Luận văn Giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng tại các ngân hàng thương mại Việt Nam

PHẦN MỞ ĐẦU 1.Tính cấp thiết của đề tài: Hoạt động tín dụng là nghiệp vụ chủ yếu của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam, mang lại 80-90% thu nhập của mỗi ngân hàng, tuy nhiên rủi ro của nó cũng không nhỏ. Rủi ro tín dụng cao quá mức sẽ ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động kinh doanh ngân hàng. Đứng trước những thời cơ và thách thức của tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, vấn đề nâng cao khả năng cạnh tranh của các ngân hàng thương mại trong nước với các ngân hàng thương mại nước ngoài, mà cụ thể là nâng cao chất lượng tín dụng, giảm thiểu rủi ro đã trở nên cấp thiết. Bên cạnh đó, tình hình kinh tế thế giới đang diễn biến phức tạp và nguy cơ khủng hoảng tín dụng tăng cao. Việt Nam là một nước có nền kinh tế mở nên không tránh khỏi những ảnh hưởng của nền kinh tế thế giới. Đứng trước tình hình đó, đòi hỏi các ngân hàng thương mại Việt Nam phải nâng cao công tác quản lý rủi ro tín dụng, hạn chế đến mức thấp nhất có thể những nguy cơ tiềm ẩn gây nên rủi ro. Trước tính cấp thiết đó, đề tài “Quản lý rủi ro tín dụng tại các ngân hàng thương mại Việt Nam” được tiến hành nghiên cứu những nguy cơ tiềm ẩn, tình hình kinh doanh tín dụng thực tế tại các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam để từ đó nhận diện dấu hiệu, tìm ra nguyên nhân, đề ra giải pháp hữu ích cho việc quản lý rủi ro tín dụng trong hệ thống ngân hàng thương mại. 2.Tình hình nghiên cứu đề tài: Từ trước đến nay đã có nhiều đề tài nghiên cứu về hiệu quả hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại nhà nước mà chưa có đề tài nào nghiên cứu riêng có về rủi ro tín dụng tại các ngân hàng thương mại cổ phần. Cụ thể như: Luận án tiến sĩ kinh tế: “Hoạt động tín dụng của hệ thống ngân hàng thương mại nhà nước ở nước ta hiện nay”, tác giả Lê Đức Thọ (2005) đã đề cập đến thực trạng hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại nhà nước và những tác động tới quá trình phát triển kinh tế xã hội Việt Nam. Tác giả đề xuất các giải pháp đổi mới hoạt động tín dụng của hệ thống các ngân hàng thương mại nhà nước Việt Nam. Hay các luận văn khác, nghiên cứu về hiệu quả hoạt động tín dụng tại một ngân hàng thương mại nhà nước cụ thể, hoặc của hệ thống ngân hàng thương mại nhà nước mà chưa phân tích riêng lẻ về rủi ro tín dụng và giải pháp cho việc quản lý rủi ro tín dụng tại các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam. 3.Mục đích nghiên cứu đề tài: -Đề tài nghiên cứu về những vấn đề lý thuyết cơ bản của tín dụng, quản lý rủi ro tín dụng của các ngân hàng thương mại. -Đánh giá thực trạng hoạt động tín dụng tại các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam trong giai đoạn 2005 đến 2007. -Nêu ra các dấu hiệu nhận biết sớm nguy cơ tiềm ẩn, làm rõ các nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng của các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam. -Đề xuất một số giải pháp quản lý rủi ro tín dụng có hiệu quả, hạn chế đến mức thấp nhất có thể những tác hại xấu do nó gây ra, góp phần phục vụ cho các mục tiêu phát triển của ngành ngân hàng trước quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và trong khu vực. 4.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: -Đối tượng nghiên cứu là hoạt động tín dụng, quản lý rủi ro tín dụng của các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam. -Phạm vi nghiên cứu tập trung vào 8 ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam bao gồm Ngân hàng TMCP Á Châu, Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương tín, Ngân hàng TMCP Kỹ thương Việt Nam, Ngân hàng TMCP Đông Á, Ngân hàng TMCP Xuất nhập khẩu Việt Nam, Ngân hàng Phát triển nhà Đồng bằng sông Cửu Long, Ngân hàng TMCP Phương Nam và Ngân hàng TMCP An Bình, thời gian nghiên cứu từ năm 2005 đến 2007. 5.Phương pháp nghiên cứu: Để phù hợp với nội dung, yêu cầu, mục đích của đề tài đề ra, phương pháp được thực hiện trong quá trình nghiên cứu gồm phương pháp so sánh, phân tích kết hợp với phương pháp điều tra chọn mẫu và hệ thống hoá. Bên cạnh đó, đề tài cũng vận dụng kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học liên quan để làm phong phú và sâu sắc hơn các cơ sở khoa học và thực tiễn của đề tài. 6.Những đóng góp mới của đề tài: Đề tài làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về tín dụng, rủi ro tín dụng, kinh nghiệm thực tế của các nước như Trung Quốc, Mỹ, Nhật Bản về nhận diện, nguyên nhân và quản lý rủi ro tín dụng. Trên cơ sở phân tích tình hình hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam, đề tài nêu ra những dấu hiệu nhận biết sớm các khoản nợ có vấn đề, tìm ra các nguyên nhân để từ đó kiến nghị các giải pháp có hiệu quả và khả thi. Trong đó, điểm nổi bật nhất của đề tài là nghiên cứu chi tiết về rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam, rút kinh nghiệm từ các nước trên thế giới mà các đề tài đã có trước đây chưa phân tích. 7.Bố cục của đề tài: Đề tài gồm lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, nội dung đề tài được trình bày trong 3 chương: -Chương 1: Tổng quan rủi ro tín dụng tại các ngân hàng thương mại. -Chương 2: Tình hình thực tế về quản lý rủi ro tín dụng tại các ngân hàng thương mại Việt Nam. -Chương 3: Kiến nghị những giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng tại các ngân hàng thương mại Việt Nam.

doc44 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2774 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng tại các ngân hàng thương mại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cáo tài chính các ngân hàng) Nhìn chung, các ngân hàng thương mại cổ phần đang nghiên cứu đều có tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ ở mức an toàn cho phép. Tỷ lệ này của ngân hàng Á Châu và Đông Á giảm dần qua các năm và dưới 0.5%, đối với ngân hàng An Bình, MHB, Phương Nam tỷ lệ này lớn hơn 1.5%. Riêng ngân hàng Phương Nam có tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ lớn hơn 3% và tăng dần qua các năm. Đây là dấu hiệu đáng báo động đối với việc quản lý kiểm soát rủi ro tín dụng tại các ngân hàng thương mại cổ phần, đòi hỏi các ngân hàng không thể lơi lỏng công tác quản lý rủi ro. Quản lý rủi ro tín dụng là công việc phải được diễn ra hàng ngày hàng giờ, chặt chẽ và hiệu quả. 2.2.6.Cơ cấu khoản vay: 2.2.6.1.Theo thời hạn: Trong các ngân hàng nghiên cứu thì đa số có tỷ lệ cho vay trung dài hạn thấp hơn cho vay ngắn hạn, tuy nhiên riêng đối với Á Châu thì ngược lại. Với cơ cấu khoản vay theo thời hạn thế nào, đòi hỏi ngân hàng đấy phải có chính sách phân bổ nguồn vốn, quản lý thu hồi nợ tương ứng để có thể hạn chế đến mức thấp nhất rủi ro gây ra. Bảng 2.5: Cơ cấu khoản vay theo thời hạn của các ngân hàng (đơn vị tính: tỷ đồng) Ngân hàng 2005 2006 2007 Cho vay ngắn hạn ACB 4,851.87 9,578.44 17,493.47 SACOM 5,208.20 9,506.78 21,731.96 ĐÔNG Á 4,670.80 6,602.47 13,516.88 AN BÌNH 151.59 695.94 3,580.25 TCB 3,746.71 6,193.14 15,980.60 EXIMBANK 