Bổ sung định mức XDCB theo Quyết định số 1242/1998/QĐ-BXD ngày 25-11-1998 của Bộ trưởng Bộ Xây dựng một số nội dung, như: khoan mồi, thiết bị phòng cháy,
chữa cháy., hoặc định mức không phù hợp với tình hình hiện nay như một số định mức
trong công tác nội, ngoại thất (gia công, chế tạo, đồ gỗ.), định mức chi phí khác trong
công tác khảo sát, thiết kế (cắm cột mốc giải phóng mặt bằng, cắm cột tuyến.), định mức
trong công tác duy tu đường sắt, thông tin tín hiệu đường sắt, đơn giá vật tư chuyên ngành,
định mức đơn giá cho công tác quy hoạch phát triển KT-XH tỉnh, thành phố, vùng, khu
vực.
80 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2897 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giải pháp hạn chế thất thoát vốn trong đầu tư xây dựng cơ bản tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng tốt, cần phải chuyển cho tín dụng thì hoạt động mới có hiệu quả.
3.1.4. Tăng cường sự giám sát của xã hội dân sự
Cơ cấu của một quốc gia có nền kinh tế thị trường bao gồm 3 khu vực: nhà nước,
kinh doanh và xã hội dân sự. Sự tham gia của xã hội dân sự vào cuộc đấu tranh chống thất
thoát, lãng phí và tiêu cực trong ĐT&XD là rất quan trọng, nhằm quán triệt chủ trương của
Đảng là: "Các đảng viên và Chi bộ Đảng, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân, các cơ
quan thông tin đại chúng và toàn xã hội có trách nhiệm giám sát, kiểm tra cán bộ, công
chức, phát hiện, tố cáo, lên án những kẻ tham nhũng" [21, tr. 136].
Huy động sự tham gia của xã hội dân sự cũng chính là làm theo tư tưởng của Bác
Hồ về sức mạnh của nhân dân, của khối đại đoàn kết dân tộc, về quyền làm chủ của nhân
dân, xây dựng Nhà nước thực sự của dân, do dân và vì dân. Sự tham gia đó có thể được
thực hiện:
3.1.4.1. Các tổ chức xã hội nghề nghiệp
Nhiều tổ chức xã hội nghề nghiệp nước ta có liên quan đến ngành xây dựng như
hiệp hội tư vấn xây dựng, hiệp hội nhà thầu xây dựng, hội cầu đường, hội thủy lợi, hội cấp
thoát nước và Tổng hội Xây dựng Việt Nam cùng các hội thành viên của mình. Các tổ
chức này có lợi ích cơ bản trong việc thúc đẩy sự trưởng thành nhanh chóng của thị trường
xây dựng nước ta, tăng cường khả năng cạnh tranh quốc tế của ngành trong bối cảnh toàn
cầu hóa, xóa bỏ các trở ngại cho đầu tư trong nước và nước ngoài, tạo được sự tín nhiệm
để thu hút viện trợ phát triển, đóng góp vào việc thực hiện chiến lược toàn diện về tăng
trưởng và xóa đói, giảm nghèo nhằm đưa nước ta ra khỏi diện các nước nghèo và trở thành
một nước công nghiệp.
Giới kinh doanh xây dựng nước ta đang quen thuộc với việc đút lót các công chức
để nhận được công việc làm ăn, xem đó là một thứ luật chơi trong thực tế cuộc sống. Thế
nhưng một công việc làm ăn cũng chỉ đến với một số doanh nghiệp mà thôi, mà doanh nghiệp
này không hẳn là xứng đáng nhất, trong khi nhiều doanh nghiệp khác có năng lực phù hợp
hơn lại bị gạt ra ngoài cuộc chơi. Vì vậy hiệp hội doanh nghiệp phải vào cuộc để đấu tranh,
bảo vệ quyền lợi chính đáng cho đa số trong cộng đồng doanh nghiệp. Hiệp hội doanh nghiệp
có thể tham gia đấu tranh chống thất thoát bằng nhiều biện pháp, như:
- Thu nhập và công bố thông tin thị trường: Môi trường cạnh tranh sẽ hoàn hảo nếu
các doanh nghiệp được cung cấp đầy đủ và kịp thời các thông tin thị trường, như: thông tin
về tất cả các dự án, về các cuộc đấu thầu tư vấn, thi công, cung cấp thiết bị, tình hình ký kết
các hợp đồng kinh tế, các cuộc đấu thầu, kết quả đấu thầu và ký kết hợp đồng phải được công
bố trên báo của hiệp hội. Nếu có thể nên bắt buộc công bố cả giá trị quyết toán công trình.
- Hiệp hội định kỳ hoặc kịp thời bình luận về các hoạt động thị trường, nêu ra
những tình hình không minh bạch, như: kết quả đấu thầu bị xóa bỏ, giá trị hợp đồng vượt
trội giá trị trúng thầu, giá trị thanh toán vượt trội giá trị hợp đồng, hoặc tình trạng chậm
thanh toán khi không phải do thiếu vốn mà là biểu hiện của tham nhũng. Những bình luận
như vậy có tác động như lời "cảnh báo" và thu hút sự quan tâm của công luận.
- Tổ chức các hội thảo quốc gia và quốc tế về các chủ đề nóng bỏng của ngành
như đất xây dựng, chất lượng xây dựng, cạnh tranh trong xây dựng, xuất khẩu xây dựng…
- Phản biện các đồ án quy hoạch và luận chứng của các dự án đầu tư xây dựng lớn
cả ở cấp quốc gia và cấp địa phương, đặc biệt là đóng góp ý kiến cho các cơ quan dân cử
về các quy hoạch và dự án kết cấu hạ tầng;
- Đề xuất sự cần thiết có văn bản pháp quy mới hoặc tham gia hoàn thiện văn bản
pháp quy hiện hành nhằm tạo ra sự thông thoáng và minh bạch trong QLNN cũng như
trong hoạt động thị trường;
3.1.4.2. Các phương tiện thông tin đại chúng
Các Văn kiện của Đảng đã sớm đề cập đến "tình hình thất thoát lớn tài sản xã hội
chủ nghĩa" [19, tr. 38], nhưng chỉ đến năm gần đây dư luận xã hội mới lên án mạnh mẽ
tình hình này. Đó là nhờ các phương tiện thông tin đại chúng đưa ra ánh sáng các vụ tham
nhũng, các công trình bị ăn bớt vật tư và có chất lượng xấu, các dự án tốn kém nhưng ít hiệu
quả. Báo chí cũng đã chặn được trình trạng "chìm xuống" của một số vụ việc tiêu cực, làm
tăng nguy cơ bị vạch trần của các hành vi tham nhũng, của các dự án duy ý chí kém hiệu quả,
của các hoạt động kinh doanh gian dối. Báo chí giúp sự đồng tâm nhất trí từ Quốc hội đến
Chính phủ và lan tỏa ra các tầng lớp xã hội để chống lại thất thoát xây dựng, thúc đẩy cải cách
thể chế trợ giúp thị trường, nghiêm trị những kẻ bất chính. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, báo chí
có khả năng cùng với khu vực xã hội dân sự đóng vai trò tích cực trong việc phát triển và củng
cố các nguyên tắc đạo đức xã hội, làm cho những kẻ giàu có bất minh trở thành nhân vật bị
khinh bỉ, chứ không phải là tấm gương để noi theo, khuyến khích công dân và những bên bị
thiệt hại chủ động tố giác và cung cấp bằng chứng về những tiêu cực và lãng phí trong xây
dựng bất cứ khi nào chúng xảy ra.
Để các thông tin trên phương tiện thông tin đại chúng có chất lượng cao hơn nữa,
có hiệu quả hơn nữa, chúng tôi đề nghị Báo đài nên phản ánh các quan điểm khác nhau về
mỗi vụ việc để thu hút nhiều hơn sự chú ý của công luận và tạo điều kiện cho bạn đọc có
những đánh giá khách quan.
3.1.4.3. Cộng đồng dân cư và các đoàn thể nhân dân
Ngày nay các Chính phủ, các nhà tài trợ rất coi trọng sự tham gia của cộng đồng
dân cư vào quá trình ĐT&XD để dự án sát hợp hơn với lợi ích của cộng đồng cả về mặt
vật chất và tinh thần (phong tục, tập quán, văn hóa) đảm bảo được sự minh bạch, có được
sự giám sát tại chỗ và thường xuyên trong quá trình thực hiện dự án, khi công trình hoàn
thành đưa vào sử dụng thì được cộng đồng tham gia gìn giữ, bảo vệ.
