Hoạt động tín dụng là một trong những hoạt động kinh doanh tiền tệ của ngân hàng. Muốn tồn tại và phát triển trong cơ chế thị trường, ngân hàng cần phải đảm bảo cho các hoạt động của mình vừa an toàn vừa có hiệu quả. “ Nâng cao chất lượng tín dụng ” không chỉ là mong muốn của riêng chi nhánh NHNo&PTNT Bắc Hà Nội mà còn là mong muốn của rất nhiều ngân hàng khác.
66 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2254 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại Ngân hàng nông nghiệp & Phát triển nông thôn Bắc Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ồ ạt rút tiền ra cho dù chưa đến hạn thì ngân hàng sẽ đứng trước nguy cơ mất khả năng thanh toán. Chưa có biện pháp hữu hiệu để huy động nguồn vốn nhỏ lẻ trong dân cư.
Thứ hai: Trình độ năng lực của một số cán bộ tín dụng chưa đáp ứng được yêu cầu nhất là về trình độ thẩm định dự án và vi tính. Cán bộ tín dụng chưa tư vấn được cho khách hàng trong khi nhu cầu tư vấn từ phía khách hàng là rất lớn. Một số cán bộ chưa thường xuyên nghiên cứu thể lệ, chế độ nghiệp vụ.
Thứ ba: Việc kiểm tra sau khi cho vay chưa được thực hiện nghiêm túc nhất là việc cho vay qua tổ dẫn đến tình trạng không phát hiện kịp thời khả năng thanh toán của khách hàng nếu khách hàng có chốn, chết, sử dụng vốn không đúng mục đích… dẫn đến không trả được nợ ngân hàng.
Thứ tư: Trong quan hệ với khách hàng mặc dù đã có nhiều cố gắng song chi nhánh NHNo&PTNT Bắc Hà Nội vẫn chưa thực sự thể hiện vai trò "người bạn của doanh nghiệp". Sự giúp đỡ của ngân hàng đối với doanh nghiệp mới chỉ đơn thuần qua các hoạt động như điều chỉnh, gia hạn nợ, cho vay thêm vốn chứ chưa thực hiện được vai trò tư vấn, định hướng giúp các doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn gặp phải trong quá trình kinh doanh.
Thứ năm: Ngân hàng hầu như chưa có chính sách cũng như các sản phẩm để khuyến khích những khách hàng vay vốn trả nợ đúng hạn nhằm mở rộng đầu tư cho vay và nâng cao chất lượng tín dụng.
Thứ sáu: Nợ quá hạn năm 2005 tăng nhiều so với năm 2004, vế số tuyệt đối tăng 1.481 triệu đồng còn số tương đối tăng 382,68%. Nợ quá hạn tăng cao làm ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng của NHNo&PTNT Bắc Hà Nội.
2.3.2.2.Nguyên nhân.
* Nguyên nhân thuộc phía ngân hàng:
- Trong hoạt động tín dụng hai yếu tố rủi ro và lợi nhuận luôn là bạn đồng hành. Nếu như ngân hàng chỉ chạy theo lợi nhuận cao mà thiếu sự thận trọng cần thiết thì có thể sẽ phải trả giá đắt cho những rủi ro gặp phải, nhưng ngược lại nếu vì quá lo sợ rủi ro mà không dám mở rộng cho vay thì có thể sẽ để lỡ nhiều cơ hội kinh doanh, mất đi nhiều khách hàng tốt. Đây là vấn đề nan giải mà hiện nay chi nhánh NHNo&PTNT Bắc Hà Nội đang gặp phải. Vì coi trọng mục tiêu an toàn vốn nên tỷ trọng dư nợ tín dụng trung và dài hạn còn thấp.
- Hoạt động Marketing trong ngân hàng chưa được quan tâm chú ý. Công việc này mới chỉ được thực hiện đơn thuần dưới dạng các hoạt động bề nổi như tuyên truyền, quảng cáo chứ chưa thực sự xuất phát từ việc nghiên cứu nắm bắt nhu cầu khách hàng để tìm cách thỏa mãn tốt nhất nhu cầu đó. Lâu nay hoạt động Marketing vẫn thường được coi là nhiệm vụ của các nhân viên giao dịch trong khi thực chất đây là nhiệm vụ của mọi thành viên trong ngân hàng. Đây là điểm yếu không chỉ của chi nhánh NHNo&PTNT Bắc Hà Nội mà là của hầu hết các NHTM Việt Nam hiện nay.
* Nguyên nhân thuộc phía khách hàng.
- Khả năng của các khách hàng trong việc đáp ứng các yêu cầu tín dụng của ngân hàng là rất thấp. Những vướng mắc chủ yếu thường gặp phải trong thời gian qua là do khách hàng không có đủ vốn tự có theo yêu cầu; không đủ tài sản thế chấp theo quy định (đối với DNNQD); không có dự án khả thi. Để bảo đảm nguyên tắc an toàn, các ngân hàng thường yêu cầu khách hàng vay vốn phải có một số vốn tối thiểu nhất định tham gia vào dự án, cụ thể hiện nay theo quyết định 324/1998 của NHNN thì với những dự án cải tiến kỹ thuật, mở rộng sản xuất, hợp lý hóa sản xuất tỷ lệ vốn tối thiểu là 10% tổng giá trị vốn đầu tư; dự án XDCB mới: 30%; dự án phục vụ đời sống: 40%. Với tình trạng thiếu vốn phổ biến trong các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay thì đây thực sự là rào cản không thể vượt qua được của nhiều doanh nghiệp có nhu cầu vay vốn ngân hàng. Vướng mắc thứ hai cũng không kém phần nan giải đó là về tài sản thế chấp, theo tính toán hiện nay thì chỉ có 20% giá trị tài sản của các doanh nghiệp có thể sử dụng làm tài sản thế chấp hợp pháp, con số này là quá nhỏ bé so với nhu cầu vay vốn của các doanh nghiệp. Và cho dù đã vượt qua được hai "cửa ải" trên thì vẫn còn một vấn đề nữa các doanh nghiệp thường không vượt qua được, đó là không có khả năng lập dự án khả thi. Có nhiều doanh nghiệp có được phương án kinh doanh rất tốt nhưng do không cụ thể hóa được thành những dự án khả thi nên cũng không được ngân hàng cho vay.
- Khả năng quản lý và sử dụng khoản vay của doanh nghiệp còn thấp. Điều này cũng một phần bắt nguồn từ sự hạn chế về vốn và khả năng lập dự án. Hạn chế về vốn kéo theo trình độ trang thiết bị, công nghệ lạc hậu, làm giảm khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường. Trình độ lập dự án thấp nên nhiều dự án ban đầu lập ra tưởng khả thi nhưng do không lường hết những khó khăn phát sinh trong quá trình thực hiện nên thất bại dẫn đến thua lỗ không trả được nợ. Ngay cả khi trang thiết bị, công nghệ hiện đại, dự án khả thi nhưng năng lực quản lý kém cũng sẽ làm cho việc thực hiện dự án không đạt được kết quả như dự tính và đó cũng có thể là nguyên nhân của rủi ro.
- Tình trạng làm ăn thiếu trung thực, lừa đảo, chụp giựt thường xuyên xảy ra (sử dụng vốn vay không đúng mục đích, cung cấp thông tin không chính xác cho ngân hàng, lừa đảo chiếm dụng vốn lẫn nhau giữa các doanh nghiệp) là một trong những nguyên nhân dẫn đến rủi ro trong cho vay.
* Nguyên nhân khách quan:
- Môi trường pháp lý cho hoạt động TDNH không thuận lợi, các quy định của pháp luật liên quan đến tài sản thế chấp còn nhiều bất cập. Rất nhiều tài sản của các doanh nghiệp hiện nay không có đăng ký sở hữu, mà đây lại là điều kiện bắt buộc đối với các tài sản được dùng làm tài sản thế chấp. Việc xử lý tài sản thế chấp khi có rủi ro xảy ra cũng gặp nhiều khó khăn trở ngại về mặt pháp lý.
