Ứng dụng CNTT sẽ giúp cho các CQNN đơn giản hóa các thủ tục hành chính,
cải tiến được cách hỡnh thức cung cấp dịch vụ công một cách có hiệu quả. Đồng thời,
góp phần nâng cao năng lực quản lý, điều hành của các cơ quan quản lý nhà nước, tăng
tính minh bạch và sự tin cậy của người dân đối với Chính phủ; từ đó, hạn chế được tệ
nạn quan liêu, tham nhũng trong hệ thống.
126 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 4034 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giải pháp đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý của chính quyền tỉnh An Giang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nh công trong cải cách hành chính ở An Giang.
Tuy vậy, theo nhận xột chung, so với cỏc tỉnh khỏc thỡ điểm mạnh cần phát
huy của An Giang là sự năng động và tiên phong của lónh đạo tỉnh; một trong
những điểm yếu là tính minh bạch và tiếp cần thông tin. Các doanh nghiệp trong
tỉnh đều có nhận xét chung là các văn bản quy phạm pháp luật do tỉnh ban hành có
liên quan đến doanh nghiệp, nhà đầu tư chưa được tham khảo ý kiến rộng rói trong
công đồng doanh nghiệp hoặc công bố trên trang web của tỉnh; mức độ tiện ích của
một số Sở, ngành, huyện không được cập nhật thường và không được đánh giá cao,
chương trỡnh đăng ký kinh doanh qua mạng và các thông tin về doanh nghiệp qua
mạng chưa có, ứng dụng CNTT trong các cơ quan nhà nước cũn yếu, … Điều này
cho thầy rừ, tuy tỉnh đó cú nhiều cải tiến đáng kể nhưng việc cải cách hành chính
chưa kết hợp được với ứng dụng CNTT để đạt được hiệu quả cao nhất.
Do đó, trong thời gian tới, để đẩy mạnh cải cách hành chính và đạt được hiệu
quả tốt hơn, An Giang cần thực hiện các giải pháp sau:
- Xõy dựng lộ trỡnh ỏp dụng hệ thống quản lý chất lượng ISO 9001:2000
vào các cơ quan chưa áp dụng hoặc chưa đạt chuẩn. Đây là biện pháp để thúc đẩy
tiến trỡnh chuẩn húa cỏc qui trỡnh thủ tục nhằm cú được một bộ máy hành chính
nhà nước hiệu lực và hiệu quả, hay nói cách khác là một bộ máy đó được chuẩn
hóa. Các nhà tư vấn về ứng dụng CNTT đều khẳng định, việc triển ứng dụng CNTT
cho một hệ thống đó được chuẩn hóa theo hệ thống quản lý chất lượng của ISO sẽ
dễ dàng thành công hơn những tổ chức khác. Vỡ thế, ỏp dụng hệ thống quản lý chất
lượng ISO 9001:2000 cho các cơ quan quản lý nhà nước cũng là một trong những
điều kiện quan trọng để ứng dụng CNTT được nhanh chóng và hiệu quả.
- Tập trung phát triển ứng dụng CNTT cho các cơ quan đó đạt Chứng chỉ
ISO 9001:2000. Vỡ đây là các hệ thống đó chuẩn húa nờn việc ứng dụng CNTT sẽ
dễ đạt hiệu quả hơn. Mặt khác, ứng dụng CNTT cũng nhằm mục đích đảm bảo cho
việc “duy trỡ” hệ thống quản lý chất lượng ISO 9001:2000 ở đơn vị được lâu dài.
- Xây dựng chính sách ưu tiên đầu tư ứng dụng CNTT cho các cơ quan đó
đạt được chứng chỉ ISO 9001:2000. Điều này vừa thúc đẩy việc cải cách hành
chính, đồng thời vừa đảm bảo cho việc đầu tư ứng dụng CNTT được hiệu quả, trỏnh
lóng phớ thời gian và chi phớ đầu tư. Bởi lẽ, nếu để cho các cơ quan tự ứng dụng
CNTT đi trước, khi áp dụng ISO 9001:2000 chắc chắn sẽ có nhiều qui trỡnh, thủ
tục, biểu mẫu bị thay đổi (thêm, bớt, đổi nội dung), … điều này sẽ dẫn đến việc đầu
tư thêm hoặc đầu tư mới cho các chương trỡnh ứng dụng đang dùng.
Cú thể núi việc triển khai hệ thống quản lý chất lượng ISO 9001:2000 và
việc triển khai ứng dụng CNTT cho các cơ quan nhà nước phải được phối hợp chặt
chẽ và đồng bộ với nhau. Đây chính các bước để thực hiện cải cách hành chính, xây
dựng nền hành chính điện tử cho các cơ quan nói riêng và chính quyền ở An Giang
nói chung.
3.2.7.3.2.3. Đổi mới mô hỡnh tổ chức triển khai ứng dụng CNTT
Có thể nói, ở Chính phủ Việt Nam nói chung và ở chính quyền An Giang nói
riêng chưa thống nhất được mô hỡnh tổ chức triển khai ứng dụng CNTT. Một trong
những nguyờn nhõn dẫn đến thất bại của Đề án 112 chính là mô hỡnh tổ chức khi
triển khai chưa thống nhất và chưa phù hợp. Đơn vị phụ trách triển khai Đề án 112
ở chính quyền các tỉnh không giống nhau, chẳng hạn như: ở An Giang đơn vị chủ
lực triển khai Đề án 112 là Trung tâm Tin học – Văn phũng UBND tỉnh, ở Đồng
Nai là Sở KHCN, ở Đà Nẵng là Sở BCVT, …. Mặt khác, Ban điều hành không có
chức năng quản lý nhà nước về CNTT nhưng vẫn tổ chức thẩm định các dự án về
CNTT và hướng dẫn Ban quản lý đề án ở các tỉnh thẩm định thiết kế kỹ thuật, tổng
dự toán, trái với nghị định, quy định về quản lý đầu tư xây dựng cơ bản. Tất cả
những điều này gây ra tỡnh trạng chồng chộo ở cỏc địa phương trong việc thực hiện
các mục tiêu của đề án.
Đề án 112 đó kộo theo việc tạo lập cỏc Trung tõm Tin học là đơn vị hành
chính sự nghiệp trực thuộc Văn phũng UBND nhưng đảm trách nhiệm vụ ứng dụng
CNTT cho tất cả cơ quan quản lý nhà nước các cấp; Khi Đề án 112 bị ngưng, nhiệm
vụ triển khai ứng dụng CNTT cho các cơ quan nhà nước được giao lại cho Bộ
Formatted: Bullets and Numbering
TTTT và tương ứng ở tỉnh, thành là Sở TTTT. Đối với An Giang, tuy vị trí của đơn
vị phụ trách ứng dụng CNTT cho chính quyền tỉnh đó được nâng lên nhưng vẫn cũn
nhiều hạn chế về quyền hạn (như đó đề cập ở phần hiện trạng, tr.64).
Những nguyờn nhõn bất cập nờu trờn cho thấy rừ, nếu muốn ứng dụng
CNTT thành cụng, chớnh quyền An Giang cần cú sự thay đổi về mô hỡnh tổ chức
của đơn vị phụ trách ứng dụng CNTT cho phù hợp. Cụ thể như sau:
Các kế hoạch triển khai ứng dụng CNTT phải được cụ thể hóa bằng các
chương trỡnh hành động. Đồng thời, thành lập Ban Chủ nhiệm chương trỡnh ứng
dụng CNTT (hoặc Ban chỉ đạo CNTT nếu cần thiết) cùng với đơn vị chủ lực về ứng
dụng CNTT để thực hiện chương trỡnh hành động đó đề ra. Ban Chủ nhiệm này cần
có sự tham gia của lónh đạo cấp cao của tỉnh để tăng cường quyền hạn và sự phối
hợp giữa các đơn vị khác trong tỉnh. Trước đây, tỉnh đó thành lập Ban chỉ đạo
CNTT để thực hiện kế hoạch ứng dụng CNTT 2005-2010 nhưng vai trũ của đơn vị
này gần như mờ nhạt. Đến nay, Ban chỉ đạo này đó khụng cũn hoạt động và chưa có
sự tham gia của Sở TTTT trong danh sách thành viên. Vỡ vậy, tỉnh cần sớm thành
lập Ban Chủ nhiệm này để hoạt động triển khai ứng dụng CNTT trong chính quyền
tỉnh được hiệu quả. Nhưng trước tiên, cần nhanh chóng kết thúc việc chuyển giao
chức năng ứng dụng CNTT giữa Trung tâm Tin học – Văn phũng UBND và Sở
TTTT.