Nước ta vốn có cộng đồng làng xã rất mạnh với truyền thống tự quản và tự bảo vệ
phát huy tác dụng trong suốt quá trình dựng nước và giữ nước. Ngày nay cộng đồng làng
xã vẫn có vai trò to lớn trong phát triển KT-XH.
Đảng ta đưa ra khẩu hiệu nổi tiếng "dân biết, dân bàn, dân làm,
dân kiểm tra". Chính phủ đã ban hành Quy chế dân chủ ở cơ sở, chính là nhằm huy động
sự tham gia của cộng đồng. Quá trình tham gia đòi hỏi phải đối thoại công khai và có sự
tham gia rộng rãi, tích cực của công dân và phải tạo cơ hội cho cá nhân có tiếng nói trong
các quyết định có ảnh hưởng đến họ.
Thế nhưng trên thực tế sự tham gia của cộng đồng dân cư đã không được coi
trọng, hoặc làm chiếu lệ, hoặc bị bỏ qua, dù rằng các hậu quả tai hại là rất rõ ràng. Giải
phóng mặt bằng thì dằng dai và khiếu kiện liên miên, chợ xây xong không có người họp,
cảng cá không có thuyền đậu, hệ thống cấp nước chỉ tập trung vào nhà máy mà không lo
hệ thống đường ống phân phối, cầu đường vừa xây xong đã hư hỏng, công sở bàn giao sử
dụng không được bao lâu thì lại phải cải tạo, sửa chữa.
Đối với một dự án, sự tham gia của cộng đồng không chỉ là khi mới hình thành
chủ trương đầu tư và chuẩn bị đầu tư mà cả trong quá trình xây dựng và khi công trình
được nghiệm thu đưa vào xây dựng.
Khi lập quy hoạch các loại, nếu là quy hoạch lớn thì phải đưa ra công chúng các
điều kiện then chốt nhất, nếu là quy hoạch khu vực dân cư thì dân sống trong đó phải được
biết và phát biểu ý kiến, nguyện vọng.
Sự tham gia của cộng đồng có nhiều hình thức, như thông qua điều tra xã hội học,
tổ chức hội họp với đại diện cộng đồng, hộp thư lấy ý kiến thông qua đó dự án quy hoạch,
hoặc dự án đầu tư nhiều khi nhận được những thông tin có giá trị mà không thể có được từ
nguồn khác.
Các đoàn thể nhân dân trong Mặt trận Tổ quốc đóng vai trò rất quan trọng trong
việc tổ chức sự tham gia của cộng đồng, tuy vậy dự án vẫn phải tạo điều kiện cho từng cá
nhân hoặc hộ gia đình nói lên những điều bức xúc của riêng họ.
3.2. giải pháp hạn chế thất thoát vốn đầu tư xây dựng cơ bản
3.2.1. Nhóm giải pháp về giai đoạn chuẩn bị đầu tư
3.2.1.1. Giải pháp về công tác quy hoạch
Quy hoạch là khâu hết sức quan trọng trong quy trình kế hoạch hóa nền kinh tế
quốc dân, công tác quy hoạch phát triển KT-XH ngày càng được chú trọng. Đặc biệt sau
khi có Chỉ thị số 32/1998/CT-TTg ngày 23-9-1998 của Thủ tướng Chính phủ về công tác
quy hoạch, công tác quy hoạch được triển khai mạnh mẽ ở tất cả các ngành và các địa
phương trong cả nước, góp phần quan trọng vào việc bố trí tổng thể nền kinh tế quốc dân
nói chung và các ngành sản xuất nói riêng theo lãnh thổ. Tuy nhiên, công tác quy hoạch
còn nhiều bất cập, như:
- Quy chế quản lý ĐT&XD hiện nay chưa ràng buộc trách nhiệm cá nhân lãnh đạo
của các ngành, các cấp trong công tác quy hoạch. Bố trí ngân sách hàng năm cho công tác
quy hoạch chưa thỏa đáng, quy hoạch xây dựng đô thị và nông thôn chưa công khai
thường xuyên tại cơ quan chính quyền các cấp và nơi công cộng trong vùng quy hoạch để
nhân dân thực hiện và kiểm tra việc thực hiện.
- Tư tưởng cục bộ, cá nhân của một số lãnh đạo ngành, địa phương đang diễn ra
phổ biến, thiếu sự phối hợp trong công tác lập quy hoạch
- Tuân thủ quy hoạch đã được phê duyệt, như: thị trấn, thị tứ, thị xã, thành phố
trực thuộc tỉnh chưa triệt để. Cho nên xây dựng còn tình trạng không theo quy hoạch, chưa
đồng bộ, thiếu mỹ quan.
Để khắc phục những tồn tại trong công tác quy hoạch, nhằm hạn chế thất thoát vốn
trong đầu tư XDCB, chúng tôi xin đề nghị:
- Công tác quy hoạch phải đi trước một bước, các Bộ, ngành và địa phương phải
chú trọng, quan tâm đúng mức đến công tác quy hoạch. Tuy nhiên, ngân sách còn nhiều
khó khăn, nhưng không vì thế mà các dự án đầu tư xây dựng lại không có quy hoạch hoặc
quy hoạch không cụ thể. Ưu tiên bố trí hợp lý, thỏa đáng cho công tác quy hoạch. Có như
vậy thì công trình xây dựng xong, không phải phá đi để di chuyển địa điểm như thời gian
vừa rồi. Những người đứng đầu địa phương và ngành phải tuân thủ quy hoạch đã được
duyệt. Nếu xây dựng, không theo quy hoạch đã được duyệt thì kiên quyết không bố trí kế
hoạch vốn đầu tư và người quyết định sai phải chịu trách nhiệm bồi thường vật chất, đồng
thời xử lý thỏa đáng về chức trách mà người đó đảm nhận.
- Trong những năm tiếp theo gấp rút tiến hành rà soát, điều chỉnh lại quy hoạch
phát triển KT- XH gắn với chuyển dịch cơ cấu đầu tư, theo hướng quy hoạch phải thống
nhất cho cả nước, phải đảm bảo sự gắn kết chặt chẽ giữa các yếu tố phát triển cả nước, hội
nhập kinh tế quốc tế. Quy hoạch phải đi đôi với quản lý và kỷ luật thực hiện quy hoạch.
- Đổi mới phương pháp luận làm quy hoạch, tổ chức đào tạo lại các chuyên gia
quy hoạch, ít nhất là chủ nhiệm dự án quy hoạch; thực hiện soạn thảo và thẩm định quy
hoạch có sự tham gia của cộng đồng và các tổ chức xã hội; tập trung và cập nhật toàn bộ
dữ liệu về hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật từ đầu tư xây dựng đến vận hành rồi giao cho
ngành kế hoạch và cấp dữ liệu cho việc soạn thảo quy hoạch cũng như lập dự án.
3.2.1.2. Giải pháp về chủ trương đầu tư
Chủ trương đầu tư đúng đem lại hiệu quả kinh tế cao, ngược lại sẽ gây thất thoát lớn,
hậu quả kéo dài. Thất thoát do đầu tư sai, do thiếu cơ sở khoa học không phải là nhỏ, công
luận phê phán nhiều, bởi đây là chủ trương của "tập thể" những người có chức có quyền nể
nang là việc khó tránh, vì vậy rất khó xử lý. Để khắc phục tình trạng này, tác giả xin đề
xuất:
- Bổ sung nội dung chuẩn bị đầu tư của Quy chế quản lý ĐT&XD về công khai
mời tư vấn phản biện của các Hội, Hiệp hội… Người có thẩm quyền quyết định đầu tư
phải thật sự lắng nghe ý khiến của các chuyên gia tư vấn phản biện để tìm ra phương án tối
ưu. Nếu ý kiến của các tư vấn can ngăn mà cấp có thẩm quyền không chịu nghe, dẫn đến
công trình đầu tư kém hiệu quả, thì người đó phải chịu trách nhiệm trước pháp luật và bồi
thường vật chất do quyết định đầu tư không đúng.
- Đối với những dự án lớn liên quan đến nhiều lĩnh vực, được nhiều người quan
tâm, thì nên có các chuyên gia đóng góp ý kiến. Các ý kiến tham gia đóng góp cần được
tân trọng trả lời và trả một khoản phí. Hiện nay chế độ của ta chưa có, do đó cần phải được
bổ sung để khuyến khích dân chúng tham gia đóng góp.