- Sự quản lý của các cơ quan chức năng đối với các doanh nghiệp chưa chặt chẽ, tạo cơ hội cho doanh nghiệp có những hành vi trái pháp luật, lừa đảo ngân hàng. Chẳng hạn có những doanh nghiệp chỉ có một ngôi nhà nhưng vẫn được chính quyền địa phương xác nhận cho sử dụng làm tài sản thế chấp để vay 2-3 ngân hàng cùng một lúc. Do đó khi có rủi ro xảy ra thì tranh chấp giữa các ngân hàng là không thể tránh khỏi. Những vụ việc như vậy đã gây nên một tâm lý không tốt, rất cầu toàn của các ngân hàng khi xem xét cho vay.
- Một vấn đề nữa là mặc dù Chính phủ đã quy định các NHTM có quyền tự chủ quyết định về việc cho vay của mình và chịu trách nhiệm về các quyết định đó song trên thực tế không phải lúc nào ngân hàng cũng có được quyền tự chủ đó. Có nhiều khi do những tác động tế nhị từ nhiều phía (từ chính quyền địa phương, từ một vài nhân vật có thế lực) nên ngân hàng vẫn phải cho vay đối với những dự án mà nếu được hoàn toàn tự chủ ngân hàng sẽ từ chối. Không ít những dự án như vậy đã đem lại rủi ro cho ngân hàng.
- Hiện nay ở Việt nam chưa có cơ quan chuyên trách về xếp hạng tín nhiệm đối với các doanh nghiệp, vì vậy ngân hàng thiếu những thông tin tin cậy khi xem xét đánh giá khách hàng để quyết định cho vay, điều đó một mặt hạn chế khả năng mở rộng tín dụng do ngân hàng không dám mạo hiểm với những doanh nghiệp mà ngân hàng không chắc chắn, mặt khác làm tăng thêm tình trạng rủi ro tín dụng của các ngân hàng do đánh giá khách hàng không chính xác.
- Nền kinh tế mới chuyển đổi chưa lâu, các cơ chế, chính sách, nền tảng pháp lý còn đang trong giai đoạn hoàn thiện nên không có được sự ổn định cao, do đó các nhà đầu tư còn dè dặt, chưa dám mạnh dạn bỏ vốn đầu tư, đặc biệt là đầu tư cho những dự án lớn, thời gian dài khiến cho việc mở rộng tín dụng của ngân hàng gặp khó khăn. Hơn thế nữa, trong thời gian gần đây, tình hình kinh doanh của các doanh nghiệp trong nước gặp nhiều khó khăn, các doanh nghiệp trong nước vốn dĩ đã hạn chế về vốn, kỹ thuật, công nghệ lại phải cạnh tranh gay gắt với hàng ngoại, hàng nhập lậu nên hầu hết làm ăn thua lỗ, sản xuất cầm chừng. Điều đó làm cho nhu cầu vay vốn ngân hàng giảm sút.
Tóm lại: Qua đánh giá chất lượng tín dụng của NHNo&PTNT Bắc Hà Nội trong những năm qua đã khẳng định được vai trò của hoạt động tín dụng góp phần vào việc xây dựng và phát triển kinh tế. Chất lượng tín dụng là tổng hoà của nhiều yếu tố trong đó nợ quá hạn là một nhân tố trực tiếp và cụ thể nhất. Tuy còn một số tồn tại và hạn chế nhưng NHNo&PTNT Bắc Hà Nội vẫn đảm bảo kinh doanh có lãi, góp phần vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế đất nước theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá. Những vấn đề tồn tại và hạn chế cần được xem xét nghiêm túc để có biện pháp giải quyết hữu hiệu nhằm không ngừng củng cố và nâng cao hơn nữa chất lượng tín dụng giúp cho hoạt động kinh doanh của NHNo&PTNT Bắc Hà Nội ngày càng hiệu quả hơn.
Chương ba
giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng tín dụng tại NHNo&PTNT Bắc Hà Nội.
3.1. Định hướng của NHNo&PTNT Bắc Hà Nội về hoạt động kinh doanh tín dụng và nâng cao chất lượng tín dụng.
3.1.1. Định hướng của NHNo&PTNT Bắc Hà Nội về hoạt động kinh doanh tín dụng.
Định hướng và chính sách đầu tư của NHNo&PTNT Bắc Hà Nội được xây dựng và hoàn thiện trên cơ sở định hướng của toàn bộ hệ thống NHNo&PTNT Việt Nam. Hoạt động tín dụng phải kiên trì thực hiện đường lối của Đảng và Nhà nước về công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn, chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Về cơ bản mục tiêu của chi nhánh trong thời gian tới vẫn là tăng cường hơn nữa hoạt động cho vay nhằm giúp các doanh nghiệp mở rộng sản xuất, đổi mới trang thiết bị, nhập công nghệ hiện đại, nhanh chóng tiếp cận với trình độ khoa học kỹ thuật hiện đại của thế giới. Đồng thời với việc mở rộng quy mô, hiệu quả hoạt động tín dụng cũng được chi nhánh đặt lên hàng đầu. Quan điểm mở rộng tín dụng của chi nhánh là:
* Mở rộng tín dụng luôn đi đôi với việc đảm bảo chất lượng tín dụng. Muốn vậy mở rộng tín dụng cần hướng vào các doanh nghiệp làm ăn hiệu quả, đặc biệt chú trọng đầu tư vào các dự án trọng điểm mang tính khả thi, phù hợp với định hướng phát triển kinh tế đất nước cũng như đặc thù kinh tế trên đại bàn Hà Nội. Nhưng việc mở rộng tín dụng không có nghĩa là mở rộng một cách tràn lan mà phải nằm trong khả năng quản lý và kiểm soát của chi nhánh. Vì nếu chỉ chạy theo khả năng cấp tín dụng cho nền kinh tế mà không quan tâm khả năng kiểm soát thì chất lượng tín dụng sẽ giảm sút, nợ khó đòi tăng lên là một điều tất yếu.
* Mở rộng tín dụng nhưng phải đảm bảo lợi ích của khách hàng, lợi nhuận và an toàn cho ngân hàng đồng thời phải tuân thủ pháp luật.
* Mở rộng tín dụng phải phù hợp với tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế.
Với quan điểm về mở rộng tín dụng như vậy, mục tiêu phấn đấu của chi nhánh trong năm 2006 là:
Về tổng nguồn vốn huy động: 4.600 – 5.000 tỷ đồng, đạt tốc độ tăng trưởng 15% - 20%.
Trong đó: Vốn huy động từ dân cư 1.000 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 25%.
Tổng dư nợ: 1.330 tỷ đồng, đạt tốc độ tăng trưởng 15%.
Trong đó: Dư nợ ngắn hạn 55% - trung dài hạn trên tổng dư nợ là 45%.
Nợ quá hạn: Dưới 3%/tổng dư nợ.
Chênh lệch lãi suất: Phấn đấu đạt 0,4%.
Thu dịch vụ: Phấn đấu đạt 15%/tổng doanh thu.
Tài chính: Chênh lệch thu chi ( chưa lương ): 65 tỷ đồng ( tăng 30%).
3.1.2. Định hướng của NHNo&PTNT Bắc Hà Nội về nâng cao chất lượng tín dụng.
Định hướng của NHNo&PTNT Bắc Hà Nội về nâng cao chất lượng tín dụng tuân theo công văn số 02/2005/CV- NHNN ngày 20/04/2005, cụ thể như sau:
* Thực hiện đồng bộ các giải pháp huy động vốn từ thị trường trong nước, khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn tài trợ của các tổ chức quốc tế cho các dự án tín dụng nông thôn, doanh nghiệp nhỏ và vừa, tích cực xử lý nợ tồn đọng để tăng khả năng đáp ứng kịp thời các nhu cầu vốn tín dụng của nền kinh tế, trên cơ sở đảm bảo an toàn và hiệu quả tín dụng.
* Tốc độ tăng trưởng tín dụng phải phù hợp với tăng trưởng vốn huy động thực tế, mục tiêu tín dụng đề ra từ đầu năm và khả năng kiểm soát chất lượng tín dụng; đảm bảo vốn khả dụng cho các nhu cầu thanh toán, an toàn hoạt động kinh doanh.
* Thực hiện đúng quy định của pháp luật về cho vay, bảo lãnh, cho thuê tài chính, chiết khấu bao thanh toán và bảo đảm tiền vay; xem xét quyết định việc cho vay đảm bảo bằng tài sản hoặc không đảm bảo bằng tài sản, cho vay đảm bảo bằng tài sản hình thành từ vốn vay, tránh vướng mắc khi xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi nợ vay. Đặc biệt chú trọng thực hiện các giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng, không để nợ xấu gia tăng.