3.2.4. Xây dựng đội ngũ CNTT chuyên trách cho ứng dụng CNTT
Đội ngũ CNTT chuyên trách là điều kiện để đảm bảo cho việc ứng dụng
CNTT được ổn định và cải tiến thường xuyên. Đội ngũ CNTT chuyên trách ở đây
trước hết là cán bộ lónh đạo quản lý CNTT chuyên trách, kế đến là đội ngũ lập
trỡnh viờn chịu trỏch nhiệm phỏt triển các ứng dụng CNTT. Đội ngũ lập trỡnh viờn
này sẽ đảm trách nhiệm vụ viết chương trỡnh để phát triển các ứng dụng phục vụ
cho điều hành và tác nghiệp cho các đơn vị trong tỉnh. Vỡ thực tế, khụng cú một
ứng dụng hay phần mềm dựng chung nào cú thể sử dụng cho mọi tổ chức. Mặt
khác, đi cùng với sự phát triển chung, các ứng dụng cũng cần phải thường xuyên
được nâng cấp về tính năng, công nghệ và bảo mật. Do đó, chỉ có một đội ngũ
chuyên gia CNTT chuyên trách mới có thể đảm bảo cho việc ứng dụng CNTT được
ổn định và phát triển lâu dài.
Ở An Giang vẫn chưa có đội ngũ CNTT chuyên trách cho phát triển ứng
dụng chính thức. Nhóm nhân sự CNTT chuyên trách ở Trung tâm Tin học – Văn
phũng UBND tỉnh An Giang và Sở TTTT vẫn cũn ớt và khụng cú nhõn sự nào
chuyờn trỏch cho phỏt triển ứng dụng. Vỡ vậy, trong thời gian tới cần tăng cường
đào tạo và tuyển dụng thêm nhân sự cho lĩnh vực phát triển phần mềm này.
Tuy nhiên, việc tuyển dụng nhân sự cho CNTT trong CQNN nói chung và
nhân sự cho lĩnh vực phát triển ứng dụng nói riêng hiện nay rất khó. Nguyên nhân
là do chính sách đói ngộ và tiền lương trong các CQNN cũn rất thấp so với thị
trường CNTT bên ngoài. Vỡ vậy, để thực hiện giải pháp này cần phải:
- Xây dựng chính sách đạo tạo đội ngũ lập trỡnh viờn chuyờn trỏch phỏt
triển cỏc ứng dụng cho các cơ quan trong tỉnh. Ưu tiên đào tạo cho cán bộ quản lý
CNTT chuyờn trỏch và đội ngũ sẵn có. Trong công tác tuyển dụng, đơn vị chịu
trách nhiệm ứng dụng CNTT cho các CQNN cần tăng cường chủ động “đặt hàng” ở
các đơn vị đào tạo CNTT trong và ngoài tỉnh. Nếu vẫn thụ động trong công tác
tuyển dụng, do hạn chế của các chính sách đói ngộ và tiền lượng, An Giang sẽ khó
xây dựng được đội ngũ lập trỡnh viờn đủ số lượng và chất lượng để đảm trách
nhiệm vụ phát triển ứng dụng đó đề ra.
- Thay đổi chính sách tiền lương và đói ngộ đối với đội ngũ CNTT chuyên
trách nói chung. Kết hợp tạo điều kiện tăng thu nhập của nhóm nhân sự này thông
qua việc đẩy mạnh phát triển các ứng dụng dưới dạng các đề tài hoặc các hợp đồng
nghiên cứu khoa học.
Điều cần lưu ý phải sớm kết thúc việc chuyển giao nhiệm vụ và chức năng
ứng dụng CNTT ở các cơ quan quản lý nhà nước giữa Sở TTTT và Trung tâm Tin
học - Văn phũng UBND. Điều này trước tiên là đảm bảo cho việc kiện toàn cơ cấu
tổ chức, bộ máy của đơn vị chịu trách nhiệm, kế đến là đảm bảo cho việc phát triển
đội ngũ được tập trung và có hiệu quả hơn.
3.2.3.3.2.5. Phát triển ứng dụng CNTT theo xu hướng tích hợp
Một hạn chế lớn của các kế hoạch ứng dụng CNTT hiện nay thường là không
có định hướng hay chiến lược rừ ràng nào việc tích hợp trong tương lai. Nhất là ở
An Giang, việc phát triển ứng dụng CNTT ở các cơ quan quản lý nhà nước cũn
manh mỳn, tự phỏt, đặc biệt là chưa có định hướng chiến lược nào cho việc ứng
dụng CNTT của cơ quan quản lý nhà nước. Nếu tỡnh trạng này kéo dài sẽ tạo ra các
sự cố về kỹ thuật khi thực hiện trao đổi thông tin giữa các ứng dụng hay các hệ
thống thông tin; dẫn đến tỡnh trạng đầu tư mới lại hoàn toàn hoặc phải đầu tư thêm
các ứng dụng trung gian, vừa mất thời gian, gõy lóng phớ và tạo yếu tố bất ổn tiềm
ẩn trong hệ thống.
Xu hướng tích hợp của ứng dụng CNTT là một tất yếu để đảm bảo cho việc
ứng dụng CNTT được hiệu quả. Để đảm bảo cho xu hướng tích hợp này cần thực
hiện 2 giải pháp sau:
- Phát triển các chương trỡnh ứng dụng trong các cơ quan quản lý nhà nước
cần được xây dựng theo xu hướng web hóa. Nếu bị hạn chế về kỹ thuật, yêu cầu tối
thiểu phải có một thành phần (module) chạy trên nền tảng của công nghệ web. Các
ứng dụng web được phát triển phải đáp ứng được các yêu cầu về công nghệ web
tiên tiến (như chuẩn web 2.0) và phải được kết hợp với một hệ quản trị CSDL nào
đó (như: MySQL, PosgreSQL, Oracle, SQL Server, DB2, …). Điều này sẽ đảm bảo
cho việc phát triển các cổng thông tin tích hợp (portal) sau này. Đồng thời việc phát
triển ứng dụng vẫn được diễn ra trong khi chưa có được mô hỡnh kiến trỳc phần
mềm tổng thể.
- Xõy dựng và ban hành mụ hỡnh kiến trỳc phần mềm tổng thể cho cỏc cơ
quan quản lý nhà nước. Đây là điều kiện tiên quyết để đảm bảo cho sự tích hợp về
sau. Có thể điển hỡnh một kiến trỳc phần mềm tổng thể cho các CQNN như sau:
Hỡnh 3.3: Kiến trúc phần mềm tổng thể cho CPĐT
Formatted: Bullets and Numbering
Cỏc cổng thụng tin trong mụ hỡnh 3.3 là dạng phần mềm tích hợp được phát
triển trên nền tảng web, với 4 nhóm chức năng chính được phân theo các loại hỡnh
giao dịch của CPĐT. Tuy nhiên, như đó trỡnh bày, điều kiện để hệ thống này hoạt
động cần có một hệ thống các chuẩn kỹ thuật, chuẩn an ninh đi kèm. Điều này đũi
hỏi phải cú tầm nhỡn về cụng nghệ cựng với sự hỗ trợ của đội ngũ các chuyên gia
về CNTT. Trong điều kiện cũn hạn chế về nguồn nhõn lực, An Giang có thể hợp
đồng với các công ty tư vấn để việc phát triển kiến trúc này.
3.2.5.3.2.6. Tăng cường hiệu quả của việc ứng dụng công nghệ thông
tin
Trước hết là việc tin học hóa một số khâu công việc cần thiết. Đây là một
trong những mục tiêu quan trọng của việc ứng dụng CNTT trong cơ quan quản lý
nhà nước. Tin học hóa ở đây có thể hiểu là việc đưa các chương trỡnh ứng dụng vào
thực hiện các công việc như: điều hành, quản lý của lónh đạo; tác nghiệp của nhân
viên; và việc cung cấp dịch vụ công cho người dân, doanh nghiệp.
Tuy nhiên, như đó phõn tớch ở phần hiện trạng, vẫn chưa có cơ quan nào có
sự đột phát về vấn đề này. Việc ứng dụng CNTT ở các cơ quan quản lý nhà nước ở
An Giang đa số vẫn là dừng lại ở việc soạn thảo văn bản và gởi báo cáo qua email.
Hệ điều hành và Mạng (LAN, WAN, Internet)
Hệ quản trị cơ sở dữ liệu (dùng chung)
Cổng thông tin (portal) nội bộ
Hệ thống G2E Hệ thống G2G
Hệ thống G2C Hệ thống G2B
Cổng thông tin (portal) công cộng
Q
uả
n
trị
h
ệ
th
ốn
g
C
hu
ẩn
k
ỹ
th
uậ
t,
an
n
in
h
M
ôi
tr
ư
ờ
ng
p
há
p
lý
Người dân, các doanh nghiệp
Web, email, fax, điện thoại,
kiosk thông tin, trực tiếp
Formatted: Bullets and Numbering
Tuy đó có một số ứng dụng được viết theo yêu cầu riêng nhưng vẫn cũn ớt, cần cũn
hoạt động độc lập chưa phát huy được hết hiệu quả của việc ứng dụng CNTT.