- Quy chế quản lý ĐT&XD đã quy định cụ thể trong các Điều 10, 11 và 12, việc
phân công và phân cấp quản lý các dự án thuộc nguồn NSNN rành mạch, rõ ràng, hạn chế
được tình trạng quan liêu, thiếu trách nhiệm và khả năng thất thoát. Tuy vậy, các quy định
vẫn chưa chứng tỏ sẽ xử lý được 3 căn bệnh trầm kha trong đầu tư xây dựng là các áp lực bên
ngoài đối với các chủ đầu tư, các đường dây chạy dự án và tình trạng đầu tư phân tán. Các căn
bệnh đó đã gây ra tác hại lớn trong giai đoạn tiền dự án nên Quy chế quản lý ĐT&XD
(Điều 10) đã tìm cách ngăn ngừa và hạn chế chúng bằng cách đề cao vai trò của các quy
hoạch phát triển KT-XH, quy hoạch phát triển ngành, quy hoạch xây dựng được cấp có
thẩm quyền phê duyệt (tuy vẫn để ngỏ khả năng chấp nhận các dự án chưa có trong quy
hoạch). Ngoài ra, Luật NSNN (2004) (Điều 15) quy định Quốc hội quyết định danh mục
các chương trình, dự án quốc gia, các công trình XDCB quan trọng được đầu tư từ nguồn
vốn NSNN. Xem ra đã có phần chặt chẽ hơn trước, thế nhưng thất thoát xây dựng vẫn
chưa giảm vì điều đó còn phụ thuộc vào chất lượng của quy hoạch và chất lượng của việc
thẩm định quy hoạch, phụ thuộc vào thời gian Quốc hội dành cho việc xem xét quyết định
các dự án quan trọng quốc gia... Do vậy, đề nghị tất cả các dự án kết cấu hạ tầng KT-XH
gắn với lợi ích phát triển quốc gia hoặc liên vùng hay là của một tỉnh, một huyện, thì phải
được Quốc hội hoặc HĐND tỉnh xem xét quyết định quy hoạch và chủ trương đầu tư. Có
như vậy các đại biểu dân cử mới có điều kiện nói lên nguyện vọng của cử tri và điều hòa
các lợi ích khác nhau. Để làm được việc này thì ủy ban Kinh tế và ngân sách của Quốc hội
và HĐND tỉnh cần phải bao gồm đủ đại biểu của các tỉnh hoặc các huyện, và phải làm
thường xuyên để thẩm tra các văn kiện dự án mà Chính phủ hoặc UBND tỉnh trình duyệt.
Riêng đối với các thành phố, thị xã thuộc tỉnh từ loại 3 trở lên, HĐND các đô thị đó cũng
cần được phân cấp quyết định quy hoạch và chủ trương đầu tư một số hạ tầng KT-XH để
đáp ứng sát, phù hợp và kịp thời hơn nhu cầu của dân cư đô thị. Còn HĐND cấp xã,
phường, thị trấn thì đã được phân cấp quyết định đối với các dự án cộng đồng theo quy chế
dân chủ ở cơ sở.
- Công tác chuẩn bị đầu tư, kế hoạch vốn đầu tư phải chặt chẽ và giám sát nghiêm
túc như quá trình thực hiện đầu tư, quy định thời gian chuẩn bị đầu tư để có đủ thời gian
xem xét kỹ lưỡng về các giải pháp kinh tế, giải pháp kỹ thuật, tránh tình trạng xem nhẹ
công tác chuẩn bị đầu tư như hiện nay. Có như vậy mới giảm bớt hiện tượng nước đến
chân mới nhảy và cơ quan có thẩm quyền quyết định đầu tư đỡ phải chịu áp lực ra quyết
định vội vã khi dự án chưa hội đủ điều kiện. Cũng nên cân nhắc khả năng dành hẳn một
năm tập trung chấn chỉnh công tác chuẩn bị đầu tư để kế hoạch đầu tư XDCB năm sau hoàn
toàn đi vào quỹ đạo đúng quy định của pháp luật, còn trong kế hoạch XDCB của năm đó
chỉ có những dự án triệt để hợp thức. Thực tiễn chứng tỏ lối làm việc trước chậm, sau
nhanh hạn chế được thất thoát vốn trong đầu tư XDCB hơn lối làm việc trước nhanh, sau
chậm.
3.2.1.3. Giải pháp về giải phóng mặt bằng xây dựng
Trong quá trình thực hiện dự án, khâu đầu tiên dễ xảy ra tiêu cực đó là khâu giải
phóng mặt bằng hiện đang được công luận quan tâm. Điều 35 Nghị định số 52/1999/NĐ-
CP ngày 8-7-1999 của Chính phủ quy định chủ đầu tư chịu trách nhiệm thực hiện đền bù
và giải phóng mặt bằng xây dựng. Để thực hiện tốt công tác chuẩn bị mặt bằng tác giả đề
nghị:
- Sửa đổi Điều 35 Nghị định số 52/1999/NĐ-CP ngày 8-7-1999 của Chính phủ,
như đưa công tác giải phóng mặt bằng vào giai đoạn chuẩn bị đầu tư dự án, chứ không
phải giai đoạn thực hiện dự án như hiện nay. Giao cho chính quyền địa phương sở tại thực
hiện công tác giải phóng mặt bằng, vì chính quyền địa phương là người quản lý dân sở tại
trên địa bàn hành chính do họ phụ trách. Kinh phí đền bù giải phóng mặt bằng xây dựng,
ban QLDA sẽ chuyển trả cho chính quyền sở tại.
- Quy chế quản lý ĐT&XD cần phải quy định rõ trách nhiệm cho từng cá nhân,
từng cấp được quyền tuyên bố thu hồi đất vì lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng, lợi ích an
ninh - quốc phòng và tuyên bố được thực hiện theo hình thức nào?
- Nếu chưa giải phóng được mặt bằng xây dựng thì dự án không được triển khai
thực hiện đầu tư và không được ghi kế hoạch của năm đó. Phải chuyên nghiệp hóa công
tác giải phóng mặt bằng, nhất là đào tạo các chuyên viên quản lý giá cho công việc này.
Việc trả tiền đền bù đến tay đối tượng được đền bù nhất thiết phải thông qua dịch vụ ngân
hàng. Theo chúng tôi, giá đền bù thu hồi đất thổ cư phải sát với giá thị trường bất động sản
và người bị thu hồi đất, cũng phải trả tiền cho nhà nước bằng giá đất thị trường tự do từng
thời điểm (nếu được đền bù đất). Có như vậy mới hạn chế được tiêu cực trong việc đền bù
giải phóng mặt bằng và dân đỡ suy bì, so sánh, khiếu kiện.
3.2.2. Nhóm giải pháp về thực hiện đầu tư
3.2.2.1. Giải pháp chống đầu tư dàn trải
Đầu tư phân tán, dàn trải, dẫn đến: Công trình thi công kéo dài, hiệu quả đầu tư thấp,
gây thất thoát cho Nhà nước và xã hội. Hiện nay Quy chế quản lý ĐT&XD quy định không
cụ thể trách nhiệm của người có thẩm quyền quyết định đầu tư, nhưng bố trí không đủ vốn
cho dự án hoàn thành đúng kế hoạch. Để khắc phục tình trạng này tác giả xin đề xuất:
- Bổ sung nội dung Điều 17 Nghị định số 52/1999/NĐ-CP ngày
8-7-1999 của Chính phủ, về kế hoạch vốn hàng năm cho các dự án khởi công xây dựng
mới phải cân đối hợp lý; ưu tiên cho công trình chuyển tiếp, bố trí vốn đúng tiến độ thực
hiện dự án đã được ghi trong quyết định đầu tư. Nếu còn vốn thì mới bố trí cho những
công trình xây dựng mới và ngược lại. Xử lý nghiêm tiến độ và thời hạn hoàn thành công
trình, có sự giám sát của HĐND. Đây là một trong những nội dung quan trọng để hạn chế
đầu tư dàn trải. Nhưng những người có chức, có quyền thường khó thực hiện. Trong thực
tế hiện nay nhiều người có thẩm quyền quyết định đầu tư, thường quyết định đầu tư tràn
lan khi sắp hết nhiệm kỳ. Để khắc phục tình trạng này, đề nghị trước khi hết nhiệm kỳ một
năm, cơ quan KTNN cần tiến hành kiểm toán công tác bố trí kế hoạch vốn đầu tư XDCB
của các ngành, các địa phương. Quy định hình thức xử lý và xử lý nghiêm những người có
thẩm quyền quyết định đầu tư, đã bố trí vốn đầu tư dàn trải. Những người có thẩm quyền
phải chịu trách nhiệm đến cùng trong việc ký duyệt dự án, phải cân đối nguồn vốn một
cách vững chắc, không những đủ vốn cho dự án, mà còn phải có dự phòng những phát sinh
ngoài dự kiến;
- Phải công khai hóa vốn đầu tư ngân sách, là một giải pháp quan trọng để chống
đầu tư không đúng chỗ và thất thoát. Thực hiện công khai hóa là nhằm đảm bảo sự giám
sát của nhân dân. Công bố công khai dự án đầu tư để nhân dân đóng góp về chủ trương
đầu tư, sau đó giám sát việc đấu thầu và thi công xây dựng;
- Thực hiện nguyên tắc tiền ngân sách là tiền của dân nên phải được đại diện của
dân bàn và quyết định. Theo đó ngoài các công trình trọng điểm quốc gia do Quốc hội
quyết định, cần phát huy vai trò của các HĐND với việc sử dụng vốn ngân sách cho đầu tư
phát triển; nếu dự án thuộc ngân sách địa phương (kể cả phần Trung ương phân bổ thêm
cho địa phương) thì phải đưa ra HĐND thảo luận, quyết định và công bố, công khai nếu là
dự án xây dựng kết cấu hạ tầng thuộc quyền quyết định của cơ quan chính quyền, thì phần
làm trên địa bàn nào cũng phải thông báo cho HĐND địa phương đó góp ý kiến.