* Tăng cường kiểm tra giám sát việc chấp hành nguyên tắc, thủ tục cho vay và cấp tín dụng khác, sắp xếp lại bộ máy tổ chức, tăng cường công tác đào tạo cán bộ đáp ứng yêu cầu kinh doanh ngân hàng trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
* Tiến hành rà soát bổ sung và chỉnh sửa các quy chế, quy trình nghiệp vụ tín dụng đảm bảo tuân thủ quy định của pháp luật, phù hợp với điều kiện hoạt động kinh doanh, ngăn ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng.
Tóm lại: NHNo&PTNT Bắc Hà Nội hoạt động trên địa bàn rộng lớn có một trung tâm, 03 chi nhánh và 04 phòng giao dịch trực thuộc đòi hỏi phải thường xuyên nâng cao năng lực phẩm chất chính trị, trình độ nghiệp vụ, trình độ tin học và ngoại ngữ của cán bộ tín dụng để luôn sẵn sàng đáp ứng mọi nhiệm vụ trong bước chuyển biến mới của ngành, từng bước công nghiệp hoá hiện đại hoá, nâng cao năng lực cạnh tranh để tạo thế và lực cho hội nhập quốc tế. Ngoài ra phải thường xuyên quan tâm đến công tác kiểm tra để phát hiện và chấn chỉnh những sai sót. Làm cho hoạt động của ngân hàng luôn lành mạnh, trong sạch và tuyệt đối an toàn.
3.2. Những giải pháp để nâng cao chất lượng tín dụng tại NHNo&PTNT Bắc Hà Nội.
Như đã trình bày ở chương I nâng cao chất lượng tín dụng bao gồm việc đáp ứng tốt nhất nhu cầu của khách hàng vay vốn, đảm bảo sự tồn tại - phát triển của ngân hàng và đóng góp vào sự phát triển chung của nền kinh tế. Trên cơ sở bám sát những yêu cầu đó kết hợp với việc phân tích thực trạng chất lượng tín dụng của chi nhánh, có thể thấy để nâng cao hơn nữa chất lượng tín thì trong thời gian tới chi nhánh cần tiến hành tổng hợp một hệ thống các biện pháp xuyên suốt các khâu từ tạo nguồn, thu hút khách hàng đến quản lý tín dụng trước, trong và sau khi cho vay. Cụ thể em xin đưa ra một số giải pháp sau:
3.2.1 Giải pháp về nguồn vốn.
Như đã trình bày ở chương trước nguồn vốn chủ yếu cho vay của chi nhánh là nguồn vốn ngắn hạn. Xét về quy mô thì cho đến nay nguồn vốn này còn rất lớn so với dư nợ cho vay của chi nhánh, cho phép ngân hàng có thể mở rộng cho vay hơn nữa. Tuy nhiên nếu xét theo cơ cấu kỳ hạn thì với cơ cấu nguồn vốn như trên nếu mở rộng cho vay trung và dài hạn có thể sẽ khiến ngân hàng đứng trước nguy cơ rủi ro rất lớn. Để khắc phục điều này trong thời gian tới chi nhánh NHNo&PTNT Bắc Hà Nội cần đồng thời thực hiện các biện pháp:
Tiếp tục tăng cường công tác huy động vốn với cơ cấu hợp lý làm tiền đề cho việc mở rộng quan hệ tín dụng trung và dài hạn với các thành phần kinh tế. Ngoài yếu tố lãi suất các chi nhánh còn phải tăng cường hơn nữa chất lượng phục vụ cũng như những tiện ích mang lại cho người gửi tiền. Với những biện pháp như vậy sẽ khiến cho khách hàng yên tâm hơn khi gửi tiền với kỳ hạn dài, hoặc nếu có gửi với kỳ hạn ngắn thì họ cũng để nhiều kỳ mà không rút, tạo sự ổn định cho nguồn vốn của ngân hàng.
Đối với nguồn vốn vay cần chú trọng vay bằng cách phát hành trái phiếu trung dài hạn với nhiều hình thức đặc biệt chú trọng vào huy động dài hạn để thu hút nguồn vốn dài hạn ổn định vốn từ dân cư nhằm cân đối nguồn vốn của ngân hàng tạo điều kiện cho đầu tư các dự án dài hạn cần vốn lớn.
Tích cực tìm kiếm thêm những nguồn vốn uỷ thác mới .
3.2.2. Nâng cao hiệu quả công tác thẩm định dự án, thẩm định khách hàng.
Hoàn trả tín dụng là điều kiện quan trọng nhất thực hiện mục tiêu kinh doanh của ngân hàng. Để thu hồi được nợ ngân hàng phải xem xét một cách thận trọng đến uy tín và năng lực của khách hàng, từ đó áp dụng các phương pháp cho vay thích hợp. Nếu khách hàng được sếp hạng tín nhiệm cao như có phẩm chất tốt trong kinh doanh, có khả năng tài chính mạnh, chấp hành tốt các hợp đồng tín dụng trong quá khứ và có triển vọng kinh doanh trong tương lai thì ngân hàng có thể cho vay không cần bảo đảm và ngược lại. Các biện pháp bảo đảm (thế chấp, cầm cố) mà ngân hàng yêu cầu khách hàng thực hiện chỉ là nhằm đảm bảo khả năng thu hồi vốn trong trường hợp xấu nhất, ngân hàng không bao giờ muốn thu hồi vốn thông qua việc sử lý tài sản bảo đảm. Muốn vậy phải có biện pháp nhằm chọn ra những khách hàng thực sự đáng tin cậy, những dự án thực sự khả thi và có hiệu quả. Điều đó đòi hỏi hiệu quả công tác thẩm định dự án, thẩm định khách hàng phải được nâng cao hơn. Trước tiên để nâng cao hiệu quả công tác thẩm định thì mọi khoản cho vay đều phải thực hiện theo đúng quy trình nghiệp vụ thẩm định. quá trình thẩm định có 5 điều kiện quan trọng mà cán bộ ngân hàng đòi hỏi doanh nghiệp phải cung cấp đó là:
Tư cách pháp nhân
Tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh chính
Khả năng quản lý, điều hành kinh doanh của chủ doanh nghiệp
Khả năng về tài chính, tài sản thế chấp
Tính khả thi của phương án sản xuất kinh doanh
3.2.3. Tăng cường chất lượng công tác thu thập và xử lý thông tin.
Thông tin là yếu tố không thể thiếu được cho việc thực hiện công tác thẩm định dự án, thẩm định khách hàng nhằm tiếp cận khả năng trả nợ và bảo đảm an toàn vốn vay. Thông tin thu thập càng nhanh, đầy đủ, chính xác thì càng giúp cho việc thẩm định được thuận lợi hơn. Để đảm bảo tính chính xác, thiết thực của thông tin thì cần phải tiến hành thu thập thông tin từ nhiều nguồn bằng cách:
* Tạo mối quan hệ thường xuyên, lâu dài với các trung tâm tư vấn cho doanh nghiệp.
* Thu thập thông tin từ trung tâm thông tin tín dụng (CIC – Credit information centre).
* Thu thập thông tin từ hội nghị khách hàng.
* Thu thập thông tin từ những nguồn khác
Từ những thông tin thu thập được phải tiến hành phân tích và xử lý thông tin để có quyết định cho vay đúng đắn. Đồng thời, từ những nguồn thông tin phong phú còn tạo điều kiện để chi nhánh mở rộng các dịch vụ tư vấn cho khách hàng tìm được thị trường thích hợp với khả năng của họ. Việc tư vấn và cung cấp thông tin cho khách hàng không những giúp cho khách hàng tránh được rủi ro, làm ăn có hiệu quả mà còn giúp cho chi nhánh ngày càng củng cố được uy tín, vị thế của mình đối với khách hàng, ngày càng thu hút được khách hàng, bảo đảm việc mở rộng quy mô tín dụng có hiệu quả.
3.2.4. Mở rộng cho vay bằng tài sản hình thành từ vốn vay.
Xét riêng về phía ngân hàng có thể thấy một thực tế là ngân hàng trong thời gian qua đặt mục tiêu an toàn vốn lên hàng đầu nên quá thận trọng khi cho vay. Kết quả là có không ít doanh nghiệp có tiềm năng nhưng do không thỏa mãn một yêu cầu nào đó của ngân hàng nên đành lực bất tòng tâm. Để cải thiện được điều này cần có sự nỗ lực từ nhiều phía, về phía chi nhánh NHNo&PTNT Bắc Hà Nội có thể thấy hai vướng mắc lớn nhất mà các doanh nghiệp thường không vượt qua được đó là không đủ vốn tự có tham gia dự án và không đủ tài sản thế chấp theo quy định.
