Luận văn Giải pháp hoàn thiện quy trình quản lý nhằm nâng cao hiệu quả dự án đầu tư xây dựng các công trình dân dụng

Với cơ sở lý luận và thực tiễn quản lý, sử dụng vốn đầu tư của nước ta trong thời gian qua. Trên cơ sở đó, luận văn đã chỉ ra những tồn tại của quy chế quản lý đầu tư. Là cơ sở cho luận văn đưa ra những định hướng và giải pháp hoàn thiện quy trình quản lý ĐT&XD, nhằm chống thất thoát, lãng phí vốn đầu tư XDCB, để công trình xây dựng đảm bảo chất lượng, dự án đầu tư có hiệu quả. Đồng thời, cũng có một số kiến nghị đối với Chính phủ và các ngành hữu quan tạo điều kiện cho giải pháp thực hiện.

pdf85 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2697 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giải pháp hoàn thiện quy trình quản lý nhằm nâng cao hiệu quả dự án đầu tư xây dựng các công trình dân dụng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ức lãi suất khác nhau, cách thu hồi vốn cũng khác nhau. Phân tán nhiều đầu mối như vậy là không tốt, cần phải chuyển cho tín dụng thì hoạt động mới có hiệu quả. 3.1.4. Tăng cường sự giám sát của xã hội dân sự Cơ cấu của một quốc gia có nền kinh tế thị trường bao gồm ba khu vực: nhà nước, kinh doanh và xã hội dân sự. Sự tham gia của xã hội dân sự vào cuộc đấu tranh chống thất thoát, lãng phí và tiêu cực trong ĐT&XD là rất quan trọng, nhằm quán triệt chủ trương của Đảng là: "Các đảng viên và Chi bộ Đảng, Mặt trận Tổ quốc, các Đoàn thể nhân dân, các cơ quan thông tin đại chúng và toàn xã hội có trách nhiệm giám sát, kiểm tra cán bộ, công chức, phát hiện, tố cáo, lên án những kẻ tham nhũng" [21, tr. 136]. Huy động sự tham gia của xã hội dân sự cũng chính là làm theo tư tưởng của Bác Hồ về sức mạnh của nhân dân, của khối đại đoàn kết dân tộc, về quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng Nhà nước thực sự của dân, do dân và vì dân. Sự tham gia đó có thể được thực hiện: a) Các tổ chức xã hội nghề nghiệp Nhiều tổ chức xã hội nghề nghiệp nước ta có liên quan đến ngành xây dựng như hiệp hội tư vấn xây dựng, hiệp hội nhà thầu xây dựng, hội cầu đường, hội thủy lợi, hội cấp thoát nước và Tổng hội Xây dựng Việt Nam cùng các hội thành viên của mình. Các tổ chức này có lợi ích cơ bản trong việc thúc đẩy sự trưởng thành nhanh chóng của thị trường xây dựng nước ta, tăng cường khả năng cạnh tranh quốc tế của ngành trong bối cảnh toàn cầu hóa, xóa bỏ các trở ngại cho đầu tư trong nước và nước ngoài, tạo được sự tín nhiệm để thu hút viện trợ phát triển, đóng góp vào việc thực hiện chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xóa đói, giảm nghèo nhằm đưa nước ta ra khỏi diện các nước nghèo và trở thành một nước công nghiệp. Giới kinh doanh xây dựng nước ta đang quen thuộc với việc đút lót các công chức để nhận được công việc làm ăn, xem đó là một thứ luật chơi trong thực tế cuộc sống. Thế nhưng một công việc làm ăn cũng chỉ đến với một số doanh nghiệp mà thôi, mà doanh nghiệp này không hẳn là xứng đáng nhất, trong khi nhiều doanh nghiệp khác có năng lực phù hợp hơn lại bị gạt ra ngoài cuộc chơi. Vì vậy, hiệp hội doanh nghiệp phải vào cuộc để đấu tranh, bảo vệ quyền lợi chính đáng cho đa số trong cộng đồng doanh nghiệp. Hiệp hội doanh nghiệp có thể tham gia đấu tranh chống thất thoát bằng nhiều biện pháp, như: - Thu nhập và công bố thông tin thị trường: Môi trường cạnh tranh sẽ hoàn hảo nếu các doanh nghiệp được cung cấp đầy đủ và kịp thời các thông tin thị trường, như: thông tin về tất cả các dự án, về các cuộc đấu thầu tư vấn, thi công, cung cấp thiết bị, tình hình ký kết các hợp đồng kinh tế, các cuộc đấu thầu, kết quả đấu thầu và ký kết hợp đồng phải được công bố trên báo của hiệp hội. Nếu có thể nên bắt buộc công bố cả giá trị quyết toán công trình. - Hiệp hội định kỳ hoặc kịp thời bình luận về các hoạt động thị trường, nêu ra những tình hình không minh bạch, như: kết quả đấu thầu bị xóa bỏ, giá trị hợp đồng vượt trội giá trị trúng thầu, giá trị thanh toán vượt trội giá trị hợp đồng, hoặc tình trạng chậm thanh toán khi không phải do thiếu vốn mà là biểu hiện của tham nhũng. Những bình luận như vậy có tác động như lời "cảnh báo" và thu hút sự quan tâm của công luận. - Tổ chức các hội thảo quốc gia và quốc tế về các chủ đề nóng bỏng của ngành như đất xây dựng, chất lượng xây dựng, cạnh tranh trong xây dựng, xuất khẩu xây dựng… - Phản biện các đồ án quy hoạch và luận chứng của các dự án đầu tư xây dựng lớn cả ở cấp quốc gia và cấp địa phương, đặc biệt là đóng góp ý kiến cho các cơ quan dân cử về các quy hoạch và dự án kết cấu hạ tầng; - Đề xuất sự cần thiết có văn bản pháp quy mới hoặc tham gia hoàn thiện văn bản pháp quy hiện hành nhằm tạo ra sự thông thoáng và minh bạch trong QLNN cũng như trong hoạt động thị trường. b) Các phương tiện thông tin đại chúng Các Văn kiện của Đảng đã sớm đề cập đến "tình hình thất thoát lớn tài sản xã hội chủ nghĩa" [19, tr. 38], nhưng chỉ đến năm gần đây dư luận xã hội mới lên án mạnh mẽ tình hình này. Đó là nhờ các phương tiện thông tin đại chúng đưa ra ánh sáng các vụ tham nhũng, các công trình bị ăn bớt vật tư và có chất lượng xấu, các dự án tốn kém nhưng ít hiệu quả. Báo chí cũng đã chặn được trình trạng "chìm xuống" của một số vụ việc tiêu cực, làm tăng nguy cơ bị vạch trần của các hành vi tham nhũng, của các dự án duy ý chí kém hiệu quả, của các hoạt động kinh doanh gian dối. Báo chí giúp sự đồng tâm nhất trí từ Quốc hội đến Chính phủ và lan tỏa ra các tầng lớp xã hội để chống lại thất thoát xây dựng, thúc đẩy cải cách thể chế trợ giúp thị trường, nghiêm trị những kẻ bất chính. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, báo chí có khả năng cùng với khu vực xã hội dân sự đóng vai trò tích cực trong việc phát triển và củng cố các nguyên tắc đạo đức xã hội, làm cho những kẻ giàu có bất minh trở thành nhân vật bị khinh bỉ, chứ không phải là tấm gương để noi theo, khuyến khích công dân và những bên bị thiệt hại chủ động tố giác và cung cấp bằng chứng về những tiêu cực và lãng phí trong xây dựng bất cứ khi nào chúng xảy ra. Để các thông tin trên phương tiện thông tin đại chúng có chất lượng cao hơn nữa, có hiệu quả hơn nữa, chúng tôi đề nghị Báo đài nên phản ánh các quan điểm khác nhau về mỗi vụ việc để thu hút nhiều hơn sự chú ý của công luận và tạo điều kiện cho bạn đọc có những đánh giá khách quan. c) Cộng đồng dân cư và các đoàn thể nhân dân Ngày nay các Chính phủ, các nhà tài trợ rất coi trọng sự tham gia của cộng đồng dân cư vào quá trình ĐT&XD để dự án sát hợp hơn với lợi ích của cộng đồng cả về mặt vật chất và tinh thần (phong tục, tập quán, văn hóa) đảm bảo được sự minh bạch, có được sự giám sát tại chỗ và thường xuyên trong quá trình thực hiện dự án, khi công trình hoàn thành đưa vào sử dụng thì được cộng đồng tham gia gìn giữ, bảo vệ. Nước ta vốn có cộng đồng làng xã rất mạnh với truyền thống tự quản và tự bảo vệ phát huy tác dụng trong suốt quá trình dựng nước và giữ nước. Ngày nay cộng đồng làng xã vẫn có vai trò to lớn trong phát triển KT-XH. Đảng ta đưa ra khẩu hiệu nổi tiếng "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra". Chính phủ đã ban hành Quy chế dân chủ ở cơ sở, chính là nhằm huy động sự tham gia của cộng đồng. Quá trình tham gia đòi hỏi phải đối thoại công khai và có sự tham gia rộng rãi, tích cực của công dân và phải tạo cơ hội cho cá nhân có tiếng nói trong các quyết định có ảnh hưởng đến họ. Thế nhưng trên thực tế sự tham gia của cộng đồng dân cư đã không được coi trọng, hoặc làm chiếu lệ, hoặc bị bỏ qua, dù rằng các hậu quả tai hại là rất rõ ràng. Giải phóng mặt bằng thì dằng dai và khiếu kiện liên miên, chợ xây xong không có người họp, cảng cá không có thuyền đậu, hệ thống cấp nước chỉ tập trung vào nhà máy mà không lo hệ thống đường ống phân phối, cầu đường vừa xây xong đã hư hỏng, công sở bàn giao sử dụng không được bao lâu thì lại phải cải tạo, sửa chữa. Đối với một dự án, sự tham gia của cộng đồng không chỉ là khi mới hình thành chủ trương đầu tư và chuẩn bị đầu tư mà cả trong quá trình xây dựng và khi công trình được nghiệm thu đưa vào xây dựng. Khi lập quy hoạch các loại, nếu là quy hoạch lớn thì phải đưa ra công chúng các điều kiện then chốt nhất, nếu là quy hoạch khu vực dân cư thì dân sống trong đó phải được biết và phát biểu ý kiến, nguyện vọng. Sự tham gia của cộng đồng có nhiều hình thức, như thông qua điều tra xã hội học, tổ chức hội họp với đại diện cộng đồng, hộp thư lấy ý kiến thông qua đó dự án quy hoạch, hoặc dự án đầu tư nhiều khi nhận được những thông tin có giá trị mà không thể có được từ nguồn khác. Các đoàn thể nhân dân trong Mặt trận Tổ quốc đóng vai trò rất quan trọng trong việc tổ chức sự tham gia của cộng đồng, tuy vậy dự án vẫn phải tạo điều kiện cho từng cá nhân hoặc hộ gia đình nói lên những điều bức xúc của riêng họ. 3.2. Một số giải pháp hoàn thiện quy trình quản lý đầu tư và xây dựng 3.2.1. Nhóm giải pháp về chuẩn bị đầu tư 3.2.1.1. Giải pháp về công tác quy hoạch Quy hoạch là khâu hết sức quan trọng trong quy trình kế hoạch hóa nền kinh tế quốc dân, công tác quy hoạch phát triển KT-XH ngày càng được chú trọng. Đặc biệt sau khi có Chỉ thị số 32/1998/CT-TTg ngày 23-9-1998 của Thủ tướng Chính phủ về công tác quy hoạch, công tác quy hoạch được triển khai mạnh mẽ ở tất cả các ngành và các địa phương trong cả nước, góp phần quan trọng vào việc bố trí tổng thể nền kinh tế quốc dân nói chung và các ngành sản xuất nói riêng theo lãnh thổ. Tuy nhiên, công tác quy hoạch còn nhiều bất cập, như: - Quy chế quản lý ĐT&XD hiện nay chưa ràng buộc trách nhiệm cá nhân lãnh đạo của các ngành, các cấp trong công tác quy hoạch. Bố trí ngân sách hàng năm cho công tác quy hoạch chưa thỏa đáng, quy hoạch xây dựng đô thị và nông thôn chưa công khai thường xuyên tại cơ quan chính quyền các cấp và nơi công cộng trong vùng quy hoạch để nhân dân thực hiện và kiểm tra việc thực hiện. - Tư tưởng cục bộ, cá nhân của một số lãnh đạo ngành, địa phương đang diễn ra phổ biến, thiếu sự phối hợp trong công tác lập quy hoạch. - Tuân thủ quy hoạch đã được phê duyệt, như: thị trấn, thị tứ, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh chưa triệt để. Cho nên xây dựng còn tình trạng không theo quy hoạch, chưa đồng bộ, thiếu mỹ quan. Để khắc phục những tồn tại trong công tác quy hoạch, nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng và tránh thất thoát lãng phí NSNN, chúng tôi xin đề nghị: - Công tác quy hoạch phải đi trước một bước, các Bộ, ngành và địa phương phải chú trọng, quan tâm đúng mức đến công tác quy hoạch. Tuy nhiên, ngân sách còn nhiều khó khăn, nhưng không vì thế mà các dự án đầu tư xây dựng lại không có quy hoạch hoặc quy hoạch không cụ thể. Ưu tiên bố trí hợp lý, thỏa đáng cho công tác quy hoạch. Có như vậy thì công trình xây dựng xong, không phải phá đi để di chuyển địa điểm như thời gian vừa rồi. Những người đứng đầu địa phương và ngành phải tuân thủ quy hoạch đã được duyệt. Nếu xây dựng, không theo quy hoạch đã được duyệt thì kiên quyết không bố trí kế hoạch vốn đầu tư và người quyết định sai phải chịu trách nhiệm bồi thường vật chất, đồng thời xử lý thỏa đáng về chức trách mà người đó đảm nhận. - Trong những năm tiếp theo gấp rút tiến hành rà soát, điều chỉnh lại quy hoạch phát triển KT- XH gắn với chuyển dịch cơ cấu đầu tư, theo hướng quy hoạch phải thống nhất cho cả nước, phải đảm bảo sự gắn kết chặt chẽ giữa các yếu tố phát triển cả nước, hội nhập kinh tế quốc tế. Quy hoạch phải đi đôi với quản lý và kỷ luật thực hiện quy hoạch. - Đổi mới phương pháp luận làm quy hoạch, tổ chức đào tạo lại các chuyên gia quy hoạch, ít nhất là chủ nhiệm dự án quy hoạch; thực hiện soạn thảo và thẩm định quy hoạch có sự tham gia của cộng đồng và các tổ chức xã hội; tập trung và cập nhật toàn bộ dữ liệu về hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật từ đầu tư xây dựng đến vận hành rồi giao cho ngành kế hoạch và cấp dữ liệu cho việc soạn thảo quy hoạch cũng như lập dự án. 3.2.1.2. Giải pháp về chủ trương đầu tư Chủ trương đầu tư đúng đem lại hiệu quả kinh tế cao, ngược lại sẽ gây lãng phí lớn, hậu quả kéo dài. Thất thoát do đầu tư sai, do thiếu cơ sở khoa học không phải là nhỏ, công luận phê phán nhiều, bởi đây là chủ trương của "tập thể" những người có chức có quyền nể nang là việc khó tránh, vì vậy rất khó xử lý. Để khắc phục tình trạng này, tác giả xin đề xuất: - Bổ sung nội dung chuẩn bị đầu tư của Quy chế quản lý ĐT&XD về công khai mời tư vấn phản biện của các Hội, Hiệp hội... Người có thẩm quyền quyết định đầu tư phải thật sự lắng nghe ý khiến của các chuyên gia tư vấn phản biện để tìm ra phương án tối ưu. Nếu ý kiến của các tư vấn can ngăn mà cấp có thẩm quyền không