- Chấm dứt tình trạng dự án đầu tư xây dựng chưa được cơ quan có thẩm quyền
phê duyệt, nhưng đã được ứng vốn theo lối "tiền trảm hậu tấu".
- Bổ sung nội dung Điều 49 Nghị định số 52/1999/NĐ-CP ngày
8-7-1999 của Chính phủ, đó là quy định mức bồi thường vật chất và trách nhiệm cá nhân
của người có thẩm quyền quyết định đầu tư, bố trí không đủ vốn để thực hiện hoàn thành
dự án đúng với quy chế quản lý đầu tư và đúng với thời gian trong quyết định đầu tư. Nếu
người có thẩm quyền quyết định đầu tư đã bố trí đủ vốn, mà chủ đầu tư hoặc ban QLDA
gây khó khăn hoặc chuyển vốn của dự án này cho dự án khác thì phải được xử lý nghiêm
minh trước pháp luật. Để xử lý nghiêm minh quy chế phải quy định mức xử phạt và hình
thức kỷ luật thỏa đáng.
3.2.2.2. Giải pháp về công tác thiết kế, lập tổng dự toán
Chất lượng tư vấn thiết kế trong thời gian qua chưa cao, vì phải chiều theo ý lãnh
đạo, nếu ngược lại thì nhiều khả năng không có việc làm. Người tư vấn trở thành người nợ,
"chủ bảo sao làm vậy", suy nghĩ độc lập
bị hạn chế, khó mà đề xuất khuyến cáo. Để khắc phục trình trạng đó, xin
đề nghị:
- Xem xét chi phí cho tư vấn thiết kế, vì: Chi phí tư vấn của ta còn thấp, khoảng
3% tổng giá trị công trình, trong khi các dự án vốn ngoài nước từ 9-12%. Do đó khó có
khả năng đầu tư chiều sâu cho cả con người lẫn trang thiết bị hiện đại và hệ quả là "tiền
nào của ấy".
- Bổ sung nội dung Điều 36 Nghị định số 52/1999/NĐ-CP ngày
8-7-1999 của Chính phủ về thiết kế xây dựng công trình: tư vấn thiết kế, khi nhận thiết kế
cho công trình hay một dự án nào đó, thì phải có ít nhất là ba phương án thiết kế, để chủ
đầu tư chọn một trong các phương án đó, có giải pháp tối ưu về mặt kỹ thuật và tối ưu về
kinh tế. Nếu không có các phương án theo quy định, thì người có thẩm quyền quyết định
đầu tư không được phê duyệt TKKT-TDT. Quy định tỷ lệ được phép sai sót của tư vấn thiết
kế khi lập dự toán. Nếu vượt quá tỷ lệ đó thì phải quy định mức bồi thường vật chất, theo tác
giả mức bồi thường phải bằng số tiền thiệt hại của công trình đó. Ngoài mức bồi thường
vật chất phải xử lý trách nhiệm người có thẩm quyền phê duyệt TKKT-TDT.
- Những công trình lớn, phức tạp rất cần mời tư vấn độc lập phản biện, chi phí sẽ
tăng lên, song tìm được phương án tối ưu, sẽ lợi ích hơn nhiều. Nên quy định tổ chức thi
chọn một số mẫu thiết kế của các cơ quan quản lý nhà nước. Tác giả đề xuất ý tưởng này
bởi vì thiết kế của ta hiện nay tuy đã có nhiều cố gắng, nhưng còn lạc hậu so với các nước.
Cho nên nhiều cơ quan xây dựng xong mới thấy kiến trúc xấu, bố trí giao thông trong tòa
nhà không hợp lý, công năng sử dụng không tối ưu, lãng phí diện tích sử dụng, trong khi
đó diện tích cần thiết thì lại chật hẹp. Từ chỗ đó lại nẩy sinh cải tạo, sửa chữa gây tốn kém,
lãng phí NSNN. Do vậy thực hiện thi chọn mẫu thiết kế thì NSNN sẽ tiết kiệm được một
khoản tiền rất lớn về chi phí cải tạo, sửa chữa và sẽ có kiến trúc đẹp.
3.2.2.3. Giải pháp về công tác chọn thầu
Một số địa phương, Bộ, ngành trực thuộc Trung ương chấp hành Quy chế đấu thầu
ban hành theo Nghị định số 88/1999/NĐ-CP ngày 01-9-1999 của Chính phủ chưa nghiêm,
như: dự án phải tổ chức đấu thầu, nhưng lại thực hiện chỉ định thầu; phải đấu thầu rộng rãi,
thì lại đấu thầu hạn chế; chia nhỏ dự án ra nhiều gói thầu để đấu thầu như hình thức giao
thầu. Dẫn đến chất lượng công trình không đảm bảo, NSNN bị thất thoát lãng phí. Để khắc
phục tồn tại trên xin đề nghị:
- Bổ sung nội dung Nghị định số 88/1999/NĐ-CP ngày 01-9-1999 của Chính phủ
về chọn thầu: quy định mức xử phạt và xử lý trách nhiệm đối với cá nhân chỉ định thầu
không đúng thẩm quyền và không đúng quy định của pháp luật;
- Quy định mỗi nhà thầu chỉ được tham gia dự thầu một gói thầu của một dự án;
những doanh nghiệp có giá dự thầu thấp hơn giá thầu từ 5% trở lên mà không có thuyết
minh hợp lý thì không xem xét giá xét thầu của doanh nghiệp đó, bởi đây là hành động phá
giá. Chấm dứt trình trạng chọn thầu với giá thấp nhất như từ trước tới nay, vì hậu quả của
nó là chất lượng công trình sẽ không đảm bảo, do thay đổi chủng loại vật tư và bớt xén vật
liệu;
- Quy định trách nhiệm và mức phạt đối với những người thực hiện đấu thầu hạn
chế;
- Quy định những gói thầu không phải đấu thầu thì thực hiện hình thức chọn thầu
và thương thảo giá trị hợp đồng. Giá trị hợp đồng đã thống nhất thì không được bổ sung
những khối lượng có trong thiết kế, mà nhà thầu không phát hiện do dự toán tính thiếu
ngay khi nhận thầu và không được điều chỉnh giá trị hợp đồng. Nếu chọn thầu quy định
chặt chẽ thì hạn chế được tiêu cực và thực hiện được quyền bình đẳng giữa so với đấu
thầu.
3.2.2.4. Giải pháp về ký hợp đồng kinh tế
Hợp đồng kinh tế trong đầu tư xây dựng chưa chặt chẽ về điều chỉnh giá trị hợp
đồng và xử lý vi phạm hợp đồng. Cho nên, trong quá trình thi công nhiều dự án đã điều
chỉnh giá không đúng với quy chế quản lý ĐT&XD và chủ đầu tư chậm thanh toán, nhưng
không bị phạt tiền theo Quy chế. Để khắc phục tình trạng này xin đề nghị:
Quy chế quản lý ĐT&XD phải quy định cụ thể để xử lý những hợp đồng kinh tế
không chặt chẽ, dẫn đến NSNN phải thiệt hại do điều chỉnh giá trong quá trình thực hiện
hợp đồng. Đồng thời nếu có khối lượng thực hiện đủ điều kiện thanh toán, nhưng chủ đầu
tư gây khó khăn thì cũng phải được xử lý thỏa đáng.
