Trong khi đó, khu vực nông thôn, miền núi tập trungmột lượng lớn lao động thất nghiệp, lại là địa bàn
khó khăn chậm phát triển so với thị trường nhưng các dự án đầu tư lại ít.
Thu hút đầu tư nước ngoài vào những địa bàn này tạo điều kiện thúc đẩy
kinh tế địa phương phát triển , tạo việc làm cho người lao động, nâng cao
đời sống nhân dân.Việc đầu tư vào các địa bàn này, một mặt khai thác được
nguồn lao động rẻ, mặt khác lại sử dụng được nguyên liệu tại chỗ, dẫn đến
việc giảm được chi phí hạ giá thành sản phẩm, tăng sức cạnh tranh trên thị
trường.
98 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2763 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giải pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn FDI trong các doanh nghiệp của ngành dệt may, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
83
DT/TH % 104,2 103,6 0 103,67
XK/DT % 80,65 90,19 0 88,55
Ln/TH % 1,21 3,55 0 3,16
Nguồn : Vụ QLDA – Bộ KH&ĐT
Theo số liệu trên thì số dự án 100% vốn nước ngoài chiếm đa số với 114
dự án ( chiếm 81,43% tổng số dự án) cao gần gấp 5 lần của liên doanh. Vốn
đầu tư của các dự án 100% vốn nước ngoài cũng rất cao chiếm 85,38% tổng
vốn đầu tư trong khi đó các dự án liên doanh chiếm 13,81% tổng vốn đầu tư
. Tỷ lệ vốn thực hiện trên vốn đầu tư của các dự án 100% vốn nước ngoài
(chiếm 64,66%) thấp hơn so với các dự ánliên doanh (chiếm 71,28%). Điều
này chứng tỏ các dự án liên doanh có khả năng thực hiện cao hơn so với các
dự án 100% vốn nước ngoài. Mặt khác, ta cũng thấy được là các dự án của
ngành may được thực hiện tốt hơn ngành dệt do ngành may đòi hỏi vốn ít
hơn , công nghệ thiết bị đơn giản hơn và chi phí cho công việc sản xuất ít
tốn kém hơn.
Về doanh thu và xuất khẩuthì các dự án 100% vốn nước ngoài cũng đạt
rất cao gấp khoảng 4-5 lần so với các dự án liên doanh. Qua đó ta thấy được
hiệu quả sản xuất kinh doanh của các dự án 100% vốn nước ngoài rất cao.
Bởi lẽ, do trình độ tổ chức quản lý, trình độ về công nghệ sản xuất và khả
năng tìm kiếm thị trường của họ. Từ đó giúp thêm cho chúng ta có được
những kinh nghiệm của người nước ngoài trong vấn đề quản lý và kinh
doanh của riêng họ. Một khi họ đã bỏ chịu bỏ ra một đồng vốn để kinh
doanh thì họ sẽ thu được nhiều hơn một đồng đã bỏ ra.
70
Về khoản nghĩa vụ đối nhà nước thì các dự án 100% vốn nước ngoài
cũng đóng góp rất nhiều so với các dự án liên doanh cho nhà nước và tạo ra
được
một khối lượng lớn lao động dồi dào cho xã hội. Điều này làm giảm bớt
gánh nặng cho nhà nước, làm tăng thêmthu nhập cho xã hội và thúc đẩy xã
hội phát triển hơn.
Về tỷ suất lợi nhuận thì dự án 100% vốn nước ngoài cao gấp khoảng 3
lần so với dự án liên doanh. Cho ta thấy được khả năng vốn của các dự án
100% vốn nước ngoài cao hơn so với dự án liên doanh.Chính điều này,đã
tạo thêm sự phấn khích cho các dự án, thúc đẩy khả năng sản xuất và mở
rộng sản xuất bằng cách tăng vốn hoặc hình thành lên các dự án mới qua
kinh nghiệm của các dự án đã hoạt động trước.
2.2. Đầu tư nước ngoài theo địa phương
Bảng : Đầu tư nước ngoài theo địa phương vào ngành may
(1/1/1988 – 2/11/2001)
Stt Địa phương Số dự
án
Vốn
ĐT
Vốn
TH
Doanh
thu
Xuất
khẩu
Lao
động
Đơn vị tính Triệu
USD
Triệu
USD
Triệu
USD
Triệu
USD
Triệu
USD
Người
1 TP.HCM 73 124,8
8
87,09 267,61 253,37 11.158
2 Đồng Nai 14 54,48 41,28 65,4 132,76 6.163
3 Bình Dương 18 73,63 48,52 103,8 163,15 4.530
4 Hà Nội 5 9,71 2,17 13,94 13,22 277
5 Đà Nẵng 4 3,5 4,03 23,52 17,84 1.132
6 Hải Phòng 2 3,83 3,76 18,32 18,32 462
7 Hải Dương 1 3,18 0,9 11,2 7,09 500
8 Hà Tây 1 4,4 4,4 21,05 21,05 927
9 Long An 1 3,55 2,27 3,67 3,68 321
71
10 Tây Ninh 2 1,9 0,8 1,42 1,42 500
Nguồn : Vụ QLDA - Bộ KH&ĐT
Đứng đầu trong cả nước về số dự án đầu tư và tổng vốn đầu tư là TP.HCM ,
tiếp đến là Bình Dương, Đồng Nai và Hà Nội… Như vậy, trong 4 tỉnh,TP
đứng đầu cả nước về số dự án thực hiện thì có đến 3 tỉnh là thuộc khu vực
kinh tế trọng điểm phía Nam. Cũng như ngành dệt các dự án của ngành may
chủ yếu tập trung vào các tỉnh phía Nam bởi vì khu vực này là nơi có đầy đủ
các điều kiện thuận lợi cho các dự án được thực hiện và đi vào hoạt động.
Cùng với ngành dệt thì ngành may có sự mất cân đối về cơ cấu và hiệu quả
đầu tư giữa 3 miền : Bắc, Trung, Nam, mà các dự án phần lớn là tập trung
vào các tỉnh phía Nam . Điều này chứng tỏ môi trường đầu tư phía Nam đã
tạo được sức hấp dẫn hơn so với các tỉnh miền Bắc và miền Trung. Điều này
cần phải có sự xem xét để điều chỉnh cơ cấu đầu tư giữa các vùng để tạo
thêm sức mạnh và phát huy được hết tiềm năng phát triển của các vùng . Tạo
ra sự cânđối hài hoà về đầu tư giữa các vùng.
2.3.Đầu tư nước ngoài theo nước
Bảng : Đầu tư nước ngoài theo nước vào ngành may
tại Việt Nam(1/1/1988 – 5/7/2001)
Đơn vị : Triệu USD
Stt Tên nước Số
dự
án
Vốn
đầu tư
Vốn
pháp
định
Vốn
thực
hiện
Doanh
thu
Xuất
khẩu
Lao
động
1 Nhật Bản 27 427,94 168,81 189,73 2.543,92 2.208,85 7.746
2 Hàn
Quốc
22 397,32 132,87 421,64 1.128,16 594,02 4.110
3 Đài Loan 18 65,11 39,46 39,38 98,32 39,03 1.151
4 Singapor
e
12 86,58 44,48 47,85 59,94 38,05 2.002
72
5 Hồng
Kông
9 180,85 66,83 41,35 64,85 7,57 510
6 Hoa Kỳ 7 9,83 6,22 5,12 0,93 0,65 105
7 British
Virgin
6 316,3 102,19 304,05 174,48 18,67 1.209
8 Malaysia 4 99,64 34,97 1,87 0,9 0,02 168
9 Hà Lan 4 6,4 2,8 2,8 1,29 0,04 58
10 Pháp 3 7,32 5,12 2,95 0,92 0 57
Nguồn : Vụ QLDA – Bộ KH&ĐT
Ta thấy, Nhật Bản là nước thu hút được nhiều dự án nhất với 27 dự án
và 427,94 triệu USD vốn đầu tư.Tiếp đến là Hàn Quốc với 22 dự án và
397,32 triệu USD.Thứ 3 là Đài Loan với 18 dự án với 65,11 triệu USD.
Về doanh thu, xuất khẩu và lao động, do Nhật Bản là nước có nhiều dự
án nên đã dẫn đầu về tất cả các chỉ tiêu trên.Sau đó là đến Hàn Quốc và tiếp
là Đài loan.
