tầng lớp lao động khác. Sự lớn mạnh của giai cấp công nhân là nhân tố quan trọng để đưa công cuộc đổi mới đi vào chiều sâu, đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Về mặt chính trị, giai cấp công nhân Việt Nam là chỗ dựa vững chắc của Đảng, Nhà nước, luôn tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, mục tiêu, lý tưởng của chủ nghĩa xã hội, kiên quyết ủng hộ công cuộc đổi mới, kiên cường phấn đấu và đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Thành phố Hồ Chí Minh là trung tâm kinh tế trọng điểm phía Nam, giữ vị trí quan trọng trong nền kinh tế - xã hội nước ta. Trong những năm qua, đóng góp rất lớn vào sự phát triển kinh tế - xã hội của cả nước. Để Thành phố có được vị trí, vai trò là đầu tàu kinh tế cả nước như hiện nay, là nhờ sự đóng góp rất lớn của giai cấp công nhân tại đây. Trong những năm gần đây giai cấp công nhân Thành phố Hồ Chí Minh đã có bước phát triển tích cực, mạnh mẽ, đang tăng dần về số lượng và chất lượng; ngày càng đa dạng về cơ cấu; là lực lượng sản xuất cơ bản đang trực tiếp tham gia vào việc tổ chức, quản lý sản xuất, kinh doanh, vận hành, sử dụng các công cụ, phương tiện sản xuất tiên tiến, hiện đại, có vai trò quan trọng là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội nhập kinh tế quốc tế. Cùng với các giai tầng khác trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc, giai cấp công nhân Thành phố đã có đóng góp lớn vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. 72 Tuy nhiên, sự phát triển của giai cấp công nhân Thành phố hiện nay vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập kinh tế quốc tế cả về số lượng và chất lượng. Ở Thành phố hiện đang thiếu trầm trọng các chuyên gia kỹ thuật, công nhân lành nghề nhưng lại thừa số lượng lớn lao động chưa qua đào tạo ở hầu hết các ngành, các thành phần kinh tế; tác phong công nghiệp và kỷ luật lao động của công nhân còn nhiều hạn chế, trình độ giác ngộ giai cấp và bản lĩnh chính trị của công nhân không đồng đều, có một bộ phận công nhân chưa hiểu hết về vai trò, sứ mệnh lịch sử của giai cấp mình; ít hiểu biết về chính sách, pháp luật. Tỷ lệ đảng viên xuất thân từ công nhân còn thấp. Một bộ phận công nhân chưa thiết tha phấn đấu vào Đảng và không hăng hái tham gia hoạt động trong các đoàn thể chính trị - xã hội. Việc làm và đời sống của công nhân còn nhiều khó khăn, bức xúc. Nguyên nhân cơ bản của thực trạng này là do chủ trương, đường lối lãnh đạo của Đảng đối với việc xây dựng giai cấp công nhân chưa thực sự đi vào cuộc sống, chưa ngang tầm với vị trí, vai trò của giai cấp công nhân trong thời kỳ đổi mới. Nhà nước tuy đã ban hành nhiều chính sách pháp luật chăm lo đến việc làm, đời sống, đào tạo nghề cho công nhân, nhưng việc tổ chức thực hiện chưa được tốt; còn nhiều hạn chế, yếu kém trong việc bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng của giai cấp công nhân. Bản thân giai cấp công nhân đã có nhiều nỗ lực vươn lên nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Trình độ chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp, tác phong lao động của công nhân chưa đáp ứng được yêu cầu, chưa chấp hành tốt quy trình, quy định trong sản xuất; tổ chức công đoàn và các tổ chức chính trị - xã hội khác chưa tập hợp được đông đảo công nhân, lao động để bồi dưỡng, giáo dục, rèn luyện về ý chí chính trị, ý thức pháp luật, đạo đức, lối sống. Các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế còn nhiều vi phạm về chính sách, pháp luật đối với người lao động, chưa tạo điều cho công nhân học tập, nâng cao trình độ nghề nghiệp. Với mong muốn xây dựng Thành phố Hồ Chí Minh trở thành Thành phố văn minh, hiện đại với vai trò đô thị đặc biệt, đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hoá, 73 hiện đại hoá, đóng góp ngày càng lớn cho khu vực và cả nước; từng bước trở thành trung tâm lớn về kinh tế, tài chính, thương mại, khoa học – công nghệ của đất nước và khu vực Đông Nam Á; góp phần tích cực đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020, Thành phố Hồ Chí Minh cần