3.2.2.5. Giải pháp về giám sát thi công
Tư vấn giám sát của ta hiện nay còn ăn "lương" hai mang, đó là lương của chủ đầu tư
thuê tư vấn giám sát và lương của các nhà thầu hối lộ khi thi công không đúng theo thiết kế
và không đúng phẩm cấp, chất lượng vật liệu. Để khắc phục tình trạng này, đề nghị: bổ sung
nội dung của quy chế quản lý ĐT&XD ban hành theo Nghị định số 52/1999/NĐ-CP ngày
8-7-1999 của Chính phủ, đó là:
- Quy định mức bồi thường vật chất khi thanh tra, kiểm toán hoặc các cơ quan
quản lý nhà nước khác, phát hiện dự án thi công không đúng thiết kế, không đúng phẩm cấp
chất lượng vật liệu.
- Phải chọn tư vấn giám sát thi công có đủ năng lực, đủ kinh nghiệm.
- Trang bị những công cụ, thiết bị cần thiết phục vụ cho việc kiểm tra, nghiệm thu
từng công đoạn và có chế độ đãi ngộ thỏa đáng.
Do vậy cần phải xem xét lại chi phí giám sát cho thích hợp, để họ không nhận tiền
hối lộ của đơn vị thi công. Công tác nghiệm thu hiện nay còn hình thức, nhiều chủ đầu tư
nghiệm thu trên bàn giấy theo khối lượng dự toán, mà không bám sát hiện trường, nên
không đo đếm cụ thể gây thất thoát NSNN. Do vậy đề nghị quy chế quản lý ĐT&XD bổ
sung nội dung xử lý vật chất đối với cá nhân của người nghiệm thu khối lượng không
đúng, gây ảnh hưởng thất thoát NSNN.
3.2.3. Nhóm giải pháp về thanh quyết toán vốn đầu tư
3.2.3.1. Giải pháp về thanh toán vốn đầu tư
Thanh toán vốn trong đầu tư XDCB hiện nay chưa được bình đẳng, như: có khối
lượng xây dựng hoàn thành đủ điều kiện thanh toán, nhưng ban QLDA gây khó khăn, hoặc
chậm thanh toán thì đơn vị thi công chưa được hưởng khoản tiền lãi vay ngân hàng theo
quy định của quy chế quản lý ĐT&XD. Để khắc phục tình trạng này xin được đề nghị
hàng tháng đơn vị thi công báo cáo khối lượng hoàn thành và kết quả thanh toán vốn của
ban QLDA cho cơ quan quyết định đầu tư biết để giám sát. Nếu ban QLDA chậm thanh
toán không có lý do chính đáng thì phải xử lý thỏa đáng.
3.2.3.2. Giải pháp về quyết toán dự án hoàn thành
Công tác quyết toán vốn đầu tư dự án hoàn thành là khâu cuối cùng trong dây
chuyền quản lý vốn đầu tư. Trong thực tế công tác quyết toán vốn đầu tư dự án hoàn thành
còn chậm và nhiều sai sót khi thẩm tra phê duyệt quyết toán, vì người có thẩm quyền quyết
định đầu tư đồng thời là người phê duyệt dự án hoàn thành. Như vậy vừa đá bóng vừa thổi
còi, cho nên công tác phê duyệt quyết toán sẽ có nhiều tiềm ẩn tiêu cực trong đó, mà khó
có thể phát hiện ra. Để khắc phục tồn tại đó xin đề nghị:
- Người có thẩm quyền quyết định đầu tư không được phê duyệt quyết toán vốn
đầu tư. Công tác phê duyệt quyết toán nên giao cho một cơ quan khác để kiểm soát lẫn
nhau và đảm bảo tính khách quan. Thực hiện việc này nhằm chống độc quyền và đầu tư
kép kín như hiện nay.
- Giữ lại 15% giá trị gói thầu được thực hiện để chờ công tác quyết toán và phê
duyệt quyết toán (tỷ lệ này cao hơn quy chế là 10%). Số tiền giữ lại được tính lãi theo lãi
suất cho vay của ngân hàng và thanh toán cho đơn vị thi công khi có kết quả phê duyệt
quyết toán. Tuy nhiên đơn vị thi công phải đảm bảo thời gian quyết toán theo quy định, thì
mới được thanh toán số lãi đó. Ngược lại nếu đơn vị thi công chậm quyết toán, thì phải xử
phạt theo một tỷ lệ nhất định. Như vậy công tác quyết toán dự án hoàn thành sẽ có ý nghĩa
thực sự.
- Quy chế quản lý ĐT&XD, chưa quy định cụ thể trách nhiệm bồi thường vật chất
của người có thẩm quyền phê duyệt quyết toán. Để nâng cao trách nhiệm, cần phải quy
định mức bồi thường vật chất do phê duyệt quyết toán không chính xác, có như vậy mới
hạn chế được tiêu cực trong công tác quyết toán và phê duyệt quyết toán.
- Quy định, lưu trữ hồ sơ pháp lý của công trình, bởi hiện nay các công trình xây
dựng dân dụng vừa mới đưa vào sử dụng 8 đến 10 năm cần phải cải tạo, sửa chữa, thì
không còn hồ sơ pháp lý xây dựng để lập phương án sửa chữa. Muốn lập phương án sửa
chữa thì phải thuê tư vấn khảo sát thiết kế đến khảo sát, đo vẽ để thiết kế, lập phương án
sửa chữa, gây lãng phí tốn kém NSNN. Những trường hợp đó phải xử lý trách nhiệm
những người không lưu trữ hồ sơ, hoặc lập phương án sửa chữa, cải tạo không căn cứ vào
hồ sơ pháp lý cũ của công trình đó.
3.2.3.3. Giải pháp về tăng cường công tác kiểm toán
Nhiệm vụ của cơ quan KTNN đã được Luật NSNN ban hành năm 2002 quy định tại
Điều 66 và Điều 67, như sau:
- Cơ quan KTNN thực hiện việc kiểm toán, xác định tính đúng đắn, hợp pháp của
báo cáo quyết toán NSNN các cấp, cơ quan, đơn vị có liên quan theo quy định của pháp
luật.
- Khi thực hiện nhiệm vụ, cơ quan KTNN có quyền độc lập và chịu trách nhiệm
trước pháp luật về kết luận kiểm toán của mình; trong trường hợp cần thiết, cơ quan
KTNN được đề nghị các cơ quan chức năng phối hợp công tác để thực hiện nhiệm vụ được
giao.
- Cơ quan KTNN có trách nhiệm báo cáo kết quả kiểm toán với Quốc hội, ủy ban
Thường vụ Quốc hội, Chính phủ và cơ quan khác theo quy định của pháp luật; thực hiện
kiểm toán khi Quốc hội, ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ có yêu cầu.
- Việc kiểm toán quyết toán ngân sách được thực hiện trước khi Quốc hội, HĐND
phê chuẩn quyết toán; trường hợp kiểm toán sau khi Quốc hội, HĐND phê chuẩn quyết
toán thì thực hiện theo quy định của pháp luật.
- Trong trường hợp quyết toán ngân sách chưa được Quốc hội, HĐND phê chuẩn thì
Chính phủ, UBND trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình và cơ quan KTNN đã
kiểm toán phải tiếp tục làm rõ những vấn đề Quốc hội, HĐND yêu cầu để trình Quốc hội,
HĐND vào thời gian do Quốc hội, HĐND quyết định.