Cũng như ngành dệt, ở ngành may các nước thuộc khu vực Đông A là
những nước đầu tư nhiều dự án và vốn đầu tư nhất. Bởi đâylà một ngành thế
mạnh của họ và vốn đầu tư bỏ ra ít nhưng lợi nhuận nhiều. Mặt khác,giá
nhân công ở ngành may cũng như ngành dệt là rất thấp do đó mà họ bớt
được một khoản chi phí lớn cho tiền lương của công nhân so với các nước
khác.Vì vậy mà ngành thu hút được nhiều dự án cả các nước ở Châu lục
khác.
3. Hiệu quả của việc thu hút đầu tư nước ngoài vào ngành dệt may
Dòng vốn nước ngoài đầu tư vào ngành dệt may trong giai đoạn qua đã
thực sự có tác động tích cực và có vai trò quan trọng trong chiến lược đầu tư
phát triển ngành dệt may Việt Nam. Những ảnh hưởng tích cực của loại hình
hoạt động kinh tế này đang ngày càng rõ nét, thể hiện trên nhiều mặt trong
thành quả của ngành dệt may và đưa ngành dệt may trở thành một trong
những ngành xuất khẩu mũi nhọn vủa công nghiệp chế tạo Việt Nam . Góp
phần thúc đẩy chiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu của Việt
73
Nam. Trước hết , chúng ta hãy xem xét một số ưu điểm của ngành dệt may
như sau
Thứ nhất: Đầu tư nước ngoài đã mang lại cho ngành dệt may Việt Nam
một lượng vốn đầu tư rất lớn, khoảng 42% trong tổng vốn đầu tư của toàn
ngành dệt may trong thời gian qua. Cùng với đó, một lượng lớn tài sản, thiết
bị công nghệ cao và nguồn lực đáng kể được đưa vào ứng dụng trong sản
xuất lên chất lượng sản phẩm cao hơn, đạt mục tiêu cho phất triển ngành dệt
may một cách có hiệu quả. Tuy nhiên, hiệu quả sử vốn trong ngành dệt may
lại hơi thấp so với các ngành khác. Các kết quả ở trên cho ta thấy hiệu quả
sử dụng vốn trong ngành may cao hơn ngành dệt. Trong khi ngành may bỏ
ra một đồng vốn thì thu lại được 2,54 đồng doanh thu và 0,039 đồng lợi
nhuận. Thì ngành dệt bỏ một đồng vốn chỉ thu lại được 1,24 đồng doanh thu
và 0,0096 đồng lợi nhuận.
Thứ hai:Tạo ra được một lực lượng đông đảo người lao động làm việc
trong các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài. Đến nay, các xí nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài đã tạo ra hơn 4 vạn việc làm trực tiếp trong các xí nghiệp
và thu hút hàng nghìn lao động vào các công trình xây dựng cơ bản, dịch
vụ,sản xuất nguyên vật liệu, phục vụ cho giai đoạn đàu của các dự án liên
doanh hợp tác đầu tư. Hiện tại, các khu chế xuất có hơn 20 nghìn lao động
làm việc tại 38 công ty may hàng xuất khẩu có vốn đầu tư nước ngoài.
Trong thời gian tới, nhu cầu về lao động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài sẽ vẫn còn tiếp tục tăng mạnh cùng với vốn đầu tư vào lĩnh vực
này. Cùng với xu hướng này, thu nhập bình quân của người lao động trong
các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cũng được nâng cao. Năm 1993,
luơng bình quân của mỗi công nhân là 363.000 đ/1 tháng thì đến nay dã tăng
lên gấp đôi khoảng 800.000 đ/ 1 tháng thậm chí có nơi mức lương trung
bình đạt từ 1-1.5 triệu /1 tháng gấp từ 1.5 đến 2 lần thu nhập của những
người làm việc ở khu vực quốc doanh và tư nhân. Bên cạnh đó, chất lượng
của đội ngũ lao đọng đã được nâng cao, đựoc tiếp thu những khoa học kỹ
thuật tiên tiến hiện đại của đối tác nước ngoài.
74
Thứ ba:Cùng với vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, ngành dệt may Việt
Nam còn tiếp nhận một số kỹ thuật và công nghệ hiện đại. Với mục tiêu đổi
mới thiết bị, công nghệ, phưong thức quản lý để rút ngắn khoảng cách với
các nước trong khu vực, ngành dệt may đã ưu tiên cho những dự án đầu tư
với máy móc, dây chuyền thiết bị hiện đại. Gần đây nhất là dự án của tập
đoàn Esquel-một trong những tập đoàn hàng đầu trong lĩnh vực dệt may của
Hồng Kông đã được phép đầu tư vào khu công nghiệp Việt Nam –Singapore
để sản xuất sản phẩm may mặc giá trị cao xuất khẩu sang châu Au và châu
Mỹ. Đây là một dự án đầu tư với công nghệ mới, tạo được môi trường làm
viễc tốt, ổn định lâu dài cho công nhân và đẩm bảo không gây ảnh hưởng
xấu đến môi trường. Tuy nhiên cũng có một số thiết bị đưa vào Việt Nam
thuộc loại trung bình của thế giới, mặc dù tiên tiến hơn những thiết bị Việt
Nam hiện có. Hiện tại Việt Nam có khoảng 200.000 máy may các loại và
hàng năm Việt Nam vẫn tiếp tục nhập khẩu thêm máy móc thiết bị chuyên
ngành thông qua các dự án đầu tư nước ngoài.
Thứ tư: Hàng năm các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã tạo ra
một khối lượng lớn sản phẩm hàng hoá trị giá hàng nghìn tỷ đồng, đóng góp
một phấn quan trọng trong việc tạo ra tốc độ tăng trưởng cao cả ngành dệt
may. Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may ngày một tăng lên từ năm 1992
đến 2001 góp phần tăng kim ngạch xuất khẩu toàn quốc.
Bảng : Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may (1992-2001)
Đơn vị : Triệu USD
Năm Giá trị xuất khẩu
hàng dệt may
Tổng kim ngạch xuất khẩu
nền KTQD
Tỷtrọng
(%)
1992 211 2581 8,1
1993 350 1985 11,7
1994 550 4054 13,56
1995 750 5200 14,42
1996 1100 7255 15,16
75
1997 1350 8759 15,4
1998 1351 9324 14,48
1999 1765 11.523 15,31
2000 2000 1892 13,1
2001
Nguồn : Vụ QLDA-Bộ KH&ĐT
Hàng dệt may Việt Nam thuộc khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đã
góp phần không nhỏ trong đẩy mạnh xuất khẩu , đưa đất nước tiến nhanh
trong công cuộc CNH-HĐH đất nước.
Theo số liệu thống kê của Tổng cục Thống kê, năm 1999 giá trị sản
xuất công nghiệp có khu vực có vốn đầu tư nước ngoài trong ngành dệt may
là 4113,3 tỷ đồng tăng hơn 2,5 lần so với năm 1995 và chiếm 28,7% trong
tổng giá trị sản xuất công nghiệp của toàn ngành dệt may.Doanh thu của khu
vực này ước tính chiếm khoảng13,7%tổng doanh thu và đóng góp 8,6% tổng
số tiền nộp ngân sách của cả ngành dệt may .
Thứ năm: Trong quá trình hợp tác liên doanh sản xuất, các bên Việt
Nam cũng đã tiếp nhận được một số các phương pháp quản lý tiến bộ, kinh
nghiệm về phương pháp tổ chức sản xuất kinh doanh. Qua đó, tiếp cận được
với cung cách làm ăn của nhiều loại khách hàng, đồng thời cũng thông qua
đó từng bước đưa ngành dệt may Việt Nam hội nhập với thế giới, góp phần
tạo nên hình ảnh mới và vị trí mới của ngành dệt may Việt Nam trên trường
quốc tế.
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cựcvà những ưu điểm so với các
doanh nghiệp dệt may trong nước thì các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài cũng đã xuất hiện một số các hạn chế, vưỡng mắc cần được xử lý.
Các dự án bị thua lỗ giải thể nhiều làm ảnh hưởng đến môi trường đầu
tư, lợi nhuận thu lại thấp, hiệu quả đầu tư chưa cao. Nguyên nhân, có nhiều
nhưng yếu tố đáng cảnh báo đó là chi phí vật chất và khấu hao TSCĐ quá
lớn do máy móc, thiết bị nước ngoài đưa vào liên doanh định giá quá cao so
với thực tế. Nhiều máy móc, thiết bị cũ đã trở thành vốn góp của bên nước
76
ngoài trong liên doanh. Tiếp đó, phải kể đến khả năng huy động vốn của các
bên Việt Nam trong liên doanh bị hạn chế, do đó có những dự án không triển
khai được do thiếu vốn.