4,834.00 7,834.00 14,614.72 MHB 4,834.00 5,460.99 8,998.37 PHƯƠNG NAM 3,517.15 3,790.84 4,040.49 Cho vay trung dài hạn ACB 4,529.65 17,014.00 31,811.00 SACOM 3,217.04 4,887.53 13,646.19 ĐÔNG Á 1,289.25 1,368.14 4,291.72 AN BÌNH 254.81 434.99 3,277.88 TCB 1,546.35 2,502.96 4,505.53 EXIMBANK 1,599.16 2,373.39 3,837.43 MHB 3,602.97 4,652.44 4,926.63 PHƯƠNG NAM 1,256.74 874.37 1,833.63 (Nguồn: tổng hợp từ báo cáo tài chính các ngân hàng) 2.2.6.2.Theo loại hình kinh tế: Đa số các ngân hàng nghiên cứu đều có tỷ lệ cho vay cá nhân thấp hơn cho vay các tổ chức kinh tế, riêng Á Châu, MHB và Phương Nam thì ngược lai. Điều này chứng tỏ ba ngân hàng này phát triển mạnh về mảng bán lẻ, tuy nhiên tỷ lệ nợ quá hạn hay nợ xấu của ba ngân hàng này lại không đồng nhất với nhau. Đối với Á Châu tỷ lệ đấy là tương đối thấp so với các ngân hàng khác, còn Phương Nam thì lại cao nhất. Do đó, việc xác định tỷ lệ cho vay theo loại hình kinh tế mục đích là tìm hiểu nguyên nhân phát sinh rủi ro để đề ra biện pháp quản lý có hiệu quả. Bảng 2.6: Cơ cấu khoản vay theo loại hình kinh tế của các ngân hàng (đơn vị tính: tỷ đồng) Ngân hàng 2005 2006 2007 Tổ chức kinh tế ACB 4,633.97 8,314.40 15,900.55 SACOM 5,049.50 7,648.98 17,956.94 ĐÔNG Á 3,184.50 4,964.48 10,540.64 AN BÌNH 406.40 1,130.93 4,210.95 TCB 3,732.14 3,948.38 12,478.46 EXIMBANK 3,269.44 6,046.14 10,180.85 MHB 1,998.15 2,402.52 3,619.28 PHƯƠNG NAM 2,032.65 2,450.44 2,775.34 Cá nhân ACB 4,747.55 8,699.60 15,910.45 SACOM 3,375.74 6,745.33 17,421.21 ĐÔNG Á 2,775.55 3,006.13 7,267.96 AN BÌNH 0.00 0.00 2,647.18 TCB 1,560.92 4,747.72 8,007.67 EXIMBANK 3,163.72 4,161.25 8,271.30 MHB 6,438.82 7,710.91 10,305.72 PHƯƠNG NAM 2,741.24 2,947.68 3,098.78 (Nguồn: tổng hợp từ báo cáo tài chính các ngân hàng) Từ những phân tích trên cho thấy, tuy hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam đang nghiên cứu là có hiệu quả, tăng trưởng dần qua các năm đặc biệt là đột biến trong năm 2007, song vẫn không tránh khỏi những khoản nợ xấu, những khoản nợ có vấn đề, tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ ngày càng tăng. Chính vì thế cho nên việc nhận biết dấu hiệu, tìm hiểu nguyên nhân để từ đó đưa ra các giải pháp quản lý rủi ro có hiệu quả là rất cần thiết. 2.2.7.Tình hình nợ xấu 6 tháng đầu năm 2008 tại các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam: Trước tình hình biến động của thị trường thế giới ảnh hưởng đến Việt Nam. Tình hình kinh tế trong nước lạm phát tăng cao, sự bất ổn của thị trường bất động sản cũng như thị trường chứng khoán, sự tăng trưởng nóng của tín dụng… đã làm cho chất lượng tín dụng ngày càng xấu đi. Tình hình tín dụng 6 tháng đầu năm 2008 tại các ngân hàng thương mại cổ phần tăng chậm, đã giảm nhiều so với cùng kỳ năm 2007 đặc biệt là cho vay bất động sản và kinh doanh chứng khoán. Chính phủ đưa ra chính sách thắt chặt tiền tệ, tăng lãi suất… đã làm cho các ngân hàng thương mại hạn chế cho vay, chọn lọc khách hàng cho vay. Hơn nữa từ sự suy giảm của thị trường bất động sản, thị trường chứng khoán, các ngân hàng thương mại càng tăng cường thu hồi vốn vay, kiểm soát chất lượng tín dụng, tiến hành rà soát định giá lại tài sản đảm bảo và yêu cầu bổ sung thêm nếu có sự thiếu hụt. Những khoản vay mục đích đầu tư bất động sản, chứng khoán có nguy cơ bị mất khả năng thanh toán do thua lỗ, không bán được,… do đó nợ xấu có xu hướng tăng lên. Hơn nữa về mặt doanh nghiệp, tình hình kinh tế khó khăn bất ổn, chi phí tăng cao, nguồn vốn thiếu hụt nhưng không được tài trợ hoặc tài trợ hạn chế, việc kinh doanh trở nên khó khăn và kém hiệu quả, khả năng chi trả giảm, do vậy nợ vay có thể trở thành nợ khó đòi và thu hồi khó khăn hơn đối với các ngân hàng. Theo số liệu lấy được từ nguồn ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu, nợ xấu 6 tháng đầu năm 2008 tăng mạnh, số tăng xấp xỉ với con số trong năm 2007; ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn Thương tín, nợ xấu tăng tương đương hơn nửa năm 2007. Điều này cho thấy, trong những năm 2005 đến 2007, thị trường tương đối ổn định nên chưa có biến động lớn trong thị trường tín dụng, tình hình nợ xấu tại các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam có thể kiểm soát và trong mức an toàn. Nhưng những bất ổn của thị trường trong 6 tháng đầu năm nay đã tác động mạnh vào nhiều lĩnh vực, trong đó tín dụng chịu ảnh hưởng không nhỏ. Đây là dấu hiệu cảnh báo sớm cho các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam trong việc quản lý rủi ro tín dụng, cần phải tăng cường, đẩy mạnh các biện pháp hạn chế rủi ro đến mức thấp nhất có thể chấp nhận được và làm ngay từ ban đầu không đợi phát sinh. 2.3.NHỮNG DẤU HIỆU CẢNH BÁO KHOẢN VAY CÓ VẤN ĐỀ Việc đầu tiên và quan trọng nhất trong việc xử lý những khoản vay có vấn đề chính là nhận biết vấn đề. Bất kỳ khoản vay nào cũng có thể có vấn đề, việc sớm nhận biết vấn đề và có những biện pháp theo dõi nhanh chóng, chuyên nghiệp giúp các vấn đề, tổn thất có thể giảm đến mức thấp nhất. Mối quan tâm hàng đầu của hầu hết các ngân hàng đó là danh mục cho vay được bảo đảm an toàn, các ngân hàng thường xuyên bị ru ngủ bởi cảm giác an tâm sai lầm về một khoản cho vay cụ thể nào đó vì nó “được bảo đảm” hay nói cách khác là “được thế chấp”. Nếu cho rằng cho vay là rất an toàn vì có bảo đảm mà không hề băn khoăn đến các loại thế chấp khác nhau, sự thay đổi theo chiều hướng xấu của nền kinh tế sẽ ảnh hưởng thế nào đến giá trị thế chấp ngân hàng đang nắm giữ là rất nguy hiểm. Cần phải nhận thức được rằng một khoản tín dụng có thế chấp giúp ngân hàng quyết định tiếp tục cho vay vì có khả năng thu hồi nợ trong chừng mực nào đó nhưng không có nghĩa là hoàn toàn được bảo đảm. Những dấu hiệu cảnh báo sẽ giúp ngân hàng có thể nhận biết và có giải pháp xử lý sớm các vấn đề một cách hiệu quả. Trường hợp Công ty Minh Phụng - vụ phá sản lớn nhất thế kỷ 20 của Việt Nam, hay công ty Bông Bạch Tuyết với khoản nợ quá hạn hơn 6,4 tỷ đồng vẫn chưa trả được cho ngân hàng,… cho thấy vấn đề xuất phát từ việc không kiểm soát chặt chẽ quản lý khoản vay, cũng như việc nhận biết sớm dấu hiệu rủi ro của cán bộ các ngân hàng. 2.3.1.Những dấu hiệu báo động sớm liên quan đến hoạt động ngân hàng: - Khách hàng có số dư tài khoản giảm. - Vay đáo hạn quá nhiều hoặc không theo kế hoạch. - Phụ thuộc quá nhiều vào vay ngắn hạn. - Có những thay đổi đáng kể đối với các thời điểm có nhu cầu vay vốn. - Có sự nhảy vọt trong số lần yêu cầu vay và số tiền vay. - Các khoản vay mà nguồn tiền trả nợ phải huy động từ nhiều nơi và không thể kiểm tra được. - Các nhà cung cấp hiện tại, tương lai của khách hàng liên lạc với ngân hàng để hỏi thăm những thông tin về tín dụng của khách nợ. - Sự xuất hiện của các nhà cho vay tài chính khác, đặc biệt là cho vay có tài sản thế chấp. - Thay đổi trong vấn đề về hôn nhân, thái độ đối với ngân hàng hoặc nhân viên ngân hàng, đặc việt là thái độ bất hợp tác. - Không thực hiện những nghĩa vụ cá nhân, những cam kết đúng hạn. - Thay đổi về quản lý, chủ sở hữu hoặc các nhân sự chủ chốt; các nhân sự chủ chốt