chịu nghe, dẫn đến công trình đầu tư kém hiệu quả, thì người đó phải chịu trách nhiệm trước pháp luật và bồi thường vật chất do quyết định đầu tư không đúng. - Đối với những dự án lớn liên quan đến nhiều lĩnh vực, được nhiều người quan tâm, thì nên có các chuyên gia đóng góp ý kiến. Các ý kiến tham gia đóng góp cần được tân trọng trả lời và trả một khoản phí. Hiện nay chế độ của ta chưa có, do đó cần phải được bổ sung để khuyến khích dân chúng tham gia đóng góp. - Quy chế quản lý ĐT&XD đã quy định cụ thể trong các Điều 10, 11 và 12, việc phân công và phân cấp quản lý các dự án thuộc nguồn NSNN rành mạch, rõ ràng, hạn chế được tình trạng quan liêu, thiếu trách nhiệm và khả năng thất thoát, lãng phí. Tuy vậy, các quy định vẫn chưa chứng tỏ sẽ xử lý được ba căn bệnh trầm kha trong đầu tư xây dựng là các áp lực bên ngoài đối với các chủ đầu tư, các đường dây chạy dự án và tình trạng đầu tư phân tán. Các căn bệnh đó đã gây ra tác hại lớn trong giai đoạn tiền dự án nên Quy chế quản lý ĐT&XD (Điều 10) đã tìm cách ngăn ngừa và hạn chế chúng bằng cách đề cao vai trò của các quy hoạch phát triển KT-XH, quy hoạch phát triển ngành, quy hoạch xây dựng được cấp có thẩm quyền phê duyệt (tuy vẫn để ngỏ khả năng chấp nhận các dự án chưa có trong quy hoạch). Ngoài ra, Luật NSNN (2004) (Điều 15) quy định Quốc hội quyết định danh mục các chương trình, dự án quốc gia, các công trình XDCB quan trọng được đầu tư từ nguồn vốn NSNN. Xem ra đã có phần chặt chẽ hơn trước, thế nhưng thất thoát xây dựng vẫn chưa giảm vì điều đó còn phụ thuộc vào chất lượng của quy hoạch và chất lượng của việc thẩm định quy hoạch, phụ thuộc vào thời gian Quốc hội dành cho việc xem xét quyết định các dự án quan trọng quốc gia... Do vậy, đề nghị tất cả các dự án kết cấu hạ tầng KT-XH gắn với lợi ích phát triển quốc gia hoặc liên vùng hay là của một tỉnh, một huyện, thì phải được Quốc hội hoặc HĐND tỉnh xem xét quyết định quy hoạch và chủ trương đầu tư. Có như vậy các đại biểu dân cử mới có điều kiện nói lên nguyện vọng của cử tri và điều hòa các lợi ích khác nhau. Để làm được việc này thì ủy ban Kinh tế và ngân sách của Quốc hội và HĐND tỉnh cần phải bao gồm đủ đại biểu của các tỉnh hoặc các huyện, và phải làm thường xuyên để thẩm tra các văn kiện dự án mà Chính phủ hoặc UBND tỉnh trình duyệt. Riêng đối với các thành phố, thị xã thuộc tỉnh từ loại 3 trở lên, HĐND các đô thị đó cũng cần được phân cấp quyết định quy hoạch và chủ trương đầu tư một số hạ tầng KT-XH để đáp ứng sát, phù hợp và kịp thời hơn nhu cầu của dân cư đô thị. Còn HĐND cấp xã, phường, thị trấn thì đã được phân cấp quyết định đối với các dự án cộng đồng theo quy chế dân chủ ở cơ sở. - Quá trình chuẩn bị đầu tư, kế hoạch vốn đầu tư phải chặt chẽ và giám sát nghiêm túc như quá trình thực hiện đầu tư, quy định thời gian chuẩn bị đầu tư để có đủ thời gian xem xét kỹ lưỡng về các giải pháp kinh tế, giải pháp kỹ thuật, tránh tình trạng xem nhẹ công tác chuẩn bị đầu tư như hiện nay. Có như vậy mới giảm bớt hiện tượng nước đến chân mới nhảy và cơ quan có thẩm quyền quyết định đầu tư đỡ phải chịu áp lực ra quyết định vội vã khi dự án chưa hội đủ điều kiện. Cũng nên cân nhắc khả năng dành hẳn một năm tập trung chấn chỉnh công tác chuẩn bị đầu tư để kế hoạch đầu tư XDCB năm sau hoàn toàn đi vào quỹ đạo đúng quy định của pháp luật, còn trong kế hoạch XDCB của năm đó chỉ có những dự án triệt để hợp thức. Thực tiễn chứng tỏ lối làm việc trước chậm, sau nhanh hạn chế được thất thoát xây dựng và hiệu quả hơn lối làm việc trước nhanh, sau chậm. 3.2.1.3. Giải pháp về giải phóng mặt bằng xây dựng Trong quá trình thực hiện dự án, khâu đầu tiên dễ xảy ra tiêu cực đó là khâu giải phóng mặt bằng hiện đang được công luận quan tâm. Điều 35 Nghị định số 52/1999/NĐ- CP ngày 8-7-1999 của Chính phủ quy định chủ đầu tư chịu trách nhiệm thực hiện đền bù và giải phóng mặt bằng xây dựng. Để thực hiện tốt công tác chuẩn bị mặt bằng chúng tôi đề nghị: - Sửa đổi Điều 35 Nghị định số 52/1999/NĐ-CP ngày 8-7-1999 của Chính phủ, như đưa công tác giải phóng mặt bằng vào giai đoạn chuẩn bị đầu tư dự án, chứ không phải giai đoạn thực hiện dự án như hiện nay. Giao cho chính quyền địa phương sở tại thực hiện công tác giải phóng mặt bằng, vì chính quyền địa phương là người quản lý dân sở tại trên địa bàn hành chính do họ phụ trách. Kinh phí đền bù giải phóng mặt bằng xây dựng, ban QLDA sẽ chuyển trả cho chính quyền sở tại. - Quy chế quản lý ĐT&XD cần phải quy định rõ trách nhiệm cho từng cá nhân, từng cấp được quyền tuyên bố thu hồi đất vì lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng, lợi ích an ninh - quốc phòng và tuyên bố được thực hiện theo hình thức nào? - Nếu chưa giải phóng được mặt bằng xây dựng thì dự án không được triển khai thực hiện đầu tư và không được ghi kế hoạch của năm đó. Phải chuyên nghiệp hóa công tác giải phóng mặt bằng, nhất là đào tạo các chuyên viên quản lý giá cho công việc này. Việc trả tiền đền bù đến tay đối tượng được đền bù nhất thiết phải thông qua dịch vụ ngân hàng. Theo chúng tôi, giá đền bù thu hồi đất thổ cư phải sát với giá thị trường bất động sản và người bị thu hồi đất, cũng phải trả tiền cho nhà nước bằng giá đất thị trường tự do từng thời điểm (nếu được đền bù đất). Có như vậy mới hạn chế được tiêu cực trong việc đền bù giải phóng mặt bằng và dân đỡ suy bì, so sánh, khiếu kiện. 3.2.2. Nhóm giải pháp về thực hiện đầu tư 3.2.2.1. Giải pháp chống đầu tư dàn trải Đầu tư phân tán, dàn trải, dẫn đến: Công trình thi công kéo dài, hiệu quả đầu tư thấp, gây lãng phí cho Nhà nước và xã hội. Hiện nay Quy chế quản lý ĐT&XD quy định không cụ thể trách nhiệm của người có thẩm quyền quyết định đầu tư, nhưng bố trí không đủ vốn cho dự án hoàn thành đúng kế hoạch. Để khắc phục tình trạng này chúng tôi xin đề xuất: - Bổ sung nội dung Điều 17 Nghị định số 52/1999/NĐ-CP ngày 8-7-1999 của Chính phủ, về kế hoạch vốn hàng năm cho các dự án khởi công xây dựng mới phải cân đối hợp lý; ưu tiên cho công trình chuyển tiếp, bố trí vốn đúng tiến độ thực hiện dự án đã được ghi trong quyết định đầu tư. Nếu còn vốn thì mới bố trí cho những công trình xây dựng mới và ngược lại. Xử lý nghiêm tiến độ và thời hạn hoàn thành công trình, có sự giám sát của HĐND. Đây là một trong những nội dung quan trọng để hạn chế đầu tư dàn trải. Nhưng những