Nếu như yêu cầu về vốn tự có là do NHNN đưa ra và chi nhánh NHNo&PTNT Bắc Hà Nội không thể không tuân theo thì yêu cầu về tài sản thế chấp lại không cứng nhắc đến như vậy, đặc biệt là sau khi Chính phủ ban hành NĐ178/CP (29/12/1999) quy định về việc bảo đảm tiền vay của tổ chức tín dụng. Theo đó các tổ chức tín dụng được phép cho vay đối với các đối tượng thuộc mọi thành phần kinh tế có bảo đảm hoặc không có bảo đảm. Nghị định này đã tạo ra một hành lang pháp lý thông thoáng hơn nhằm tháo gỡ khó khăn trong quan hệ giữa các tổ chức tín dụng với doanh nghiệp, tuy nhiên mục tiêu đó đạt được đến mức nào còn phụ thuộc vào nỗ lực của các NHTM. Rõ ràng vào thời điểm hiện nay các ngân hàng cho doanh nghiệp vay không cần tài sản thế chấp rất dè dặt, chi nhánh NHNo&PTNT Bắc Hà Nội cũng vậy, để bảo đảm an toàn vốn trong điều kiện trình độ thẩm định dự án, thẩm định khách hàng, quản lý tín dụng chưa cao thì nếu làm như vậy nguy cơ rủi ro là quá cao.
Việc áp dụng phương thức này có lợi cho cả hai phía doanh nghiệp và ngân hàng. Về phía doanh nghiệp, nó cho phép các doanh nghiệp không có đủ tài sản thế chấp nhưng có uy tín, có năng lực, có phương án kinh doanh hiệu quả có thể vay vốn mở rộng sản xuất, đổi mới trang thiết bị, công nghệ, tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường. Đối với ngân hàng đây là phương thức cho vay khá an toàn do được đảm bảo bằng tài sản hình thành từ vốn vay. Hơn nữa, cũng giống như phương thức thuê - mua, doanh nghiệp sẽ khó có cơ hội sử dụng vốn sai mục đích, bởi lẽ ngân hàng chỉ cho vay khi chắc chắn doanh nghiệp sẽ sử dụng vốn vay để mua sắm tài sản mà hai bên đã thỏa thuận.
Trường hợp khách hàng vay vốn để XDCB thì phải nộp bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng khu đất nơi sẽ hình thành tài sản cho ngân hàng trước khi ký hợp đồng tín dụng. Ngân hàng sẽ tiến hành cấp tiền cho nhà thầu xây dựng đúng theo tiến độ thỏa thuận để thực hiện dự án. Sau khi công trình hoàn thành, bàn giao và đi vào sử dụng thì doanh nghiệp phải nộp bản chính giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản cho ngân hàng. Đối với những tài sản thế chấp là phương tiện vận tải thì chủ phương tiện được dùng bản sao giấy chứng nhận quyền sở hữu có xác nhận của công chứng Nhà nước và của ngân hàng cho vay để lưu hành phương tiện trong thời gian thế chấp.
Với phương thức cho vay này khách hàng vay vốn không trực tiếp nhận tiền nên tránh được vấn đề sử dụng vốn sai mục đích. Tuy nhiên ngân hàng cũng có thể phát tiền trực tiếp cho khách hàng vay vốn theo thỏa thuận với điều kiện họ phải chứng minh được rằng tiền vay được sử dụng theo đúng hợp đồng. Đồng thời, trong quá trình sử dụng tài sản của khách hàng ngân hàng tiếp tục thực hiện các biện pháp kiểm tra giám sát giống như trường hợp cho vay có bảo đảm bằng tài sản thế chấp thông thường. Chính vì vậy mà phương thức cho vay này tỏ ra khá an toàn và phù hợp với điều kiện hiện nay của chi nhánh.
3.2.5. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát các khoản vay.
Kiểm tra, giám sát việc sử dụng tiền vay là một việc làm cần thiết để phòng ngừa và ngăn chặn rủi ro tín dụng. Kiểm tra, giám sát chặt chẽ, thường xuyên sẽ giúp ngân hàng phát hiện kịp thời những biểu hiện sai phạm của doanh nghiệp như sử dụng vốn sai mục đích, tẩu tán tài sản, âm mưu lừa đảo ngân hàng, đồng thời giúp ngân hàng luôn bám sát tình hình hoạt động thực tế của dự án, nắm được những vấn đề mới nảy sinh trong quá trình thực hiện dự án của doanh nghiệp để có biện pháp đối phó kịp thời.
Hiện nay trong chi nhánh công tác kiểm tra, giám sát sau cho vay vẫn được tiến hành nhưng còn mang nặng tính hình thức. Các cán bộ tín dụng chủ yếu kiểm tra, giám sát dựa trên những tài liệu do doanh nghiệp cung cấp. Việc kiểm tra trực tiếp tại cơ sở được tiến hành định kỳ mỗi quý một lần. Cách làm như vậy không mang lại hiệu quả cao bởi lẽ chẳng có gì bảo đảm rằng những tài liệu do doanh nghiệp cung cấp là hoàn toàn đáng tin cậy, ngay cả việc kiểm tra trực tiếp mà được thực hiện định kỳ và không thường xuyên như vậy thì nếu doanh nghiệp không có thiện chí họ sẽ có thừa thủ thuật để che mắt cán bộ kiểm tra. Để khắc phục điều đó, trong thời gian tới công tác kiểm tra, giám sát sau cho vay cần được tiến hành chặt chẽ hơn nữa, các thông tin kiểm tra không chỉ dựa trên những gì doanh nghiệp cung cấp mà ngân hàng cần chủ động tìm kiếm từ các nguồn khác, và không chỉ các thông tin về doanh nghiệp mà cả các thông tin về môi trường kinh doanh và những vấn đề liên quan khác cũng cần phải được chú ý xem xét. Qua những thông tin tổng hợp đó cho phép ngân hàng có được cái nhìn đầy đủ, chính xác hơn về tình hình hoạt động của doanh nghiệp vay vốn. Bên cạnh đó, việc kiểm tra trực tiếp tại cơ sở cũng không nên tiến hành một cách định kỳ như hiện nay mà nên tiến hành ngẫu nhiên, không báo trước, chỉ có làm như vậy mới bảo đảm những gì mắt thấy tai nghe là trung thực.
Trong quá trình kiểm tra nếu phát hiện thấy doanh nghiệp gặp khó khăn không thể thực hiện việc trả nợ theo đúng hợp đồng thì cán bộ tín dụng nên báo cáo về ngân hàng để có biện pháp xử lý kịp thời. Ngân hàng tư vấn, hướng dẫn cho doanh nghiệp trên nhiều khía cạnh nhằm tác động đến khả năng tạo ra và thu được lợi nhuận
Nếu xét thấy việc áp dụng các biện pháp khai thác là không thuận lợi và không có hy vọng thu hồi được nợ thì ngân hàng sẽ áp dụng biện pháp thanh lý để xử lý các khoản nợ. Trong nhiều trường hợp biện pháp thanh lý chỉ được áp dụng sau khi ngân hàng đã tiến hành một số biện pháp khai thác nhưng không có kết quả. Biện pháp thanh lý chỉ nên coi là giải pháp tình thế khi không còn cách lựa chọn nào khác. Nói chung khi đã phải áp dụng hình thức này thì ngân hàng cũng khó tránh khỏi những tổn thất. Chính vì vậy, điều quan trọng là phải tránh nguy cơ ngay từ những khâu trước đó.
3.2.6. Đẩy mạnh hoạt động Marketing ngân hàng
Marketing ngân hàng là toàn bộ quá trình tổ chức và quản lý của một ngân hàng, từ việc phát hiện ra nhu cầu của nhóm khách hàng đã chọn và thoả mãn nhu cầu của họ bằng các hệ thống chính sách, biện pháp nhằm đạt mục tiêu lợi nhuận như dự kiến.