Bên cạnh đó, việc phỏt triển cỏc trang web cũn manh mỳn, giao diện chưa
được nhất quán và mức độ cung cấp các dịch vụ công cao nhất cũng chỉ mới dừng
lại ở mức độ 2 (theo 4 mức độ của Bộ TTTT) tức là cho phép người dân, doanh
nghiệp tải các biểu mẫu.
Do đó, trong thời gian tới, các cơ quan quản lý nhà nước ở An Giang cần tập
trung hơn cho việc tin học hóa các công việc phục vụ cho điều hành, tác nghiệp để
tăng chất lượng, hiệu quả trong công việc và trong cung cấp dịch vụ công. Ba biện
pháp cụ thể để thực hiện cho giải pháp này như sau:
- Ưu tiên nâng cấp hệ thống email hiện có để đáp ứng được yêu cầu trao đổi
thông tin thường xuyên. Trong ứng dụng CNTT nói chung, E-mail là một công cụ
cơ bản và quan trọng nhất. Nó đảm nhận nhiệm vụ chính cho trao đổi thông tin cả
bên trong và ngoài hệ thống. Đó cũng là lý do tại sao khi đánh giá mức độ ứng dụng
CNTT người ta thường quan tâm đến việc “có sử dụng email hay không”. Hiện
trạng của hệ thống email của tỉnh (@angiang.gov.vn) đó bị xuống cấp và hoạt động
không ổn định, từ đó dẫn đến tâm lý lo ngại khi sử dụng. Mặt khác việc thiếu công
cụ hỗ trợ cho quản trị cũng góp phần làm cho hệ thống này hoạt động không được
hiệu quả.
- Ứng dụng các công nghệ truyền thông đa phương tiện để thực hiện việc
trao đổi thông tin, điều hành, đào tạo từ xa và họp qua mạng. Điều này sẽ nâng cao
chất lượng và hiệu quả của cụng tỏc lónh đạo, điều hành, đồng thời tiết kiệm được
nhiều thời gian và chi phí tổ chức hội họp. Trong khi hệ thống AGNET chưa đáp
ứng được yêu cầu, có thể ưu tiên triển khai ứng dụng này trong hệ thống mạng nội
bộ của các đơn vị.
- Phát triển mới các ứng dụng hay các hệ thống thông tin phục vụ cho điều
hành và tác nghiệp. Các hệ thống thông tin trong nhóm 3 phần mềm dùng chung đó
khụng thể đáp ứng được yêu cầu công việc trong các cơ quan quản lý nhà nước. Vỡ
vậy, cần nhanh chúng xõy dựng lại cỏc hệ thống này. Điểm lưu ý khi triển khai bất
kỳ dự ỏn xõy dựng hệ thống thụng tin nào cũng cần tiến hành hoạt động phân tích
thiết kế hệ thống thông tin. Phân tích thiết kế hệ thống thông tin là việc nghiên cứu
hiện trạng để xác định mục tiêu và các giới hạn của hệ thống tổ chức, trên cơ sở đó,
lựa chọn các giải pháp và cách thức tổ chức thực hiện dựa vào các xử lý đặc thù của
máy tính điện tử [33, tr 14]. Một trong những nguyên nhân không thể đáp ứng được
yêu cầu thực tiễn của 3 phần mềm dùng chung là thiếu hoạt động phân tích thiết kế
hệ thống ở các địa phương, đơn vị được triển khai. Trong khi đây là một công việc
rất quan trọng để đảm bảo cho việc phát triển thành công các phần mềm hay các hệ
thống thông tin phục vụ cho việc tự động hóa. Do đó, cần coi phân tích thiết kế hệ
thống tin là một trong các điều kiện để triển khai dự án CNTT, đồng thời cũng có
thể xem kết quả của hoạt động này là một trong các tiêu chí để đánh giá kết quả đạt
được của dự án ứng dụng CNTT.
- Nâng cấp và mở rộng các dịch vụ công lên mức tối thiếu là mức độ 3 (theo
4 mức độ của Bộ TTTT). Trên cơ sở đó, tập trung các dịch vụ này và phát triển
thành cổng thông tin tích hợp cung cấp các dịch vụ công cho người dân, doanh
nghiệp. Chỉ từ một cổng thông tin duy nhất, bất kỳ người dân hay doanh nghiệp nào
cũng có thể sử dụng các dịch vụ công trực tuyến, điều này cho sẽ làm cho việc cung
cấp và khai thác dịch vụ công được thuận lợi và hiệu quả hơn. Song song đó, cần
phát huy thế mạnh về tính minh bạch của thông tin trên môi trường mạng. Các trang
web phải có nhiều kênh thông tin để tiếp nhận ý kiến phản hồi như: hệ thống hỏi-
đáp, diễn đàn, giao lưu trực tuyến. Hơn thế nữa, cần kết hợp đẩy mạnh việc cải cách
hành chính cho phù hợp với việc ứng dụng CNTT, triển khai rộng khắp cỏc mụ
hỡnh giao dịch một cửa liờn thụng, hướng tới việc xây dựng các Trung tâm giao
dịch một cửa (như dự án eSeva của Ấn Độ).
Cần lưu ý, việc phát triển các ứng dụng trong nhóm giải pháp này cần tuân
thủ theo các giải pháp phát triển ứng dụng cho xu hướng tích hợp đó nờu.
3.2.6.3.2.7. Đầu tư có trọng điểm để tạo sự đột phá trong việc ứng
dụng công nghệ thông tin
Nguồn tài chính là yếu tố đầu tiên quyết định cho sự thành công hay thất bại
của việc triển khai CNTT. Đầu tư cho ứng dụng CNTT không thể làm nữa vời, đầu
tư phải “đến nơi, đến chốn”, đầu tư phải đồng bộ ở tất cả các lĩnh vực phần cứng,
phần mềm và nguồn nhân lực. Nhất là xu hướng tích hợp với các giải pháp tổng thể
của việc ứng dụng CNTT đũi hỏi một nguồn tài chớnh hựng hậu mới cú thể triển
khai được hiệu quả.
Nhưng thực tế việc đũi hỏi một nguồn lực tài chớnh lớn để có thể triển khai
thật quá khó. Do đó, để việc đầu tư cho ứng dụng CNTT trong các cơ quản lý nhà
nước có hiệu quả cần sử dụng nguồn vốn đầu tư đúng chỗ, đúng mục đích, đồng
thời huy động thêm nguồn đầu tư từ khu vực tư nhân.
Để đảm bảo việc đầu tư cho ứng dụng CNTT có hiệu quả, trước tiên cần xác
định lại các mục tiêu cho sát với yêu cầu của thực tiễn, tiến đến xác định các mục
tiêu ưu tiên. Để làm được điều này, cần phải tăng cường học tập kinh nghiệm ở các
địa phương đó triển khai thành công để chắc lọc những mụ hỡnh, phương pháp triển
khai phù hợp với điều kiện của mỡnh. Thêm vào đó, việc học tập kinh nghiệm nơi
khác trong quỏ trỡnh triển khai có thể tránh lóng phớ thời gian và hạn chế các rủi ro
đến mức thấp nhất. Khi có được lựa chọn phù hợp, trước khi triển khai các dự án
CNTT cần cho tiến hành khảo sát, đánh giá lại hiện trạng một cách toàn diện và
chính xác hơn. Phải xác định được những gỡ đang có, những gỡ sẽ cần để có hướng
đầu tư hiệu quả.
Mặt khác, trước khai triển khai dự án về ứng dụng CNTT, đặc biệt là các dự
án hay kế hoạch triển khai việc cung cấp dịch vụ công, cần phải tham khảo, tư vấn
với những người cùng tham gia. Những người cùng tham gia ở đây bao gồm: các
công chức, viên chức, các CQNN có liên quan và người dân, các tổ chức, doanh
nghiệp. Điều này sẽ đảm bảo cho sự thành công của dự án.