Nhà nước đã có một hệ thống thanh tra, kiểm tra, nhưng trong giai đoạn hiện nay,
dư luận quan tâm nhiều đến chất lượng công trình; hiệu quả đầu tư của các dự án không
cao, thậm chí kém hiệu quả; tệ nạn tham nhũng ngày càng gia tăng và hoạt động của chúng
ngày càng tinh vi. Nhưng để có bằng chứng, kết luận những người, những vụ việc tham
nhũng thì chưa nhiều, bởi hoạt động của ĐT&XD là rất phức tạp và khó khăn. Mặt khác hệ
thống thanh tra, kiểm tra hàng năm chỉ mới kiểm tra, kiểm toán được khoảng 20% số dự án
đầu tư trong năm. Tuy kết quả thanh tra, kiểm toán chưa nhiều, nhưng cũng đã phát hiện
và thu hồi nộp NSNN những khoản chi sai của các công trình và dự án xây dựng hàng
trăm tỷ đồng mỗi năm. Hiện nay còn khoảng 80% dự án hàng năm chưa được thanh tra,
kiểm toán, vậy thất thoát còn nhiều đó là vấn đề bức xúc, mà dư luận xã hội đang quan
tâm. Để khắc phục trình trạng này chúng tôi đề nghị:
- Phát triển KTNN để thực sự trở thành công cụ quan trọng và đủ mạnh của Nhà
nước thực hiện kiểm tra, kiểm soát nghiêm ngặt tài chính Nhà nước và tài sản công là đòi
hỏi tất yếu và khách quan của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
- Phát triển KTNN phải đảm bảo quán triệt và thể chế hóa các quan điểm của Đảng
về KTNN đã được ghi trong các nghị quyết của Đảng: đề cao vai trò của cơ quan KTNN
trong việc kiểm toán mọi cơ quan, tổ chức có sử dụng ngân sách Nhà nước; thực hiện chế
độ định kỳ kiểm toán nhà nước, công khai thu chi ngân sách cho dân biết; nâng cao hiệu
lực pháp lý và chất lượng KTNN như một công cụ mạnh của Nhà nước.
- Phát triển KTNN đảm bảo xu thế hội nhập quốc tế, phù hợp với các nguyên tắc,
thông lệ quốc tế và sát hợp với điều kiện thực tế của Việt Nam.
- Nhà nước đảm bảo đầy đủ và có chính sách ưu tiên thích đáng các nguồn lực cần
thiết cho tổ chức bộ máy và hoạt động của KTNN để đảm bảo tính độc lập trong quá trình
thực hiện các chức năng nhiệm vụ được giao.
- Cần thực hiện chế độ kiểm toán vốn đầu tư xây dựng, ngay trong giai đoạn chuẩn
bị đầu tư, đến giai đoạn dự án hoàn thành lập báo cáo quyết toán, chứ không chỉ kiểm toán
khi dự án có báo quyết toán như hiện nay;
- Cần giao quyền hạn cho KTNN thực hiện trong quá trình kiểm toán, như được
đối chiếu hóa đơn vật liệu xây dựng, vật tư thiết bị của các đơn vị cung cấp cho công trình
và đối chiếu với công tác ghi chép kế toán của đơn vị thi công, lắp đặt thiết bị. Nội dung
này Thanh tra Chính phủ hiện nay đang thực hiện, qua kiểm tra đối chiếu đã phát hiện
được nhiều sai phạm về khối lượng vật tư không có thực trong quyết toán dự án hoàn
thành. Đây là phương pháp kiểm toán rất quan trọng, vì trong XDCB có nhiều khối lượng
che khuất, do vậy nếu không kiểm toán bằng phương pháp đối chiếu thì không phát hiện
được gian lận trong thi công.
- Báo cáo kiểm toán do cơ quan kiểm toán thực hiện phải chỉ rõ tổ chức, cá nhân
làm thất thoát vốn đầu tư của nhà nước để cơ quan chức năng có căn cứ xử lý trách nhiệm
tổ chức và cá nhân (lâu nay chỉ mới nêu số lượng, tỷ lệ vốn thất thoát).
- Kết quả kiểm toán phải được công khai và xử lý nghiêm những cá nhân và tổ
chức không thực hiện kiến nghị của cơ quan kiểm toán.
3.3. Điều kiện thực hiện giải pháp
3.3.1. Nâng cao đời sống vật chất cho cán bộ công chức
Đời sống kinh tế của nhân dân nói chung, cán bộ công chức nói riêng, đã được nâng
cao lên nhiều so với thời kỳ bao cấp. Nhưng tiền lương của công chức hiện nay cũng chưa
tương xứng với nhiệm vụ của họ phải đảm nhận. Tình trạng đó đã ảnh hưởng xấu đến tính
chuyên nghiệp và sự tận tâm của công chức. Nhà nước ta thấy rõ điều này, muốn cải cách
cơ bản chế độ tiền lương, nâng cao đời sống người hưởng lương, nhưng gặp khó khăn rất
lớn vì ngân sách còn eo hẹp. Tác giả cũng nhận thức được khó khăn đó nhưng cho rằng để
vượt qua thách thức về tiền lương thì cần tháo gỡ vướng mắc về quan điểm phát triển.
Chính phủ và nhân dân ta đều thống nhất rằng để vượt qua đói nghèo thì phải hết sức
tiết kiệm chi tiêu, dành tiền để đầu tư phát triển đất nước. Thế nhưng trên thực tế một tỷ lệ
đáng kể vốn đầu tư phát triển từ NSNN lại bị thất thoát do nhiều nguyên nhân, trong đó có
nguyên nhân tham nhũng. Vậy nếu đấu tranh có kết quả để hạn chế tham nhũng thì với chi
phí ít hơn vẫn có thể đạt được kết quả phát triển tương đương. Nhưng chống tham nhũng
thì cũng cần chi phí, trong đó có chi phí để nâng lương công chức. Trong trường hợp chi
phí chống tham nhũng dù có ngang bằng với chi phí đầu tư tiết kiệm được thì vẫn đem lại
hiệu quả lớn vì môi trường đạo đức công vụ được cải thiện, lòng tin của người dân vào sự
trong sạch của bộ máy công vụ được củng cố, tình hình xã hội ổn định hơn.
Vấn đề đặt ra là dù công chức được nâng lương thỏa đáng rồi nhưng liệu có giảm
được tham nhũng hay không? Hiển nhiên chống tham nhũng là cuộc đấu tranh toàn diện,
cải cách chế độ tiền lương công chức cũng chỉ là một trong giải pháp, nhưng đó lại là giải
pháp tạo điều kiện cho việc triển khai đồng bộ các giải pháp khác trong chiến lược chống
thất thoát xây dựng.
3.3.2. Nghiêm trị đối với những hành vi gây thất thoát
ở nước ta hiện nay tham nhũng trong lĩnh vực ĐT&XD là "tỷ lệ phần trăm" lại quả
để được nhận dự án, được nhận thầu cũng như nguyên tắc "cưa đôi" lợi ích khi khai khống
khối lượng thực hiện đã trở nên phổ biến, là chuyện ai cũng biết, nhưng khó bị phát hiện
bởi vì thiếu bằng chứng.
Trong trường hợp không đủ bằng chứng tham nhũng thì có thể xem xét các thủ
tục XDCB, có khuyết điểm gì về quản lý trong quá trình thực hiện dự án và nếu mức độ
tầm trọng thì áp dụng các kỷ luật hành chính. Trường hợp cực đoan thì cấp trên có thể
công bố đình chỉ dự án để cấp có dự án tiếp tục điều tra các nghi ngờ về tham nhũng và
gian lận, kể cả từ các chứng từ gian lận của bên nhận thầu mà truy tìm ngược lại nguồn
gốc tham nhũng của công chức, vì rằng muốn có khoản tiền lớn để hối lộ công chức, thì
bên nhận thầu nhất định phải gian lận trong thanh toán và quyết toán. Cơ chế kiểm toán
là công cụ hữu hiệu để giúp phát hiện sự vi phạm các nguyên tắc, thủ tục quản lý và các
gian lận trong đầu tư xây dựng.
Pháp lệnh chống tham nhũng quy định các cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát, Tòa án
có trách nhiệm điều tra, truy tố, xét xử các tội phạm về tham nhũng (Điều 31) và Chánh
Thanh tra các cấp, các ngành có trách nhiệm kiểm tra, đôn đốc việc phòng ngừa, phát hiện
hành vi tham nhũng, xử lý người có hành vi tham nhũng trong các cơ quan, tổ chức Bộ,
ngành địa phương mình (Điều 32). Như vậy, nghĩa là thanh tra các cấp, các ngành phải
phát hiện và xử lý hành vi tham nhũng của các công chức và viên chức, khi nào xét thấy
hành vi đó nghiêm trọng ở mức cấu thành tội phạm thì mới chuyển sang cơ quan điều tra.