Để tăng quy mô, tăng khả năng xâm nhập vào thị trường thì ngân hàng cần làm cho các doanh nghiệp biết đến, chú ý đến mình bằng các sự khác biệt so với ngân hàng khác từ đó tạo cơ hội để doanh nghiệp tìm đến ngân hàng đặt quan hệ tín dụng. Hiện nay theo số liệu thống kê chưa đầy đủ trên địa bàn Hà Nội có trên 3000 doanh nghiệp được thành lập theo luật doanh nghiệp, trên 90 tổng công ty thành lập theo quyết định 90-91, ngoài ra có hàng vạn hộ làm sản xuất kinh doanh dịch vụ với ngành nghề ngày càng đa dạng, phong phú. Đây là thị trường lớn để chi nhánh NHNo&PTNT Bắc Hà Nội tiếp cận đặt quan hệ. Tuy nhiên, trên địa bàn Hà Nội cũng có rất nhiều NHTMQD, NHTM cổ phần, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh … các tổ chức tín dụng này có nhiều lợi thế hơn ngân hàng về nguồn ngoại tệ thanh toán, trình độ kỹ thuật công nghệ, thông tin… Vì vậy chi nhánh NHNo&PTNT Bắc Hà Nội phải đối đầu với sự cạnh tranh lớn, đòi hỏi phải xây dựng cho mình một chiến lược Marketing đúng đắn và hợp lý.
a. Tăng cường tuyên truyền, quảng bá về các sản phẩm mà ngân hàng cung cấp: giá cả và chất lượng sản phẩm, uy tín của chi nhánh … một cách rộng rãi nhằm làm cho khách hàng biết đến hoạt động của ngân hàng, cơ chế tín dụng và thể lệ cho vay của chi nhánhTrên thực tế, chi nhánh chưa chú trọng việc này nên nhiều doanh nghiệp, cá nhân nghĩ rằng việc vay vốn ngân hàng là rất khó khăn.
Hơn nữa, họ cũng không hiểu rõ các hình thức cho vay mà ngân hàng đang áp dụng như về thời hạn, lãi suất,... từ đó làm cho chi nhánh mất đi khả năng được lựa chọn làm đơn vị tài trợ vốn cho một số khách hàng. Để hoạt động tín dụng đạt hiệu quả hơn, chi nhánh cần tìm kiếm cho mình những khách hàng mới, tự khẳng định mình, tự nói về mình trên các phương tiện thông tin đại chúng, hay có chiến lược tiếp thị trực tiếp từ đó làm cho khách hàng biết đến chi nhánh , đưa chi nhánh vào trong các khả năng lựa chọn người tài trợ vốn khi khách hàng có nhu cầu. Cung cấp những thông tin về thủ tục vay vốn, lãi suất cho vay...tới khách hàng, giúp khách hàng có chuẩn bị tốt hơn các giấy tờ cần thiết khi đến xin vay, làm giảm bớt thời gian hoàn thiện thủ tục thẩm định dự án.
b. Chủ động tìm kiếm khách hàng.
Hiện nay, phòng tín dụng của chi nhánh hoạt động theo phương thức bị động tức là nếu có khách hàng đến xin vay thì cán bộ tín dụng xem xét, ra quyết định cho vay hay không cho vay, do vậy ít có cơ hội gặp được khách hàng tốt. Trong thời gian tới để chủ động tìm kiếm khách hàng bộ phận marketing (phòng kế hoạch - nguồn vốn) của ngân hàng không chỉ làm nhiệm vụ tuyên truyền quảng cáo mà quan trọng hơn là làm nhiệm vụ tìm hiểu khách hàng, thực hiện phân loại khách hàng, lựa chọn một số đối tượng làm khách hàng chính để tiếp cận (có thể lựa chọn theo ngành nghề kinh doanh đang có triển vọng...), hợp tác trên quan điểm bình đẳng và cùng có lợi giữa hai bên. Từ việc tìm hiểu khách hàng, hiểu được các nhu cầu của khách hàng, bộ phận Marketing ngân hàng sẽ đưa ra các giải pháp, các chiến lược như chiến lược sản phẩm, chiến lược lãi suất nhằm tạo ra sự khác biệt của ngân hàng so với đối thủ cạnh tranh. Từ đó thu hút khách hàng đến với chi nhánh nhiều hơn.
c. Tăng khả năng cạnh tranh bằng cách tạo ra sự khác biệt về sản phẩm và các yếu tố xung quanh sản phẩm.
Chúng ta đều biết sản phẩm tín dụng của ngân hàng nói chung rất đơn điệu và khó cải tiến. Trong những năm gần đây cạnh tranh giữa các tổ chức tín dụng ngày càng diễn ra gay gắt, nó không chỉ diễn ra giữa các ngân hàng trong nước với các chi nhánh ngân hàng nước ngoài mà còn trong nội bộ ngân hàng, đòi hỏi các ngân hàng phải luôn đổi mới, cải tiến chất lượng sản phẩm, dịch vụ, tăng khả năng đáp ứng các nhu cầu của khách hàng nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh cho ngân hàng. Chi nhánh NHNo&PTNT Bắc Hà Nội cũng không nằm ngoài quy luật cạnh tranh trên. Do vậy để đứng vững và phát triển chi nhánh cần phải thực hiện nghiên cứu thị trường, nghiên cứu khả năng đáp ứng thị trường và ưu thế của mình so với các ngân hàng khác trong lĩnh vực tín dụng, nghiên cứu tình hình hoạt động của các đối thủ cạnh tranh nhằm tìm ra được ưu thế của mình để phát huy, khắc phục những điểm yếu để đưa ra chiến lược phát triển lâu dài trong hoạt động kinh doanh của chi nhánh nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng. Để làm được điều này đòi hỏi ngân hàng phải:
* Xây dựng cho mình một chiến lược sản phẩm hấp dẫn.
Chi nhánh cần phải tạo ra sự hấp dẫn đối với các khách hàng trong quá trình cung cấp sản phẩm tín dụng, đó là tạo ra sự khác biệt so với ngân hàng khác xung quanh sản phẩm tín dụng của mình. Điều này rất quan trọng trong cạnh tranh với các ngân hàng khác, ngân hàng nào cung cấp sản phẩm một cách tốt hơn sẽ thắng, vì thế chi nhánh cần chú ý đến những vấn đề sau:
Tổ chức dịch vụ “ cung cấp tín dụng tại nhà ”- một mô hình của tín dụng bán lẻ. Ngân hàng là một doanh nghiệp và tín dụng là một sản phẩm của ngân hàng thì ngân hàng cũng có thể làm dịch vụ cung cấp tín dụng tại ngân hàng nhà. Điều này giúp khách hàng tiết kiệm thời gian, công sức để tập trung vào sản xuất kinh doanh, đạt hiệu quả cao hơn. Ngược lại thực hiện cung cấp tín dụng tại nhà sẽ giúp ngân hàng xuống được tận cơ sở sản xuất kinh doanh của khách hàng để đánh giá xem khách hàng làm ăn ra sao? có hiệu quả không?.Có thể chi phí cung cấp dịch vụ này là khá lớn nhưng sẽ tiện lợi cho cả ngân hàng và khách hàng trong việc đánh giá chính xác khách hàng và ngày càng thu hút được nhiều khách hàng hơn.
Cung cấp dịch vụ tư vấn: kèm theo sản phẩm tín dụng của ngân hàng. Các doanh nghiệp đặc biệt là doanh nghiệp ngoài quốc doanh rất cần sự tư vấn của ngân hàng vì khả năng quản lý, trình độ lập dự án và kinh nghiệm sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp này còn hạn chế và kém nhạy bén với thị trường, khả năng dự đoán sự biến dộng thị trường thấp. Để thu hút các khách hàng về quan hệ với mình, chi nhánh cần phải tổ chức dịch vụ tư vấn cho khách hàng thật tốt trên các lĩnh vực như: tư vấn về thị trường đầu vào, thị trường đầu ra, quản lý quá trình sản xuất kinh doanh, tư vấn về các hoạt động khác, nếu cần ngân hàng có thể giúp đỡ khách hàng khi khách hàng gặp khó khăn... Bằng các mối quan hệ của mình, chi nhánh nên hỗ trợ cho khách hàng trong việc tìm đầu vào hoặc tiêu thụ sản phẩm đầu ra. Làm được những điều này, chi nhánh không những cho vay thu hồi vốn nhanh, giảm rủi ro ở mức thấp nhất mà còn đem lại hiệu quả kinh doanh cho các khách hàng của mình, tạo sự tín nhiệm và quan hệ làm ăn lâu dài.