Formatted: Bullets and Numbering
Trong thời gian tới, để đảm bảo cho việc đầu tư cho ứng dụng có hiệu quả và
tạo được sự đột phá cho việc ứng dụng CNTT trong các CQNN, An Giang cần tập
trung đầu tư cho 3 dự án sau:
- Nâng cấp hệ thống mạng diện rộng kết nối giữ các CQNN trong tỉnh
(AGNET). Đây là hệ thống hạ tầng kỹ thuật quan trọng, đảm bảo cho việc trao đổi
thông tin trong hệ thống luôn được thông suốt và ổn định. Với tốc độ trung bỡnh
của hệ thống mạng diện rộng kết nối giữa các cơ quan quản lý trong tỉnh An Giang
(AGNET) hiện nay là 64 Kbps (lý thuyết), không thể đáp ứng cho yêu cầu của việc
ứng dụng CNTT hiện tại và sau này. Do đó, cần nâng cấp hệ thống mạng này lên
đến mức thấp nhất là 2Mbps. Với sự phát triển của công nghệ mạng hiện nay, nhất
là chi phí thuê bao đường truyền đó giảm ớt nhất là 3 lần so với trước đây. Việc
nâng cấp hệ thống này là hoàn toàn có thể thực hiện được. Thậm chí nếu tận dụng
các kết nối ADSL có sẵn ở các cơ quan quản lý nhà nước, có thể tiết kiệm được hơn
40 triệu đồng cho chi phí thuê bao hệ thống AGNET hiện tại. Tuy nhiên, trong xu
hướng phát triển về sau, việc xây dựng hệ thống mạng đường trục với các công
nghệ tiên tiến cho các cơ quan quản lý nhà nước là cần thiết. Điều này sẽ đảm bảo
cho hệ thống được hoạt động ổn định 24/7, tăng tính bảo mật cho các hệ thống
thông tin, đồng thời giảm được chi phí thuê bao thường xuyên.
- Tập trung đầu tư cho trung tâm tích hợp dữ liệu để phát huy được hiệu quả
của trung tâm này. Đây cũng là một trong những yêu cầu để đảm bảo cho việc trao
đổi thông tin giữa các đơn vị được tiện lợi và sẵn sàng cho sự tích hợp khi cần thiết.
Mặt khác, tập trung đầu tư cho trung tâm tích hợp dữ liệu sẽ tiết kiện được rất nhiều
chi phí cho đầu tư hệ thống máy chủ, hệ thống an ninh và chi phí cho vận hành hệ
thống (như nguồn nhân lực quản trị mạng) ở các CQNN.
- Tập trung đầu tư xây dựng các trung tâm giao dịch một cửa ở các huyện,
thị và thành phố trong tỉnh An Giang (như mụ hỡnh của Dự án Seva điện tử). Một
là, việc đầu tư xây dựng cho các trung tâm trung tâm giao dịch một cửa sẽ tạo ra các
điểm để cộng đồng dân cư, doanh nghiệp có thể khai thác và sử dụng các dịch vụ
công được hiệu quả hơn, nhất là khi điều kiện hạ tầng kỹ thuật ở địa phương cũn
nhiều hạn chế. Đồng thời, đưa vào áp dụng mô hỡnh “những người trung gian thông
minh” ở các trung tâm này ngay từ đầu. Những người trung gian thông minh là mô
hỡnh bao gồm một bộ phận nhõn viờn phục vụ giữ vai trũ trung gian giữa người dân
và cơ sở hạ tầng thông tin nhằm tạo điều kiện, giúp đỡ người dân khai thác và sử
dụng các dịch vụ được cung cấp một cách hiệu quả nhất. Hai là, có thể huy động
được sự tham gia của khu vực tư nhân để đầu tư cho các trung tâm giao dịch một
cửa trên. Các công ty hay cá nhân đầu tư sẽ thu hồi vốn qua phí dịch vụ, trong khi
các cơ quan quản lý nhà nước chỉ cần tạo điều kiện và môi trường thuận lợi, đầu tư
bằng ngân sách được giảm ở mức thấp nhất nhưng vẫn đảm bảo cho việc cung cấp
dịch vụ công được hiệu quả. Tuy nhiên điều này đũi hỏi nhiều ở việc cải cỏch cỏc
qui trỡnh thủ tục và nhận thức của cỏn, cụng chức và viờn chức núi chung, cựng với
quyết tõm và sự năng động của các cấp lónh đạo.
Việc nâng cấp hệ thống AGNET và tập trung đầu tư cho trung tâm tích hợp
dữ liệu, trung tâm giao dịch một cửa là các công việc gắn bó chặt chẽ với nhau. Có
thể đầu tư và phỏt triển hệ thống này theo mụ hỡnh kết nối sau:
Hỡnh 3.4: Mụ hỡnh kết nối của hệ thống AGNET
3.3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VỚI CHÍNH PHỦ VÀ CHÍNH QUYỀN
TỈNH AN GIANG
3.3.1. Đối với Chính phủ
- Chuyển đổi chức năng quản lý CNTT cho hợp lý
Hiện nay, chức năng quản lý CNTT được giao cho Bộ TTTT là cơ quan của
Chính phủ được thành lập từ Bộ BCVT và Bộ Văn hóa Thông tin, thực hiện chức
năng quản lý nhà nước về báo chí; xuất bản; bưu chính và chuyển phát; viễn thông
và internet; truyền dẫn phát sóng; tần số vô tuyến điện; công nghệ thông tin, điện tử;
phát thanh và truyền hỡnh và cơ sở hạ tầng thông tin truyền thông quốc gia; quản lý
nhà nước các dịch vụ công trong các ngành, lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà
nước của Bộ. Với mục đích nhằm gắn chặt việc sử dụng công nghệ thông tin và hạ
tầng kỹ thuật, đảm bảo cho sự phát triển của báo chí, xuất bản. Theo tác giả, điều
này là chưa thật sự hợp lý:
(i) Chức năng quản lý nhà nước về báo chí (nói chung) và chức năng quản lý
về CNTT (núi chung) là hoàn toàn khỏc nhau. Chức năng báo chí là chức năng quản
lý về thụng tin, cũn chức năng quản lý CNTT là chức năng về công nghệ và ứng
dụng công nghệ.
(ii) Việc sáp nhập hai chức năng này vào một làm cho phạm vi quản lý của
Bộ TTTT rộng ra nhưng lại không đồng nhất về chức năng. Điều này sẽ tạo ra sự
tiềm ẩn về bất đồng ý kiến trong nội bộ của Bộ TTTT. Mặt khác, với chức năng
quản lý rộng như vậy, Bộ TTTT sẽ khó tập trung thực hiện được nhiệm vụ đẩy
mạnh việc ứng dụng và phát triển CNTT cho đất nước. Cú thể thấy rừ điều này sau
một năm quản lý, việc phát triển và ứng dụng CNTT của đất nước dường không có
biến chuyển. Thêm vào đó, các Sở TTTT tại chính quyền địa phương hiện nay đang
thực hiện cụng việc quản lý về bỏo chớ nhiều hơn, nhất là lĩnh vực cấp giấy phép
xuất bản thông tin.
Vỡ vậy, Chớnh phủ cần nhanh chúng chuyển đổi chức năng quản lý CNTT
cho cơ quan Chính phủ phù hợp. Có hai giải pháp để thực hiện:
(i) Chuyển giao chức năng phát triển và ứng dụng CNTT cho Bộ KHCN.
Một là, có được sự đồng nhất về chức năng; hai là, Bộ KHCN có nguồn kinh phí
đầu tư cho công nghệ rất lớn điều này sẽ đảm bảo cho việc phát triển và ứng dụng
CNTT; ba là, Bộ KHCN đang phụ trách việc triển khai áp dụng hệ thống quản lý
chất lượng ISO 9001:2000 cho các cơ quan nhà nước, tương ứng ở các chính quyền
địa phương là Sở KHCN; Như đó trỡnh bày về mối quan hệ chặt chẽ của việc ỏp
dụng ISO 9001:2000 và ứng dụng CNTT (tr.96) để việc cải cách hành chính, xây
dựng nền hành chính điện tử một cách hiệu quả hơn, tránh được lóng phớ về cụng
sức, thời gian và tiền của.
(ii) Thành lập Bộ CNTT và chuyển giao chức năng quản lý về CNTT cho cơ
quan này để tập trung cho phát triển và ứng dụng CNTT có hiệu quả. Mặt khác,
điều này sẽ tạo nên hiệu ứng xó hội về CNTT, từ đó tạo được sự lan tỏa về ứng
dụng và phát triển CNTT trong toàn xó hội.
Trước tỡnh hỡnh hiện nay, cần ưu tiên cho giải pháp (i), tức là chuyển giao
chức năng quản lý nhà nước về CNTT cho Bộ KHCN do cùng chức năng quản lý về
công nghệ và nhất là việc triển khai ISO 9001:2000 không thể tách rời với việc ứng
dụng CNTT.