Cơ cấu đầu tư theo khu vực chưa hợp lý, hầu hết các dự án đều tập
trungvào các tỉnh phía Nam và các nơi có cơ sở hạ tầng tốt.Điều này đã tạo
ra sự chênh lệch về thu nhập của công nhân dệt may giữa các khu vực và
chưa khai thác một cách hiệu quả tiềm năng về lao động, được xem như là
một lợi thế của ngành dệt may.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài với nhiều lợi thế đã và đang tạo ra sự
cạnh tranh gay gắt với các doanh nghiệp nội địa về lao động kỹ thuật,về thị
trường trong nước và xuất khẩu buộc các doanh nghiệp trong nước phải thu
hẹp về quy mô sản xuất.
Mối quan hệ giữa ngành dệt và ngành may còn quá lỏng lẻo. Ngành
dệt chưa đáp ứng được đầy đủ vải cho ngành may cả về số lượng, chất
lượng,chủng loại, mẫu mã, nên ngành may vẫn phải gia công là chính. Đặc
biệt,việc áp dụng cơ chế quản lý và thanh toán giữa các doanh nghiệp cung
cấp vải và phụ liệu cho các cơ quan xí nghiệp may xuất khẩu .
Việc sử dụng và quản lý lao động còn chưa hợp lý, nguyên nhân là do
hiểu sai các quy định của nhà nước về lương tối thiểu của người lao động
nên nhiều cơ sở có vốn đầu tư nước ngoài đã lợi dụng điều này để giảm tiền
lương của công nhân. Ngoài ra, các chế độ khác như thời gian lao động, bảo
hộ lao động, bảo vệ môi trường hoặc chưa quy định đầy đủ, hoặc không
được chấp hành nghiêm chỉnh cũng là nguyên nhân gây ra tranh chấp giữa
chủ đầu tư và người lao động, không những thế họ còn có những biểu hiện
đối xử không tốt đối với người lao động Việt Nam
Thị trường xuất khẩu còn hạn chế do chất lượng mẫu mã chủng loại
chưa cao, đối với thị trường xuất khẩu Nga và Đông Âu chúng ta vẫn chưa
khôi phục được vị thế của mình. Còn đối với thị trường EU thì hạn ngạch
quá ít không đủ năng lực sản xuất của doanh nghiệp.
Chưa có tầm nhìn chiến lược trong hợp tác về đầu tư xây dựng các
vùng nguyên liệu lâu dài như trồng bông, các loại cây lấy xơ cho công
77
nghiệp sợi hoặc xây dựng nhà máy chế biến dầu thô để tiến tới có thể góp
phần chủ động nguốn sợi tổng hợp tại chỗ.Các nhà đầu tư còn chần chừ
không dám bỏ vốn đầu tư khi chưa nhìn thấy hiệu quả ngay.
Năng lực quản lý của các dự án đầu tư nước ngoài nói chung và các
dự án đầu tư nước ngoài của ngành dệt may nói riêng là chưa cao, chưa đồng
bộ, thống nhất từ cấp trên cho đến cấp dưới. Các thủ tục đầu tư, xin cấp giấy
phép cho các dự án còn phức tạp, qua nhiều cửa. Bên cạnh đó, các chính
sách , biện pháp thu hút đầu tư nước ngoài của Nhà nước ta chưa thực sự hấp
dẫn đối với một số nhà đầu tư nước ngoài bởi họ còn chưa có được những
thông tin đầy đủ về tình hình kinh tế , chính trị, xã hội của Việt Nam.
Qua việc phân tích tác động của vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với
ngành dệt may Việt Nam trong thời gian qua, chúng ta có thể nhận thấy mặc
dù đầu tư nước ngoài có những đóng góp tích cựccho ngành dệt may nhưng
vẫn còn nhiều mặt hạn chế. Vì vậy, ngành dệt may Việt Nam cần phải tập
trung hơn nữa để khắc phục và giải quyết những khó khăn này đồng thời
phải tiếp tục tạo điều kiện thuận lợi để có thể thu hút được nhiều vốn đầu tư
hơn nữa nhằm phục vụ cho công cuộc công nghiệp hoá đất nước và hướng
về xuất khẩu của Việt Nam .
Chương III
Giải pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn FDI của ngành
dệt may giai đoạn 2000-2010 ở Việt Nam .
I.Quan điểm và mục tiêu phát triển ngành công nghiệp dệt may
1.Quan điểm phát triển ngành dệt may
1.1.Công nghiệp dệt may phải được ưu tiên phát triển và phải được coi là
một trong những ngành trọng điểm trong quá trình CNH-HĐH đất nước.
78
Trong những năm qua, kim ngạch xuất khẩu ngành dệt may Việt Nam
đều tăng cao(năm 1997 đã vươn lên đứng thứ 2 sau ngành dầu khí) là một
trong trong 10 mặt hàng xuất khẩu chủ lực của đất nước.
Ngành công nghiệp dệt may là ngành thu hút nhiều lao động, vốn đầu
tư không lớn lắm so với nhiều ngành khác, đang trong xu hướng tiếp nhận
sự chuyển dịch từ các nước Đông Á, Đông Nam Á. Ngành dệt may đã sớm
phát triển ở nước ta, tay nghề khá, nguồn lao động dồi dào, có thể coi là
ngành có khả năng phát triển.
Dự báo tốc độ tăng trưởng của ngành dệt may trong giai đoạn 1996-
2000 khoảng 10% và trong giai đoạn 2000- 2010 trên 10%. Đó là tỷ lệ tăng
trưởng cao so với nhiều ngành công nghiệp khác do đó cần được ưu tiên
phát triển.
1.2.Phát triển công nghiệp dệt may theo hướng hiện đại và đa dạng về sản
phẩm
Công nghệ hiện đại ngày nay trở thành yếu tố quyết định cho sự phồn
thịnh của một quốc gia, tạo khả năng cạnh tranh cho các hàng hoá của mình.
Chúng ta chỉ có thể thu hẹp khoảng cách so với các nước phát triển và thâm
gia vào phân công lao động quốc tế thông qua tăng cường công nghệ quốc
gia, tiếp cận và làm chủ công nghệ tiên tiến, công nghệ cao..
Trong thời gian tới, cùng với sự phát triển kinh tế của đất nước, nhu cầu
hàng tiêu dùng trong đó có hàng dệt may sẽ tăng lên, không những tăng về
số lượng mà ngày càng đòi hỏi nâng cao chất lượng, đa dạng mẫu mã, mặt
hàng.. .chất lượng cao. Tiếp nhận sự chuyển dịch ngành dệt may từ các nước
kinh tế phát triển, ngành dệt may Việt Nam phải nhanh chóng phát triển,
trang bị theo hướng hiện đại để tiếp tục thay thế họ thâm nhập vào thị trường
quốc tế.
Công nghiệp dệt may Việt Nam phải phát triển theo hướng hiện đại và
đa dạng hoá sản phẩm mới đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao và đa dạng
của thị trường trong và ngoài nước.
1.3.Phát triển công nghiệp dệt may theo hướng kết hợp hướng về xuất khẩu
với thay thế nhập khẩu.
79
Hướng mạnh về xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu có hiệu quả là
kinh nghiệm của nhiều nước công nghiệp mới(NIC) và ở nước ta. Đó là một
chiến lược cơ bản trong quá trình CNH-HĐH trên thế giới ngày nay. Ở nước
ta, có lợi thế lao động và tài nguyên để đẩy nhanh nhịp độ phát triển ngành,
sản xuất được nhiều mặt hàng mới đẩy mạnh xuất khẩu đồng thời sản xuất
được những mặt hàng thay thế hàng nhập khẩu.
Những năm qua, ngành dệt may đã phát triển hàng xuất khẩu tốt, lấy kết
quả xuất khẩu tạo ngoại tệ nhập khẩu máy móc thiết bị đổi mới thiết bị công
nghệ mới cho ngành, mặt khác đã sản xuất được nhiều mặt hàng lâu nay vẫn
phải nhập khẩu như chỉ khâu chất lượng cao, bông tấm cốt áo rét, mex, vải
cacbon.. .