Định giá lãi suất cho vay.
Định giá lãi suất cho vay là khâu quan trọng trong hoạt động của mỗi ngân hàng. Ngân hàng luôn mong muốn có được giá cho vay cao để bù đắp chi phí và có lãi. Tuy nhiên giá cho vay phải hợp lý đối với khách hàng để họ vừa có thể duy trì hoạt động kinh doanh vừa có lãi để trả cho ngân hàng. Mặt khác do cạnh tranh trên thị trường cho vay ngày càng cao, nên các ngân hàng phải xác định giá cho vay phù hợp với mặt bằng giá cho vay trên thị trường. Từ đó đòi hỏi việc định giá các khoản cho vay phải đảm bảo các yêu cầu sau:
Tăng doanh số cho vay
Nâng cao sức cạnh tranh cho ngân hàng
Đảm bảo bù đắp đủ chi phí và có lãi
Góp phần duy trì và hoàn thiện mối quan hệ giữa khách hàng và ngân hàng
Trong những năm gần đây, nhà nước ta rất chú trọng đến việc mở rộng sản xuất kinh doanh vì vậy mà chính sách lãi suất thường xuyên thay đổi, do đó mức lãi suất ngân hàng áp dụng cũng phải thay đổi theo, ngân hàng khó có thể áp dụng một tỷ lệ lãi suất không đổi trong một thời gian dài. Vấn đề là làm sao trong một mức lãi suất cho phép, chi nhánh vẫn đưa ra được một mức cho vay thấp hơn các ngân hàng bên cạnh hoặc có thể giữ mức lãi suất ngang bằng nhưng cải tiến chất lượng phục vụ, hoặc đưa ra một vài ưu đãi cho khách hàng để khách hàng cảm thấy rằng việc vay vốn tại chi nhánh NHNo&PTNT Bắc Hà Nội sẽ đem lại nhiều lợi ích cho họ hơn. Để làm được điều này, chi nhánh cần tìm kiếm các giải pháp làm giảm chi phí kinh doanh như giảm chi phí đầu vào bằng việc tăng khả năng tiếp cận các nguồn tiền gửi có giá rẻ, ổn định để luôn luôn chủ động về nguồn vốn, tránh tình trạng phải đi vay với lãi suất cao từ các ngân hàng khác, cải tiến một số bước trong quá trình luân chuyển tiền, chứng từ ... sao cho nhanh gọn hơn để giảm bớt chi phí khác kèm theo. Đồng thời, chi nhánh phải có được chính sách lãi suất cho vay linh hoạt hơn, cụ thể:
Linh hoạt theo đối tượng vay vốn: Với các khách hàng quen thuộc, truyền thống, mức lãi suất có thể được giảm nhẹ một chút hoặc vẫn bằng các khách hàng bình thường nhưng với một sự ưu tiên hơn nhằm giữ các khách hàng tốt. Đối với các khách hàng mới, chi nhánh nên tạo điều kiện cho khách hàng trong việc lựa chọn mức lãi suất cho phù hợp với thời hạn trả vốn.
Linh hoạt theo mức vay vốn: Để khuyến khích khách hàng vay vốn thì ngân hàng có thể thực hiện một cách linh hoạt mức lãi suất theo mức vay của khách hàng. Nếu mức vay của khách hàng là lớn thì mức lãi cho vay giảm dần.
Tóm lại: Để có một mức lãi suất tối ưu áp dụng cho các khoản cho vay của ngân hàng trong một giai đoạn nhất định không phải là đơn giản. Một điều mà chúng ta có thể khẳng định đúng đó là một trong những yếu tố cơ bản làm tăng khả năng cạnh tranh của ngân hàng đó là đưa ra một mức lãi suất tiền vay thấp hơn đối thủ cạnh tranh.
3.2.7. Giải pháp về nhân sự.
Yếu tố con người luôn là yếu tố quyết định trong mọi lĩnh vực hoạt động, đặc biệt với một lĩnh vực nhạy cảm và phức tạp như tín dụng ngân hàng thì điều đó càng đúng hơn bao giờ hết. Tất cả những giải pháp đưa ra ở trên sẽ không thể phát huy được hiệu quả nếu không được thực hiện bởi những con người cụ thể trong ngân hàng, mà trực tiếp là các cán bộ tín dụng. Để phát huy nhân tố con người thì trước tiên cần phải có những cán bộ tín dụng thực sự giỏi về chuyên môn, có tầm hiểu biết rộng, có đạo đức tinh thần trách nhiệm sau đó là phải có những biện phát thích hợp nhằm phát huy năng lực của những cán bộ đó. Muốn vậy với chi nhánh NHNo&PTNT Bắc Hà Nội trong thời gian cần tiến hành đồng bộ những biện pháp sau:
3.2.7.1 Thực hiện việc xếp loại chuyên môn hoá cán bộ tín dụng.
Mục đích của việc làm này là nhằm đánh giá một cách chính xác năng lực của từng cán bộ tín dụng để có phương án bố trí, sắp xếp lại cán bộ, tuyển dụng nhân viên mới cho phù hợp. Việc làm này còn có tác dụng khuyến khích, tạo động lực phấn đấu cho các cán bộ tín dụng bởi vị trí xếp hạng cao thường kèm theo uy tín, cơ hội thăng tiến và nhiều quyền lợi khác. Biện pháp thực hiện có thể tiến hành như sau:
Trước hết, chi nhánh NHNo&PTNT Bắc Hà Nội tiến hành xây dựng một hệ thống các tiêu chuẩn làm căn cứ đánh giá trình độ chuyên môn, đạo đức của cán bộ tín dụng, trong đó đặc biệt chú ý các tiêu chuẩn về trình độ chuyên môn nghiệp vụ; kiến thức cơ bản về thị trường, pháp luật, khoa học kỹ thuật, xã hội; phẩm chất đạo đức, tinh thần trách nhiệm, chí tiến thủ. Trên cơ sở đó tiến hành rà soát lại chất lượng công việc, tổ chức các cuộc thi trong nội bộ các chi nhánh ngân hàng và toàn hệ thống để làm căn cứ phân loại cán bộ theo các mức A, B, C. Việc xếp loại này phải được tiến hành thường xuyên nhằm khuyến khích những người có thứ hạng thấp phấn đấu nhiều hơn đồng thời tránh tình trạng những người có thứ hạng cao cảm thấy tự mãn, không nỗ lực trong công việc nữa.
Cùng với việc xếp loại cán bộ tín dụng, vì sự hiểu biết và kinh nghiệm của mỗi cán bộ tín dụng dù có tốt đến đâu cũng không thể bao quát hết mọi lĩnh vực, do đó chi nhánh cần thực hiện chuyên môn hóa cán bộ tín dụng theo từng lĩnh vực cụ thể chứ không nên phân chia theo khu vực, thành phần kinh tế, mức dư nợ như hiện nay. Đây là biện pháp nhằm khắc phục mâu thuẫn giữa chuyên môn hóa và đa dạng hóa, tăng độ tin cậy của các khoản tín dụng, đồng thời giảm chi phí trong công tác thẩm định, tìm hiểu giám sát khách hàng trong quá trình sử dụng vốn vay. Bên cạnh đó cần có chế độ đãi ngộ thích đáng bao gồm cả thưởng và phạt nghiêm minh. Những người có thứ hạng cao cần phải được nhiều ưu đãi hơn, những người có tiến bộ sẽ được thăng hạng ngược lại nếu không làm tốt sẽ bị xuống hạng kèm theo những biện pháp kỷ luật thích đáng. Ngoài ra do đặc thù công việc của cán bộ tín dụng là thường xuyên phải đối mặt với rủi ro nên cần phải có sự đối xử khác với cán bộ thuộc lĩnh vực khác, tránh tình trạng giao trách nhiệm quá cao trong khi quyền lợi không tương xứng khiến cho các cán bộ tín dụng có xu hướng e ngại cho vay vì sợ rủi ro, gây khó khăn cho ngân hàng trong việc mở rộng quy mô cho vay.