- Cải cách chính sách tiền lương
Chính sách đói ngộ và tiền lương của các cán bộ CNTT trong cơ quan nhà
nước hiện nay chưa hợp lý, đây cũng là nguyên nhân chính của hiện tượng “sự
chuyển dịch nhân sự CNTT từ cơ quan nhà nước (CQNN) ra bên ngoài”. Đặc biệt là
đối với lĩnh vực lập trỡnh viờn và quản trị mạng. Thụng thường, đối với các lập
trỡnh viờn cú thể tỡm được mức thu nhập cao gấp 2 lần, với quản trị viên là 4 lần so
với mức lương trong cơ quan nhà nước. Hơn thế, các nhân sự về quản trị mạng
thường được qui đổi là trỡnh độ Trung cấp (đào tạo dưới 2 năm) nên mức lương
càng thấp hơn. Do đó, các cơ quan nhà nước càng khó tuyển dụng được nhân sự về
quản trị mạng.
Chính phủ cần có những chính sách tiền lương “mềm dẻo” đối với các nhân
lực về CNTT nhất là lập trỡnh và quản trị mạng. Cần cú hệ thống qui đổi các chứng
chỉ quốc tế tương ứng với tiền lương hợp lý hơn.
- Thay đổi phương pháp tiếp cận để triển khai CPĐT
Như đó trỡnh bày về 2 phương pháp tiếp cận (tr.31): (i) phương pháp từ trên
xuống và (ii) phương pháp triển khai từ dưới lên.
Việc chọn phương pháp thích hợp tùy thuộc vào đất nước, hệ thống chính trị
và mức độ thành thạo công nghệ tại từng cơ quan của nhà nước. Singapore và
Trung Quốc chọn triển khai theo phương pháp từ trên xuống. Trong khi, Mỹ và
Philippine lại áp dụng phương pháp từ dưới lên.
Trong điều kiện hiện nay của Việt Nam, phương pháp thích hợp để triển khai
CPĐT chính là phương pháp triển khai từ dưới lên. Bởi lẽ, chúng ta chưa có được
một khung chiến lược quốc gia rừ ràng và nguồn tài chớnh thật lớn để triển khai
đồng bộ. Mặt khác, điều kiện cơ sở vật chất, hạ tầng thông tin và đặc biệt là trỡnh
độ và nhận thức của đội ngũ cán bộ công chức ở mỗi ban, ngành, các cấp chính
quyền địa phương không đồng đều. Vỡ vậy, phương pháp triển khai từ dưới lên sẽ
làm tăng sự chủ động của các chính quyền địa phương. Từ đó, từng bước xây dựng
và hoàn thiện CSDL, các hệ thống thông tin ở cấp dưới, tiến đến xây dựng CSDL và
hoàn thiện khung chiến lược cho quốc gia.
Tuy nhiên, nếu tiếp cận triển khai CPĐT ở tại các chính quyền địa phương
tiếp cận theo phương pháp từ trên xuống. Phương pháp này sẽ giúp cho các chính
quyền đầu tư được tập trung, đồng bộ và hiệu quả hơn. Điểm cần lưu ý là cỏc chớnh
quyền địa phương phải xây dựng được khung chiến lược ứng dụng tổng thể, tối
thiểu phải xây dựng được khung kiến trúc phần mềm cùng với hệ thống các chuẩn
chung cho việc xử lý dữ liệu và trao đổi thông tin (bao gồm: biểu mẫu, định dạng
dữ liệu, chuẩn hỗ trợ, giao thức, …).
- Ban hành danh mục tiêu chuẩn về ứng dụng CNTT dùng chung cho các cơ
quan Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xó hội
CPĐT trong tương lai không thể là sự tách rời giữa các cơ quan Đảng, Nhà
nước, các tổ chức chức chính trị - xó hội và cả người dân nói chung. Do đó, một
danh mục tiêu chuẩn về ứng dụng CNTT dùng chung là rất cần thiết.
Có thể nói đây là một văn bản rất quan trọng làm nền tảng cho phát triển ứng
dụng CNTT của đất nước. Danh mục này vừa đảm bảo cho việc ứng dụng CNTT
được hiệu quả, vừa đảm bảo cho sự an toàn và sự thông suốt trong trao đổi thông tin
giữa các hệ thống thông tin của quốc gia.
Hiện nay, chỉ có Danh mục tiêu chuẩn về ứng dụng CNTT trong các cơ quan
nhà nước được ban Quyết định số 20/2008/QĐ-BTTTT ngày 09/0402008 của Bộ
trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông; các cơ quan Đảng chưa có danh mục này.
Mặt khác, trong khi các cơ quan Đảng đó chuyển sang dựng một số ứng dụng văn
phũng nguồn mở như OpenOffice; các cơ quan nhà nước vẫn đang sử dụng
Microsoft Office. Điều này sẽ tạo ra một số sự cố về chuẩn dữ liệu khi trao đổi
thông tin giữa hệ thống Đảng và Nhà nước. Cụ thể như các cơ quan nhà nước sẽ
khó hoặc không thể truy xuất được các tập tin (file) văn bản của cơ quan Đảng
chuyển sang do khác chuẩn định dạng.
Hơn nữa, Danh mục tiờu chuẩn về ứng dụng CNTT hiện nay vẫn cũn bao
hàm quá rộng, không được định hướng theo một chuẩn công nghệ nào, đồng thời
cũn thiếu sút, nhất là các chuẩn cho các thiết bị di động.
Vỡ vậy, Chính phủ cần xây dựng và ban hành danh mục các tiêu chuẩn
chung cho quốc gia. Trước mắt, cần nhanh chóng có văn bản qui định tạm thời các
chuẩn dữ liệu trong trao đổi thông tin giữa các cơ quan Đảng và Nhà nước.
Ngoài ra, trong xu hướng web hóa, các định dạng dữ liệu về văn bản và trỡnh
diễn đều có thể sử dụng chung một chuẩn đó là .htm (hoặc .html). Vỡ vậy, cần xem
chuẩn .htm là một chuẩn trong nhóm “văn bản”.
- Cần cú lộ trỡnh chuyển khai cỏc phần mềm nguồn mở
Hiện nay, Chính phủ đó cú nhiều khuyến cáo sử dụng nguồn mở. Tuy nhiên,
hầu hết các cơ quan nhà nước đều sử dụng các chương trỡnh ứng dụng của
Microsoft. Vỡ vậy, nếu chuyển đổi không hợp lý có thể xảy ra các xáo trộn các hoạt
động và dẫn đến sự trỡ trệ trong hệ thống.
Mặt khác, Trong lĩnh vực phần mềm nguồn mở, đang xuất hiện một hiện
tượng mâu thuẫn giữa nhu cầu xó hội và chương trỡnh đào tạo. Các cơ sở đào tạo
CNTT không dám giảng dạy theo chương trỡnh nguồn mở vỡ xó hội và cỏc cơ quan
nhà nước không chưa có nhu cầu sử dụng; và ngược lại nếu các cơ quan, doanh
nghiệp muốn tuyển nhận sự có trỡnh độ sử dụng phần mềm nguồn mở được chuẩn
hóa thỡ không có.
Do đó, việc triển khai cỏc phần mềm nguồn mở cần cú lộ trỡnh và cỏc bước
triển khai đồng bộ cả trong hệ thống Chính phủ và trong toàn xó hội, nhất là trong
giỏo dục và đào tạo.
- Cải tiến qui trỡnh, thủ tục đầu thầu trong mua sắm các thiết bị CNTT
Hiện nay, theo Luật đấu thầu (2005) và Nghị định số 58/2008/NĐ-CP ngày
05/5/2008 của Chính phủ về hướng dẫn thi hành luật đấu thầu và lựa chọn nhà thầu
xây dựng theo luật xây dựng. Nếu các cơ quan nhà nước muốn tiến hành theo đúng
trỡnh tự đấu thầu và mua sắm thiết bị CNTT như sau:
(i) Thời gian thông báo mời thầu tối thiểu 10 ngày;
(ii) Thời gian chuẩn bị hồ sơ dự thầu tối thiểu 10-15 ngày đối với đấu thầu
trong nước và 30 ngày đối với đấu thầu quốc tế (cho nhà thầu chuẩn
bị);
(iii) Thời gian Chấm thầu tối đa 12 ngày kể từ ngày mở hồ sơ;
(iv) Chủ đầu tư duyệt hồ sơ (chấm thầu 10 ngày);
(v) Thời gian phê duyệt không quá 10 ngày.