tập trung thực hiện tốt những nhóm giải pháp cơ bản, như nâng cao chất lượng đào tạo trình độ chuyên môn, tay nghề; cải thiện đời sống vật chất và tinh thần; nâng cao ý thức chính trị, ý thức pháp luật cho công nhân. Bên cạnh đó, cần điều chỉnh cơ chế hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội để có thể đáp ứng điều kiện hiện nay. Giai cấp công nhân là một bộ phận không thể thiếu trong cơ cấu chính trị, xã hội của Thành phố Hồ Chí Minh, xây dựng và phát triển giai cấp công nhân chính là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng mà toàn hệ thống chính trị Thành phố đang hướng tới. Với sự quan tâm sâu sắc và bằng các giải pháp phù hợp, thời gian tới giai cấp công nhân Thành phố Hồ Chí Minh sẽ có bước phát triển mạnh mẽ, đủ sức thực hiện sứ mệnh lịch sử giao phó. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Liên đoàn lao động Thành phố Hồ Chí Minh (2018) Báo cáo Đại hội Công đoàn Thành phố Hồ Chí Minh lần thứ XI, nhiệm kỳ 2018-2023, tháng 8 năm 2018, Thành phố Hồ Chí Minh. 2. Bộ Luật Lao động của của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2012), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 3. Hoàng Chí Bảo – Nguyễn Viết Thông – Bùi Đình Bôn (đồng chủ biên: 2010) Một số vấn đề phát triển lý luận về giai cấp công nhân Việt Nam trong điều kiện kinh tế thị trường đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế, Nxb. Lao động, Hà Nội. 4. Hoàng Chí Bảo (2008) Tư tưởng Hồ Chí Minh về giai cấp công nhân và vai trò của giai cấp công nhân đối với cách mạng Việt Nam, kỷ yếu hội thảo khoa học: xây dựng và phát triển giai cấp công nhân Việt Nam trong điều kiện hiện nay, Hà Nội. 5. Hoàng Chí Bảo (2014) Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta về vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân nói chung và giai cấp công nhân Việt Nam nói riêng. Tạp chí Phát triển nhân lực số 7, tr 7-12. 6. Bùi Đình Bôn (1999) Giai cấp công nhân Việt Nam – mấy vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb. Lao động, Hà Nội. 7. Bùi Đình Bôn (2008) Nhiệm vụ và giải pháp xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế. Tạp chí Giáo dục lý luận chính trị quân sự số 1, tr5-7. 8. Chu Văn Cấp (2012), Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao góp phần phát triển bền vững Việt Nam, Tạp chí Cộng sản số 839, tr 54-58. 9. Cục Thống kê Thành phố Hồ Chí Minh (2015) Niên giám thống kê 2015 10. Nguyễn Trọng Chuấn (2009) Xu hướng phát triển của giai cấp công nhân Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá theo hướng hiện đại và hội nhập quốc tế < quyet-Dang-va-cuoc-song/Xu-huong-phat-trien-cua-giai-cap-cong-nhan-Viet-Nam- trong-thoi-ky-day-manh-cong-nghiep-hoa-theo-huong-hien-dai-va-hoi-nhap-quoc- te-652.html> 11. Nguyễn Trọng Chuẩn (2013) Cần có nghiên cứu cơ bản về giai cấp công nhân trong tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại, tạp chí Phát triển nhân lực, số 5, tr 9-13. 12. Lê Duẫn (1975) Vai trò của giai cấp công nhân Việt Nam và nhiệm vụ công đoàn trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, Nxb. Sự thật, Hà Nội. 13. Đại học Quốc gia Hà Nội – Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn (2001), đề tài khoa học: xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước hiện nay. 14. Đại học quốc gia Hà Nội – trung tâm đào tạo, bồi dưỡng giảng viên lý luận chính trị (2010), Giai cấp công nhân Viên Nam trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 15. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 16. Đảng Cộng sản Việt Nam (2008), Văn kiện hội nghị lần thứ sáu ban Chấp hành Trương ương khoá X, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội. 17. Đảng Cộng sản Việt Nam – Ban Bí thư (2008), chỉ thị số 22-CT/TW về “Tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo việc xây dựng quan hệ lao động hài hoà, ổn định và tiến bộ trong doanh nghiệp”, Hà Nội. 18. Đảng Cộng sản Việt Nam (2012), Nghị quyết của Bộ Chính trị về phương hướng, nhiệm vụ phát triển Thành phố Hồ Chí Minh đến năm 2020. 