Chấp hành nghiêm pháp luật còn do áp lực mạnh mẽ của phương tiện thông tin đại
chúng và tinh thần làm chủ của các công dân. Tuy vậy, việc chấp hành nghiêm pháp luật
phụ thuộc rất nhiều vào năng lực (bao gồm tổ chức, biên chế, trình độ nhân viên và kinh
phí) và sự phối hợp nhịp nhàng của các cơ quan giám sát và tư pháp.
Tâm lý sợ bị trả thù công khai hoặc gián tiếp làm cho các bên bị thiệt hại và các công
dân trung thực không dám tố cáo các hành vi tham nhũng xây dựng. Các công chức thì sợ cấp
trên trù úm và đồng nghiệp xa lánh; các doanh nghiệp thì sợ sau này không được giao việc;
các ngành các địa phương thì sợ khó nhận được dự án hoặc bị làm khó dễ trong quá trình
thực hiện dự án...
Vì vậy, cần tổ chức các kênh khiếu nại tố cáo đủ độ tin cậy và việc xem xét điều
tra nhiều khi phải tiến hành dưới dạng kiểm tra việc chấp hành các thủ tục và quy trình đầu
tư xây dựng, tiến hành phỏng vấn dư luận cộng đồng hoặc kiểm toán đột xuất.
Việc chấp pháp nghiêm làm cho công chức thấy tham nhũng là những hành vi có
nguy cơ bại lộ cao, các doanh nghiệp thấy đưa hối lộ là rủi ro lớn, từ đó mà có tác dụng răn
đe thực tế.
3.4. Kiến nghị đối với Chính phủ và các ngành hữu quan
3.4.1. Đối với Chính phủ
3.4.1.1. Hoàn thiện quy chế quản lý ĐT&XD
Xây dựng một chiến lược chống thất thoát vốn đầu tư xây dựng, trên cơ sở phân
tích căn nguyên và cơ chế quản lý dẫn đến thất thoát xây dựng.
Bổ sung những vấn đề còn bất cập đã được đề cập ở nội dung 3.2 của chương 3, để
hạn chế thất thoát vốn trong đầu tư XDCB.
Cho phép KTNN, công bố công khai kết quả kiểm toán trên các phương tiện thông
tin đại chúng, theo chúng tôi đây là việc làm thực sự cần thiết, để cho công chúng biết
những thông tin cần thiết về quản lý dự án của các cấp, các ngành, nhằm tạo điều kiện cho
họ thực hiện công tác giám sát.
Xử lý nghiêm những người đứng đầu của các Bộ, ngành, các tỉnh thành phố trực
thuộc Trung ương bố trí kế hoạch vượt quá khả năng thanh toán của ngân sách. Đồng
thời không bố trí kế hoạch đầu tư xây dựng, hoặc ứng trước kế hoạch đầu tư xây dựng
cho các ngành, các địa phương có các dự án đầu tư vượt quá khả năng ngân sách hàng
năm của ngành và cấp đó.
3.4.1.2. Thành lập cơ quan phê duyệt quyết toán dự án hoàn thành
Như trên đã phân tích, quản lý ĐT&XD hiện nay là đang kép kín, đó là, người có
thẩm quyền quyết định đầu tư, đồng thời là người phê duyệt quyết toán, cho nên không
khách quan, như vậy là vừa đá bóng vừa thổi còi. Do vậy, sai phạm trong quản lý đầu tư
là điều khó tránh khỏi. Để khắc phục trình trạng này, tác giả đề nghị Nhà nước thành lập
một cơ quan thực hiện nhiệm vụ phê duyệt quyết toán dự án hoàn thành. Có như vậy sẽ
khách quan và báo cáo quyết toán của dự án hoàn thành sẽ trung thực hơn và hạn chế
được tình trạng chậm quyết toán và phê duyệt quyết toán như hiện nay. Cơ quan đó nên
tổ chức theo hệ thống ngành dọc từ Trung ương đến địa phương, để đảm bảo tính khách
quan. Nếu tổ chức này được ra đời thì người có thẩm quyền quyết định đầu tư sẽ thận
trọng hơn trong việc quyết định đầu tư và thất thoát sẽ kiểm soát được.
3.4.1.3. Thành lập ban QLDA chuyên trách
Các công trình xây dựng dân dụng hiện nay chủ đầu tư là thủ trưởng các đơn vị
hành chính, sự nghiệp kiêm nhiệm. Họ là những người không có chuyên môn nghiệp vụ về
xây dựng (ngoại trừ các đơn vị quản lý nhà nước về xây dựng) cho nên quá trình quản lý
đầu tư rất khó khăn, nhiều lúc không phân biệt được ý kiến tham gia của tư vấn thiết kế
đúng hay sai, dẫn đến quản lý theo chủ quan, thiếu cơ sở khoa học. Để khắc phục tình
trạng này, chúng tôi đề nghị: địa phương (tỉnh thành phố trực thuộc Trung ương) và các
ngành Trung ương nên thành lập ban QLDA chuyên trách để xây dựng các công trình dân
dụng cho các cơ quan quản lý nhà nước và các đơn vị sự nghiệp ở địa phương và Bộ
ngành. Những đơn vị được đầu tư xây dựng là thành viên, làm nhiệm vụ giám sát thi công.
Như vậy mô hình này sẽ giám sát lẫn nhau và hạn chế được tiêu cực trong xây dựng.
3.4.2. Đối với Bộ Xây dựng
Bổ sung định mức XDCB theo Quyết định số 1242/1998/QĐ-BXD ngày 25-11-
1998 của Bộ trưởng Bộ Xây dựng một số nội dung, như: khoan mồi, thiết bị phòng cháy,
chữa cháy..., hoặc định mức không phù hợp với tình hình hiện nay như một số định mức
trong công tác nội, ngoại thất (gia công, chế tạo, đồ gỗ...), định mức chi phí khác trong
công tác khảo sát, thiết kế (cắm cột mốc giải phóng mặt bằng, cắm cột tuyến...), định mức
trong công tác duy tu đường sắt, thông tin tín hiệu đường sắt, đơn giá vật tư chuyên ngành,
định mức đơn giá cho công tác quy hoạch phát triển KT-XH tỉnh, thành phố, vùng, khu
vực.
3.4.3. Đối với Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Xây dựng cơ chế, bổ sung hoàn thiện quy chế quản lý ĐT&XD về điều kiện ghi kế
hoạch. Có biện pháp kiên quyết không ghi kế hoạch cho các ngành, các tỉnh thành phố
không tuân thủ quy chế quản lý ĐT&XD.
3.4.4. Đối với Bộ Tài chính
Xây dựng cơ chế, bổ sung hoàn thiện quy chế quản lý ĐT&XD, về cấp phát thanh
toán, quyết toán vốn đầu tư. Có biện pháp kiên quyết không thanh toán vốn đầu tư cho các
ngành, các tỉnh thành phố khi không có đủ các thủ tục đầu tư XDCB và chậm quyết toán
các công trình hoàn thành.
Kết luận chương 3: Để hạn chế thất thoát vốn trong đầu tư XDCB thì không thể
tập trung xử lý một vài khâu nào đó, một vài đối tượng nào đó, mà phải thực hiện toàn
diện, đồng bộ. Phải đề phòng những khuynh hướng dễ dãi như đổ lỗi cho người khác,
khâu khác, hoặc vội vàng ra những văn bản pháp lý để xử lý triệu chứng, và nhất là đề
phòng khuynh hướng cơ hội chủ nghĩa nói nhiều làm ít hoặc đánh trống bỏ dùi.
Kết luận
Thất thoát vốn trong đầu tư XDCB ở nước ta đang là thách thức nghiêm trọng đối
với sự nghiệp phát triển đất nước. Do vậy, phải có giải pháp nhằm hạn chế thất thoát. Với
những lý do đó, luận văn đã giải quyết được các nội dung:
1. Về cơ sở lý luận, đã nêu những vấn đề cơ bản về quản lý vốn và thất thoát vốn
trong đầu tư XDCB. Phân tích vai trò nguồn vốn đầu tư XDCB; xác định ba giai đoạn
quản lý đầu tư và quản lý theo định mức, đơn giá XDCB. Đồng thời, làm rõ vai trò trách
nhiệm của các cơ quan của Nhà nước và các tổ chức tham gia quản lý đầu tư XDCB.
2. Về thực tiễn đã đánh giá đặc điểm vốn đầu tư và thực trạng thất thoát vốn trong
đầu tư XDCB trong thời gian qua ở Việt Nam. Xác định nguyên nhân dẫn đến thất thoát
vốn đầu tư XDCB, từ khâu chuẩn bị đầu tư đến dự án đầu tư hoàn thành đưa vào khai thác
sử dụng.