Như vậy, mỗi khi cần mua sắm thiết bị CNTT phải qua đấu thầu, các cơ quan
nhà nước phải chờ đợi ít nhất là 40 ngày. Trong khi đó, sự phát triển và thay đổi về
công nghệ của CNTT đó được ví như “vũ bóo”. Nếu tớnh bỡnh quõn khấu hao của
các gói thầu mua sắm thiết bị CNTT từ lúc làm thủ tục cho đến đấu thầu sẽ giảm
khoảng 10%. Đây cũng là lý do gần như không có chuyện vượt giá trần trong đấu thầu
mua sắm các thiết bị CNTT. Do đó, cần cải tiến qui trỡnh, thủ tục đấu thầu các thiết bị
CNTT, rút ngắn thời gian càng nhanh càng tốt.
3.3.1.1.3.3.2. Một số kiến nghị với An Giang
- Nhanh chóng kết thúc việc chuyển giao chức năng ứng dụng CNTT trong
các cơ quan nhà nước cho Sở TTTT; Lấy cơ sở hạ tầng của Trung tâm tích hợp dữ
liệu (hiện đang là trụ sở của Trung tâm Tin học – Văn phũng UBND) làm trụ sở làm
việc. Đối với Trung tâm Tin học – Văn phũng UBND, do nhiệm vụ và chức năng
không cũn phự hợp nờn chuyển thành Phũng CNTT trực thuộc Văn phũng UBND
tỉnh, phụ trỏch nhiệm vụ quản lý chung về CNTT ở Văn Phũng UBND tỉnh. Đồng thời,
tương ứng ở cấp huyện, Phũng Văn hóa và Thông tin cần bổ sung các nhân sự chuyên
Formatted: Bullets and Numbering
trách về CNTT và tiếp nhận chức phụ trách ứng dụng CNTT từ Văn phũng UBND
huyện.
- Xây dựng lại kế hoạch ứng dụng CNTT cho phù hợp với xu hướng phát
triển của CNTT (kiến trúc phần mềm tổng thể, web hóa, tích hợp dịch vụ) và cụ thể
hóa bằng các chương trỡnh hành động. Đồng thời, thành lập Ban chủ nhiệm chương
trỡnh cú sự tham gia của lónh đạo cấp cao của tỉnh trỡnh bày ở phần giải pháp
(tr.96) để đảm bảo việc triển khai chương trỡnh hành động có hiệu quả. Lộ trỡnh
triển khai ứng dụng CNTT cần tập trung và việc phỏt triển cỏc chương trỡnh ứng
dụng cho điều hành và tác nghiệp. Cần chọn ra các đơn vị đó đạt chứng chỉ ISO
9001:2000 đồng thời cũng là các đơn vị được xem là ứng dụng CNTT mạnh. Cụ thể
là Sở Y tế, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Sở KHCN.
- Nghiên cứu triển khai thí điểm mô hỡnh Trung tõm giao dịch một cửa tại
thành phố Long Xuyên và huyện An Phú. An Phú được coi là huyện ứng dụng
CNTT mạnh sẽ đảm bảo cho việc triển khai có hiệu quả hơn so với các huyện khác;
Long Xuyên tuy không được xếp vào nhóm ứng dụng CNTT mạnh nhưng đây là
trung tâm KT-XH của tỉnh, trỡnh độ cán bộ, công chức, viên chức và mặt bằng dân
trí cao hơn các huyện nhiều lần, điều này sẽ đảm bảo cho sự thành công của mụ
hỡnh Trung tõm giao dịch một cửa.
- Ưu tiên đạo tạo đội ngũ chuyên gia CNTT tại cơ quan phụ trách ứng dụng
CNTT, tập trung cho đào tạo cán bộ quản lý CNTT và đội ngũ lập trỡnh viờn. Đồng
thời, phải có chế độ đói ngộ, chớnh sỏch tiền lương và các biện pháp tăng thu nhập
thích hợp đi kèm.
- Cấn mạnh dạn đầu tư cho ứng dụng CNTT. Với tỉ lệ đầu tư cao nhất từ
trước đến nay cũng chỉ chiếm khoảng 0,03% GDP của tỉnh, trong khi kế hoạch đề ra
đến 0,1%. Mặt khác, việc kinh phí đầu tư không nên phân bổ theo phương phỏp
bỡnh quõn như trước nay đang áp dụng. Cần tập trung ưu tiên cho các đơn vị đủ
điều kiện như đó trỡnh bày; đồng thời xác định các dự án trọng điểm cần đầu tư
như: đào tạo đội ngũ chuyên gia CNTT; đào tạo nâng cao trỡnh độ tin học; nâng cấp
hệ thống email; phát triển chương trỡnh ứng dụng cho điều hành và tác nghiệp; hạ
tầng kỹ thuật mạng AGNET và Trung tâm tích hợp; và trung tâm giao dịch một cửa.
- Thiết lập chính sách an ninh, an toàn thông tin trong từng cơ quan. Cần
được cụ thể hóa bằng các văn bản qui định, quy chế an ninh, an toàn thông trên môi
trường CNTT nhằm nâng cao nhận thức cho đội ngũ cán bộ, công chức về an ninh
và an toàn thông tin trên môi trường CNTT; Kết hợp tổ chức tập huấn các chuyên
đề về quản lý thụng tin, quản lý mật khẩu, mó húa thụng và chữ ký điện tử. Đối với
các chương trỡnh cú sử dụng xỏc thực trờn mụi trường mạng, áp dụng bắt buộc sử
dụng các giao thức mó húa thụng tin trong truyền đổi dữ liệu như: HTTPS, FTPS,
POPS và IMAPS. Hướng đến xây dựng hệ thống quản lý an ninh, an toàn thông tin
theo tiêu chuẩn ISO 27000 (ưu tiên triển khai thí điểm cho các đơn vị ứng dụng
CNTT mạnh, có nhiều dịch vụ công được cung cấp).
KẾT LUẬN
Ngày nay, ứng dụng và phát triển CNTT đó được xem là giải pháp hàng đầu
cho các quốc gia muốn rút ngắn “khoảng cách số”, đi tắt vào nền văn minh tri thức.
Các quốc gia này phải đối đầu với việc chuẩn bị sẵn sàng cho Chính phủ và xó hội
của mỡnh trước bối cảnh toàn cầu hóa và sự bùng nổ cuộc cách mạng CNTT.
Thực tiễn đó cho cho thấy cỏc nước không vận đụng được công nghệ mới
thường tăng trưởng chậm, thậm chí suy thoái. Do vậy, khoảng cách số càng rộng và
sự phân cực giàu nghèo giữa các nước tiến lên kinh tế tri thức với các nước kém
phát triển có khuynh hướng ngày càng ra xa. Sự bất bỡnh đẳng trong phân phối “cái
bánh” toàn cầu hóa kinh tế tăng lên.
Ứng dụng và phát triển CNTT vừa là cơ hội cũng vừa là thách thức. Đối với
Chính phủ, CNTT với bốn thành phần: ứng dụng CNTT, cơ sở hạ tầng CNTT,
nguồn nhân lực và công nghiệp CNTT sẽ giúp cho Chính phủ cải tiến mối tác động
qua lại giữa ba chủ thể: Chính phủ, người dân và doanh nghiệp nhằm thúc đẩy tiến
trỡnh chớnh trị, xó hội và kinh tế đất nước, tiến đến xây dựng CPĐT;
Ứng dụng CNTT sẽ giúp cho các CQNN đơn giản hóa các thủ tục hành chính,
cải tiến được cách hỡnh thức cung cấp dịch vụ công một cách có hiệu quả. Đồng thời,
góp phần nâng cao năng lực quản lý, điều hành của các cơ quan quản lý nhà nước, tăng
tính minh bạch và sự tin cậy của người dân đối với Chính phủ; từ đó, hạn chế được tệ
nạn quan liêu, tham nhũng trong hệ thống.
Nhận thức rừ điều này, Chỉ thị 58-TC/TW đó đặt ra nhiệm vụ đi đầu trong
ứng dụng CNTT cho các cơ quan Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xó hội.
Trong những năm qua, việc ứng dụng CNTT để tiến đến CPĐT ở Việt Nam nói chung
và An Giang nói riêng đó thật sự được coi trọng và đẩy mạnh. Tuy nhiên, việc ứng dụng
CNTT trong các cơ quan quản lý nhà nước vẫn chưa phát huy được hết hiệu quả thực sự
của nó, CPĐT vẫn cũn ở những giai đoạn đầu. Nhiệm vụ ứng dụng công nghệ thông tin
để hiện đại hóa nền hành chính và tiến đến xây dựng CPĐT vẫn tiếp tục là một thách
thức ở phía trước.
Trên cơ sở nghiên cứu các vấn đề về CPĐT, các giải pháp và kinh nghiệm
triển khai ứng dụng CNTT trong các CQNN, Luận Văn đó thực hiện được ba nhiệm
vụ nghiên cứu đó đề ra, đó là:
(i) Hệ thống hóa một số vấn đề về xây dựng CPĐT và việc triển khai ứng
dụng CNTT trong các cơ quan quản lý nhà nước.