1.4.Phát triển công nghiệp dệt may theo hướng đa dạng sở hữu và tập trung
vào các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ.
Xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường
có sự quản lý của nhà nước, theo định hướng XHCN là chiến lược phát triển
kinh tế của Đảng ta. Thực tế cho thấy, có nhiều thành phần kinh tế tham gia
sẽ tạo được môi trường cạnh tranh mà cạnh tranh chính là động lực thúc đẩy
sự phát triển. Qua nhiều lần tiến hành đổi mới tổ chức quản lý của ngành dệt
may các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ là những mô hình có hoạt động
tốt. Những năm gần đây nhiều doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH tham
gia đầu tư vào ngành dệt may, đặc biệt trong lĩnh vực may mặc tỏ ra có hiệu
quả, nhanh chóng phát triển ngành dệt may.
1.5.Phát triển công nghiệp dệt may phải gắn liền với sự phát triển của
ngành nông nghiệp và các ngành kinh tế khác.
Trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội từ nay đến 2010, Đảng ta đã
chỉ rõ: cần phải đẩy mạnh quá trình CNH-HĐH nền kinh tế mà trước hết là
CNH nông thôn.
Ngành dệt nước ta có điều kiện góp phần phát triển kinh tế nông nghiệp
thông qua phát triển vùng trồng bông, trồng dâu nuôi tằm, tạo nguyên liệu
cho ngành dệt, giảm bớt nhập khẩu bông như hiện nay. Ngoài ra cần phối
80
hợp với ngành hoá dầu chuẩn bị cho công nghiệp sản xuất xơ sợi hoá học
sau này.
2. Mục tiêu phát triển ngành dệt may.
2.1.Mục tiêu tổng quát.
Ngành dệt may Việt Nam trước tiên phải phục vụ nhu cầu của hơn 100
triệu dân trong nước tới năm 2010 với mức tiêu thụ trên một đầu người là
3,6 kg/người và nhu cầu an ninh quốc phòng.
Toàn ngành có mức tăng trưởng bình quân là 13%/năm sau năm 2005
sẽ có mức tăng trưởng trên 14%/năm, đóng góp vào sự tăng trưởng chung
của đất nước.
Về trình độ công nghệ đến năm 2010 toàn ngành sẽ đạt mức tiên tiến
trong khu vực, tương đương với Thái lLan hiện nay.
Về xã hội: tạo ra công ăn việc làm cho gần 2triệu lao động dệt may vào
năm 2010 và thu nhập cho người lao động đạt bình quân trên 100
USD/người/tháng.
Kiện toàn tổ chức quản lý toàn ngành để Tổng công ty dệt may Việt
Nam thực sự là Tổng công ty mạnh, đóng vai trò chủ đạo cho việc tổ chức
sản xuất và xuất khẩu hàng dệt may trong cả nước. Bên cạnh đó tích cực
khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào những ngành , những
lĩnh vực mà các ngành sản xuất trong nước không đáp ứng được hoặc không
có khả năng cạnh tranh.
Bảng: Mục tiêu chiến lược tăng tốc phát triển dệt may
Việt Nam đến 2010
Chỉ tiêu
Đơn vị Thực hiện
2000
Mục tiêu
2005
Tăng trưởng
BQ
Mục tiêu
2010
Tăng trưởng
2010
81
(2001-2005)
Giá trị xuất
khẩu
Triệu
USD
1950 4000 13,2 7000 11
Sử dụng
lao động
1000
người
1600 3000 12 4000 5,7
Sản phẩm
chính
+Bông sơ 1000
tấn
6,7 30 25,4 95 20,8
+Tơ sợi
tổng hợp
1000
tấn
45 100 18,1 130 5,8
+Sợi xơ
ngắn
1000
tấn
85 150 13 300 12
+Vải lụa Triệum 304 800 18 1200 6,5
Sp dệt kim Triệusp 90 150 8,5 230 6,5
Sản phẩm
may
Triệusp 400 780 10,5 1200 6,6
Nguồn : Bộ công nghiệp.
Trên cơ sở mục tiêu chung, các công ty chưa có được mặt hàng mũi
nhọn, do chưa có định hướng đầu tư chiều sâu theo yêu cầu của thị trường,
trong thời kỳ tới cần xác định cho được một vài mặt hàng mũi nhọn và tập
trung sức người sức của đầu tư chiều sâu để vươn lên tự khẳng định mình.
Những công ty đã có mặt hàng mũi nhọn thì cần đi vào chuyên sâu hơn, tìm
kiếm thêm khác hàng, hạ giá thành sản phẩm, mở rộng thêm thị trường,
đồng thời thăm dò công nghệ mới để đầu tư chiều sâu tạo dựng mặt hàng
mới. Phấn đấu đưa hàm lượng chất xám trong sản phẩm dệt may từ 35% -
50%.
2.2 Mục tiêu sản xuất.
Để đạt được mục tiêu tổng quát nêu trên, ngành dệt may đã đề ra mục
tiêu sản xuất trong giai đoạn 2000-2010 như biểu sau:
82
Bảng: Mục tiêu sản xuất hàng dệt may
Chỉ tiêu Đơn vị 2000 2005 2010
Sợi vải các loại 1000 tấn 100 170 200
Vải các loại Triệu m 800 1330 2000
Hàng may mặc Triệu tấn 580 780 1200
Nguồn : Bộ công nghiệp.
2.3.Mục tiêu giá trị xuất khẩu
Chỉ tiêu Thực hiện 2000 2005 2010
Kim ngạch xuất khẩu
(Triệu USD)
750 2000 3000 4000
+Hàng may mặc 500 1630 2200 3000
+Hàng dệt 250 370 800 1000
2.4.Mục tiêu sản xuất may mặc
Mặt hàng may 1996 2000 2005 2010
*Sản phẩm may mặc
(triệu sản phẩm)
199 350 480 720
+xuất khẩu 101 210 310 420
+Nội địa 98 140 170 300
Quy chuẩn sơ mi 580 780 1200
*Sản phẩm dệt kim
(triệu sản phẩm)
30 70 150 210
+xuất khẩu 45 110 150
+Nội địa 25 40 60
Nguồn : Bộ công nghiệp.
II. Định hướng phát triển ngành dệt may đến 2010.
Bước vào thời kỳ mới 2001- 2010, thế và lực của nước ta đã khác hẳn
so với 10 năm trước đây. Từ một nước trải qua hai cuộc chiến tranh tàn
khốc với nhiều tổn thất về người và của. Đất nước ta lại sống trong một thời
kỳ khó khăn đó là thời kỳ bao cấp với hàng loạt các chính sách cải tạo kinh
tế và đường lối mở cửa không đúng đắn. Đất nước đã thoát ra khỏi cuộc
83
khủng hoảng kinh tế xã hội, cơ sở hạ tầng và năng lực sản xuất được cải
thiện đáng kể, thị trường được mở rộng, tạo điều kiện thuận lợi cho phát
triển kinh tế và đẩy mạnh xuất khẩu.Về phần đối ngoại,Việt Nam đã có quan
hệ kinh tế thương mại với nhiều nước và nhiều tổ chức kinh tế tài chính
quốc tế. Việt Nam đang xin ra nhập tổ chức thương mại thế giới( WTO) sau
sự kiện Trung Quốc đã là thành viên chính thức của tổ chức này. Hiện tại
Việt Nam là thành viên chính thức của ASEAN, APEC, APTA... và nhiều tổ
chức khác. Vừa qua, Việt Nam đã kí hiệp định thương mại với Mỹ, đã mở ra
một thời kỳ mới trong quan hệ phát triển kinh tế giữa hai nước. Đây là một
trong những thị trường xuất khẩu lớn của thế giới. Do đó tạo điều kiện thuận
lợi cho hàng hoá của Việt Nam được tiếp cận, thâm nhập thị trường Mỹ
hướng tới một thời kỳ mới trong xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam trong đó
có hàng dệt may là một trong những hàng hoá xuất khẩu chủ yếu của Việt
Nam.Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi mới luôn là những khó khăn và
thách thức mới. Tuy có nhiều điều kiện cho việc phát triển kinh tế - xã hội
nhưng nước ta vẫn là một nước nghèo và kém phát triển. Dự báo trong 10
năm tới GDP sẽ tăng lên gấp đôi. Cơ cấu sản xuất sẽ tiếp tục chuyển dịch
theo hướng tiến bộ hơn song nhìn chung vẫn còn lạc hậu so với chiều hướng
phát triển của thế giới. Thực trạng đó ảnh hưởng tiêu cực tới quy mô cơ cấu
và hiệu quả của hoạt động xuất nhập khẩu. Ngoài ra, năng lực cạnh tranh của
quốc gia, doanh nghiệp và các sản phẩm còn thấp trong khi nước ta lại phải
nhập cuộc đua tranh ngày càng gay gắt trên thị trường khu vực và thế giới.