qua đời hoặc đau ốm, không có sự kế thừa trong ban lãnh đạo. - Các vấn đề trước đây đã được giải quyết lại xảy ra. - Công tác báo cáo và kiểm soát tài chính yếu kém. - Tham gia vào việc mua lại công ty khác, các ngành kinh doanh mới, mở rộng kinh doanh đến các vùng địa lý mới, hoặc thêm dây chuyền sản xuất mới. - Có mong muốn tham gia vào việc kinh doanh rủi ro cao; hoặc thay đổi công việc kinh doanh. - Định giá sản phẩm hoặc dịch vụ cao một cách không hợp lý. - Không chú trọng, ngừng những ngành kinh doanh đem lợi nhuận cơ bản. - Chần chừ trong hành động khi đối phó với nền kinh tế thị trường có chiều hướng đi xuống. - Hoạt động kinh doanh phụ thuộc vào một người và khả năng phát triển của doanh nghiệp phụ thuộc vào năng lực và sự kiểm soát của một cá nhân đó. - Có vấn đề về nhân sự. 2.3.2.Những dấu hiệu báo động sớm liên quan đến hoạt động kinh doanh: · Kết quả tài chính và kiểm soát hoạt động kinh doanh yếu kém. · Mất những dây chuyền sản xuất chủ lực, quyền được phân phối hoặc nguồn cung cấp hàng. · Mất một hay nhiều khách hàng quan trọng có tình hình tài chính lành mạnh. · Thay đổi đột ngột số lượng đơn đặt hàng có thể bị hạn chế do hạn chế năng lực sản xuất hiện tại. · Bảo trì máy móc thiết bị không đạt chất lượng. · Trì hoãn việc thay thế các thiết bị máy móc lạc hậu hoặc hiệu quả thấp. · Có những bằng chứng cho thấy có bán giảm giá hàng tồn kho, duy trì lượng hàng tồn kho lớn, hoặc các mặt hàng tồn kho không cần thiết. 2.3.3.Những dấu hiệu báo động sớm liên quan đến vấn đề tài chính: ¡ Không có bản báo cáo tài chính đúng thời hạn. ¡ Lượng tiền mặt nhận từ khách hàng giảm mạnh. ¡ Lượng tiền USD hoặc mức nợ phải thu tăng đột biến. ¡ Lượng tiền USD hoặc giá trị hàng tồn kho tăng đột biến. ¡ Vòng quay hàng tồn kho giảm. ¡ Tỉ lệ giá trị tài sản lưu động trên tổng giá trị tài sản giảm. ¡ Tình hình thanh khoản/mức vốn lưu động giảm. ¡ Những thay đổi đáng kể trong danh mục các tài sản mua bán. ¡ Mức tập trung vào tài sản cố định cao. ¡ Vay dài hạn tăng đột biến. ¡ Vốn sở hữu thấp so với các khoản nợ vay. ¡ Thay đổi đột biến trong cơ cấu bảng tổng kết tài sản. ¡ Có những khoản nợ phải trả, phải thu từ các nhân viên/cổ đông. ¡ Nhận xét kiểm toán không tốt. ¡ Thay đổi chế độ kế toán. ¡ Báo cáo lỗ lãi: + Doanh thu bán hàng giảm. + Doanh thu bán hàng tăng đột biến. + Doanh thu gộp và doanh thu ròng khác nhau quá lớn. + Phần trăm chi phí tăng đột biến, mức lợi nhuận bị giảm sút. + Doanh thu tăng, lợi nhuận giảm. + Tăng đột biến lỗ do nợ khó đòi. + Tổng tài sản tăng đột biến so với doanh thu, lợi nhuận. ¡ Thời hạn của các khoản phải thu: * Thay đổi trong chính sách cung cấp tín dụng, tăng thời hạn tín dụng. * Thay đổi khoản thu bằng giấy nhận nợ. * Tập trung hoá doanh thu. * Nới lỏng các khoản thu. * Có quá nhiều các khoản phải thu không thu hồi được. * Có các khoản phải thu từ các công ty có liên quan. Nhận biết sớm vấn đề từ những dấu hiệu cảnh báo là quan trọng nhất giúp ngân hàng có những kế hoạch hành động nhanh chóng, hiệu quả, giảm thiểu được rủi ro. 2.3.4.Ví dụ điển hình về những dấu hiệu cảnh báo có tác động đến việc quản lý rủi ro tín dụng: Từ những năm 2004, công ty Bông Bạch Tuyết đã có khá nhiều khó khăn và thách thức về vốn lưu động, mất cân đối trong thu chi, thị trường tiêu thụ bị mất, hệ thống phân phối tan rã, máy móc thiết bị không đồng bộ. Đến năm 2006 thay đổi công ty kiểm toán từ công ty kiểm toán A&C sang công ty kiểm toán AISC, đây là điểm nhấn quan trọng cần phải chú ý, xem xét đến của các nhân viên ngân hàng khi thẩm định hồ sơ vay vốn cũng như kiểm soát hồ sơ sau khi cho vay. Báo cáo tài chính năm 2006 được công bố với khá nhiều nghi vấn, thay đổi chính sách khấu hao, chế độ kế toán, sau khi điều chỉnh thì lợi nhuận từ lãi 2,2 tỷ đồng xuống lỗ gần 8,4 tỷ đồng. Trong năm 2007, tình hình công ty ngày càng xấu hơn, thiếu vốn ngày càng trở nên trầm trọng, không còn tài sản thế chấp để vay vốn, tình hình tài chính không minh bạch, không phát hành được cổ phiếu tăng vốn, trong khi đó nợ phải trả tăng cao, nợ phải thu khó đòi cũng nhiều không kém. Thị trường đầu ra không được cải thiện do đã mất từ trước, nguyên liệu đầu vào tăng làm cho giá vốn hàng bán tăng đáng kể, có sự thay đổi lớn trong tình hình nhân sự, từ cán bộ quản lý cho đến lãnh đạo, chỉ trong 1 năm, công ty đã thay Kế toán trưởng, rồi đến Giám đốc sản xuất, Giám đốc R&D, đặc biệt hơn nữa là thay Tổng giám đốc vào giữa năm 2007. Những tháng đầu năm 2008, tình hình công ty càng trở nên bi thảm hơn, người lao động tạo áp lực đình công, công ty khất nợ, để nợ chuyển sang quá hạn tại ngân hàng Maritime Bank. Các biến động và những thay đổi lớn của công ty không được ngân hàng nhận định, phân tích, đánh giá nên mới dẫn đến tình trạng nợ vay của công ty Bông Bạch Tuyết trở thành nợ quá hạn khó đòi. Đây là bài học vô cùng bổ ích cho các ngân hàng thương mại trong công tác quản lý rủi ro tín dụng để không xảy ra tình trạng còn nhiều Bông Bạch Tuyết nữa. 2.4.NGUYÊN NHÂN DẪN ĐẾN RỦI RO TÍN DỤNG Theo nghiên cứu của ngân hàng Standard Chartered, nguyên nhân chủ yếu của các khoản nợ có vấn đề xuất phát từ khách hàng, ngân hàng và hoàn cảnh khách quan. Trong đó nguyên nhân từ phía khách hàng chiếm tỷ lệ cao nhất khoảng 56%, kế tiếp là nguyên nhân từ phía ngân hàng chiếm khoảng 27%, số còn lại là từ nguyên nhân hoàn cảnh khách quan. [IMG]file:///C:/DOCUME%7E1/hung/IMPOST%7E1/Temp/msohtml1/01/clip_image017.gif[/IMG] 2.4.1.Rủi ro tín dụng do nguyên nhân hoàn cảnh khách quan: 2.4.1.1.Các yếu tố về môi trường kinh tế: « Sự biến động của thị trường thế giới: Trước cuộc khủng hoảng tín dụng quốc tế, nhiều ngân hàng trên thế giới công bố các khoản nợ xấu và thua lỗ, mà khởi đầu là những gánh nặng nợ khó đòi của hệ thống tín dụng liên quan đến thị trường bất động sản phái sinh của Mỹ. Nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế mở, xu hướng hội nhập kinh tế thế giới và trong khu vực là hiển nhiên, do đó trước những biến động của thị trường thế giới, nền kinh tế Việt Nam sẽ không tránh khỏi bị ảnh hưởng. Do đó hệ thống ngân hàng Việt Nam cũng ít nhiều bị ảnh hưởng. Thị trường bất động sản và chứng khoán Việt Nam đang trong tình cảnh khó khăn, khả năng các khoản nợ đầu tư vào hai thị trường đó khó có thể thu hồi, giá nhà đất và chứng khoán sụt giảm nghiêm trọng, việc mua bán diễn ra khó khăn hơn, các khách hàng sẽ không có nguồn trả nợ, đồng thời tỷ lệ tài sản đảm bảo không đủ đảm bảo cho dư nợ còn lại,… làm cho hàng loạt các nguy cơ tiềm ẩn của rủi ro tín dụng xuất hiện. Ngoài ra thị trường sắt thép cũng dễ bị tổn thương không kém. Mặt hàng sắt thép cũng bị ảnh hưởng lớn của giá thép thế giới. Việc tăng giá phôi thép làm cho một số doanh nghiệp sản xuất thép trong nước phải ngưng sản xuất do chi phí giá thành rất cao trong khi không tiêu thụ được sản phẩm. Thị trường này bất ổn sẽ ảnh hưởng không chỉ đối với khách hàng kinh doanh mặt hàng này mà còn tác động lên ngân hàng đầu tư cho vay gây ra hàng loạt các rủi ro trong đó có rủi ro tín dụng. « Rủi ro do quá trình tự do hóa tài chính, hội