19. Đặng Quang Điều (2012) Nhà ở của người lao động trong các khu công nghiệp, khu chế xuất – thực trạng và giải pháp, Tạp chí Tuyên giáo, số 7, tr 66-69. 20. Trần Văn Giàu (1985), giai cấp công nhân Việt Nam, Nxb. Sự Thật, Hà Nội. 21. Phạm Văn Giang (2013) Xu hướng vận động của giai cấp công nhân Việt Nam trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 22. Thu Hà (2013) xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam theo Nghị quyết 20: cần sự chung tay của các cấp, các ngành. Tap chí cộng sản, ngày 2-7-2013. 23. Nguyễn Minh Hạnh (2008), tư tưởng Mác-Ăngghen về giai cấp vô sản và vấn đề xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, tạp chí Phát triển nhân lực, số 4, tr 45-47. 24. Bùi Thị Kim Hậu (Chủ biên) (2014) Giáo trình học thuyết Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 25. Trịnh Thị Hiền (2018) Đời sống văn hóa tinh thần của đội ngũ công nhân trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh: Đôi điều suy ngẫm < hoi?p_p_id=EXT_ARTICLEVIEW&p_p_lifecycle=0&p_p_state=normal&p_p_ct= %2Fweb%2Fguest%2Fan-sinh-xa-hoi> 26. Hội đồng lý luận Trung ương (2012) đề tài nghiên cứu khoa học: vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân Việt Nam thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt nam trong thời kỳ mới. 27. Đặng Xuân Kỳ (2008) Một số vấn đề về giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay, Kỷ yếu hội thảo khoa học: xây dựng và phát triển giai cấp công nhân Việt Nam trong điều kiện hiện nay, Hà nội, tháng 1, tr 43-68. 28. Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh (2007) Khảo sát đề tài nghiên cứu khoa học: đời sống công nhân khu công nghiệp, khu chế xuất. 29. Khoa kinh tế phát triển (2001) Mối quan hệ nâng cao chất lượng lao động với giải quyết việc làm trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Học viện chính trị quốc gia, Hà Nội. 30. Lênin (1997) Toàn tập, tập 3, Nxb. Tiến bộ Matxcơva. 31. Lênin (1977) Toàn tập, tập 39, Nxb. Tiến bộ Matxcơva 32. Lênin (1978) Toàn tập, tập 44, Nxb. Tiến bộ Matxcơva 33. Liên đoàn lao động Thành phố Hồ Chí Minh (2014) Báo cáo tình hình công nhân, viên chức, lao động và hoạt động công đoàn Thành phố năm 2013, phương hướng, nhiệm vụ công tác Công đoàn năm 2014. 34. Liên đoàn lao động Thành phố Hồ Chí Minh (2015) Báo cáo tình hình công nhân, viên chức, lao động và hoạt động Công đoàn Thành phố năm 2014, phương hướng, nhiệm vụ công tác Công đoàn năm 2015. 35. Liên đoàn lao động Thành phố Hồ Chí Minh (2016) báo cáo tình hình công nhân, viên chức, lao động và hoạt động công đoàn Thành phố năm 2016, phương hướng, nhiệm vụ công tác Công đoàn 2017. 36. Trương Giang Long (2008) nhận thức rõ vị trí, vai trò của giai cấp công nhân nước ta trước vận hội và thách thức mới, kỷ yếu hội thảo khoa học: xây dựng và phát triển giai cấp công nhân Việt Nam trong điều kiện hiện nay, Hà Nội tháng 1, 2008. 37. Các Mác – Ph.Ăngghen (1995) Toàn tập, tập 2, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà nội. 38. Các Mác – Ph. Ăngghen (1995) Toàn tập, tập 4, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 39. Các Mác – Ph.Ăngghen (1995) Toàn tập, tập 19, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 40. Các Mác – Ph.Ăngghen (1993) Toàn tập, tập 22, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội. 41. Các Mác – Ph.Ăngghen (1993) Toàn tập, tập 23, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 42. Các Mác – Ph.Ăngghen (1995) Toàn tập, tập 44, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 43. Hồ Chí Minh (1996) Toàn tập, tập 1, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 44. Hồ Chí Minh (1996) toàn tập, tập 2, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 45. Hồ Chí Minh (1996) Toàn tập, tập 6, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 46. Hồ Chí Minh (1996) Toàn tập, tập 7, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 47. Hồ Chí Minh (1996) Toàn tập, tập 8, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 48. Hồ Chí Minh (1996) Toàn tập, tập 9, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 49. Hồ Chí minh (1996) Toàn tập, tập 10, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 50. Hồ Chí Minh (1996) Toàn tập, tập 11, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 51. Nguyễn An Ninh (2016) Một số nhận thức về giai cấp công nhân và chủ nghĩa xã hội được bổ sung hiện nay < nhan-thuc-ve-giai-cap-cong-nhan-va-chu-nghia.aspx>. 