Trình độ của đội ngũ cán bộ làm công tác xuất nhập khẩu và công tác tham
mưu về chiến lược, chính sách còn bất cập. Tình hình kinh tế thế giới và khu
vực, đặc biệt là tình hình tài chính, tiền tệ, tỷ giá, giá sản phẩm.. . còn chứa
nhiều nhân tố gây bất ổn định, khó dự báo, có thể tác động xấu tới nền kinh
tế và kinh doanh xuất nhập khẩu của nước ta.
Trước tình hình đó, trong chiến lược xuất nhập khẩu thời kỳ 2001-
2005, Đảng và nhà nước ta đã chỉ rõ :” hoạt động xuất nhập khẩu trong 10
năm tới cần phục vụ trực tiếp cho mục tiêu chung sẽ được thông qua tại Đại
hội lần thứ IX của Đảng với nội dung cơ bản là : nỗ lực gia tăng tốc độ tăng
84
trưởng xuất khẩu, góp phần đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước, tạo công ăn việc
làm , thu ngoại tệ, chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu theo hướng nâng cao giá trị
gia tăng, gia tăng sản phẩm chế biến chế tạo, các loại sản phẩm hàm lượng
công nghệ và chất xám cao, thúc đẩy xuất khẩu dịch vụ.. .”.
Vừa qua, ngày 5/4/2001 ,Thủ tướng Chính phủ đã ra quyết định số
55/2001/QĐ-TTg về việc phê duyệt chiến lược phát triển vàmột số cơ chế,
chính sách hỗ trợ thực hiện chiến lược phát triển ngành dệt may Việt Nam
đến 2010.
a.Mục tiêu : Phát triển ngành dệt may trở thành một trong những ngành
công nghiệp trọng điểm về xuất khẩu, thoả mãn ngày càng cao nhu cầu tiêu
dùng trong nước tạo nhiều việc làm cho xã hội, nâng cao khả năng cạnh
tranh hội nhập vững chắc kinh tế khu vực và thế giới.
b.Chiến lược phát triển ngành công nghiệp dệt may Việt Nam đến 2010
+ Đối với ngành Dệt : Sản xuất nguyên liệu dệt, sợi dệt,in nhuộm hoàn
tất.
+ Kinh tế nhà nước làm nòng cốt, giữ vai trò chủ đạo, khuyến khích các
thành phần kinh tế kể cả đầu tư trực tiếp của nước ngoài tham gia phát triển
lĩnh vực này .
+Đầu tư phát triển phải gắn với bảo vệ môi trường, quy hoạch xây dựng
các cụm công nghiệp sợi dệt, in nhuộm hoàn tất ở xa các trung tâm đô thị
lớn.
+Tập trung đầu tư trang bị hiện đại, công nghệ cao, kỹ thuật tiên tiến,
trình độ chuyên môn hoá cao. Chú trọng công tác thiết kế các sản phẩm dệt
mới, nhằm từng bước củng cố vững chắc uy tín nhãn mác hàng dệt Việt
Nam trên thị trường quốc tế.
+ Tổ chức lại hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế, tạo
bước nhảy vọt về chất lượng, tăng nhanh sản lượng các sản phẩm dệt nhằm
đáp ứng nhu cầu xuất khẩu và tiêu dùng trong nước.
- Đối với ngành May
85
+Đẩy mạnh cổ phần hoá những doanh nghiệp may mà nhà nước
không cần nắm giữ 100% vốn , khuyến khích mọi thành phần kinh tế đầu tư
phát triển ngành may, nhất là ở các vùng đông dân cư , nhiều lao động
+ Đẩy mạnh công tác thiết kế mẫu thời trang, kiểu dáng sản phẩm
may. Tập trung đầu tư, cải thiện hệ thống quản lý sản xuất, quản lý chất
lượng, áp dụng các biện pháp tiết kiệm nhằm tăng nhanh năng suất lao động,
giảm giá thành sản xuất và nâng cao tính cạnh tranh của các sản phẩm may
Việt Nam trên thị trướng quốc tế.
- Đẩy mạnh đầu tư phát triển các vùng trồng bông, dâu tằm, các loại cây
có xơ, tơ nhân tạo các loại nguyên liệu, phụ liệu, hoá chất, thuốc nhuộm cao
cấp cho ngành dệt may nhằm tiến tới tự túc phần lớn nguyên liệu và phụ liệu
thay thế nhập khẩu.
- Khuyến khích mọi thành phần kinh tế đầu tư cả đầu tư nước ngoài để
phát triển cơ khí dệt may tiến tới cung cấp phụ tùng, lắp đặt và chế tạo thiết
bị dệt may trong nước.
c. Các chỉ tiêu chủ yếu:
*Sản xuất :
+ Đến năm 2005, sản phẩm chủ yếu đạt : bông xơ 30.000 tấn, xơ sợi
tổng hợp 60.000 tấn, sợi các loại 150.000 tấn, vải lụa thành phẩm đạt
800 triệu m.m, dệt kim 300 triệu sản phẩm, may mặc 780 triệu sản
phẩm.
+ Đến 2010, sản phẩm chủ yếu đạt: bông xơ 80.000 tấn, xơ sợi tổng
hợp là 120.000 tấn, sợi các loại 300.000 tấn , vải lụa thành phẩm đạt
1400 triệu mm, dệt kim 500 triệu sản phẩm , may mặc là 1.500 triệu
sản phẩm.
*Kim ngạch xuất khẩu
+Đến 2005 : 4000 đến 5000 triệu USD.
+Đến 2010 : 8000 đến 9000 triệu USD
*Sử dụng lao động
+Đến 2005 : thu hút 2,5- 3 triệu lao động
+ Đến 2010: thu hút 4-4,5 triệu lao động
86
Tỷ lệ giá trị sử dụng nguyên phụ liệu nội địa trên sản phẩm dệt may xuất
khẩu.
+ Đến 2005: trên 50%
+Đến 2010 : trên 75%
* Vốn đầu tư phát triển:
+Tổng vốn đầu tư phát triển ngành dệt may Việt Nam giai đoạn 2001-
2005 khoảng 3500 tỷ đồng trong đó Tổng công ty dệt may Việt Nam khoảng
12.500 tỷ đồng
+ Tổng vốn đầu tư phát triển ngành dệt may Việt Nam giai đoạn
2006- 2010 khoảng 30.000 tỷ đồng trong đó Tổng công ty dệt may Việt Nam
khoảng 9500 tỷ đồng.
+Tổng vốn đầu tư phát triển vùng nguyên liệu trồng bông đến 2010
khoảng 1.500 tỷ đồng . Trên cơ sở những phâm tích về đầu tư và chỉ tiêu của
Chính phủ về phát triển dệt may thì một công trình dệt may đưa vào đầu tư
mới cần quan tâm tới một số các yếu tố .
+Sản phẩm đầu ra của công trình là cần thiết và đóng góp cho sự phát
triển tăng trưởng của ngành dệt may và đất nước.
+Công nghệ đưa vào đầu tư của công trình mới phải từ tiên tiến trở
nên, nghĩa là công nghệ đó sau 5 năm chưa bị lạc hậu.
+ Công nghệ có thể hoàn vốn sau 5 năm (cho may), 7-10 năm (cho
dệt), đưa vào hoạt động.
+ Huy động được vốn đầu tư cho công trình
Vốn trong nước: dự tính phía Việt Nam bỏ ra 41% gồm:vốn do nhà nước
và các doanh nghiệp đầu tư, vốn do tư nhân hoặc cổ đông đóng góp. Riêng
các công trình về May thì phía Việt Nam bỏ ra 85% vốn vì nguồn vốn đầu tư
ít, khả năng thu hồi vốn nhanh, công trình lại phân bổ rải khắp trên các địa
phương, các công trình sản xuất may xuất khẩu chú ý gần bến cảng.
Vốn đầu tư nước ngoài : Dự tính 59% nguồn vốn dành cho những công
trình lớn cần vốn đầu tư nhiều và thời gian thu hồi vốn lâu.