người có chức, có quyền thường khó thực hiện. Trong thực tế hiện nay nhiều người có thẩm quyền quyết định đầu tư, thường quyết định đầu tư tràn lan khi sắp hết nhiệm kỳ. Để khắc phục tình trạng này, đề nghị trước khi hết nhiệm kỳ một năm, cơ quan KTNN cần tiến hành kiểm toán công tác bố trí kế hoạch vốn đầu tư XDCB của các ngành, các địa phương. Quy định hình thức xử lý và xử lý nghiêm những người có thẩm quyền quyết định đầu tư, đã bố trí vốn đầu tư dàn trải. Những người có thẩm quyền phải chịu trách nhiệm đến cùng trong việc ký duyệt dự án, phải cân đối nguồn vốn một cách vững chắc, không những đủ vốn cho dự án, mà còn phải có dự phòng những phát sinh ngoài dự kiến; - Phải công khai hóa vốn đầu tư ngân sách, là một giải pháp quan trọng để chống đầu tư không đúng chỗ và thất thoát. Thực hiện công khai hóa là nhằm đảm bảo sự giám sát của nhân dân. Công bố công khai dự án đầu tư để nhân dân đóng góp về chủ trương đầu tư, sau đó giám sát việc đấu thầu và thi công xây dựng; - Thực hiện nguyên tắc tiền ngân sách là tiền của dân nên phải được đại diện của dân bàn và quyết định. Theo đó ngoài các công trình trọng điểm quốc gia do Quốc hội quyết định, cần phát huy vai trò của các HĐND với việc sử dụng vốn ngân sách cho đầu tư phát triển; nếu dự án thuộc ngân sách địa phương (kể cả phần Trung ương phân bổ thêm cho địa phương) thì phải đưa ra HĐND thảo luận, quyết định và công bố, công khai nếu là dự án xây dựng kết cấu hạ tầng thuộc quyền quyết định của cơ quan chính quyền, thì phần làm trên địa bàn nào cũng phải thông báo cho HĐND địa phương đó góp ý kiến. - Chấm dứt tình trạng dự án đầu tư xây dựng chưa được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt, nhưng đã được ứng vốn theo lối "tiền trảm hậu tấu". - Bổ sung nội dung Điều 49 Nghị định số 52/1999/NĐ-CP ngày 8-7-1999 của Chính phủ, đó là quy định mức bồi thường vật chất và trách nhiệm cá nhân của người có thẩm quyền quyết định đầu tư, bố trí không đủ vốn để thực hiện hoàn thành dự án đúng với quy chế quản lý đầu tư và đúng với thời gian trong quyết định đầu tư. Nếu người có thẩm quyền quyết định đầu tư đã bố trí đủ vốn, mà chủ đầu tư hoặc ban QLDA gây khó khăn hoặc chuyển vốn của dự án này cho dự án khác thì phải được xử lý nghiêm minh trước pháp luật. Để xử lý nghiêm minh quy chế phải quy định mức xử phạt và hình thức kỷ luật thỏa đáng. 3.2.2.2. Giải pháp về công tác thiết kế, lập tổng dự toán Chất lượng tư vấn thiết kế trong thời gian qua chưa cao, vì phải chiều theo ý lãnh đạo, nếu ngược lại thì nhiều khả năng không có việc làm. Người tư vấn trở thành người nợ, "chủ bảo sao làm vậy", suy nghĩ độc lập bị hạn chế, khó mà đề xuất khuyến cáo. Để khắc phục trình trạng đó, chúng tôi đề nghị: - Xem xét chi phí cho tư vấn thiết kế, vì: chi phí tư vấn của ta còn thấp, khoảng 3% tổng giá trị công trình, trong khi các dự án vốn ngoài nước từ 9-12%. Do đó khó có khả năng đầu tư chiều sâu cho cả con người lẫn trang thiết bị hiện đại và hệ quả là "tiền nào của ấy". - Bổ sung nội dung Điều 36 Nghị định số 52/1999/NĐ-CP ngày 8-7-1999 của Chính phủ về thiết kế xây dựng công trình: tư vấn thiết kế, khi nhận thiết kế cho công trình hay một dự án nào đó, thì phải có ít nhất là 3 phương án thiết kế, để chủ đầu tư chọn một trong các phương án đó, có giải pháp tối ưu về mặt kỹ thuật và tối ưu về kinh tế. Nếu không có các phương án theo quy định, thì người có thẩm quyền quyết định đầu tư không được phê duyệt TKKT-TDT. Quy định tỷ lệ được phép sai sót của tư vấn thiết kế khi lập dự toán. Nếu vượt quá tỷ lệ đó thì phải quy định mức bồi thường vật chất, theo chúng tôi mức bồi thường phải bằng số tiền thiệt hại của công trình đó. Ngoài mức bồi thường vật chất phải xử lý trách nhiệm người có thẩm quyền phê duyệt TKKT-TDT. - Những công trình lớn, phức tạp rất cần mời tư vấn độc lập phản biện, chi phí sẽ tăng lên, song tìm được phương án tối ưu, sẽ lợi ích hơn nhiều. Nên quy định tổ chức thi chọn một số mẫu thiết kế của các cơ quan quản lý nhà nước. Chúng tôi đề xuất ý tưởng này bởi vì thiết kế của ta hiện nay tuy đã có nhiều cố gắng, nhưng còn lạc hậu so với các nước. Cho nên nhiều cơ quan xây dựng xong mới thấy kiến trúc xấu, bố trí giao thông trong tòa nhà không hợp lý, công năng sử dụng không tối ưu, lãng phí diện tích sử dụng, trong khi đó diện tích cần thiết thì lại chật hẹp. Từ chỗ đó lại nẩy sinh cải tạo, sửa chữa gây tốn kém, lãng phí NSNN. Do vậy thực hiện thi chọn mẫu thiết kế thì NSNN sẽ tiết kiệm được một khoản tiền rất lớn về chi phí cải tạo, sửa chữa và sẽ có kiến trúc đẹp. 3.2.2.3. Giải pháp trong khâu chọn thầu Một số địa phương, Bộ, ngành trực thuộc Trung ương chấp hành Quy chế đấu thầu ban hành theo Nghị định số 88/1999/NĐ-CP ngày 01-9-1999 của Chính phủ chưa nghiêm, như: dự án phải tổ chức đấu thầu, nhưng lại thực hiện chỉ định thầu; phải đấu thầu rộng rãi, thì lại đấu thầu hạn chế; chia nhỏ dự án ra nhiều gói thầu để đấu thầu như hình thức giao thầu. Dẫn đến chất lượng công trình không đảm bảo, NSNN bị thất thoát lãng phí. Để khắc phục tồn tại trên chúng tôi đề nghị: Bổ sung nội dung Nghị định số 88/1999/NĐ-CP ngày 01-9-1999 của Chính phủ về chọn thầu: quy định mức xử phạt và xử lý trách nhiệm đối với cá nhân chỉ định thầu không đúng thẩm quyền và không đúng quy định của pháp luật; - Quy định mỗi nhà thầu chỉ được tham gia dự thầu một gói thầu của một dự án; những doanh nghiệp có giá dự thầu thấp hơn giá thầu từ 5% trở lên mà không có thuyết minh hợp lý thì không xem xét giá xét thầu của doanh nghiệp đó, bởi đây là hành động phá giá. Chấm dứt trình trạng chọn thầu với giá thấp nhất như từ trước tới nay, vì hậu quả của nó là chất lượng công trình sẽ không đảm bảo, do thay đổi chủng loại vật tư và bớt xén vật liệu; - Quy định trách nhiệm và mức phạt đối với những người thực hiện đấu thầu hạn chế; - Quy định những gói thầu không phải đấu thầu thì thực hiện hình thức chọn thầu và thương thảo giá trị hợp đồng. Giá trị hợp đồng đã thống nhất thì không được bổ sung những khối lượng có trong thiết kế, mà nhà thầu không phát hiện do dự toán tính thiếu ngay khi nhận thầu và không được điều chỉnh giá trị hợp đồng. Nếu chọn thầu quy định chặt chẽ thì hạn chế được tiêu cực và thực hiện được quyền bình đẳng giữa so với đấu thầu. 3.2.2.4. Giải pháp trong việc ký hợp đồng kinh tế Hợp đồng kinh tế