(ii) Phân tích, đánh giá thực trạng của việc ứng dụng công nghệ thông tin
trong các cơ quan quản lý nhà nước ở tỉnh An Giang.
(iii) Đề xuất các giải pháp mang tính chiến lược nhằm khắc phục các hạn chế
và đẩy mạnh việc ứng dụng CNTT trong quản lý chớnh quyền của tỉnh An Giang.
Cho đến nay, trên thế giới đó cú đến 35% quốc gia triển khai CPĐT bị thất
bại hoàn toàn và 50% thất bại một phần. Nguyờn nhõn chủ yếu là do sự trỡ trệ của
người dân, công chức và áp dụng rập khuôn mô hỡnh cỏc nước khác. Vỡ vậy, việc
xõy dựng CPĐT ở Việt Nam nói chung hay ở An Giang nói riêng cần có những
bước đi thích hợp. Phải tăng cường học hỏi kinh nghiệm có lựa chọn được mô hỡnh
thớch hợp, xõy dựng mục tiờu phải sỏt với thực tiễn và phải cú tầm nhỡn chiến lược
cho việc phát triển CPĐT thỡ việc ứng dụng CNTT mới cú hiệu quả cao.
Trong thời gian sắp tới, muốn tạo được sự đột phá trong ứng dụng CNTT,
chính quyền tỉnh An Giang cần tập trung vào ba định hướng sau:
Một là, cải tiến mụ hỡnh tổ chức triển khai ứng dụng CNTT; xõy dựng mụ
hỡnh kiến trỳc phần mềm tổng thể cho cỏc CQNN để định hướng cho việc triển
khai các dự án CNTT được hiệu quả; đẩy mạnh việc phát triển chương trỡnh ứng
dụng cho điều hành và tác nghiệp trong các CQNN theo kiến trúc đó đề ra, từng
bước xây dựng CSDL của ngành, lĩnh vực quản lý.
Hai là, tập trung nâng cấp cơ sở hạ tầng kỹ thuật CNTT với các công nghệ
tiên tiến đảm bảo cho sự ổn định và phát triển lâu dài. Ưu tiên phát triển hệ thống
mạng đường trục giữa các CQNN là điều kiện cơ bản để phát triển ứng dụng CNTT.
Ba là, tăng cường đào tạo và phát triển nguồn nhân lực CNTT đảm bảo cho
yêu cầu ứng dụng CNTT. Đặc biệt là cán bộ quản lý CNTT và đội ngũ lập trỡnh
viờn để phát triển ứng dụng cho tỉnh.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
A. Tiếng Việt
35.1. Minh Anh (2007), “Thủ tướng chỉ đạo: Ngừng triển khai Đề án 112”, Trang
tin điện tử của Chính phủ Việt Nam,
portal/page?_pageid=33,128127&_dad=portal&_schema=PORTAL&item
_id=1853235.
15.2. Đặng Minh Ất (2002), "Công nghệ thông tin trong sự nghiệp công nghiệp
hóa – hiện đại hóa ở Việt Nam", Kinh tế và phát triển, (64), tr.11-12.
1.3. Ban Chấp Trung ương khóa X (2007), Nghị quyết số 17-NQ/TW ngày
01/8/2007 của Hội nghị Trung ương lần thứ năm về đẩy mạnh cải cách
hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ mỏy nhà nước.
2.4. Ban Chỉ đạo quốc gia về CNTT (2007), Báo cáo Chỉ số sẵn sàng cho phát triển
và ứng dụng CNTT-TT Việt Nam năm 2006.
3.5. Ban Quản lý đề án 112- UBND tỉnh An Giang (2005), Tỡnh hỡnh triển khai Đề
án 112 Chính phủ năm 2005, Kế hoạch Tin học hóa QLHC nhà nước giai
đoạn 2006-2010.
4.6. Báo Người lao động điện tử (2007), Chưa có chương trỡnh quốc gia về Chớnh phủ
điện tử,
5.7. Bách khoa toàn thư mở Wikipedia (2008),
6.8. Ban Tư tưởng – Văn hóa Trung ương (2001), Ứng dụng và phát triển công
nghệ thông tin phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
7.9. Bộ Chính trị (2000), Chỉ thị 58-CT/TW ngày 17/10/2000 về đẩy mạnh ứng
dụng và phát triển công nghệ thông tin phục vụ sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá.
8.10. Bộ Bưu chính - Viễn thông (2005), Chiến lược phát triển công nghệ thông
tin và truyền thông Việt Nam đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020.
9.11. Bộ Bưu chính - Viễn thông (2007), Định hướng Chiến lược phát triển Công nghệ
thông tin và Truyền thông Việt Nam giai đoạn 2011 – 2020.
Formatted: Bullets and Numbering
42.12. Trọng Cầm (Theo Reuters) (2008), “Steve Ballmer: "Nhân loại sắp đón một
cuộc cách mạng IT"”, VietNamNet, cntt/2008/03/
771806/
11.13. Chính phủ (2007), Nghị định số 64/2007/NĐ-CP, ứng dụng công nghệ thông
tin trong hoạt động của cơ quan nhà nước.
12.14. Cục Thống kê tỉnh An Giang (2005, 2006, 2007), Niên giám thống kê tỉnh An
Giang.
32.15. Phan Đỡnh Diệu (2001), Tổng quan về CNTT và tác động của nó tới sự phát
triển kinh tế - xó hội, Nxb Khoa học Kỹ thuật, Hà Nội.
16. Phan Đỡnh Diệu (2007), “Internet: Nền tảng cụng nghệ cho xó hội tri thức!”,
VietNamNet,
13.17. Dự án Nâng cao Năng lực cạnh tranh Việt Nam (VNCI) và Phũng Thương mại
và công nghiệp Việt Nam (VCCI) (2006, 2007), Kết quả đánh giá chỉ số
năng lực cạnh tranh các tỉnh (PCI) của tỉnh An Giang.
18. Steinmuller Edvard (2004), "Nền kinh tế tri thức - Mối liên hệ với công nghệ
thông tin và truyền thông", Thụng tin khoa học xó hội, (1), tr.36-36.
19. Hồng Hà (2008), “1/4 dân số thế giới sử dụng Internet”, Giao thông điện tử,
te/14_dan_so_the_gioi_su_dung_Internet/
30.20. Phạm Thị Bích Hoa (2005), Toàn cảnh Chính phủ điện tử Việt Nam qua
khảo sát các website các cơ quan hành chính nhà nước, Hội Tin học
Thành phố Hồ Chí Minh.
18.21. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2007), Nhà nước và pháp luật,
Quản lý hành chớnh (tập 3), Nxb Lý luận chớnh trị, Hà Nội.
22. Hội Tin học Việt Nam (2006, 2007), Báo cáo chỉ số sẵn sàng cho phát triển và
ứng dụng CNTT.
41.23. Trần Viết Huân (2008), Giải pháp hành chính điện tử hướng dịch vụ, IBM
Group Software.
10.24. Cao Minh Kiểm, Lê Xuân Định (2002), "Một số suy nghĩ về chuẩn dự liệu
và siêu dữ liệu trong liên kết mạng", Hoạt động khoa học, (11), tr.12-14.
Formatted: Bullets and Numbering
Formatted: Bullets and Numbering
Formatted: Bullets and Numbering
25. Emmanuel C.Lallana (2003), Kỷ nguyên thông tin (The Information Age), e-
ASEAN Task Force and UNDP-APDIP.
37.26. Trần Lưu (2007), “Ngừng triển khai Đề án 112 : Thất bại vỡ thiếu những mụ
hỡnh cụ thể”, Sài Gũn Giải phúng online,
vn/trithuccongnghe/2007/4/96173/.
27. Lê Nguyên (2008), “Hơn 1 tỉ máy tính đang được sử dụng trên toàn thế giới”, VnExpress,
40.28. Trần Văn Nhung, Trần Khánh Đức (2002), "Vấn đề phát phát triển nhân lực
công nghệ thông tin", Tạp chí Cộng sản, (11), tr.33-35, 47.
29. Patricia J. Pascual (2003), Chính phủ điện tử (e-Government), e-ASEAN Task
Force and UNDP-APDIP.
39.30. Trần Ngọc Phỏt (2002), "Vai trũ của cụng nghệ thụng tin đối với tăng trưởng
kinh tế Mỹ và Pháp", Kinh tế và phát triển, (9), tr.51-52.
14.31. Đinh Hữu Phí (2001), "Tin học hóa quản lý hành chính Nhà nước với quá trỡnh cải
cỏch hành chớnh hiện nay", Thông tin khoa học xó hội, (11), tr.28-32.