Bảng : Vốn đầu tư các công trình mới ngành Dệt 1996-2010
87
Bảng : Vốn đầu tư cho các công trình mới ngành May 1996-2010
88
III. Giải pháp nhằm thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào ngành công
nghiệp dệt may ở Việt Nam
1.Những tồn tại trong quá trình thực hiện dự án
Ngoài những kết quả đã đạt được và những hạn chế của đầu tư trực tiếp
nước ngoài trong ngành dệt may đã nêu trên. Trong quá trình thực hiện các
dự án, các nhà đầu tư đã vấp phải những vướng mắc sau đây:
Hầu hết các nhà đầu tư nước ngoài vẫn còn kêu ca nhiều về những phiền
hà trong thủ tục hải quan hiện nay, đó là các vấn đề sau: thủ tục không rõ
ràng , tuỳ tiện áp mã số để tính thuế, khi có ý kiến khác nhau giữa tổng cục
hải quan và hải quan cửa khẩu thì chủ đầu tư thường phải mất nhiều thời
gian chờ đợi để xử lý dứt điểm. VD : Công ty Việt Nam Chung Shing Long
An phản ánh hải quan áp mã khác nhau đối với nguyên liệu xơ Poly ester
nhập khẩu phục vụ sản xuất của công ty dẫn đến tình trạng cùng một loại
nguyên liệu nhưng có đợt phải nộp thuế nhập khẩu có đợt không phải nộp
thuế nhập khẩu.
Về thuế: Nhiều doanh nghiệp xuất khẩu trên 80% sản phẩm nhưng
không được xếp vào các dự án diện khuyến khích đầu tư, được ưu đãi thuế
lợi tức.
Về đất đai: Thủ tục cấp đất còn nhiều phức tạp kéo dài, trong thực tế việc
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho doanh nghiệp rất chậm, thông
thường phải mất từ 3-6 tháng , có dự án tới 2 năm, giá tiền thuê đất cao, dự
án không triển khai được.
Để có thể nâng cao hiệu quả hoạt động trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài
vào ngành công nghiệp Dệt may và thu hút đầu tư nước ngoài phù hợp với
chiến lược phát triển kinh tế lâu dài của đất nước hướng mạnh vào xuất khẩu
và hội nhập vào khu vực và thế giới.
2. Một số giải pháp cụ thể :
89
Xuất phát từ nhu cầu vốn và phương hướng đầu tư cho phát triển ngành
dệt may trong giai đoạn 2001- 2010 để thu hút vốn đầu tư nước ngoài một
cách có hiệu quả, Nhà nước và ngành dệt may cần phải tiếp tục khuyến
khích đầu tư trực tiếp nước ngoài hơn nữa bằng cách đa dạng hoá các loại
hình đầu tư, đổi mới và đẩy mạnh xúc tiến đầu tư , tiếp tục cải thiện môi
trường pháp lý về đầu tư nước ngoài, đơn giản hoá các thủ tục hành chính.
Nếu không có được môi trường đầu tư thì sẽ khó có thể cạnh tranh trong
việc thu hút đầu tư với các nước xung quanh. Tuy nhiên, trong quá trình
khuyến khích đầu tư cũng cần phải tập trung vào một số vấn đề sau.
2.1.Giải pháp về thị trường
Thị trường tiêu thụ sản phẩm hàng hoá là nguồn đầu ra của quá trình
sản xuất kinh doanh, thị trường là vấn đề hết sức quan trọng mang tính sống
còn của các doanh nghiệp. Để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh hàng
may mặc trước tiên phải nghiên cứu thị trường một cách chu đáo.
Mục tiêu đầu tiên khi quyết định đầu tư vào đâu, thị trường bao giờ
cũng là yếu tố nghiên cứu hàng đầu. Thực tế ở Việt Nam các nhà đầu tư
nước ngoài vào ngành dệt may đã vấp phải vấn đề khó khăn đó là thị trường,
thị trường trong nước sức mua thấp lại chịu sự cạnh tranh của hàng nhập lậu
giá rẻ, phù hợp với thị hiếu tiêu dùng của người Việt Nam.Thị trường nước
ngoài thì hạn ngạch vào EU quá ít, không đủ cho năng lực của doanh nghiệp
. Do đó, cần phải có giải pháp để mở rộng thị trường và các thị trường khác
như : Mỹ,Bắc Mỹ, Nhật Bản.. Mặt khác, khôi phục thị trường truyền thống
như Liên Xô và Đông Âu để giải quyết “đầu ra” cho hàng dệt may Việt Nam
nói chung và hàng dệt may của khu vực đầu tư nước ngoài nói riêng, bên
cạnh đó các đối tác phải kết hợp để tự tìm ra thị trường cho mình.
Hoạt động nghiên cứu thị trường đòi hỏi phải nắm bắt được những
thông tin thiết yếu về nhu cầu, khả năng tiêu thụ cũng như điều kiện thâm
nhập thị trường của hàng dệt may. Trên quan điểm đa phương hoá các mối
quan hệ quốc tế của ngành nói chung và các doanh nghiệp dệt may nói riêng
tích cực tìmkiếm thị trường tiêu thụ quốc tế, tìm hiểu sở thích tập quán, thị
90
hiếu người tiêu dùng, khả năng tiêu thụ trên thị trường để có những giải
pháp kịp thời và thích hợp sao cho phù hợp với yêu cầu của từng thị trường.
Đối với thị trường EU là thị trường có hạn nghạch, ngành dệt may cần
phối hợp với Chính phủ và các bộ liên quan tiếp tục đàm phán và tranh thủ
sự ủng hộ của các quốc gia thành viên EU để yêu cầu EU bãi bỏ việc quản lý
bằng hạn ngạch và đối xử bình đẳng như EU dành cho các nước ASEAN
khác. Đồng thời Chính phủ cũng cần hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc
nghiên cứu tìm hiểu thị trường này.
Đối với thị trường Mỹ, chúng ta chỉ có thể phát triển mạnh việc thâm
nhập khi Mỹ dành cho ta quy chế tối huệ quốc. Trong khi chưa có tối huệ
quốc, các doanh nghiệp dệt may cần tranh thủ nghiên cứu tìm hiểu thị trường
này và tìm mọi cách tăng kim ngạch xuất khẩu vào thị trường này, đặc biệt
là tập trung vào một số sản phẩm có chênh lệch thuế quan không lớn.
Với thị trường Nga và Đông Âu, từng là thị trường truyền thống của ta
trước kia mà trong mấy năm qua đã để mất, chúng ta cần khắc phục khó
khăn khi quan hệ với thị trường này, cần tranh thủ yêu cầu Nhà nước hỗ trợ
các doanh nghiệp thu thập các thông tin tìm hiểu thị trường. Các doanh
nghiệp phải tạo ra những mẫu mã phong phú, hạ chi phí sản xuất để giảm
giá thành mới có thể cạnh tranh được với thị trường này. Sản phẩm dệt may
của ta có chất lượng tốt từng chiếm vị trí vững chắc trên thị trường này, nên
nếu ta cải tiến mẫu mã và hạ giá bán chắc chắn chúng ta sẽ chiếm lĩnh được
thị trường.
Bên cạnh đó, ngành dệt may cần nhanh chóng chiếm lĩnh thị trường
trong nước để khai thác tiềm năng đông dân của ta. Vì hiện tại sức mua của
thị trường trong nước còn khá thấp, chưa là động lực tích cực để thúc đẩy
hoạt động của doanh nghiệp. Do đó, đây sẽ là thị trường tiềm năng lớn
trong tương lai có sức hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài.
Kinh nghiệm thực tế của nhiều nước trong khu vực đã chỉ ra rằng tăng
cường khả năng xuất khẩu là mục tiêu số một của các dự án có vốn đầu tư
nước ngoài phù hợp với chiến lược hướng mạnh ra bên ngoài. Nhiệm vụ đặt
ra đối với doanh nghiệp dệt may có vốn đầu tư nước ngoài là phải xuất khẩu
91
được ngày càng nhiều hơn. Như thế các doanh nghiệp mới có cơ hội để thoát
khỏi cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ mà hậu quả của nó vẫn còn khá nặng
nề.
2.2.Cần huy động vốn bằng mọi hình thức để tăng cường khả năng vốn của
Việt Nam trong liên doanh.
Huy động vốn là một trong những vấn đề quan trọng hàng đầu để thực
hiện đầu tư đổi mới công nghệ và mở rộng ngành dệt may.