trong đầu tư xây dựng chưa chặt chẽ về điều chỉnh giá trị hợp đồng và xử lý vi phạm hợp đồng. Cho nên, trong quá trình thi công nhiều dự án đã điều chỉnh giá không đúng với quy chế quản lý ĐT&XD và chủ đầu tư chậm thanh toán, nhưng không bị phạt tiền theo Quy chế. Để khắc phục tình trạng này chúng tôi đề nghị: Quy chế quản lý ĐT&XD phải quy định cụ thể để xử lý những hợp đồng kinh tế không chặt chẽ, dẫn đến NSNN phải thiệt hại do điều chỉnh giá trong quá trình thực hiện hợp đồng. Đồng thời nếu có khối lượng thực hiện đủ điều kiện thanh toán, nhưng chủ đầu tư gây khó khăn thì cũng phải được xử lý thỏa đáng. 3.2.2.5. Giải pháp về giám sát thi công và nghiệm thu khối lượng hoàn thành Tư vấn giám sát của ta hiện nay còn ăn "lương" hai mang, đó là lương của chủ đầu tư thuê tư vấn giám sát và lương của các nhà thầu hối lộ khi thi công không đúng theo thiết kế và không đúng phẩm cấp, chất lượng vật liệu. Để khắc phục tình trạng này, đề nghị: bổ sung nội dung của quy chế quản lý ĐT&XD ban hành theo Nghị định số 52/1999/NĐ-CP ngày 8-7-1999 của Chính phủ, đó là: - Quy định mức bồi thường vật chất khi thanh tra, kiểm toán hoặc các cơ quan quản lý nhà nước khác, phát hiện dự án thi công không đúng thiết kế, không đúng phẩm cấp chất lượng vật liệu. - Phải chọn tư vấn giám sát thi công có đủ năng lực, đủ kinh nghiệm. - Trang bị những công cụ, thiết bị cần thiết phục vụ cho việc kiểm tra, nghiệm thu từng công đoạn và có chế độ đãi ngộ thỏa đáng. Do vậy cần phải xem xét lại chi phí giám sát cho thích hợp, để họ không nhận tiền hối lộ của đơn vị thi công. Công tác nghiệm thu hiện nay còn hình thức, nhiều chủ đầu tư nghiệm thu trên bàn giấy theo khối lượng dự toán, mà không bám sát hiện trường, nên không đo đếm cụ thể gây thất thoát NSNN. Do vậy đề nghị quy chế quản lý ĐT&XD bổ sung nội dung xử lý vật chất đối với cá nhân của người nghiệm thu khối lượng không đúng, gây ảnh hưởng thất thoát NSNN. 3.2.2.6. Giải pháp về quyết toán dự án hoàn thành Công tác quyết toán vốn đầu tư dự án hoàn thành là khâu cuối cùng trong dây chuyền quản lý vốn đầu tư. Trong thực tế công tác quyết toán vốn đầu tư dự án hoàn thành còn chậm và nhiều sai sót khi thẩm tra phê duyệt quyết toán, vì người có thẩm quyền quyết định đầu tư đồng thời là người phê duyệt dự án hoàn thành. Như vậy vừa đá bóng vừa thổi còi, cho nên công tác phê duyệt quyết toán sẽ có nhiều tiềm ẩn tiêu cực trong đó, mà khó có thể phát hiện ra. Để khắc phục tồn tại đó chúng tôi đề nghị: - Người có thẩm quyền quyết định đầu tư không được phê duyệt quyết toán vốn đầu tư. Công tác phê duyệt quyết toán nên giao cho một cơ quan khác để kiểm soát lẫn nhau và đảm bảo tính khách quan. Thực hiện việc này nhằm chống độc quyền và đầu tư kép kín như hiện nay. - Giữ lại 15% giá trị gói thầu được thực hiện để chờ công tác quyết toán và phê duyệt quyết toán (tỷ lệ này cao hơn quy chế là 10%). Số tiền giữ lại được tính lãi theo lãi suất cho vay của ngân hàng và thanh toán cho đơn vị thi công khi có kết quả phê duyệt quyết toán. Tuy nhiên đơn vị thi công phải đảm bảo thời gian quyết toán theo quy định, thì mới được thanh toán số lãi đó. Ngược lại, nếu đơn vị thi công chậm quyết toán, thì phải xử phạt theo một tỷ lệ nhất định. Như vậy công tác quyết toán dự án hoàn thành sẽ có ý nghĩa thực sự. - Quy chế quản lý ĐT&XD, chưa quy định cụ thể trách nhiệm bồi thường vật chất của người có thẩm quyền phê duyệt quyết toán. Để nâng cao trách nhiệm, cần phải quy định mức bồi thường vật chất do phê duyệt quyết toán không chính xác, có như vậy mới hạn chế được tiêu cực trong công tác quyết toán và phê duyệt quyết toán. - Quy định, lưu trữ hồ sơ pháp lý của công trình, bởi hiện nay các công trình xây dựng dân dụng vừa mới đưa vào sử dụng 8 đến 10 năm cần phải cải tạo, sửa chữa, thì không còn hồ sơ pháp lý xây dựng để lập phương án sửa chữa. Muốn lập phương án sửa chữa thì phải thuê tư vấn khảo sát thiết kế đến khảo sát, đo vẽ để thiết kế, lập phương án sửa chữa, gây lãng phí tốn kém NSNN. Những trường hợp đó phải xử lý trách nhiệm những người không lưu trữ hồ sơ, hoặc lập phương án sửa chữa, cải tạo không căn cứ vào hồ sơ pháp lý cũ của công trình đó. 3.2.2.7. Giải pháp về tăng cường công tác kiểm toán Nhiệm vụ của cơ quan KTNN đã được Luật NSNN ban hành năm 2002 quy định tại Điều 66 và Điều 67, như sau: - Cơ quan KTNN thực hiện việc kiểm toán, xác định tính đúng đắn, hợp pháp của báo cáo quyết toán NSNN các cấp, cơ quan, đơn vị có liên quan theo quy định của pháp luật. - Khi thực hiện nhiệm vụ, cơ quan KTNN có quyền độc lập và chịu trách nhiệm trước pháp luật về kết luận kiểm toán của mình; trong trường hợp cần thiết, cơ quan KTNN được đề nghị các cơ quan chức năng phối hợp công tác để thực hiện nhiệm vụ được giao. - Cơ quan KTNN có trách nhiệm báo cáo kết quả kiểm toán với Quốc hội, ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ và cơ quan khác theo quy định của pháp luật; thực hiện kiểm toán khi Quốc hội, ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ có yêu cầu. - Việc kiểm toán quyết toán ngân sách được thực hiện trước khi Quốc hội, HĐND phê chuẩn quyết toán; trường hợp kiểm toán sau khi Quốc hội, HĐND phê chuẩn quyết toán thì thực hiện theo quy định của pháp luật. - Trong trường hợp quyết toán ngân sách chưa được Quốc hội, HĐND phê chuẩn thì Chính phủ, UBND trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình và cơ quan KTNN đã kiểm toán phải tiếp tục làm rõ những vấn đề Quốc hội, HĐND yêu cầu để trình Quốc hội, HĐND vào thời gian do Quốc hội, HĐND quyết định. Nhà nước đã có một hệ thống thanh tra, kiểm tra, nhưng trong giai đoạn hiện nay, dư luận quan tâm nhiều đến chất lượng công trình; hiệu quả đầu tư của các dự án không cao, thậm chí kém hiệu quả; tệ nạn tham nhũng ngày càng gia tăng và hoạt động của chúng ngày càng tinh vi. Nhưng để có bằng chứng, kết luận những người, những vụ việc tham nhũng thì chưa nhiều, bởi hoạt động của ĐT&XD là rất phức tạp và khó khăn. Mặt khác hệ thống thanh tra, kiểm tra hàng năm chỉ mới kiểm tra, kiểm toán được khoảng 20% số dự án đầu tư trong năm. Tuy kết quả thanh tra, kiểm toán chưa nhiều, nhưng cũng đã phát hiện và thu hồi nộp NSNN những khoản chi sai của các công trình và dự án xây dựng hàng trăm tỷ đồng mỗi năm. Hiện nay còn khoảng 80% dự án hàng năm chưa được thanh