nhập quốc tế: Quá trình tự do hoá tài chính và hội nhập quốc tế có thể làm cho nợ xấu ngày càng gia tăng khi tạo ra một môi trường cạnh tranh gay gắt, khốc liệt, khiến những khách hàng thường xuyên của ngân hàng phải đối mặt với nguy cơ thua lỗ và quy luật chọn lọc khắc nghiệt của thị trường. Thêm vào đó, sự cạnh tranh của các ngân hàng thương mại Việt Nam và nước ngoài trong môi trường hội nhập kinh tế cũng khiến cho các ngân hàng trong nước có hệ thống quản lý yếu kém gặp phải nguy cơ rủi ro nợ xấu tăng lên bởi hầu hết các khách hàng có tiềm lực tài chính lớn sẽ bị các ngân hàng nước ngoài thu hút. « Rủi ro do tràn lan hàng nhập lậu: Nước Việt Nam ta có hàng trăm kilomet biên giới đường bộ và đường biển, do đó việc buôn bán hàng lậu qua biên giới là không tránh khỏi. Cuộc chiến đấu với hàng lậu đã kéo dài từ nhiều năm nay, song kết quả hàng lậu vẫn tràn lan tại các thành phố lớn, làm các doanh nghiệp trong nước và các ngân hàng đầu tư vốn cho các doanh nghiệp này gặp không ít khó khăn, rủi ro cũng từ đấy phát sinh. 2.4.1.2.Các yếu tố về môi trường pháp lý: ü Nhiêu khê trong áp dụng thi hành luật pháp: Luật và các văn bản có liên quan của Việt Nam không đồng bộ, và còn nhiêu khê, cụ thể là việc quy định Ngân hàng thương mại có quyền xử lý tài sản đảm bảo nợ vay khi khách hàng không trả được nợ, tuy nhiên để thực hiện được điều này thì rất khó và tốn nhiều thời gian. Hơn nữa, trên thực tế, các ngân hàng thương mại không làm được điều này vì ngân hàng là một tổ chức kinh tế, không phải là cơ quan quyền lực Nhà nước nên không có chức năng cưỡng chế, nếu có thì cũng chờ đưa ra Toà án xử lý qua con đường tố tụng, dẫn đến thời gian thu hồi được nợ là khá lâu, tốn nhiều chi phí cũng như nhân lực. ü Vẫn chưa có hiệu quả trong việc thanh tra, kiểm tra, giám sát của Ngân hàng Nhà nước: Mô hình tổ chức của thanh tra ngân hàng còn nhiều bất cập, chưa hiệu quả, hoạt động thanh tra giám sát thường chỉ tại chỗ là chủ yếu, còn thụ động theo kiểu xử lý những việc đã phát sinh, ít có khả năng ngăn chặn và phòng ngừa rủi ro. Vì thế có những sai phạm của các ngân hàng thương mại không được thanh tra ngân hàng Nhà nước cảnh báo sớm, có biện pháp ngăn chặn từ đầu, để đến khi hậu quả nặng nề xảy ra rồi mới can thiệp. ü Hệ thống thông tin quản lý còn yếu kém: Cách đây 10 năm, Việt Nam bị đánh giá là có môi trường thông tin kém minh bạch và thiếu nguồn dữ liệu thông tin. Đến nay môi trường thông tin đã được cải thiện, các cơ quan thông tin sau một thời gian hoạt động trong nền kinh tế thị trường đã thu thập và lưu trữ được những thông tin tối thiểu cần thiết. Một vài cơ quan thông tin đang hoạt động ở Việt Nam như Trung tâm Thông tin doanh nghiệp của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Trung tâm Thông tin của Tổng cục Thống kê, Trung tâm Đăng ký tài sản thế chấp của Bộ tư pháp, các trung tâm thông tin tín dụng ngân hàng (CIC). Trong đó, kênh cung cấp thông tin về tình hình hoạt động tín dụng tốt nhất ở Việt Nam hiện nay chính là trung tâm thông tin tín dụng ngân hàng (CIC) của ngân hàng Nhà nước. CIC đã hoạt động được hơn một thập niên, cung cấp kịp thời về tình hình tín dụng nhưng vẫn còn nhiều hạn chế và yếu kém. Thông tin thiếu cập nhật, cung cấp đơn điệu, chưa đáng tin cậy tuyệt đối. Việt Nam vẫn còn hạn chế trong khâu quản lý thông tin, cung cấp thông tin minh bạch, do đó sẽ là thách thức cho hệ thống ngân hàng trong việc mở rộng và kiểm soát tín dụng. Nếu các ngân hàng cạnh tranh bằng cách cố gắng chạy theo thành tích, tăng trưởng tín dụng trong điều kiện môi trường thông tin bất đối xứng thì không tránh khỏi nguy cơ nợ xấu gia tăng. 2.4.1.3.Các vấn đề về môi trường: Những ngành nghề kinh doanh của khách hàng có liên quan đến vấn đề về môi trường, vi phạm bảo vệ môi trường sẽ làm tổn thất đối với ngân hàng trong việc thu hồi nợ. 2.4.1.4.Những thảm họa bất ngờ: Những thảm họa bất ngờ như thiên tai, động đất, hoả hoạn,… gây nên cho khách hàng sẽ gây nguy cơ nợ xấu gia tăng cho ngân hàng. 2.4.2.Rủi ro tín dụng do nguyên nhân từ khách hàng vay: « Sử dụng vốn sai mục đích, không có thiện chí trong việc trả nợ: Khi cho vay các ngân hàng đều mong muốn khách hàng sử dụng vốn đúng mục đích, có mục đích hợp lý, sử dụng hiệu quả để có thể tái sinh đủ bù đắp các khoản nợ vay. Đối với các doanh nghiệp, khi vay vốn đều có mục đích rõ ràng, phương án kinh doanh cụ thể và khả thi; đối với các thể nhân thì có kế hoạch trả nợ cụ thể và khả thi. Tuy nhiên khách hàng sau khi vay lại sử dụng vốn sai mục đích, không có thiện chí trả nợ sẽ làm cho các ngân hàng bị tổn thất và rủi ro trong vấn đề thu hồi nợ. « Khả năng quản lý hoạch định chiến lược kinh doanh kém: Nếu chiến lược kinh doanh không được quản lý hoạch định tốt sẽ ảnh hưởng đến nguồn trả nợ. Ngân hàng cho vay dựa trên kế hoạch, chiến lược kinh doanh vì đấy là nguồn trả nợ tốt nhất, tuy nhiên nếu sự quản lý hoạch định ấy yếu kém, sẽ làm cho phương án kinh doanh có thể đi vào phá sản. « Tình hình tài chính doanh nghiệp yếu kém, thiếu minh bạch: Hiện nay báo cáo tài chính của các doanh nghiệp cung cấp vẫn chưa phải là nguồn thông tin xác thực, mặc dù có những báo cáo tốt, có lợi nhuận nhưng bên trong tiềm ẩn, chứa đựng nhiều vấn đề, rủi ro. Do đó ngân hàng không có căn cứ chính xác đáng tin cậy dựa vào thông tin doanh nghiệp cung cấp mà phải dùng tài sản thế chấp làm chỗ dựa để phòng chống rủi ro tín dụng. « Hiểu biết hạn chế về sản phẩm, công nghệ và thị trường. « Hoạt động kinh doanh được mở rộng quá khả năng kiểm soát. « Hạn chế về khả năng hoạch định và kiểm soát chi phí Nghiên cứu và Phát triển (R&D) sản phẩm. « Sản phẩm được đưa ra thị trường quá sớm. « Phụ thuộc quá lớn vào một hay vài khách hàng thị trường chủ chốt. « Quá chú trọng đến tốc độ tăng trưởng và bỏ quên chất lượng tăng trưởng. « Việc thực hiện dự án bị trì hoãn hoặc chậm tiến độ. 2.4.3.Rủi ro tín dụng do nguyên nhân từ phía ngân hàng cho vay: 2.4.3.1.Công tác kiểm tra giám sát nội bộ các ngân hàng còn yếu kém: Mỗi ngân hàng nên có kiểm toán nội bộ thường xuyên thanh tra, kiểm tra giám sát hoạt động của ngân hàng mình. Ưu thế của kiểm toán nội bộ là nhanh chóng, kịp thời và sâu sát với những vấn đề phát sinh để khắc phục ngay, phòng ngừa hạn chế được rủi ro. Tuy nhiên trong thời gian trước đây, công việc kiểm toán nội bộ của các ngân hàng hầu như chỉ tồn tại trên hình thức, chưa triệt để và nghiêm túc, do đó vẫn chưa thật sự hiệu quả trong việc quản lý rủi ro tại các ngân hàng. 2.4.3.2.Nhân viên ngân hàng thiếu đạo đức và trình độ chuyên môn nghiệp vụ, cố tình gian lận, lừa đảo: Con người là vốn quý của nhân loại, sử dụng người có tài có đức sẽ giúp ích rất nhiều trong bất kỳ lĩnh vực nào. Tuy nhiên, nếu nhân viên thiếu đạo đức, yếu kém về trình độ chuyên môn nghiệp vụ sẽ gây hậu quả không nhỏ cho ngân hàng. Cụ thể có nhiều vụ lừa đảo chiếm đoạt tài sản, tiền vốn ngân hàng nguyên nhân xuất phát từ sự tiếp tay của các nhân viên ngân hàng như làm giả hồ sơ, lập khống chứng từ, định giá tài sản đảm bảo cao hơn nhiều so với thực tế, như Nguyễn Lê Việt – cán bộ ngân hàng Eximbank, hay Phạm Nhật Hồng – phó giám đốc ngân hàng Công thương chi nhánh TPHCM… Riêng nhân viên yếu kém thiếu năng lực không nhận biết được thật giả trong hồ sơ giấy tờ, gây thiệt hại cho ngân hàng. Đạo đức của nhân viên là một trong các yếu tố quan trọng, cần thiết trong việc hạn chế rủi ro tín dụng. Một nhân viên kém về năng lực có thể bồi dưỡng thêm, nhưng một nhân viên tha hóa về đạo đức mà lại giỏi về nghiệp vụ thì vô cùng nguy hiểm khi bố trí trong khâu tín dụng. 2.4.3.3.Thiếu giám sát và quản lý sau cho vay: Thông thường, các ngân hàng vẫn chưa chú trọng đến công tác giám sát quản lý sau cho vay mà tập trung chủ yếu trước cho vay. Tuy nhiên việc theo dõi giám sát sau cho vay là rất cần thiết và quan trọng. Thường xuyên thăm hỏi khách hàng sẽ giúp ngân hàng sớm phát hiện ra được vấn đề khó khăn, nguy cơ tiềm ẩn của khách hàng cũng như những cơ hội bán chéo sản phẩm, vừa mang lại thêm lợi nhuận cho ngân hàng vừa giảm thiểu được rủi ro. 2.4.3.4.Chưa có sự hợp tác giữa các ngân hàng: Ngày nay, tình hình cạnh tranh giữa các ngân hàng ngày càng gay gắt, do đó hiếm có sự hợp tác với nhau để nắm bắt kịp thời thông tin về khách hàng vay. Sẽ không thể không có trường hợp một khách hàng vay tại nhiều ngân hàng, khi đấy nếu không có sự phối hợp, hợp tác chia sẻ thông tin giữa các ngân hàng sẽ không thẩm định được khả năng trả nợ của khách hàng gây rủi ro thiệt hại không loại trừ ai. Như vậy, rủi ro tín dụng có thể phát sinh do rất nhiều nguyên nhân, đòi hỏi cần phải có các biện pháp để phòng chống rủi ro tương ứng với các nguyên nhân đó. Tuy nhiên, sẽ có những biện pháp có thể nằm trong tầm tay của các ngân hàng thương mại nhưng cũng có những biện pháp vượt ngoài khả năng của riêng từng ngân hàng. Rủi ro tín dụng của công ty Bông Bạch Tuyết tại ngân hàng Maritime Bank xuất phát từ cả 3 nguyên nhân chính: hoàn cảnh khách quan, từ phía khách hàng và cả ngân hàng. Do tác động của bất ổn thị trường kinh tế Việt Nam, chi phí tăng cao, chính sách tiền tệ thắt chặt, lãi suất điều chỉnh tăng đã làm cho tình hình kinh doanh của công ty càng trở nên khó khăn hơn, nguồn vốn thiếu hụt không được bù đắp, khả năng trả nợ suy giảm. Về phía công ty, không minh bạch thông tin, báo cáo tài chính thiếu rõ ràng chính xác, từ lãi gần 2 tỷ đồng, sau khi hồi tố thì lỗ hơn 8 tỷ đồng. Ngân hàng thiếu sự giám sát quản lý sau cho vay, khả năng thẩm định yếu kém. Nhiều nguyên nhân trên dẫn đến mất khả năng chi trả các khoản nợ đến hạn của công ty tại ngân hàng. Từ sự kiện công ty Bông Bạch Tuyết, chắc hẳn các ngân hàng thương mại cổ phần đã rút ra được khá nhiều kinh nghiệm cho bản thân mình, từ sự yếu kém trong công tác quản lý rủi ro tín dụng sẽ không tránh khỏi còn nhiều Bông Bạch Tuyết chưa được phát hiện ra. Ä Trong chương 2, tác giả đã hoàn thành một số nghiên cứu sau: Khái quát đặc điểm nền kinh tế Việt Nam tác động đến hoạt động tín dụng, tình hình tín dụng cụ thể là tỷ lệ an toàn vốn, hệ số nợ quá hạn, hệ số rủi ro tín dụng, tỷ lệ nợ xấu… tại tám ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam trong thời gian từ năm 2005 đến 2007 và dự báo tình hình nợ xấu trong tương lai gần. Đưa ra những dấu hiệu nhận biết sớm các khoản tín dụng có vấn đề và nguyên nhân gây ra chúng trong đó có khách quan và chủ quan, để làm tiền đề cho các giải pháp quản lý hạn chế rủi ro tín dụng tại các ngân hàng thương mại Việt Nam. CHƯƠNG 3: KIẾN NGHỊ NHỮNG GIẢI PHÁP HẠN CHẾ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM Thời gian bình ổn của thị trường tín dụng đã qua đi, sự tăng trưởng tín dụng đột biến trong thời gian gần đây cùng với tình hình kinh tế ngày càng khó khăn sẽ không tránh khỏi những rủi ro tín dụng gây ra, những khoản nợ xấu gia tăng, ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của hệ thống ngân hàng. Từ những số liệu thống kê phân tích trên, những nguyên nhân dấu hiệu nhận biết rủi ro tín dụng, ví dụ điển hình về chất lượng tín dụng tại ngân hàng Việt Nam cho thấy vẫn còn nhiều khó khăn, rủi ro luôn bao vây rình rập chúng ta, nếu không có chính sách quản lý tốt, giải pháp hạn chế hữu hiệu thì không ít trường hợp công ty Bông Bạch Tuyết còn tiếp diễn và những khoản nợ trở nên khó thu hồi. Trong bối cảnh nhu cầu về vốn phục vụ cho phát triển kinh tế xã hội, mà vẫn đảm bảo nâng cao được chất lượng, đạt hiệu quả trong hoạt động tín dụng, kiểm soát được rủi ro tín dụng thì cần phải có nhiều giải pháp được thực hiện đồng bộ. Sau đây tôi xin đưa ra một số giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng ở các ngân hàng thương mại Việt Nam. 3.1.VĨ MÔ 3.1.1. Đảm bảo môi trường kinh tế chính trị xã hội ổn định: Môi trường kinh tế chính trị xã hội có ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động tín dụng. Trong điều kiện khi Việt Nam hòa nhập vào nền kinh tế thế giới thì cạnh tranh càng cao, nền kinh tế dễ biến động, doanh nghiệp dễ có nguy cơ mất khả năng thanh toán, phá sản. Hơn nữa, hiện nay có nhiều ngân hàng mới được thành lập, trong khi thị trường có hạn nên cạnh tranh ngày càng khốc liệt, từ đó chất lượng tín dụng ngày càng giảm thấp. Đảm bảo các môi trường này ổn định sẽ giúp cho các doanh nghiệp cũng như khách hàng hoạt động kinh doanh có hiệu quả hơn, khả năng hoàn trả nợ vay ngân hàng cao. Để đảm bảo môi trường ổn định có nhiều cách, trong đó không thể không có sự can thiệp của Chính phủ như đề ra các quy định về vốn điều lệ, nhân sự,… giảm thiểu sự thành lập các ngân hàng, nâng cao chất lượng ngân hàng, cũng như điều tiết nền kinh tế, giảm thiểu những khó khăn do thị trường gây ra tác động lên các doanh nghiệp. 3.1.2. Nâng cấp hệ thống thông tin minh bạch chính xác: Trong hoạt động tín dụng, thông tin về khách hàng vay vốn của các ngân hàng thương mại rất quan trọng, mục đích ngăn ngừa rủi ro và góp phần ổn định hệ thống ngân hàng. Hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại là cho vay với lòng tin khách hàng sẽ hoàn trả theo thoả thuận. Muốn cho vay đảm bảo được an toàn, ngân hàng phải nắm đầy đủ các thông tin khách hàng để xem xét, quyết định cho vay và giám sát sau khi vay như thông tin hồ sơ pháp lý, tình hình tài chính, tình trạng nợ nần, tài sản bảo đảm, khả năng hoàn trả và các thông tin cần thiết khác của khách hàng vay. - Thông tin về hồ sơ pháp lý như tên khách hàng, địa chỉ, quyết định thành lập, đăng ký kinh doanh, các chi nhánh hoặc đơn vị trực thuộc, họ tên và trình độ người lãnh đạo, nghề nghiệp kinh doanh, mặt hàng sản xuất, kinh doanh chủ yếu, thị trường tiêu thụ sản phẩm... - Thông tin về tình hình tài chính bao gồm tình hình vốn, kết quả sản xuất kinh doanh, lưu chuyển tiền tệ, qua đó ngân hàng có thể đánh giá khả năng tài chính, hoạt động và phát triển của khách hàng. - Thông tin về tình hình quan hệ tín dụng gồm các khoản vay tại các tổ chức tín dụng, tổ chức khác, thời hạn trả của các khoản vay đó, lịch sử quan hệ tín dụng của khách hàng đối với các tổ chức tín dụng đã cho vay - Thông tin về xếp loại tín dụng của khách hàng từ các cơ quan xếp loại bên ngoài và kết quả xếp loại nội bộ của ngân hàng thương mại. - Thông tin liên quan đến dự án xin vay của khách hàng, ngân hàng cần xem xét khả năng trả nợ của khách hàng từ việc thực hiện dự án và các thông tin khác liên quan đến tính khả thi của dự án. - Thông tin về môi trường kinh doanh có liên quan đến ngành nghề, lĩnh vực hoạt động của khách hàng, thông tin kinh tế, thị trường, xu thế phát triển, tiềm năng của ngành. Để có thể cung cấp các thông tin đó cho ngân hàng thương mại một cách đầy đủ và có hiệu quả, cần phải có những cơ quan chuyên môn thu thập, xử lý và cung cấp thông tin tín dụng. Tuy nhiên trên thực tế, việc cung cấp thông tin này còn hạn chế và thiếu minh bạch chính xác. Mặc dù đã có nhiều kênh cung cấp thông tin, nhưng vẫn không tránh khỏi thiếu sót như tình hình dư nợ, vay nợ của khách hàng, tình trạng thế chấp bất động sản ở nhiều nơi,… Do vậy, việc nâng cấp hệ thống thông tin minh bạch chính xác là rất cần thiết và hữu ích, các kênh cung cấp thông tin cần phải cập nhật thường xuyên, cẩn thận, có kế hoạch lưu trữ thông tin hợp lý, hiệu quả. Chính phủ cần có các biện pháp, ban hành luật định xử lý nghiêm các đơn vị cố tình che giấu, khai báo, cung cấp sai sự thật ảnh hưởng đến hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại. 3.1.3. Chính phủ cần hoàn thiện quy trình xử lý tài sản đảm bảo, rút ngắn thời gian giải quyết hồ sơ để các ngân hàng nhanh chóng thu hồi nợ: Mặc dù luật và các văn bản có liên quan của Việt Nam quy định Ngân hàng thương mại có quyền xử lý tài sản đảm bảo nợ vay khi khách hàng không trả được nợ, tuy nhiêncơ chế pháp lý chưa rõ ràng, đặc biệt là quyền sử dụng đất. Theo Nghị định 178/1999/NĐ-CP ngày 29/12/1999 của Chính phủ tại điểm 4, điều 34 cho phép tổ chức tín dụng (TCTD) có quyền xử lý tài sản bảo đảm nói chung và tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất nói riêng nếu không đạt được sự thỏa thuận giữa các bên. Tuy nhiên, Thông tư liên tịch số 03/2001/TTLT-NHNN-BTP-BCA-BTC-TCĐC giữa Liên bộ Ngân hàng Nhà nước, Bộ tư pháp, Bộ công an, Bộ tài chính, Tổng cục địa chính ngày 29.4.2001 (sau đây gọi tắt là Thông tư 03) quy định TCTD không được trực tiếp bán hay được trực tiếp nhận quyền sử dụng đất để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm. Và theo Khoản 2 – Mục III của thông tư này, nếu không đạt được sự thỏa thuận của các bên thì TCTD phải đưa ra bán đấu giá hay khởi kiện ra Tòa: “Trường hợp tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất không xử lý được theo thoả thuận của các bên trong hợp đồng thì tổ chức tín dụng đưa tài sản ra bán đấu giá để thu hồi nợ hoặc khởi kiện ra tòa án”. Việc này gây cản trở cho các ngân hàng thương mại khi xử lý tài sản thế chấp trong thực tế,việc xử lý thu hồi nợ còn mất nhiều thời gian và qua nhiều khâu đoạn, do: - Ngân hàng chuyển hồ sơ của tài sản đảm bảo sang Trung tâm bán đấu giá chuyên trách thuộc Sở tư pháp để xử lý, tuy nhiên tiến độ xử lý quá chậm, mất nhiều thời gian, thậm chí có nhiều trường hợp tồn đọng không xử lý được. Việc này do nhiều nguyên nhân, trong đó có một nguyên nhân không thể không nhắc đến là hoạt động của Trung tâm bán đấu giá kém hiệu quả. Khi đó, không ít trường hợp ngân hàng có thể phối hợp với người có tài sản đảm bảo để xử lý hoặc tự xử lý được, nhưng khi tiến hành chuyển quyền sử dụng đất hoặc tài sản gắn liền với đất cho người mua, thì các cơ quan chức năng từ chối việc thực hiện công chứng, đăng bộ,… với lý do quyền sử dụng đất trong trường hợp này phải thông qua Trung tâm bán đấu giá chuyên trách theo quy định. - Khi xử lý tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất, theo Khoản 3 – Mục III, phần B của Thông tư Liên tịch 03, thì TCTD phải xin phép Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền cho phép bán đấu giá, làm cho quy trình bán đấu giá càng mất nhiều thời gian và thủ tục: ° 15 ngày xin cơ quan có thẩm quyền cho phép bán đấu giá tài sản. ° 15 ngày thực hiện việc đăng ký bán đấu giá tài sản. ° 30 ngày niêm yết tài sản bán đấu giá. ° 60 ngày cho thời gian cấp giấy chứng nhận cho người mua tài sản. - Công tác thi hành án còn chậm. Trong thực tế có nhiều bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực thi hành và đã có đơn yêu cầu thi hành án của ngân hàng. Nhưng cơ quan thi hành án vẫn chưa thi hành án với nhiều lý do như bản án chưa rõ ràng, hoặc lý do khác. Những trường hợp đó, ngân hàng phải chờ cơ quan thi hành án làm việc lại với Tòa án. Thời gian chờ đợi này thường kéo dài hàng tháng thậm chí nửa năm ngân hàng mới nhận được văn bản trả lời của cơ quan thi hành án. Một ví dụ điển hình là vụ án Công ty Thuận Thuận An, sau khi mất khả năng thanh toán các khoản nợ tại ngân hàng Kỹ thương, từ năm 2004 ngân hàng tiến hành các thủ tục pháp lý cần thiết để phát mãi tài sản đảm bảo là quyền sử dụng đất và sở hữu nhà thu hồi nợ. Tuy nhiên mất một thời gian khá lâu (từ năm 2004 đến năm 2006), tốn nhiều chi phí, đi lại, mới có quyết định của Tòa án có hiệu lực thi hành, song ngân hàng vẫn chưa thu hồi được nợ mãi đến cuối tháng 02 năm 2008, nhưng chỉ thu hồi được một phần nợ gốc. Điều này cho thấy, để một TCTD có thể thu hồi được nợ từ việc phát mãi tài sản đảm bảo không phải đơn giản, nhanh chóng, không phải là việc có thể xử lý dễ dàng trong tầm tay. Trong nền kinh tế thị trường, đi đôi với sự sinh sôi phát triển các doanh nghiệp làm ăn hiệu quả là sự phá sản của các doanh nghiệp kinh doanh hoạt động yếu kém, đào thải trong cạnh tranh là quy luật khách quan, không phụ thuộc vào ý chí của nhà doanh nghiệp. Ngân hàng thương mại với chức năng trung gian tài chính, luôn phải gánh chịu những khoản nợ tồn đọng là tất nhiên. Việc áp dụng các giải pháp khai thác và thanh lý đối với các khoản nợ chuyển quá hạn đều là giải pháp tác động của ngân hàng lên khách hàng khi mọi việc đã rồi, vì thế ngân hàng luôn ở trạng thái bị động. Để việc xử lý thu hồi nợ được nhanh hơn và giảm thiểu chi phí, Chính phủ cần hoàn thiện quy trình xử lý tài sản đảm bảo từ khâu đấu giá đến khâu thi hành án, rút ngắn thời gian giải quyết hồ sơ cũng như khuyến khích giao dịch thoả thuận đúng luật nhằm giúp các ngân hàng nhanh chóng thu hồi được nợ từ các tài sản đảm bảo. 3.2.VI MÔ 3.2.1. Quản lý thanh tra chế độ báo cáo: Hệ thống quản lý thanh tra giám sát của các ngân hàng thương mại cổ phần hiện nay vẫn còn coi trọng công tác thanh tra tại chỗ, xem nhẹ công tác thanh tra giám sát từ xa và kiểm toán nội bộ. Việc giám sát từ xa, kiểm toán nội bộ mục đích là cung cấp những thông tin cần thiết, tín hiệu cảnh báo nhằm ngăn chặn sớm, phát hiện kịp thời những sự cố để có hướng khắc phục, phòng ngừa hiệu quả. Muốn thực hiện được tốt vấn đề này, các ngân hàng thương mại cổ phần cần phải xây dựng, thiết lập đội ngũ kiểm tra giám sát có trình độ, chuyên môn cao, luôn được đào tạo nghiệp vụ vững chắc và cập nhật mới để nắm bắt kịp thời những sự cố và kinh nghiệm thực tiễn. Bên cạnh đó phải định kỳ kiểm tra giám sát các hoạt động của ngân hàng để giảm thiểu được những sai sót có thể xảy ra. Đồng thời phải thực hiện nghiêm ngặt các chế độ báo cáo, báo