52. Hồng Nhung (2013) Không thích học nghề, Báo Người Lao động. 53. Vũ Đình Quân (2009), Những vấn đề đặt ra trong xây dựng lực lượng công nhân Thành phố Hồ Chí Minh, Tạp chí Cộng sản điện tử, tháng 11-2009. 54. Dương Văn Sao (2010) Giải pháp giải quyết những vấn đề bức xúc của giai cấp công nhân Việt Nam. Giai cấp công nhân Việt Nam hiện tại và xu hướng phát triển, Nxb. Lao động, Hà Nội. 55. Sở lao động Thương binh và xã hội Thành phố Hồ Chí Minh (2015) Thông báo tình hình tiền lương năm 2015 và kế hoạch thưởng tết 2016 của các doanh nghiệp hoạt động trên địa bàn Thành phố. 56. Văn Tạo (2008) Đổi mới tư duy về giai cấp công nhân – kinh tế tri thức và công nhân trí thức, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội. 57. Đặng Hữu Toàn (2013) Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020, Tạp chí Phát triển nhân lực số 3, tr 14-20. 58. Nguyễn Công Toàn (2009), Chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong các khu chế xuất, khu công nghiệp ở Thành phố Hồ Chí Minh, báo Sài Gòn giải phóng số ra ngày 14-4-2009. 59. Đặng Ngọc Tùng (2013) xây dựng đội ngũ cán bộ công đoàn vững mạnh đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới, tạp chí Cộng sản số 847, tr8-12. 60. Đặng Ngọc Tùng (2016) Tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam đáp ứng yêu cầu sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, < nhan-viet-nam-dap-ung-yeu-cau-su-nghiep-xay-dung-va-bao-ve-to- quoc/8877.html>. 61. Nguyễn Đăng Thành (chủ biên) (2008) Xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam từ thực trạng giai cấp công nhân Thành phố Hồ Chí Minh, Nxb. Chính trị quốc gia, hà nội. 62. Nguyễn Phú Trọng (2013) Phát huy vai trò to lớn của giai cấp công nhân và tổ chức công đoàn trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Tạp chí Cộng sản số 850, tr3-8. 63. Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam Viện công nhân và công đoàn (2002) Giải pháp xây dựng giai cấp công nhân Việt nam trong những nam đầu thế kỷ XXI, Nxb Lao động, Hà Nội. 64. Thành uỷ Thành phố Hồ Chí Minh (2011) tài liệu quán triệt, triển khai thực hiện Nghị quyết số 16-NQ/TW của Bộ chính trị (Khoá XI) về phương hướng, nhiệm vụ phát triển Thành phố Hồ Chí Minh đến năm 2020. 65. Trung tâm dự báo nhu cầu nhân lực và thông tin thị trường lao động Thành phố Hồ Chí Minh (2017), Báo cáo thị trường lao động năm 2016 và nhu cầu nhân lực năm 2017. 66. Uỷ ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh (2010) Quy hoạch phát triển nhân lực Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2011-2020. 67. Nguyễn Khánh Vân (2002), Luận án tiến sĩ triết học Xu hướng biến đổi của giai cấp công nhân Thành phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 68. Trần Thị Hà Vân (2015) Thành phố Hồ Chí Minh xây dựng giai cấp công nhân thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa < Kinhnghiem/2015/8717/Thanh-pho-Ho-Chi-Minh-xay-dung-giai-cap-cong-nhan- thoi.aspx>. 1 PHỤ LỤC Bảng 2.1: Trình độ chuyên môn kỹ thuật của công nhân thành phố Hồ Chí Minh 2015 (Tỷ lệ %) Năm 2011 2012 2013 2014 2015 Lao động chưa qua đào tạo 38,52 35,70 33,46 30,07 27,67 Sơ cấp nghề 23,68 25,69 24,49 25,05 25,59 Công nhân kỹ thuật lành nghề 13,44 13,89 16,21 17,38 17,74 Trung cấp 3,82 4,13 4,21 4,46 4,81 Cao đẳng 3,54 3,69 3,83 4,13 4,38 Đại học trở lên 17,00 16,90 17,80 18,91 19,81 Nguồn: Số liệu điều tra lao động việc làm của Tổng cục thống kê và tính toán của trung tâm Dự báo nhu cầu nhân lực và Thông tin thị trường lao động TP.HCM.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_van_giai_cap_cong_nhan_thanh_pho_ho_chi_minh_hien_nay_t.pdf
Luận văn liên quan