3.2.7.2. Đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường đầy biến động, sự phát triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật ngày nay đòi hỏi việc trang bị thêm những kiến thức mới, cập nhật thông tin phải được tiến hành hằng ngày, hằng giờ để theo kịp những thay đổi đó, đặc biệt đối với hoạt động ngân hàng là hoạt động có liên quan tới nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội. Để đáp ứng yêu cầu đó, về phía chi nhánh nên thường xuyên tổ chức các lớp tập huấn, bồi dưỡng kiến thức chuyên môn; các cơ chế, chính sách, thể lệ của ngành, liên ngành; chủ trương, đường lối phát triển kinh tế của Đảng, Nhà nước và địa phương. Trong quá trình bồi dưỡng, tập huấn phải gắn lý luận với thực tiễn để các cán bộ tín dụng có thể vận dụng kiến thức một cách linh hoạt, sáng tạo trong thực tế. Bên cạnh kiến thức chuyên môn, các cán bộ tín dụng cần phải thường xuyên được trang bị thêm các kiến thức về pháp luật, thị trường, kinh tế ngành, tin học đồng thời thường xuyên chấn chỉnh về đạo đức, tác phong nghề nghiệp, tinh thần trách nhiệm, kỷ luật lao động và nhất là về văn minh thương mại trong giao tiếp với khách hàng. Tất cả những biện pháp đó đều nhằm một mục đích duy nhất là nâng cao chất lượng nguồn nhân lực góp phần nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng của chi nhánh NHNo&PTNT Bắc Hà Nội.
3.2.7.3. Nâng cao vai trò của công tác thanh tra kiểm soát
Thanh tra kiểm soát là nghiệp vụ rất quan trọng để đảm bảo chất lượng tín dụng, do đó khi ngân hàng mở rộng đầu tư tín dụng thì vai trò của công tác thanh tra, kiểm soát phải nâng lên mức tương xứng.
Công tác thanh tra, kiểm soát được đề cập ở đây không phải chỉ đơn thuần là kiểm tra khách hàng mà quan trọng là kiểm tra thanh lọc những cán bộ tín dụng mất phẩm chất, tiêu cực, gây thất thoát tài sản và làm mất uy tín của ngân hàng.
3.2.8. Thiết lập và duy trì mối quan hệ với các ngân hàng bạn, đặc biệt là các chi nhánh trong cùng hệ thống NHNo&PTNT để tham gia vào cho vay đồng tài trợ đối với các dự án.
3.3 Một số kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng tín dụng.
Trong số các nguyên nhân gây ra những mặt hạn chế trong hoạt động tín dụng của chi nhánh NHNo&PTNT Bắc Hà Nội có những nguyên nhân thuộc về phía các cơ quan quản lý vĩ mô mà trực tiếp là Nhà nước, NHNN và NHNo. Mặt khác, trong số những giải pháp đưa ra trên đây có những giải pháp chỉ có thể thực hiện và phát huy được hiệu quả khi có sự giúp đỡ, hỗ trợ từ phía các cơ quan này. Những kiến nghị đưa ra sau đây đều nhằm giải quyết các vấn đề đó.
3.3.1. Những kiến nghị đối với Nhà nước.
Để ngân hàng mạnh dạn trong cho vay, tạo cho các doanh nghiệp Việt Nam đủ sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế, thành công khi tham gia hội nhập khu vực mậu dịch AFTA, WTO đề nghị Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương cần đảm bảo một số điều kiện chủ yếu sau:
Một là: Thực hiện nhất quán chủ trương sắp xếp lại khu vực doanh nghiệp nhà nước trên cơ sở lấy tiêu chuẩn hiệu quả làm thước đo chủ yếu. Nhà nước cần đa dạng hoá các loại hình doanh nghiệp (như công ty cổ phần, công ty liên doanh, công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên…). Chấn chỉnh lại kế hoạch sắp xếp doanh nghiệp nhà nước, thực hiện chuyển đổi hình thức sở hữu thông qua biện pháp cổ phần hoá đối với những doanh nghiệp đủ điều kiện cổ phần hoá; áp dụng luật phá sản đối với các doanh nghiệp nhà nước thua lỗ kéo dài không có khả năng phục hồi và không có tầm quan trọng đặc biệt. Đồng thời áp dụng phổ biến cơ chế giao khoán kinh doanh, cho thuê, sáp nhập phần lớn doanh nghiệp nhà nước có quy mô nhỏ.
Hai là: nhà nước cần ban hành luật doanh nghiệp chung cho các thành phần kinh tế nhằm tạo môi trường pháp lý bình đẳng trong kinh doanh từ đó thúc đẩy sản xuất phát triển. Với tư cách là “ bà đỡ ” cho các doanh nghiệp khi mới ra đời hoặc chuyển đổi hình thức sở hữu; cổ phần hoá, nhà nước có cơ chế tài chính - tín dụng thông thoáng và ưu đãi để hỗ trợ doanh nghiệp thực hiện phương án sản xuất kinh doanh mới hoặc củng cố ổn định sản xuất, đầu tư chiều sâu, nâng cao chất lượng sản phẩm.
Ba là: nhà nước cần ban hành hướng dẫn cụ thể những chính sách để cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước cụ thể:
* Hoàn thiện chính sách cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước: Bãi bỏ quy định hạn chế mức mua cổ phần lần đầu trong nội bộ doanh nghiệp; điều chỉnh mức mua cổ phần ưu đãi của cán bộ quản lý doanh nghiệp để phát huy vai trò tích cực của người quản lý doanh nghiệp; cho phép nhà đầu tư mua cổ phần lần đầu đối với những doanh nghiệp cổ phần hoá mà nhà nước không cần giữ cổ phần chi phối theo quy định của luật doanh nghiệp và luật khuyến khích đầu tư trong nước; cải tiến phương pháp định giá doanh nghiệp, áp dụng cơ chế đấu giá trên cơ sở quy luật cung cầu, phản ánh đúng giá trị của doanh nghiệp cổ phần hoá
* Thực hiện định mức lại vốn điều lệ của DNNN trên cơ sở áp dụng các cơ chế (như không thu tiền sử dụng vốn, khấu hao nhanh, tăng tỷ lệ tích luỹ đầu tư từ lợi nhuận sau thuế, hỗ trợ sau đầu tư… ) để đến năm 2006 cơ bản tạo đủ vốn điều lệ cho DNNN giữ 100% vốn và DNNN giữ cổ phần chi phối. Đối với một số tổng công ty, doanh nghiệp lớn có uy tín cho phép phát hành trái phiếu, cổ phiếu huy động đầu tư thông qua thị trường chứng khoán để phát triển mở rộng sản xuất kinh doanh.
* Thí điểm thực hiện phương thức nhà nước đầu tư và quản lý doanh nghiệp thông qua công ty tài chính nhà nước. Đây là một tổ chức tài chính của nhà nước có chức năng kinh doanh vốn của nhà nước nhằm mục đích: Chuyển từ cơ chế nhà nước cấp phát vốn sang cơ chế nhà nước đầu tư vốn vào doanh nghiệp, xác lập rõ quyền sở hữu về vốn của doanh nghiệp, chuyển phương thức quản lý tài chính mang tính hành chính sang phương thức kinh doanh vốn theo cơ chế thị trường, góp phần thực hiện nhanh quá trình công ty hoá DNNN và xoá bỏ chế độ chủ quản của cơ quan hành chính cấp trên trực tiếp.
* Thành lập công ty mua bán nợ để trực tiếp xử lý những khoản nợ khó đòi và thực hiện một số chức năng trong quá trình cải cách doanh nghiệp. Giải quyết dứt điểm tình trạng nợ tồn đọng, nợ dây dưa, chiếm dụng vốn lẫn nhau trong khu vực doanh nghiệp. Xác lập lại hệ thống quan hệ tài chính lành mạnh giữa các doanh nghiệp, doanh nghiệp và ngân hàng. Trên cơ sở phân loại và xác định tính chất, nguyên nhân các khoản nợ để có biện pháp xử lý thích hợp như xoá nợ, chuyển đổi nợ thành cổ phần doanh nghiệp.