cáo hàng tháng, hàng quý đều đặn, đảm bảo tính chính xác khách quan và minh bạch. 3.2.2. Xây dựng quy trình quản lý rủi ro tín dụng: Quy trình quản lý rủi ro tín dụng có bốn giai đoạn cơ bản: khởi đầu và giải ngân; giám sát và quản lý; thu hồi và xử lý nợ; thẩm định lại rủi ro tín dụng. Mỗi ngân hàng nên có một quy trình quản lý rủi ro tín dụng cho riêng mình, nhưng vẫn đảm bảo đầy đủ các giai đoạn. Xây dựng và thực hiện tốt quy trình có ý nghĩa rất quan trọng trong việc hạn chế sai sót, rủi ro, nâng cao chất lượng tín dụng. 3.2.2.1.Khởi đầu và giải ngân: Đây là giai đoạn đầu tiên trong quy trình. Giai đoạn này, các ngân hàng thương mại cần phải làm tốt, làm kỹ ngay từ lúc bắt đầu, cụ thể như việc thu thập thông tin, thẩm định khách hàng,... trong đó cần chú trọng đến các khâu như: -So sánh kết quả xếp hạng khách hàng nội bộ với xếp hạng của các cơ quan xếp hạng bên ngoài (hiện tại là CIC). -Phân tích cơ cấu nợ, mục đích là để xác định những tác động của cơ cấu nợ đối với nguy cơ vỡ nợ của khách hàng. Nếu cơ cấu nợ không hợp lý và hiệu quả thì người trả nợ sẽ bị hạ thấp loại xếp hạng. Hai khâu này cần phải được tiến hành phối hợp cùng với nhau mới phát huy được tối đa hiệu quả. Xếp hạng khách hàng là một phương pháp định lượng về khả năng vỡ nợ của người vay, theo thang điểm từ 0 đến 12, điểm 12 tương đương với mức vỡ nợ, điểm 11 tương đương với mức nguy cơ vỡ nợ cao nhất. Bảng 3.1: Xếp hạng khách hàng Rủi ro Cấp độ Những cấp độ xếp hạng tương ứng với xếp hạng của S&P hoặc Moody's Thấp 1 2 3 AAA AA A Trung bình 4 5 6 7 8 9 BBB+/BBB BBB- BB+/BB BB- B+/B B- Cao 10 11 12 CCC+/CCC CC- Vỡ nợ Bên cạnh thông tin xếp hạng của các tổ chức khác, mỗi ngân hàng nên đánh giá xếp hạng khách hàng của mình dựa trên những tiêu chí, thang điểm đề ra để có thể căn cứ vào đấy hoạch định kế hoạch cho vay cũng như phương án thu hồi nợ khả thi. Đánh giá rủi ro của khách hàng là việc đánh giá mức độ tổn thất ước tính tương ứng với từng mức độ rủi ro khác nhau. Bảng 3.2: Đánh giá rủi ro khách hàng Xếp loại Mức độ rủi ro Giải thích khái niệm Đánh giá người vay 1 Ít rủi ro Có khả năng thanh toán các khoản nợ ở mức độ cao nhất Bình thường 2 Rủi ro không đáng kể Có khả năng thanh toán các khoản nợ cao 3 Rủi ro một chút Có đủ khả năng thanh toán các khoản nợ 4 Rủi ro thấp hơn mức trung bình Có khả năng thanh toán các khoản nợ, tuy nhiên những thay đổi lớn trong môi trường tương lai sẽ có một vài tác động tới khả năng này 5 Rủi ro trung bình Tương lai không có vấn đề gì, tuy nhiên những thay đổi lớn trong môi trường có thể gây tác động 6 Rủi ro trên trung bình một chút Tương lai không có vấn đề gì, tuy nhiên không được xem là an toàn tuyệt đối trong tương lai 7 Rủi ro cao hơn mức trung bình Hiện tại không có vấn đề gì, tuy nhiên khả năng tài chính của người vay ở mức độ tương đối yếu Cần chú ý 8 Rủi ro cần được quản lý ngăn ngừa Có vấn đề với những điều khoản cho vay hay thi hành, hoặc tình trạng kinh doanh của người vay xấu và không ổn định, hoặc có những nhân tố đòi hỏi phải quản lý cẩn thận Có nguy cơ phá sản 9 Rủi ro cần được quản lý kỹ Có khả năng xảy ra phá sản cao trong tương lai 10 Vỡ nợ Người vay lâm vào tình trạng tài chính cực kỳ khó khăn và có nguy cơ phá sản hoặc người vay đang bị phá sản Sắp phá sản hoặc đang phá sản Thẩm định tín dụng mục đích là để hiểu biết về khách hàng, khả năng sinh lợi, phát hiện và chú trọng rủi ro để từ đó giảm thiểu rủi ro. Thẩm định khách hàng bao giờ cũng tồn tại mâu thuẫn giữa một bên là thẩm định quá kỹ thì chậm, khách hàng bỏ đi, với một bên là thẩm định qua loa thì rủi ro cao. Ngân hàng là một trung gian tài chính nên rủi ro trong hoạt động tín dụng là không thể tránh khỏi, những nhà quản lý ngân hàng giỏi phải biết chấp nhận rủi ro ở mức có thể chấp nhận được. Do đó việc thẩm định khách hàng phải luôn tuân thủ theo quy trình đã được đề ra. Bám sát theo đúng quy trình định sẵn, việc thẩm định sẽ không phải tốn nhiều thời gian do phải định hướng, mà vẫn có thể đảm bảo giảm thiểu được rủi ro. Sau khi phân tích, đánh giá, thẩm định khách hàng, hồ sơ được duyệt, các ngân hàng tiến hành soạn thảo hồ sơ tín dụng mang tính ràng buộc chặt chẽ về mặt pháp lý và giải ngân. 3.2.2.2.Giám sát và quản lý: Trong thời hạn khoản vay, cần phải theo dõi việc sử dụng vốn vay của khách hàng, việc thực thi các phương án, kế hoạch trả nợ, rà soát bổ sung hồ sơ đảm bảo và đầy đủ. Mục đích nhằm giúp phát hiện kịp thời nhanh chóng những dấu hiệu cảnh báo sớm, những nguy cơ rủi ro tiềm ẩn để có biện pháp ngăn chặn, khắc phục, phòng ngừa. Cần chú trọng việc giám sát và quản lý sau cho vay, giúp các ngân hàng gần gũi với khách hàng hơn, nắm bắt kịp thời nhu cầu cũng như những khó khăn để tư vấn và cùng nhau giải quyết. Muốn thực hiện được, nhân viên ngân hàng cần phải định kỳ thăm hỏi khách hàng, giám sát tình hình tài chính, đánh giá lại tiềm lực, khả năng của khách hàng, đồng thời rà soát lại hồ sơ vay, cập nhật tình hình biến động của thị trường, ngành nghề kinh doanh, những thay đổi dù nhỏ của khách hàng. 3.2.2.3.Thu hồi và xử lý nợ: Giai đoạn thu hồi và xử lý nợ cũng vô cùng quan trọng. Bên cạnh việc rà soát lại hồ sơ, nhân viên ngân hàng cũng phải thường xuyên theo dõi việc trả nợ của khách hàng. Tiến độ trả nợ một phần đánh giá nên tiềm lực của khách hàng, cũng như thái độ cộng tác, nguy cơ rủi ro trong tương lai. Nếu việc trả nợ đang tốt, bỗng dưng chậm lại một vài kỳ, nhưng vẫn thanh toán đủ, nhân viên ngân hàng cần phải tìm hiểu nguyên nhân, để tìm biện pháp khắc phục, thậm chí có thể giúp ích được cho khách hàng bằng cách trao đổi với đối tác khách hàng khi cần thiết, tư vấn cho khách hàng những phương án mới giúp nhanh thu hồi được vốn... Nếu việc trả nợ thường xuyên chậm và để quá hạn nhiều kỳ, ngoài việc theo dõi, tìm hiểu nguyên nhân, đôn đốc khách hàng trả nợ, nhân viên ngân hàng cần phải tiến hành rà soát hồ sơ, thẩm định lại khả năng trả nợ và chuyển qua xử lý nợ. Việc xử lý nợ cần phải được tiến hành càng sớm càng tốt theo đúng trình tự và thủ tục, nên có một bộ phận hoặc công ty xử lý nợ riêng biệt để tăng thêm tính chuyên môn hoá cao và đạt được hiệu quả như ý muốn. Sau khi rà soát thẩm định lại khoản vay, khả năng trả nợ của khách hàng, nếu khoản vay vẫn còn có khả năng thu hồi, bộ phận xử lý nợ hoạch định kế hoạch và biện pháp thu hồi; nếu các khoản vay có nguy cơ mất khả năng thu hồi nợ, bộ phận xử lý nợ sẽ chuẩn bị phương án xử lý nội bộ, sau đó chuyển hồ sơ sang các cơ quan hữu quan có thẩm quyền thụ lý. 3.2.2.4.Thẩm định lại rủi ro tín dụng: Bên cạnh các giai đoạn trên, việc thẩm định lại rủi ro tín dụng nhằm giúp cho các ngân hàng xác định được mức độ tổn thất khi vỡ nợ có thể xảy ra để ngăn ngừa hoặc dùng quỹ dự phòng trích lập, xử lý trước. Đối với những khoản vay không có bảo đảm, việc đánh giá mức độ tổn thất khi vỡ nợ phụ thuộc vào giá trị hiệu quả ròng trong bảng cân đối kế toán của khách hàng, tỷ trọng của tín dụng không bảo đảm/tổng giá trị tín dụng. Đối với những khoản vay có bảo đảm, việc xác định mức độ tổn thất khi vỡ nợ được