tra, kiểm toán, vậy thất thoát còn nhiều đó là vấn đề bức xúc, mà dư luận xã hội đang quan tâm. Để khắc phục trình trạng này chúng tôi đề nghị: - Phát triển KTNN để thực sự trở thành công cụ quan trọng và đủ mạnh của Nhà nước thực hiện kiểm tra, kiểm soát nghiêm ngặt tài chính Nhà nước và tài sản công là đòi hỏi tất yếu và khách quan của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. - Phát triển KTNN phải đảm bảo quán triệt và thể chế hóa các quan điểm của Đảng về KTNN đã được ghi trong các nghị quyết của Đảng: đề cao vai trò của cơ quan KTNN trong việc kiểm toán mọi cơ quan, tổ chức có sử dụng ngân sách Nhà nước; thực hiện chế độ định kỳ kiểm toán nhà nước, công khai thu chi ngân sách cho dân biết; nâng cao hiệu lực pháp lý và chất lượng KTNN như một công cụ mạnh của Nhà nước. - Phát triển KTNN đảm bảo xu thế hội nhập quốc tế, phù hợp với các nguyên tắc, thông lệ quốc tế và sát hợp với điều kiện thực tế của Việt Nam. - Nhà nước đảm bảo đầy đủ và có chính sách ưu tiên thích đáng các nguồn lực cần thiết cho tổ chức bộ máy và hoạt động của KTNN để đảm bảo tính độc lập trong quá trình thực hiện các chức năng nhiệm vụ được giao. - Cần thực hiện chế độ kiểm toán vốn đầu tư xây dựng, ngay trong giai đoạn chuẩn bị đầu tư, đến giai đoạn dự án hoàn thành lập báo cáo quyết toán, chứ không chỉ kiểm toán khi dự án có báo quyết toán như hiện nay; - Cần giao quyền hạn cho KTNN thực hiện trong quá trình kiểm toán, như được đối chiếu hóa đơn vật liệu xây dựng, vật tư thiết bị của các đơn vị cung cấp cho công trình và đối chiếu với công tác ghi chép kế toán của đơn vị thi công, lắp đặt thiết bị. Nội dung này Thanh tra Chính phủ hiện nay đang thực hiện, qua kiểm tra đối chiếu đã phát hiện được nhiều sai phạm về khối lượng vật tư không có thực trong quyết toán dự án hoàn thành. Đây là phương pháp kiểm toán rất quan trọng, vì trong XDCB có nhiều khối lượng che khuất, do vậy nếu không kiểm toán bằng phương pháp đối chiếu thì không phát hiện được gian lận trong thi công. - Báo cáo kiểm toán do cơ quan kiểm toán thực hiện phải chỉ rõ tổ chức, cá nhân làm thất thoát vốn đầu tư của nhà nước để cơ quan chức năng có căn cứ xử lý trách nhiệm tổ chức và cá nhân (lâu nay chỉ mới nêu số lượng, tỷ lệ vốn thất thoát). - Kết quả kiểm toán phải được công khai và xử lý nghiêm những cá nhân và tổ chức không thực hiện kiến nghị của cơ quan kiểm toán. 3.3. Điều kiện thực hiện giải pháp 3.3.1. Nâng cao đời sống vật chất cho cán bộ công chức Đời sống kinh tế của nhân dân nói chung, cán bộ công chức nói riêng, đã được nâng cao lên nhiều so với thời kỳ bao cấp. Nhưng tiền lương của công chức hiện nay cũng chưa tương xứng với nhiệm vụ của họ phải đảm nhận. Tình trạng đó đã ảnh hưởng xấu đến tính chuyên nghiệp và sự tận tâm của công chức. Nhà nước ta thấy rõ điều này, muốn cải cách cơ bản chế độ tiền lương, nâng cao đời sống người hưởng lương, nhưng gặp khó khăn rất lớn vì ngân sách còn eo hẹp. Chúng tôi cũng nhận thức được khó khăn đó nhưng cho rằng để vượt qua thách thức về tiền lương thì cần tháo gỡ vướng mắc về quan điểm phát triển. Chính phủ và nhân dân ta đều thống nhất rằng để vượt qua đói nghèo thì phải hết sức tiết kiệm chi tiêu, dành tiền để đầu tư phát triển đất nước. Thế nhưng trên thực tế một tỷ lệ đáng kể vốn đầu tư phát triển từ NSNN lại bị thất thoát do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân tham nhũng. Vậy nếu đấu tranh có kết quả để hạn chế tham nhũng thì với chi phí ít hơn vẫn có thể đạt được kết quả phát triển tương đương. Nhưng chống tham nhũng thì cũng cần chi phí, trong đó có chi phí để nâng lương công chức. Trong trường hợp chi phí chống tham nhũng dù có ngang bằng với chi phí đầu tư tiết kiệm được thì vẫn đem lại hiệu quả lớn vì môi trường đạo đức công vụ được cải thiện, lòng tin của người dân vào sự trong sạch của bộ máy công vụ được củng cố, tình hình xã hội ổn định hơn. Vấn đề đặt ra là dù công chức được nâng lương thỏa đáng rồi nhưng liệu có giảm được tham nhũng hay không? Hiển nhiên chống tham nhũng là cuộc đấu tranh toàn diện, cải cách chế độ tiền lương công chức cũng chỉ là một trong giải pháp, nhưng đó lại là giải pháp tạo điều kiện cho việc triển khai đồng bộ các giải pháp khác trong chiến lược chống thất thoát xây dựng. 3.3.2. Nghiêm trị đối với những hành vi lóng phớ, thất thoỏt và tham nhũng ở nước ta hiện nay tham nhũng trong lĩnh vực ĐT&XD là "tỷ lệ phần trăm" lại quả để được nhận dự án, được nhận thầu cũng như nguyên tắc "cưa đôi" lợi ích khi khai khống khối lượng thực hiện đã trở nên phổ biến, là chuyện ai cũng biết, nhưng khó bị phát hiện bởi vì thiếu bằng chứng. Trong trường hợp không đủ bằng chứng tham nhũng thì có thể xem xét các thủ tục XDCB, có khuyết điểm gì về quản lý trong quá trình thực hiện dự án và nếu mức độ tầm trọng thì áp dụng các kỷ luật hành chính. Trường hợp cực đoan thì cấp trên có thể công bố đình chỉ dự án để cấp có dự án tiếp tục điều tra các nghi ngờ về tham nhũng và gian lận, kể cả từ các chứng từ gian lận của bên nhận thầu mà truy tìm ngược lại nguồn gốc tham nhũng của công chức, vì rằng muốn có khoản tiền lớn để hối lộ công chức, thì bên nhận thầu nhất định phải gian lận trong thanh toán và quyết toán. Cơ chế kiểm toán là công cụ hữu hiệu để giúp phát hiện sự vi phạm các nguyên tắc, thủ tục quản lý và các gian lận trong đầu tư xây dựng. Pháp lệnh chống tham nhũng quy định các cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát, Tòa án có trách nhiệm điều tra, truy tố, xét xử các tội phạm về tham nhũng (Điều 31) và Chánh Thanh tra các cấp, các ngành có trách nhiệm kiểm tra, đôn đốc việc phòng ngừa, phát hiện hành vi tham nhũng, xử lý người có hành vi tham nhũng trong các cơ quan, tổ chức Bộ, ngành địa phương mình (Điều 32). Như vậy, nghĩa là thanh tra các cấp, các ngành phải phát hiện và xử lý hành vi tham nhũng của các công chức và viên chức, khi nào xét thấy hành vi đó nghiêm trọng ở mức cấu thành tội phạm thì mới chuyển sang cơ quan điều tra. Việc chấp pháp nghiêm còn do áp lực mạnh mẽ của phương tiện thông tin đại chúng và tinh thần làm chủ của các công dân. Tuy vậy, việc chấp pháp nghiêm phụ thuộc rất nhiều vào năng lực (bao gồm tổ chức, biên chế, trình độ nhân viên và kinh phí) và sự phối hợp nhịp nhàng của các cơ quan giám sát và tư pháp. Tâm lý sợ bị trả thù công khai hoặc