Tuy nhiên, các giải pháp trên chỉ có thể trở thành hiện thực khi chúng
được thực hiện trên cơ sở nhận thức đúng vị trí của nguồn nhân lực trong thời
đại ngày nay, trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực. Có thể nói,
NNL là nhân tố quyết định cho sự nghiệp CNH, HĐH của tỉnh Hoà Bình.
Luận văn với góc độ nghiên cứu về đào tạo NNL gắn với việc làm cho
phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Hoà Bình, đã kế thừa các quan điểm và lý
luận của những người đi trước. Tuy nhiên đây là vấn đề cần phải tiếp tục
nghiên cứu, bổ sung và phát triển trong quá trình thực hiện công cuộc CNH,
HĐH đất nước. Mặc dù đã có nhiều cố gắng để hoàn thành cuốn luận văn,
song chắc chắn vẫn còn những thiếu sót. Vì vậy, học viên trân trọng mong
muốn nhận được sự góp ý bổ sung của các thầy cô trong hội đồng chấm luận
văn để luận văn tiếp tục hoàn thiện về sau
115 trang |
Chia sẻ: phamthachthat | Lượt xem: 1460 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giải pháp phát triển nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế - Xã hội ở tỉnh Hòa Bình, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trong nước và quốc tế, tạo cơ sở để phát triển các
ngành công nghiệp chế biến và các ngành dịch vụ.
Bên cạnh việc đảm bảo nguồn nhân lực đã qua đào tạo phù hợp với xu
hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành, cần chú trọng tới chất lượng NNL
cho phát triển theo vùng, theo dân tộc.
Thứ ba, Phát triển NNL theo hướng đảm bảo cả về sức khoẻ thể chất và
tinh thần thông qua các chương trình phát triển kinh tế - xã hội, chính sách
chăm sóc và bồi dưỡng sức khỏe, giáo dục đào tạo. Cần tạo lập NNL có tinh
thần, thái độ kỷ luật lao động theo tác phong lao động công nghiệp với tư
cách là phương tiện hữu hiệu để đẩy nhanh phát triển kinh tế của tỉnh trong
tương lai.
Thứ tư, Không ngừng nâng cao năng lực và phẩm chất của đội ngũ cán bộ
của tỉnh, đặc biệt là đội ngũ cán bộ thực hiện chức năng quản lý nhà nước về
kinh tế. Đồng thời, tạo thuận lợi nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý
trong các cơ sở sản xuất kinh doanh theo hướng bổ sung kiến thức về kinh tế
thị trường và hội nhập.
Thứ năm, Phát triển nguồn nhân lực của tỉnh theo hướng gắn với phát triển
thị trường sức lao động. Từng bước tiến tới việc làm đầy đủ và toàn dụng lao
động; đảm bảo việc làm cho người lao động có nhu cầu làm việc; người chưa
có việc làm mau chóng có được việc làm; người thiếu việc làm có thêm việc
làm; người có việc làm chất lượng thấp chuyển sang việc làm có chất lượng
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh
Phạm Thị Thanh Hiến 91 Khoa Kinh tế & Quản lý
cao hơn. Đi đôi với tạo việc làm mới có các chính sách và giải pháp duy trì
việc làm; cùng với tạo thêm việc làm, từng bước nâng chất lượng việc làm.
3.2. Các giải pháp nhằm phát triển nguồn nhân lực cho sự phát triển
kinh tế - xã hội ở tỉnh Hoà Bình.
3.2.1 Giải pháp về đánh giá lại chất lượng đào tạo nguồn nhân lực ở
tỉnh Hoà Bình.
Chất lượng NNL là yếu tố căn bản thúc đẩy kinh tế phát triển nhanh, bền
vững, vì vậy việc quan tâm tạo lập nguồn nhân lực có chất lượng phù hợp với
yêu cầu phát triển kinh tế và nâng cao chất lượng NNL luôn là nhiệm vụ cấp
thiết đối với toàn bộ xã hội nói chung và từng địa phương nói riêng. Tuy
nhiên để phát triển NNL đúng hướng, nhằm phát huy tối đa vai trò của NNL
đối với phát triển kinh tế tỉnh Hòa Bình cũng như các địa phương khác trong
cả nước phải xác định đúng trình độ phát triển NNL của mình.