Cần tìm cách khai thác mọi nguồn vốn phục vụ cho đầu tư phát triển của
ngành như huy động vốn trong dân và các tổ chức kinh tế khác thông qua
phát hành trái phiếu, tín phiếu, vốn tự có của doanh nghiệp bằng các khoản
khấu hao và lợi nhuận để lại để khi cần thiết doanh nghiệp muốn đầu tư đổi
mới thiết bị hay mở rộng nâng cấp thiết bị thì bên Việt Nam cũng sẵn sàng
đáp ứng, tránh tình trạng phải giải thể liên doanh làm ảnh hưởng đến môi
trường đầu tư. Hoặc Việt Nam phải bán lại cổ phần cho người nước ngoài
thành doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài .
2.3. Ngành dệt may phải xây dựng được danh mục những lĩnh vực, sản
phẩm cần thu hút đầu tư đó là những lĩnh vực mà các doanh nghiệp trong
nước không thể tham gia đầu tư được, những sản phẩm được xác định là mặt
hàng mũi nhọn có thế mạnh để thu hút đầu tư công nghệ mới, tạo mối gắn
kết với thị trường nhằm sản xuất ra được những sản phẩm có tính cạnh tranh
về giá cả, chất lượng cũng như đáp ứng được thị hiếu của người tiêu dùng.
Đồng thời cần phải tạo ra khả năng liên kết, hợp tác, khai thác tốt hơn năng
lực thiết bị và lao động, từ đó sẽ đưa ra những biện pháp hữu hiệu để thu hút
vốn.
2.4 Tăng cường công tác thẩm tra thẩm định giá trị công nghệ của phía
nước ngoài khi góp vào liên doanh.
Với chủ trương xây dựng ngành công nghiệp dệt may thành ngành mũi
nhọn có thiết bị công nghệ tiên tiến hiện đại. Thu hút đầu tư nước ngoài,
chúng ta sẽ tranh thủ được thiết bị công nghệ. Thực tế thiết bị công nghệ
ngành dệt may thuộc khu vực đầu tư nước ngoài khi chuyển gia vào Việt
Nam mặc dù hiện đại hơn trong nước, sản phẩm làm ra có chất lưọng cao, có
92
khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới. Nhưng phần lớn các thiết bị
công nghệ đó đều đã qua sử dụng( trên 50%), thậm chí bên nước ngoài còn
khai tăng giá trị để tăng giá trị vốn góp vào liên doanh.Với thiết bị công
nghệ như hiện nay rõ ràng thu hút đầu tư nước ngoài vào ngành công nghiệp
dệt may chúng ta gặp phải những vấn đề mâu thuẫn. Vì vậy, ngành công
nghiệp dệt may của chúng ta trong bước đi đầu là đi sau các nước khác phải
chấp nhận công nghệ còn 80% giá trị sử dụng trở lên. Để đánh giá một cách
chính xác chúng ta cần phải tăng cường công tác thẩm tra, thẩm định dự án
đầu tư một cách kĩ lưỡng và xác định đúng giá trị công nghệ để đưa vào Việt
Nam những máy móc thiết bị cũ, lạc hậu giá trị sử dụng thấp. Có như vậy,
chúng ta mới dần dần đổi mới được thiết bị công nghệ và hoạt động của các
dự án đầu tư nước ngoài trong ngành công nghiệp dệt may mới đạt hiệu quả
cao hơn.
2.5 Khai thác tốt nguồn nguyên liệu trong nước.
Các nhà đầu tư nước ngoài còn chần chừ không dám bỏ vốn ra đầu tư xây
dựng các nguồn nguyên liệu lâu dài như trồng bông, các loại cây lấy xơ cho
công nghiệp sợi hoặc nhà máy chế biến dầu thô để tiến tới có thể góp phần
giải quyết nguồn nguyên liệu tại chỗ, năng cao hiệu quả đầu tư cho ngành
công nghiệp dệt may nói chung và các dự án thuộc khu vực đầu tư nước
ngoài nói riêng.
Việt Nam là nước được đánh giá có thể trồng được bông. Do vậy, phải
có chiến lược đồng bộ về cơ chế tổ chức giữa vùng nguyên liệu và chế biến
để các nhà đầu tư thấy hết được cái lợi đầu tư vào lĩnh vực này.
Đối với xơ và tơ PE: Hiện có hai dự án 100% vốn đầu tư nước ngoài
sản xuất xơ và tơ PE với công suất 5-6 vạn tấn /năm mỗi nhà máy, đủ đáp
ứng nhu cầu trong nước tới năm 2000. Để đáp ứng nhu cầu sau năm 2000,
theo yêu cầu của mục tiêu sản xuất mà ngành dệt may đề ra khoảng 2 vạn
tấn xơ và tơ PE vào năm 2010. Cần đầu tư xây dựng một đến hai nhà máy
nữa với công suất 5-10 van tấn /năm.
2.6 Nguyên phụ liệu và dệt là khâu yếu nhất trong ngành dệt may. So với
may, ngành dệt đòi hỏi vốn đầu tư lớn hơn rủi ro nhiều hơn mà hiệu quả
93
trực tiếp không cao. Vì vậy , cần có chính sách khuyến khích đầu tư nước
ngoài vào lĩnh vực này nhằm chủ động nguồn nguyên liệu thay thế nhập
khẩu và hoàn tất dây chuyền sản xuất sợi – dệt- nhuộm- may để tạo giá trị
gia tăng cao.
2.7 Đối với ngành may, do đặc thù vốn đầu tư thấp , công nghệ và lao động
không quá phức tạp. Trên thực tế , để có một chỗ lao động chỉ cần đầu tư
600USD cho thiết bị và 300USD cho nhà xưởng, điện nước mà thời gian thu
hồi vốn lại nhanh, lợi nhuận cao, đó là tính hơn hẳn so với ngành dệt. Do đó,
không nhất thiết phải khuyến khích đầu tư nước ngoài vào ngành này mà
nên khuyến khích các doanh nghiệp trong nước tham gia đầu tư đổi mới
công nghệ kỹ thuật để có thể vươn lên cạnh tranh với các doanh nghiệp
100% vốn nước ngoài, nếu không chính các nhà đầu tư nước ngoài sẽ là
người được hưởng lợi nhiều nhất chứ không phải các doanh nghiệp trong
nước. Vì vậy, riêng đầu tư mới vào các dự án may mặc chỉ cấp phép với điều
kiện công nghệ hiện đại, đầu tư theo hình thức liên doanh, có xu hướng
chuyển giao công nghệ sau một thời gian nhất định và phải xuất khẩu trên
80% sản phẩm.
2.8 Có chính sách khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực
dệt may tại một số địa bàn khó khăn nhằm thúc đẩy kinh tế địa phương.
Hiện nay, hầu hết các dự án dệt may thuộc lĩnh vực đầu tư nước ngoài
đều tập trung ở hầu hết các tỉnh thành phố, khu công nghiệp lớn.Trong khi
đó, khu vực nông thôn và miền núi, là nơi tập trung một lượng lớn lao động
thất nghiệp, lại là địa bàn khó khăn chậm phát triển so với thành thị. Nhưng
ở vùng núi và nông thôn lại có điều kiện về đất đai, có thể phát triển các khu
trồng bông, dâu tằm là nguồn nguyên liệu cần thiết cho ngành dệt may. Do
đó, thu hút đầu tư nước ngoài vào những địa bàn này tạo điều kiện cho
chúng ta thúc đẩy kinh tế phát triển, tạo việc làm cho người lao động. Vì
vậy, chúng ta phải có chính sách thuận lợi nhất, hỗ trợ các doanh nghiệp khi
đầu tư vào các địa bàn này, để các nhà đầu tư sẵn sàng bỏ vốn ra đầu tư.
2.9 Cần có biện pháp tổ chức và quản lý các doanh nghiệp dệt may sao cho
có sự phối hợp chặt chẽ giữa ngành dệt và ngành may. Đảm bảo thực hiện “
94
may là lối ra cho dệt”, giảm tỉ trọng nhập khẩu nguyên liệu , tăng cường khả
năng cạnh tranh cho các doanh nghiệp dệt may. Muốn vậy, ngành dệt phải tổ
chức cải tiến mẫu mã, chất lưọng hạ giá thành sản phẩm để sản phẩm của
mình có đủ sức cạnh tranh và có chỗ đứng vững chắc ở thị trường trong
nước, để khi hàng ngoại rẻ phong phú về chủng loại tràn vào thì sản phẩm
của ngành dệt vẫn trụ vững và là nguồn cung cấp nguyên liệu chủ yếu cho
ngành may xuất khẩu đáp ứng yêu cầu xuất khẩu tại chỗ góp phần nâng cao
hiệu quả sản xuất hàng dệt may và thu hút các dự án mới vào nngành công
nghiệp dệt may.