gián tiếp làm cho các bên bị thiệt hại và các công dân trung thực không dám tố cáo các hành vi tham nhũng xây dựng. Các công chức thì sợ cấp trên trù úm và đồng nghiệp xa lánh; các doanh nghiệp thì sợ sau này không được giao việc; các ngành các địa phương thì sợ khó nhận được dự án hoặc bị làm khó dễ trong quá trình thực hiện dự án... Vì vậy, cần tổ chức các kênh khiếu nại tố cáo đủ độ tin cậy và việc xem xét điều tra nhiều khi phải tiến hành dưới dạng kiểm tra việc chấp hành các thủ tục và quy trình đầu tư xây dựng, tiến hành phỏng vấn dư luận cộng đồng hoặc kiểm toán đột xuất. Việc chấp pháp nghiêm làm cho công chức thấy tham nhũng là những hành vi có nguy cơ bại lộ cao, các doanh nghiệp thấy đưa hối lộ là rủi ro lớn, từ đó mà có tác dụng răn đe thực tế. 3.4. Kiến nghị đối với Chính phủ và các ngành hữu quan 3.4.1. Đối với Chính phủ a) Hoàn thiện quy chế quản lý ĐT&XD Xây dựng một chiến lược chống thất thoát vốn đầu tư xây dựng, trên cơ sở phân tích căn nguyên và cơ chế quản lý dẫn đến thất thoát xây dựng. Bổ sung những vấn đề còn bất cập đã được đề cập ở nội dung 3.2 của chương 3, để hoàn thiện quy trình quản lý ĐT&XD. Cho phép KTNN, công bố công khai kết quả kiểm toán trên các phương tiện thông tin đại chúng, theo chúng tôi đây là việc làm thực sự cần thiết, để cho công chúng biết những thông tin cần thiết về quản lý dự án của các cấp, các ngành, nhằm tạo điều kiện cho họ thực hiện công tác giám sát. Xử lý nghiêm những người đứng đầu của các Bộ, ngành, các tỉnh thành phố trực thuộc Trung ương bố trí kế hoạch vượt quá khả năng thanh toán của ngân sách. Đồng thời không bố trí kế hoạch đầu tư xây dựng, hoặc ứng trước kế hoạch đầu tư xây dựng cho các ngành, các địa phương có các dự án đầu tư vượt quá khả năng ngân sách hàng năm của ngành và cấp đó. b) Thành lập cơ quan phê duyệt quyết toán dự án hoàn thành Như trên đã phân tích, quy trình quản lý ĐT&XD hiện nay là đang kép kín, đó là, người có thẩm quyền quyết định đầu tư, đồng thời là người phê duyệt quyết toán, cho nên không khách quan, như vậy là vừa đá bóng vừa thổi còi. Do vậy, sai phạm trong quản lý đầu tư là điều khó tránh khỏi. Để khắc phục trình trạng này, chúng tôi đề nghị Nhà nước thành lập một cơ quan thực hiện nhiệm vụ phê duyệt quyết toán dự án hoàn thành. Có như vậy sẽ khách quan và báo cáo quyết toán của dự án hoàn thành sẽ trung thực hơn và hạn chế được tình trạng chậm quyết toán và phê duyệt quyết toán như hiện nay. Cơ quan đó theo chúng tôi, là tổ chức theo hệ thống ngành dọc từ Trung ương đến địa phương, để đảm bảo tính khách quan. Nếu tổ chức này được ra đời thì người có thẩm quyền quyết định đầu tư sẽ thận trọng hơn trong việc quyết định đầu tư và thất thoát, lãng phí sẽ kiểm soát được. c) Thành lập ban QLDA chuyên trách xây dựng dân dụng Các công trình xây dựng dân dụng hiện nay chủ đầu tư là thủ trưởng các đơn vị hành chính, sự nghiệp kiêm nhiệm. Họ là những người không có chuyên môn nghiệp vụ về xây dựng (ngoại trừ các đơn vị quản lý nhà nước về xây dựng) cho nên quá trình quản lý đầu tư rất khó khăn, nhiều lúc không phân biệt được ý kiến tham gia của tư vấn thiết kế đúng hay sai, dẫn đến quản lý theo chủ quan, thiếu cơ sở khoa học. Để khắc phục tình trạng này, chúng tôi đề nghị: địa phương (tỉnh thành phố trực thuộc Trung ương) và các ngành Trung ương nên thành lập ban QLDA chuyên trách để xây dựng các công trình dân dụng cho các cơ quan quản lý nhà nước và các đơn vị sự nghiệp ở địa phương và Bộ ngành. Những đơn vị được đầu tư xây dựng là thành viên, làm nhiệm vụ giám sát thi công. Như vậy mô hình này sẽ giám sát lẫn nhau và hạn chế được tiêu cực trong xây dựng. 3.4.2. Đối với Bộ Xây dựng Bổ sung định mức XDCB theo Quyết định số 1242/1998/QĐ-BXD ngày 25-11- 1998 của Bộ trưởng Bộ Xây dựng một số nội dung, như: khoan mồi, thiết bị phòng cháy, chữa cháy..., hoặc định mức không phù hợp với tình hình hiện nay như một số định mức trong công tác nội, ngoại thất (gia công, chế tạo, đồ gỗ...), định mức chi phí khác trong công tác khảo sát, thiết kế (cắm cột mốc giải phóng mặt bằng, cắm cột tuyến...), định mức trong công tác duy tu đường sắt, thông tin tín hiệu đường sắt, đơn giá vật tư chuyên ngành, định mức đơn giá cho công tác quy hoạch phát triển KT-XH tỉnh, thành phố, vùng, khu vực. 3.4.3. Đối với Bộ Kế hoạch và Đầu tư Xây dựng cơ chế, bổ sung hoàn thiện quy chế quản lý ĐT&XD về điều kiện ghi kế hoạch. Có biện pháp kiên quyết không ghi kế hoạch cho các ngành, các tỉnh thành phố không tuân thủ quy chế quản lý ĐT&XD. 3.4.4. Đối với Bộ Tài chính Xây dựng cơ chế, bổ sung hoàn thiện quy chế quản lý ĐT&XD, về cấp phát thanh toán, quyết toán vốn đầu tư. Có biện pháp kiên quyết không thanh toán vốn đầu tư cho các ngành, các tỉnh thành phố khi không có đủ các thủ tục đầu tư XDCB và chậm quyết toán các công trình hoàn thành. Kết luận chương 3: Muốn nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ngân sách cho đầu tư xây dựng thì phải chống thất thoát, tham nhũng trong đầu tư xây dựng. Chống thất thoát, tham nhũng thì không thể tập trung xử lý một vài khâu nào đó, một vài đối tượng nào đó, mà phải làm toàn diện; phải đề phòng những khuynh hướng dễ dãi như đổ lỗi cho người khác, khâu khác, hoặc vội vàng ra những văn bản pháp lý để xử lý triệu chứng, và nhất là đề phòng khuynh hướng cơ hội chủ nghĩa nói nhiều làm ít hoặc đánh trống bỏ dùi. Kết luận Thất thoát, lãng phí trong đầu tư XDCB ở nước ta đang là thách thức nghiêm trọng đối với sự nghiệp phát triển đất nước. Do vậy, phải có chiến lược và giải pháp chống thất thoát. Với những lý do đó, luận văn đã giải quyết được các nội dung: 1. Về cơ sở lý luận, đã nêu những nội dung cơ bản về chi NSNN cho ĐT&XD, phân tích quy trình quản lý ĐT&XD, cơ sở quản lý vốn đầu tư xây dựng theo định mức kinh tế, kỹ thuật và đơn giá XDCB. Đồng thời làm rõ vai trò trách nhiệm của các cơ quan của Nhà nước và các tổ chức tham gia quản lý đầu tư XDCB. 2. Về thực tiễn đã nhận xét đánh giá cơ chế quản lý đầu tư xây dựng của nước ta trong thời gian vừa qua và phân tích nguyên nhân dẫn đến thất thoát, lãng phí vốn đầu tư XDCB, từ khâu chuẩn bị đầu tư đến thanh quyết toán đưa dự án đầu tư vào khai thác sử dụng. 3. Với cơ sở lý luận và thực tiễn quản lý, sử dụng vốn đầu tư của nước ta trong thời gian qua. Trên cơ sở đó, luận văn đã chỉ ra