tiến hành theo hai khâu. Một là xác định giá trị của khách hàng, xem xét tài sản của khách hàng có thể bán đi và có những cách thức tin cậy giúp xác định giá trị tài sản này hay không. Hai là xác định liệu những tài sản nhất định của khách hàng có thể được thanh lý độc lập với nhau hay không khi vỡ nợ, nếu khách hàng phá sản thì còn lại được những gì? Việc thẩm định lại rủi ro tín dụng, xác định mức độ thiệt hại khi vỡ nợ xảy ra, hoặc là hậu quả của việc không trả được nợ để xác định mức độ tổn thất ước tính là nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến mức dự phòng rủi ro mà các ngân hàng đặt ra. Hoạt động của ngân hàng là phân bổ nguồn vốn kinh tế dựa trên mức độ tổn thất ước tính nhưng cần chú ý tính toán các khoản vay sao cho có thể bù đắp được những tổn thất dự kiến và các tổn thất ngoài dự kiến, tức là cần phải tính đến cả các yếu tố như khả năng vỡ nợ, mức độ tổn thất thực tế khi vỡ nợ và tổn thất thông thường khi vỡ nợ. Chi tiết hoá quy trình quản lý rủi ro tín dụng bao gồm các giai đoạn như trên ta có sơ đồ sau: QUY TRÌNH QUẢN LÝ RỦI RO TÍN DỤNG [IMG]file:///C:/DOCUME%7E1/hung/IMPOST%7E1/Temp/msohtml1/01/clip_image018.gif[/IMG] 3.2.3. Trong sạch hoá đội ngũ cán bộ, nhân viên ngân hàng: Từ trước đến nay, đã có rất nhiều vụ án lừa đảo, chiếm đoạt tài sản, gây hậu quả nghiêm trọng trong hệ thống ngân hàng mà xuất phát từ cán bộ, nhân viên ngân hàng như Phạm Nhật Hồng, Nguyễn Lê Việt… Họ lợi dụng sơ hở trong các quy định, quy trình cấp tín dụng, thông đồng với khách hàng để làm giả giấy tờ rút vốn ngân hàng, nhận tiền của khách hàng gửi trả nợ ngân hàng khi đến hạn bỏ vào túi riêng,… gây rủi ro thiệt hại cho ngân hàng. Do vậy ngân hàng cần phải làm trong sạch hoá đội ngũ cán bộ, nhân viên bằng nhiều biện pháp như tăng cường công tác quản trị điều hành, kiểm tra kiểm soát, thực hiện nghiêm túc các quy định, quy trình cấp tín dụng; rà soát chấn chỉnh công tác tổ chức cán bộ, chọn người có năng lực, phẩm chất đạo đức tốt bố trí vào các bộ phận thiết yếu quan trọng, giao dịch trực tiếp với khách hàng. 3.3.ĐIỀU KIỆN THỰC HIỆN 3.3.1. Đối với Nhà nước: -Ngân hàng Nhà nước nên rà soát lại các văn bản chồng chéo, thiếu đồng bộ, không còn phù hợp với thực tế để hệ thống các văn bản của ngành mang tính pháp lý cao. -Tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển thị trường mua bán nợ, thị trường bảo hiểm tín dụng để có thể giảm thiểu và phân tán rủi ro. -Có các chính sách thích hợp để thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản phát triển ổn định và vững chắc nhằm làm giảm rủi ro do các thị trường đó gây ra như tính thanh khoản, pháp lý,… -Cơ chế, chính sách của Nhà nước nên được đổi mới theo hướng cho phép ngân hàng áp dụng các thông lệ quốc tế trong việc xác định trước và trích lập dự phòng rủi ro. Quỹ dự phòng rủi ro hiện được trích theo phân loại nợ và bị đọng: đợi đến lúc quá hạn, trở thành nợ xấu mới trích, mà không hề tính toán theo mức độ rủi ro của khoản vay. -Các cơ quan chức năng có thẩm quyền cần tạo điều kiện hỗ trợ ngân hàng thu hồi nợ, nếu có xảy ra tranh chấp thì sử dụng luật dân sự, không nên hình sự hoá các quan hệ tín dụng. 3.3.2. Đối với Ngân hàng: Hoạt động tín dụng là hoạt động chính, nghiệp vụ chủ yếu mang lại thu nhập cho hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam, do đó việc nâng cao chất lượng, quản lý rủi ro tín dụng càng phải được thắt chặt hơn nữa trong tình hình kinh tế có nhiều biến động bất lợi và môi trường cạnh tranh gay gắt với các ngân hàng nước ngoài. Muốn thế các ngân hàng cần phải: -Thống nhất nhận thức và nhất quán trong việc thực hiện chính sách tín dụng với tầm nhìn dài hạn. -Chủ động xây dựng hệ thống thông tin, các chỉ số giúp cảnh báo trước về các nguy cơ có rủi ro cao cần phòng tránh, như xác định được những lĩnh vực, những ngành có tiềm ẩn rủi ro cao. -Đa dạng hoá danh mục đầu tư, đa dạng hoá khách hàng, không tập trung cho vay một loại khách hàng, ngành hàng hay lĩnh vực nào đó mà cần mở rộng đối tượng cho vay nhằm giảm thiểu và phân tán rủi ro. -Hợp tác và cạnh tranh hợp pháp giữa các ngân hàng. Có thể bằng hình thức cho vay đồng tài trợ nhằm tăng năng lực thẩm định, khả năng giám sát vốn vay và có thể chia nhỏ rủi ro khi có sự cố xảy ra. -Nên tổ chức và củng cố lại bộ phận tín dụng theo hướng chuyên môn hoá các khâu trong quy trình tín dụng, không nên cho một cán bộ chuyên trách một khoản vay từ khi bắt đầu đến khi kết thúc để giảm thiểu được rủi ro. -Tổ chức đánh giá, xếp loại tín dụng khách hàng để từ đó có sự chọn lựa giao dịch với các khách hàng có uy tín, hoạt động có hiệu quả nhằm ngăn chặn, giảm thiểu rủi ro ngay từ ban đầu. Ä Trong chương 3, tác giả đã đề ra một số giải pháp cần thiết quản lý rủi ro tín dụng tại các ngân hàng thương mại cổ phần, trong đó, có các giải pháp liên quan đến các cơ quan hữu quan như hoàn thiện hệ thống thông tin minh bạch kịp thời đáp ứng nhu cầu khai thác thông tin của ngân hàng, rút ngắn quy trình xử lý phát mãi tài sản để thu hồi nợ,… và các giải pháp liên quan trực tiếp đến bản thân các ngân hàng như thực hiện tốt việc báo cáo, thực hiện nghiêm quy trình cấp tín dụng, trong sạch hoá đội ngũ cán bộ, nhân viên ngân hàng,… Để thực hiện được tốt công tác quản lý rủi ro tín dụng tại các ngân hàng, đòi hỏi phải được phối hợp chặt chẽ, đồng bộ giữa bản thân ngân hàng và các cơ quan hữu quan. Nhà nước, Chính phủ cần tạo điều kiện thuận lợi cho các ngân hàng hoạt động và kiểm soát rủi ro tín dụng, đồng thời các ngân hàng cũng cần cố gắng xây dựng cho riêng mình quy trình quản lý rủi ro tín dụng sao cho có hiệu quả. PHẦN KẾT LUẬN Trên cơ sở tập hợp, luận giải, minh chứng, phân tích các dữ liệu, đề tài đã hoàn thành một số nội dung sau: -Hệ thống hoá mang tính lý luận về tín dụng, rủi ro tín dụng tại các ngân hàng thương mại. -Phân tích tình hình hoạt động tín dụng tại các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam từ năm 2005 đến năm 2007, tình hình nợ xấu trong tương lai gần. Qua đó đưa ra những dấu hiệu nhận biết sớm các rủi ro tiềm ẩn và tìm ra nguyên nhân của nó. -Đề ra các giải pháp giúp quản lý rủi ro tín dụng đạt hiệu quả trong hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam. Hy vọng qua nghiên cứu này, đề tài sẽ có đóng góp một phần nhỏ vào việc giúp các ngân hàng thương mại quản lý rủi ro tín dụng chặt chẽ hơn, kiểm soát được các khoản nợ xấu, các khoản nợ có vấn đề, nhận diện được sớm những rủi ro để từ đó có biện pháp xử lý hiệu quả, nâng cao chất lượng tín dụng như mong đợi, đủ sức cạnh tranh với các ngân hàng nước ngoài vào Việt Nam. Qua đây, tác giả xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của thầy hướng dẫn, các bạn đồng nghiệp, các ngân hàng thương mại cổ phần đã giúp đỡ, hoàn thành đề tài: “Quản lý rủi ro tín dụng tại các ngân hàng thương mại Việt Nam” và tác giả rất mong nhận được sự góp ý, giúp đỡ của các thầy cô phản biện để đề tài được hoàn thiện và tốt hơn.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doclua_n_van_qua_n_ly_ru_i_ro_ti_n_du_ng_5064.doc
Luận văn liên quan