28.32. Nguyễn Thành Phúc (2008), “Sẽ không có “siêu đề án””, Thế giới vi tính
(PC World VN),
b.asp?t=mzdetail&atcl_id=5f5e5d5c585f5d.
27.33. Nguyễn Hồng Phương (2008), Phân tích thiết kế hệ thống thông tin –
Phướng pháp & ứng dụng, Nxb Lao động - Xó hội, Hà Nội.
34. Quốc hội nước Cộng hoà xó hội chủ nghĩa Việt Nam XI (2006), Luật Công
nghệ thông tin.
34.35. Reuters/Nhân dân (2008), “Super PC tốc độ xử lý nhanh nhất thế giới”, Tin
CNTT-TT,
nhanh-nhat-the-gioi/2008/06/2CMSV1310210/View.htm.
44.36. Sở Nội vụ tỉnh An Giang (2005, 2006, 2007, 2008), Báo cáo số lượng, chất
lượng cán bộ, công chức, viên chức tỉnh An Giang năm 2005, 2006, 2007,
6/2008.
Formatted: Bullets and Numbering
Formatted: Bullets and Numbering
Formatted: Bullets and Numbering
Formatted: Bullets and Numbering
36.37. Quốc Thanh, Khiết Hưng (2007), ““Cái chết” của đề án 112”, Tuổi trẻ
online,
199427&ChannelID=16.
38. Trần Minh Tiến (2004), Một số định hướng kế hoạch phát triển Chính phủ điện
tử, Viện Chiến lược BC&VT, Bộ Bưu chính Viễn thông.
54.39. Vũ Anh Tú (2007), “Có bao nhiêu thông tin số trên trái đất?”, VTC.VN,
dat/153317/index.htm.
17.40. Hà Dương Tuấn (2005), “Toàn cầu hóa công nghệ thông tin và xuất khẩu
phần mềm”, Thời đại mới số 6,
HaDuongTuan.pdf.
24.41. Lê Trường Tùng (2006, 2007, 2008), Toàn cảnh công nghệ thông tin Việt
Nam 2007, Hội Tin học Thành phố Hồ Chí Minh.
46.42. Uỷ ban nhân dân tỉnh An Giang (2006), Đánh giá triển khai đề án 112 tại An
Giang từ năm 2002 đến 2006.
47.43. Uỷ ban nhân dân tỉnh An Giang (2008), Tỡnh hỡnh phỏt triển kinh tế - xó hội
6 thỏng đầu năm 2008 và phương hướng, nhiệm vụ 6 tháng cuối năm
2008.
48.44. Uỷ ban nhân dân tỉnh An Giang (2006), Tổng kết tỡnh hỡnh thực hiện Đề án
112 của Chính phủ tại tỉnh An Giang.
49.45. Uỷ ban nhân dân tỉnh An Giang (2006), Kế hoạch phỏt triển kinh tế - xó hội
5 năm, 2006 - 2010 của tỉnh An Giang.
50.46. Uỷ ban nhân dân tỉnh An Giang (2006), Kế hoạch tổng thể ứng dụng và phát
triển công nghệ thông tin và truyền thông trên địa bàn tỉnh giai đoạn
2006-2010 và định hướng đến năm 2020.
Formatted: Bullets and Numbering
B. Tiếng Anh
20.47. IDC site, IDC Finds More of the World's Population Connecting to the
Internet in New Ways and Embracing Web 2.0 Activities,
21.48. Information Technology Association of America (ITAA), Information
Technology Definition,
Technology%20Definitions.pdf
49. Intel Corporation, Moore’s Law, moorelaw/
51.50. UNESCO, Definition of Terms,
documents/scanning_documents/definition.pdf
52.51. United Nation Department of Public Information (2008), e-Government
Survey 2008 – Form e-Government to Connected Governance, The United
Nation
53.52. United Nation Department of Public Information (2004, 2005), Global e-
Government Readiness Report, The United Nation
54.
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 2
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ
THÔNG TIN TRONG QUẢN Lí CỦA NHÀ NƯỚC 7
1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trũ của cụng nghệ thụng tin 7
1.2. Ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của cơ quan nhà
nước 22
1.3. Kinh nghiệm ứng dụng cụng nghệ thụng tin trong quản lý của nhà
nước ở một số nơi khác 46
Formatted: Bullets and Numbering
Formatted: Bullets and Numbering
Chương 2: THỰC TRẠNG CỦA VIỆC ỨNG DỤNG CễNG NGHỆ
THễNG TIN TRONG QUẢN Lí CHÍNH QUYỀN AN
GIANG 56
2.1. Khái quỏt về hệ thống quản lý của chớnh quyền tỉnh An Giang 56
2.2. Thực trạng của việc triển khai ứng dụng công nghệ thông tin của
chính quyền tỉnh An Giang 66
2.3. Đánh giá tác động việc ứng dụng cụng nghệ thụng tin trong quản lý
của chớnh quyền tỉnh An Giang 82
Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH ỨNG
DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN TRONG QUẢN Lí
CỦA CHÍNH QUYỀN TỈNH AN GIANG 86
3.1. Phương hướng của ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý của
chớnh quyền tỉnh An Giang 86
3.2.
Giải pháp đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý của
chính quyền tỉnh An Giang 94
3.3 Một số kiến nghị với Chính phủ và chính quyền tỉnh An Giang 108
KẾT LUẬN 116
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 119
CÁC CHỮ VIẾT TẮT DÙNG TRONG LUẬN VĂN
BCVT : Bưu chính, Viễn thông
CNH, HĐH : Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
CNTT : Công nghệ thông tin (Information Technology)
CPĐT : Chính phủ điện tử (E-Government)
CQNN : Cơ quan nhà nước
CSDL : Cơ sở dữ liệu (Database)
FDI : Đầu tư trực tiếp nước ngoài
(Foreign Direct Investment)
HTTT : Hệ thống thông tin
KHCN : Khoa học và Công nghệ
KT-XH : Kinh tế - xó hội
ODA : Hỗ trợ phát triển chính thức
(Official Development Assistance)
PCI : Chỉ số Năng lực Cạnh tranh Cấp tỉnh
: (Provincial Competitiveness Index)
TTTT : Thông tin và Truyền thông
VCCI : Phũng Thương mại và công nghiệp Việt Nam
(Vietnam Chamber of Commerce and Industry)
VNCI : Dự án Nâng cao Năng lực cạnh tranh Việt Nam
(Vietnam Competitiveness Initiative)
W3C : World Wide Web Consorcium
XHCN : Xó hội chủ nghĩa
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu Tên bảng Trang
Bảng 2.1 Một số chỉ tiêu KT-XH tỉnh An Giang qua các năm 2005,
2006, 2007
57
Bảng 2.2 Kết quả các chỉ số thành phần PCI của An Giang qua các
năm 2005, 2006 và 2007
59
Bảng 2.3 Chất lượng công chức, viên chức tỉnh An Giang
tại thời điểm tháng 6/2008
63
Bảng 2.4 Bảng thống kế kết quả trang bị hạ tầng kỹ thuật của Đề án
112 tỉnh An Giang qua các năm 2005, 2006
68
Bảng 2.5 Kết quả ứng dụng CNTT trong các CQNN tỉnh An Giang 74
DANH MỤC CÁC HèNH
Số hiệu Tên bảng Trang
Hỡnh 1.1 Sơ đồ về sự phân tầng của CNTT 12
Hỡnh 1.2 “Bốn thành phần, ba chủ thể” 19
Hỡnh 1.3 Chính phủ điện tử và các dịch vụ được cung cấp 27
Hỡnh 2.1 Bản đồ hành chính tỉnh An Giang 56
Hỡnh 2.2 So sánh chỉ số PCI của An Giang qua các năm 2005,
2006, 2007
60
Hỡnh 2.3 Hệ thống chính quyền tỉnh An Giang 61
Hỡnh 2.4 So sánh số lượng, chất lượng công chức, viên chức tỉnh An
Giang qua các năm 2006, 2006, 2007 và tháng 6/2008
63
Hỡnh 2.5 Vị trí của các đơn vị phụ trách ứng dụng CNTT 65
Hỡnh 2.6 Tỉ lệ phân bố kinh phí các hạng mục cho giai đoạn
2001-2005
72
Hỡnh 3.1 Bốn giai đoạn phát triển của CPĐT 91
Hỡnh 3.2 Các giai đoạn phát triển của trang web CPĐT 91
Hỡnh 3.3 Kiến trúc phần mềm tổng thể cho CPĐT 101
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- Giải pháp đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý của chính quyền tỉnh An Giang.pdf