3.3.2. Những kiến nghị đối với Ngân hàng Nhà nước.
3.3.2.1. Bảo đảm thông tin chính xác, kịp thời, đầy đủ cho các NHTM.
Thông tin ở đây bao gồm hai loại: thứ nhất là thông tin về doanh nghiệp; thứ hai là những thông tin có tính chất định hướng cho hoạt động của NHTM. Những thông tin về doanh nghiệp sẽ được thu thập và cung cấp qua trung tâm thông tin tín dụng của NHNN (CIC), bao gồm thông tin về khả năng tài chính, hiệu quả kinh doanh, hệ số an toàn vốn, quan hệ tín dụng của khách hàng với các NHTM, với các doanh nghiệp khác. Đây sẽ là những căn cứ đáng tin cậy để các NHTM sử dụng trong quá trình thẩm định khách hàng.
Cùng với thông tin về doanh nghiệp, NHNN còn cung cấp cho các NHTM những thông tin về phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu, quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế của đất nước, của từng vùng, từng khu vực trong từng thời kỳ; tư vấn cho các NHTM về những lĩnh vực, những ngành mũi nhọn cần tập trung đầu tư vốn tín dụng nhằm góp phần thực hiện những chủ trương đường lối phát triển chung, đồng thời phát huy hiệu quả đồng vốn, bảo đảm an toàn tín dụng cho NHTM.
3.3.2.2. Ngân hàng nhà nước cần tăng thêm quyền tự chủ cho các ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng thương mại.
Sự quản lý của ngân hàng nhà nước chỉ nên dừng lại ở những vấn đề vĩ mô, những vấn đề chung nhất mang tính định hướng chứ không nên đưa ra những quy định quá cụ thể, chi tiết liên quan đến những vấn đề mang tính đặc thù riêng của mỗi ngân hàng, bởi lẽ điều kiện hoạt động của các NHTM không giống nhau, nếu đưa ra những quy định cụ thể áp dụng chung cho mọi ngân hàng thì sẽ gây khó khăn cho các ngân hàng trong việc thích ứng với môi trường kinh doanh cụ thể của mình. Đơn cử như quy định về tỷ lệ vốn tự có tối thiểu của doanh nghiệp tham gia vào dự án, trên thực tế có rất nhiều danh nghiệp có phương án kinh doanh rất tốt, có đủ tài sản thế chấp nhưng không đủ vốn tự có tham gia dự án như yêu cầu nên không vay được vốn, rõ ràng trong trường hợp này ngân hàng đã mất đi một khách hàng đầy tiềm năng. Quy định về tỷ lệ vốn tối thiểu của doanh nghiệp tham gia dự án là nhằm ràng buộc, nâng cao trách nhiệm của doanh nghiệp đối với việc thực hiện dự án. Nhưng điều này liệu có thực sự cần thiết hay không bởi lẽ khi doanh nghiệp đã sẵn sàng thế chấp toàn bộ tài sản của mình để vay vốn thì đương nhiên họ phải có trách nhiệm với khoản vay nếu như không muốn bị xiết nợ bằng tài sản thế chấp. Đưa ra ví dụ như vậy là để muốn nói rằng vai trò quản lý vĩ mô của NHNN là cần thiết song ở một mức độ nhất định cần bảo đảm quyền tự chủ kinh doanh cho các NHTM để họ phát huy hết sự sáng tạo, linh hoạt nhằm thích ứng với môi trường kinh doanh.
3.3.3. Những kiến nghị đối với NHNo&PTNT Việt Nam.
- Tổ chức kịp thời giải quyết các nghiệp vụ liên quan đến hoạt động kinh doanh của chi nhánh như trong việc phê duyệt mức cho vay vượt quyền phán quyết…
- Tăng cường phân cấp trong xét duyệt tín dụng, xác định rõ trách nhiệm của từng người từ chi nhánh đến hội sở chính trong việc xử lý tín dụng.
- Tăng cường công tác kiểm ra, kiểm soát, kể cả trước, trong và sau. Quan tâm thích đáng đến phân tích đánh giá sau đầu tư, tổng kết các bài học kinh nghiệm, tích lũy những kiến thức để công tác thẩm định ngày một tốt hơn.
- Định kỳ phân loại nợ, đánh giá và xử lý nợ tồn đọng, từng bước tiến hành phân loại nợ quá hạn theo chuẩn mực quốc tế để đánh giá đúng thực trạng tín dụng và tiềm ẩn rủi ro của toàn hệ thống nói chung, từng chi nhánh nói riêng.
- Tăng cường công tác đào tạo để đáp ứng yêu cầu của tiêu chuẩn cán bộ chuyên môn nghiệp vụ, đảm bảo năng lực thực sự của cán bộ (không chỉ về hình thức văn bằng chứng chỉ). Đây là cơ sở để cán bộ nghiệp vụ tiếp cận kiến thức kinh doanh của ngân hàng hiện đại, nắm bắt và chủ động ngay khi được công nghệ tiên tiến. Đồng thời thực hiện đồng bộ các chính sách, chế độ như thu hút nhân tài, chính sách sử dụng, bố trí cán bộ, chính sách đào tạo, bồi dưỡng và chính sách đãi ngộ.
- Nghiên cứu và ứng dụng rộng rãi tin học hiện đại vào hoạt động tín dụng ngân hàng. Đảm bảo hoạt động giao dịch ngân hàng được thực hiện trên một nền kỹ thuật công nghệ hiện đại đáp ứng yêu cầu của khách hàng và đảm bảo cho sự an toàn và hiệu quả của ngân hàng.
3.3.4. Kiến nghị với uỷ ban nhân dân Thành phố Hà Nội.
Đẩy mạnh tiến trình sắp xếp và đổi mới các doanh nghiệp Nhà nước, tạo môi trường ổn định cho hoạt động kinh doanh của các NHTM.
Có biện pháp tích cực ngăn chặn các tệ nạn xã hội đảm bảo cho môi trường tín dụng phát huy hiệu quả cao.
Tăng cường chỉ đạo UBND các quận, phường và các tổ chức đoàn thể tại cơ sở giúp đỡ ngân hàng thực hiện tốt các chương trình vay vốn của ngân hàng.
Có các biện pháp hỗ trợ về tiêu thụ sản phẩm cho các doanh nghiệp.
Chỉ đạo các cơ quan chức năng giúp đỡ ngân hàng trong việc sử lý nợ quá hạn và phát mại tài sản thế chấp.
Kết luận
Hoạt động tín dụng là một trong những hoạt động kinh doanh tiền tệ của ngân hàng. Muốn tồn tại và phát triển trong cơ chế thị trường, ngân hàng cần phải đảm bảo cho các hoạt động của mình vừa an toàn vừa có hiệu quả. “ Nâng cao chất lượng tín dụng ” không chỉ là mong muốn của riêng chi nhánh NHNo&PTNT Bắc Hà Nội mà còn là mong muốn của rất nhiều ngân hàng khác. Với mong muốn đóng góp vốn kiến thức nhỏ bé của mình vào việc nâng cao chất lượng tín dụng tại chi nhánh NHNo&PTNT Bắc Hà Nội, trong chuyên đề này em đã đề cập đến những nội dung chính sau:
Hệ thống hoá những vấn đề cơ bản về hoạt động tín dụng ngân hàng. Khẳng định vai trò quan trọng của tín dụng tại ngân hàng thương mại trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.
Phân tích thực trạng hoạt động tín dụng tại chi nhánh NHNo&PTNT Bắc Hà Nội qua ba năm 2003,2004, 2005. Từ đó thấy được những mặt tích cực cần tiếp tục phát huy đồng thời nhìn nhận một cách khách quan những điểm hạn chế và nguyên nhân để đưa ra giải pháp khắc phục.
Đưa ra giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng tín dụng của chi nhánh NHNo&PTNT Bắc Hà Nội trong thời gian tới.
Hy vọng rằng những vấn đề được đề cập tới trong chuyên đề này có thể giúp phần nào cho chi nhánh nhằm tăng cường chất lượng tín dụng của mình trong thời gian tới.
Tài liệu tham khảo
Nghiệp vụ kinh doanh ngân hang – Tiến sĩ Tô Ngọc Hưng.
Nghiệp vụ ngân hàng thương mại – PGS.TS Lê Văn Tề.
Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh NHNo&PTNT Bắc Hà Nội năm 2003, 2004, 2005.
Tạp chí ngân hàng các năm 2003, 2004, 2005.
Tài liệu giảng dạy môn Lý thuyết tiền tệ ngân hàng.
NHNo&PTNT Việt Nam 15 năm xây dựng và trưởng thành.
Các tài liệu khác.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luận văn Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại NHNo&PTNT Bắc Hà Nội.doc