2.10 Cho phép các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được tiêu thụ tại
thị trường Việt Nam tối đa là 20% sản phẩm của mình nhằm giải quyết phần
sản phẩm không đủ tiêu chuẩn quốc tế và hỗ trợ chi phí trong nước. Đồng
thời tuỳ từng dự án trên từng địa bàn cụ thể, để tạo điều kiện khuyến khích
cho các doanh nghiệp từng bước củng cố nâng cao dần chất lượng sản phẩm
có thể cho phép tỉ lệ nội tiêu 40% trong thời gian đầu khoảng 2-3 năm, 30%
trong 3-4 năm tiếp theo và 20% cho các năm sau đó. Mặt khác, xuất khẩu tại
chỗ cũng là giải pháp bao chùm vấn đề này mà không phải thay đổi tỉ lệ xuất
khẩu quy định trong giấy phép đầu tư.
2.11 Tăng cường công tác đào tạo cán bộ quản lý, cán bộ khoa học, công
nhân có tay nghề cao để đáp ứng với trình độ quản lý của bên nước ngoài
trong liên doanh.
Quan hệ lao động trong ngành dệt may cũng là điều kiện cũng là điều
kiện để các doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước
ngoài hoạt động một cách có hiệu quả. Bởi vì một trong những nguyên nhân
của các dự án đầu tư nước ngoài bị giải thể không thực hiện được là do trình
độ tay nghề của người công nhân thấp. Vì vậy, nhu cầu bức thiết là cần phải
đào tạo cán bộ quản lý và nâng cao tay nghề của người công nhân.
Lao động phục vụ trong công nghiệp dệt may không đòi hỏi tinh xảo
khéo léo ở mức độ cao. Vì vậy, nó dễ dàng được đào tạo trong thời gian
ngắn để nắm bắt thao tác thành thạo các loại máy móc và thiết bị của ngành.
95
Đặc biệt sự dồi dào về nguồn lao động ở các nước phát triển là cơ hội và là
tiền đề của các nước này đi vào phát triển ngành công nghiệp dệt may.
Một nguyên nhân gây nên chuyển dịch của ngành dệt may là sự thiếu hụt
về lực lượng lao động. Do phải làm việc căng thẳng trong điều kiện không
mấy thuận lợi trong khi thu nhập lại thấp nên lao động của ngành công
nghiệp dệt may có xu hướng chuyển dịch trong ngành kinh tế kỹ thuật càng
nhiều. Chính vì vậy mà ở nhiều nước do không chịu được sức ép về tăng giá
nhân công nên đã chuyển dịch ngành công nghiệp này từ thành thị ra vùng
nông thôn hoặc ra nước ngoài để mông tìm được một chi phí lao động thấp
hơn. Trong điều kiện cạnh giá nhân công với các nước trong khu vực chúng
ta cần phẩi có một lực lượng lao động được đào tạo và có tay nghề, muốn
vậy ta phải thực hiện một số giải pháp sau :
+đầu tư cơ sở vật chất cho các trường đào tạo công nhân cùng với việc
thay đổi nội dung và chương trình đào tạo để theo kịp với các nước khác.
+ Bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ trong phối hợp đào
tạo giữa các viện, trường trong ngành dệt may với các cơ sở đào tạo quốc gia
để nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ kinh tế kỹ thuật, cử cán bộ khoa
học kỹ thuật giỏi có khả năng và kiến thức cần thiết đi thực tập, đào tạo ở
các nước có ngành công nghiệp dệt may phát triển nhằm thu thập nắm bắt bí
quyết về công nghệ mà trong nước đang cần hoặc tiếp nhận công nghệ từ
việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài .
+Xây dựng tiêu chuẩn tuyển dụng lao động, phải đào tạo cơ bản qua
trường dạy nghề
2.12 Thực hiện chương trình cổ phần hoá, sắp xếp lại các doanh nghiệp dệt
may và chuyển đổi hình thức đầu tư đối với các doanh nghiệp dệt may liên
doanh, nhằm tạo điều kiện cho việc thu hút thêm vốn đầu tư nước ngoài.
Hiện nay, nhiều doanh nghiệp dệt may đang gặp khó khăn, năng lực tài
chính của bên Việt Nam trong liên doanh rất hạn chế, nhiều dự án sản xuất
vải, sợi tạm ngừng triển khai nhất là các dự án mà chủ đầu tư thuộc các nước
bị khủng hoảng kinh tế...Vì vậy, Chính phủ và Bộ KH&ĐT cần cho phép
những doanh nghiệp lỗ vốn nhiều, mâu thuẫn khó giải quyết được chuyển
96
đổi sang hình thức 100% vốn nước ngoài với điều kiện đảm bảo việc làm
cho người lao động và bảo toàn vốn cho phía Việt Nam .Bên cạnh đó, việc
đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá giúp cho các doanh nghiệp tự túc được
nguồn vốn kinh doanhvà có thể sẽ tạo điều kiện thu hút được vốn đầu tư
nước ngoài một cách gián tiếp thông qua việc bán cổ phiếu.
2.13 Có chính sách các nhà đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực dệt may tại một
số địa bàn gặp khó khăn nhằm thúc đẩy kinh tế địa phương. Hầu hết, các dự
án đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành công nghiệp dệt may thuộc lĩnh
vực đầu tư nước ngoài đều tập trung ở các tỉnh, TP, khu công nghiệp lớn,
nơi có cơ sở hạ tầng tốt so với các nơi khác. Trong khi đó, khu vực nông
thôn, miền núi tập trungmột lượng lớn lao động thất nghiệp, lại là địa bàn
khó khăn chậm phát triển so với thị trường nhưng các dự án đầu tư lại ít.
Thu hút đầu tư nước ngoài vào những địa bàn này tạo điều kiện thúc đẩy
kinh tế địa phương phát triển , tạo việc làm cho người lao động, nâng cao
đời sống nhân dân.Việc đầu tư vào các địa bàn này, một mặt khai thác được
nguồn lao động rẻ, mặt khác lại sử dụng được nguyên liệu tại chỗ, dẫn đến
việc giảm được chi phí hạ giá thành sản phẩm, tăng sức cạnh tranh trên thị
trường.
97
Kết luận
Qua phân tích thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành dệt may
ở trên, chúng ta thấy đây là một ngành công nghiệp truyền thống lâu đời của
nhân dân ta và là ngành có nhiều triển vọng trong tương lai. Suất đầu tư của
ngành dệt may không lớn nhưng lại là ngành đòi hỏi nhiều lao động, và đây
cũng chính là lợi thế so sánh của Việt Nam để cùng hợp tác và phát triển
trong xu thế phát triển chung của nền kinh tế thế giới. Do đó, với kinh tế
Việt Nam trong thời gian trước mắt và trong tương lai , việc đẩy mạnh phát
triển ngành dệt may để làm cơ sở phát triển chung của đất nước là đúng
hướng và cần thiết.
98
Tuy nhiên, trong điều kiện khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển, chất
lượng cuộc sống ngày càng được nâng cao, thì sự đòi hỏi sản phẩm có chất
lượng đang là một thách thức lớn đặt ra cho công nghiệp Việt Nam nói
chung và công nghiệp dệt may nói riêng. Trong hoàn cảnh đó, việc thu hút
đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành dệt may chínhlà lời giải cho bài toán
trên. Đầu tư trực tiếp nước ngoài không những góp phần bổ sung nguồn vốn
cần thiết cho sự phát triển của ngành dệt may, mà còn góp to lớn trong việc
nâng cao trình độ khoa học công nghệ , cải tiến thiết bị kỹ thuật, nâng cao
trình độ quản lý, tay nghề cho người lao động. Nhờ đó mà chất lượng sản
phẩm không ngừng được nâng cao và ngày càng có uy tín trên thị trường
trong nước cũng như trên thị trường quốc tế.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luận văn- Giải pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn FDI trong các doanh nghiệp của ngành dệt may.pdf