những tồn tại của quy chế quản lý đầu tư. Là cơ sở cho luận văn đưa ra những định hướng và giải pháp hoàn thiện quy trình quản lý ĐT&XD, nhằm chống thất thoát, lãng phí vốn đầu tư XDCB, để công trình xây dựng đảm bảo chất lượng, dự án đầu tư có hiệu quả. Đồng thời, cũng có một số kiến nghị đối với Chính phủ và các ngành hữu quan tạo điều kiện cho giải pháp thực hiện. Tuy nhiên, bản thân tác giả đã có những cố gắng nhất định, song phương pháp nghiên cứu còn nhiều hạn chế và không thể tránh khỏi khiếm khuyết. Do vậy mong các Thầy Cô giáo và các nhà khoa học và đồng nghiệp tạo điều kiện giúp đỡ để luận văn được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn. danh mục Tài liệu tham khảo 1. Báo cáo của Chính phủ tại kỳ họp thứ 6 Quốc hội khóa XI, Hà Nội. 2. Báo cáo kết quả thanh tra của Thanh tra Chính phủ năm 2003, Hà Nội. 3. Báo cáo kiểm toán của Kiểm toán Nhà nước năm 2001, Hà Nội. 4. Báo cáo kiểm toán của Kiểm toán Nhà nước năm 2002, Hà Nội. 5. Báo cáo kiểm toán tại Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn năm 2004 của Kiểm toán Nhà nước, Hà Nội. 6. Báo cáo kiểm toán tại Bộ Văn hóa Thông tin năm 1999 của Kiểm toán Nhà nước, Hà Nội. 7. Báo cáo nợ xây dựng cơ bản của Bộ Kế hoạch và Đầu tư năm 2004, Hà Nội. 8. Báo cáo phát triển Việt Nam 2002 của Ngân hàng thế giới tại Việt Nam, Hà Nội. 9. Báo cáo Thanh tra xây dựng cơ bản của Bộ Xây dựng năm 2001, Hà Nội. 10. Báo cáo tình hình quản lý vốn đầu tư năm 1999 của Tổng cục Đầu tư và Phát triển, Hà Nội. 11. Báo cáo tổng kết hoạt động của Kiểm toán Nhà nước 7/1994-7/2004, Hà Nội. 12. Bộ Tài chính (2002), Thông tư 23/2002/TT-BTC ngày 20-3 hướng dẫn quản lý sử dụng chi phí quản lý dự án đầu tư từ nguồn vốn ngân sách nhà nước, Hà Nội. 13. Bộ Tài chính (2003), Thông tư 45/2003/TT-BTC ngày 15-5 hướng dẫn quyết toán vốn đầu tư, Hà Nội. 14. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (1999), Thông tư 06/1999/TT-BKH ngày 24-11 hướng dẫn về nội dung tổng mức đầu tư, hồ sơ thẩm định dự án đầu tư và báo cáo đầu tư, Hà Nội. 15. Bộ Xây dựng (2001), Quyết định số 12/2001/QĐ-BXD ngày 20-7 của Bộ trưởng về việc ban hành định mức chi phí thiết kế công trình xây dựng, Hà Nội. 16. Bộ Xây dựng (2001), Quyết định 15/2001/QĐ-BXD ngày 20-7 của Bộ trưởng về việc ban hành định mức chi phí tư vấn đầu tư và xây dựng, Hà Nội. 17. Bộ Xây dựng (2003), Quyết định số 18/2003/QĐ-BXD ngày 27-6 của Bộ trưởng về việc ban hành Quy định quản lý chất lượng công trình xây dựng, Hà Nội. 18. PGS.TS Thái Bá Cẩn, Quản lý tài chính trong lĩnh vực đầu tư xây dựng, Nxb Tài chính, Hà Nội. 19. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội. 20. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 21. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 22. VS.TSKH Nguyễn Văn Đáng (2002), Quản lý dự án xây dựng, Nxb Thống kê, Hà Nội. 23. Giáo trình quản lý lập và quản lý dự án đầu tư (1996), Nxb Giáo dục, Hà Nội. 24. PGS.TS Nguyễn Đình Hựu (2004), Kiểm toán căn bản, Tái bản lần thứ hai, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 25. Nguyễn Văn Kim - Nguyễn Huy Hoàng (Chủ biên) (2003), Pháp lệnh chống tham nhũng của các nước trên thế giới, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội. 26. Pháp lệnh về tiết kiệm, chống lãng phí và tham nhũng (2003), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 27. Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (2003), Doanh nghiệp và việc hoàn thiện môi trường quản lý kinh doanh, Hà Nội. 28. Quy chế đấu thầu (2003), Nxb Xây dựng, Hà Nội 29. Quy chế quản lý đầu tư và xây dựng (2003), Nxb Xây dựng, Hà Nội. 30. Luật Ngân sách nhà nước (2003), Nxb Tài chính, Hà Nội. 31. Luật Xây dựng (2004), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 32. Tổng hội Xây dựng Việt Nam, Thất thoát đầu tư xây dựng cơ bản nhìn từ nhiều phía, Hà Nội. Mục lục Trang mở đầu 1 Chương 1: Những vấn đề cơ bản về quản lý vốn và thất thoát vốn trong đầu tư xây dựng cơ bản 3 1.1. Vai trò vốn trong đầu tư xây dựng cơ bản 3 1.1.1. Khái niệm 3 1.1.2. Các kênh tạo vốn trong đầu tư XDCB và vai trò của nó 4 1.1.3. Trình tự quản lý vốn trong đầu tư XDCB 5 1.1.4. Nguyên tắc và thẩm quyền quản lý vốn trong đầu tư 15 1.1.5. Thảnh tra kiểm tra và xử lý vi phạm 5 1.2. Các thất thoát vốn trong đầu tư xây dựng cơ bản 21 1.2.1. Khái niệm về thất thoát 21 1.2.2. Tiêu chí xác định thất thoát 23 1.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến thất thoát 23 1.3. Kinh nghiệm chống thất thoát trên thế giới 24 1.3.1. Kinh nghiệm 24 1.3.2. Bài học đối với Việt Nam 25 Chương 2: Thực trạng về thất thoát vốn đầu tư xây dựng cơ bản ở việt nam trong thời gian qua 27 2.1. Đặc điểm về đầu tư xây dựng cơ bản ở Việt Nam 27 2.1.1. Các kênh tạo vốn đầu tư và đối tượng quản lý 27 2.1.2. Phân cấp quản lý vốn trong đầu tư XDCB 28 2.2. Thực trạng thất thoát vốn đầu tư xây dựng cơ bản 30 2.2.1. Thất thoát ở giai đoạn chuẩn bị đầu tư 30 2.2.2. Thất thoát ở giai đoạn thực hiện đầu tư 32 2.2.3. Thất thoát ở giai đoạn quyết toán dự toán hoàn thành 45 2.3. Đánh giá chung về công tác thanh tra, kiểm tra 46 2.3.1. Kết quả thanh tra 46 2.3.2. Kết quả kiểm toán 47 2.3.3. Nguyên nhân tồn tại 48 Chương 3: Giải pháp và kiến nghị nhằm hạn chế thất thoát vốn trong đầu tư xây dựng cơ bản 54 3.1. Định hướng về quản lý vốn đầu tư xây dựng cơ bản 54 3.1.1. Xây dựng đội ngũ công chức có phẩm chất và năng lực 54 3.1.2. Hoàn thiện cơ chế thị trường 55 3.1.3. Đổi mới cơ chế đầu tư 56 3.1.4. Tăng cường sự giám sát của xã hội dân sự 59 3.2. Giải pháp hạn chế thất thoát vốn đầu tư xây dựng cơ bản 63 3.2.1. Nhóm giải pháp về giai đoạn chuẩn bị đầu tư 63 3.2.2. Nhóm giải pháp về thực hiện đầu tư 67 3.2.3. Nhóm giải pháp về thanh quyết toán vốn đầu tư 72 3.3. Điều kiện thực hiện giải pháp 76 3.3.1. Nâng cao đời sống vật chất cho cán bộ công chức 76 3.3.2. Nghiêm trị đối với những hành vi gây thất thoát 77 3.4. Kiến nghị đối với Chính phủ và các ngành hữu quan 79 3.4.1. Đối với Chính phủ 79 3.4.2. Đối với Bộ Xây dựng 80 3.4.3. Đối với Bộ Kế hoạch và Đầu tư 81 3.4.4. Đối với Bộ Tài chính 81 Kết luận 82 Danh mục tài liệu tham khảo 8 3

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLUẬN VĂN- Giải pháp hoàn thiện quy trình quản lý nhằm nâng cao hiệu quả dự án đầu tư xây dựng các công trình dân dụng (2).pdf
Luận văn liên quan