3. Với cơ sở lý luận và thực trạng thất thoát vốn trong đầu tư XDCB, luận văn đã
đề xuất giải pháp hạn chế thất thoát vốn đầu tư. Qua đó tác giả cũng có một số kiến nghị
đối với Chính phủ và các ngành hữu quan tạo điều kiện cho giải pháp thực hiện.
Với kết quả nghiên cứu nêu trên tác giả đã có những cố gắng nhất định, song phương
pháp nghiên cứu còn nhiều hạn chế và không thể tránh khỏi khiếm khuyết. Do vậy, mong
các Thầy Cô giáo, các nhà khoa học và đồng nghiệp tạo điều kiện giúp đỡ để luận văn
được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn.
danh mục Tài liệu tham khảo
1. Báo cáo của Chính phủ tại kỳ họp thứ 6 Quốc hội khóa XI, Hà Nội.
2. Báo cáo kết quả thanh tra của Thanh tra Chính phủ năm 2003, Hà Nội.
3. Báo cáo kiểm toán của Kiểm toán Nhà nước năm 2001, Hà Nội.
4. Báo cáo kiểm toán của Kiểm toán Nhà nước năm 2002, Hà Nội.
5. Báo cáo kiểm toán tại Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn năm 2004 của Kiểm
toán Nhà nước, Hà Nội.
6. Báo cáo kiểm toán tại Bộ Văn hóa Thông tin năm 1999 của Kiểm toán Nhà nước, Hà
Nội.
7. Báo cáo nợ xây dựng cơ bản của Bộ Kế hoạch và Đầu tư năm 2004, Hà Nội.
8. Báo cáo phát triển Việt Nam 2002 của Ngân hàng thế giới tại Việt Nam, Hà Nội.
9. Báo cáo Thanh tra xây dựng cơ bản của Bộ Xây dựng năm 2001, Hà Nội.
10. Báo cáo tình hình quản lý vốn đầu tư năm 1999 của Tổng cục Đầu tư và Phát triển,
Hà Nội.
11. Báo cáo tổng kết hoạt động của Kiểm toán Nhà nước 7/1994-7/2004, Hà Nội.
12. Bộ Tài chính (2002), Thông tư 23/2002/TT-BTC ngày 20-3 hướng dẫn quản lý sử
dụng chi phí quản lý dự án đầu tư từ nguồn vốn ngân sách nhà nước, Hà Nội.
13. Bộ Tài chính (2003), Thông tư 45/2003/TT-BTC ngày 15-5 hướng dẫn quyết toán vốn
đầu tư, Hà Nội.
14. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (1999), Thông tư 06/1999/TT-BKH ngày 24-11 hướng dẫn về
nội dung tổng mức đầu tư, hồ sơ thẩm định dự án đầu tư và báo cáo đầu tư, Hà
Nội.
15. Bộ Xây dựng (2001), Quyết định số 12/2001/QĐ-BXD ngày 20-7 của Bộ trưởng về
việc ban hành định mức chi phí thiết kế công trình xây dựng, Hà Nội.
16. Bộ Xây dựng (2001), Quyết định 15/2001/QĐ-BXD ngày 20-7 của Bộ trưởng về việc
ban hành định mức chi phí tư vấn đầu tư và xây dựng, Hà Nội.
17. Bộ Xây dựng (2003), Quyết định số 18/2003/QĐ-BXD ngày 27-6 của Bộ trưởng về
việc ban hành Quy định quản lý chất lượng công trình xây dựng, Hà Nội.
18. PGS.TS Thái Bá Cẩn, Quản lý tài chính trong lĩnh vực đầu tư xây dựng, Nxb Tài
chính, Hà Nội.
19. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII,
Nxb Sự thật, Hà Nội.
20. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
21. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
22. VS.TSKH Nguyễn Văn Đáng (2002), Quản lý dự án xây dựng, Nxb Thống kê, Hà Nội.
23. Giáo trình quản lý lập và quản lý dự án đầu tư (1996), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
24. Nguyễn Văn Kim - Nguyễn Huy Hoàng (Chủ biên) (2003), Pháp lệnh chống tham
nhũng của các nước trên thế giới, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
25. Pháp lệnh về tiết kiệm, chống lãng phí và tham nhũng (2003), Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
26. Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (2003), Doanh nghiệp và việc hoàn
thiện môi trường quản lý kinh doanh, Hà Nội.
27. Quy chế đấu thầu (2003), Nxb Xây dựng, Hà Nội
28. Quy chế quản lý đầu tư và xây dựng (2003), Nxb Xây dựng, Hà Nội.
29. Luật Ngân sách nhà nước (2003), Nxb Tài chính, Hà Nội.
30. Luật Xây dựng (2004), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
31. Tổng hội Xây dựng Việt Nam, Thất thoát đầu tư xây dựng cơ bản nhìn từ nhiều phía,
Hà Nội.
Mục lục
Trang
mở đầu 1
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về quản lý vốn và thất thoát
vốn trong đầu tư xây dựng cơ bản
3
1.1. Vai trò vốn trong đầu tư xây dựng cơ bản 3
1.1.1. Khái niệm 3
1.1.2. Các kênh tạo vốn trong đầu tư XDCB và vai trò của nó 4
1.1.3. Trình tự quản lý vốn trong đầu tư XDCB 5
1.1.4. Nguyên tắc và thẩm quyền quản lý vốn trong đầu tư 15
1.1.5. Thảnh tra kiểm tra và xử lý vi phạm 5
1.2. Các thất thoát vốn trong đầu tư xây dựng cơ bản 21
1.2.1. Khái niệm về thất thoát 21
1.2.2. Tiêu chí xác định thất thoát 23
1.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến thất thoát 23
1.3. Kinh nghiệm chống thất thoát trên thế giới 24
1.3.1. Kinh nghiệm 24
1.3.2. Bài học đối với Việt Nam 25
Chương 2: Thực trạng về thất thoát vốn đầu tư xây dựng cơ bản
ở việt nam trong thời gian qua
27
2.1. Đặc điểm về đầu tư xây dựng cơ bản ở Việt Nam 27
2.1.1. Các kênh tạo vốn đầu tư và đối tượng quản lý 27
2.1.2. Phân cấp quản lý vốn trong đầu tư XDCB 28
2.2. Thực trạng thất thoát vốn đầu tư xây dựng cơ bản 30
2.2.1. Thất thoát ở giai đoạn chuẩn bị đầu tư 30
2.2.2. Thất thoát ở giai đoạn thực hiện đầu tư 32
2.2.3. Thất thoát ở giai đoạn quyết toán dự toán hoàn thành 45
2.3. Đánh giá chung về công tác thanh tra, kiểm tra 46
2.3.1. Kết quả thanh tra 46
2.3.2. Kết quả kiểm toán 47
2.3.3. Nguyên nhân tồn tại 48
Chương 3: Giải pháp và kiến nghị nhằm hạn chế thất thoát vốn trong
đầu tư xây dựng cơ bản
54
3.1. Định hướng về quản lý vốn đầu tư xây dựng cơ bản 54
3.1.1. Xây dựng đội ngũ công chức có phẩm chất và năng lực 54
3.1.2. Hoàn thiện cơ chế thị trường 55
3.1.3. Đổi mới cơ chế đầu tư 56
3.1.4. Tăng cường sự giám sát của xã hội dân sự 59
3.2. Giải pháp hạn chế thất thoát vốn đầu tư xây dựng cơ bản 63
3.2.1. Nhóm giải pháp về giai đoạn chuẩn bị đầu tư 63
3.2.2. Nhóm giải pháp về thực hiện đầu tư 67
3.2.3. Nhóm giải pháp về thanh quyết toán vốn đầu tư 72
3.3. Điều kiện thực hiện giải pháp 76
3.3.1. Nâng cao đời sống vật chất cho cán bộ công chức 76
3.3.2. Nghiêm trị đối với những hành vi gây thất thoát 77
3.4. Kiến nghị đối với Chính phủ và các ngành hữu quan 79
3.4.1. Đối với Chính phủ 79
3.4.2. Đối với Bộ Xây dựng 80
3.4.3. Đối với Bộ Kế hoạch và Đầu tư 81
3.4.4. Đối với Bộ Tài chính 81
Kết luận 82
Danh mục tài liệu tham khảo 8
3
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- Giải pháp hạn chế thất thoát vốn trong đầu tư xây dựng cơ bản tại Việt Nam.pdf