Cho đến nay, chất lượng NNL được đánh giá thông qua rất nhiều các
tiêu chí như đã trình bày trong chương 1 của luận văn, bao gồm thể lực, trí lực
của lực lượng lao động của xã hội, chỉ số HDI, kinh nghiệm sống, năng lực
hiểu biết thực tiễn, phẩm chất đạo đức, thái độ và phong cách làm việc của
người lao động. Tuy nhiên, phần lớn các tiêu chí nêu trên chưa được định
lượng rõ ràng, hơn thế nữa thực tiễn công tác thống kê của từng địa phương
chưa phản ánh đầy đủ về nguồn nhân lực theo các tiêu chí kể trên. Thực trạng
đó đã gây khó khăn cho công tác đánh giá chất lượng nguồn nhân lực, cho
nên những đánh giá về chất lượng NNL ở Việt Nam nói chung và tại tỉnh Hòa
Bình nói riêng vẫn còn mang tính chung chung.
Trong những năm qua, tại tỉnh Hòa Bình các chỉ tiêu đánh giá về chất
lượng NNL được sử dụng phổ biến là trình độ học vấn của NNL phân theo
theo các trình độ như tốt nghiệp trung học cơ sở, tốt nghiệp phổ thông trung
học, trình độ tiểu học; trình độ chuyên môn của NNL được đánh giá thông
qua tỷ lệ lao động không có kỹ năng, tỷ lệ lao động đã qua đào tạo trong đó
có đào tạo nghề. Những chỉ tiêu đó đã phần nào đó thể hiện được chất lượng
NNL cho phát triển kinh tế của tỉnh và sự đánh giá dựa trên những chỉ tiêu đó
là căn cứ đề xuất các mục tiêu phát triển nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh
Phạm Thị Thanh Hiến 92 Khoa Kinh tế & Quản lý
trong các kế hoạch hàng năm và 5 năm. Tuy nhiên, những chỉ tiêu kể trên xét
về thực chất mới chỉ phản ánh chất lượng NNL về hình thức, bởi lẽ chúng
mới chỉ phản ánh trình độ phát triển của NNL về bằng cấp chứ chưa chứng tỏ
rằng NNL đó đã phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế ngày nay hay chưa,
đặc biệt trong điều kiện cách mạng khoa học và công nghệ đang diễn ra mạnh
mẽ cùng với bối cảnh hội nhập.
Để có bức tranh toàn cảnh về chất lượng NNL cho phát triển kinh tế
cần phải thực hiện việc đánh giá lại về chất lượng NNL. Để quá trình đánh giá
có thể cho kết quả chính xác hơn về chất lượng NNL cần phải tiếp tục hoàn
thiện hệ thống các chỉ tiêu phản ánh chất lượng NNL của nền kinh tế theo
hướng toàn diện, đầy đủ, và quan trọng hơn là thực hiện nghiêm chỉnh thường
xuyên công tác thống kê hàng năm về chất lượng NNL , tạo cơ sở tin cậy cho
công tác đánh giá về chất lượng NNL cho phát triển kinh tế.
Bên cạnh những tiêu chí đánh giá chất lượng NNL đang được sử dụng,
hệ thống chỉ tiêu đánh giá chất lượng NNL cần được tiếp tục bổ sung. Có thể
sử dụng thêm các tiêu chí đánh giá chất lượng lao động do WB đưa ra bao
gồm những ấn tượng chung về hệ thống giáo dục và đào tạo nhân lực; mức độ
sẵn có của lao động chất lượng cao; mức độ sẵn có của nhân lực quản lý hành
chính chất lượng cao; sự thành thạo tiếng Anh và sự thành thạo về kỹ thuật và
công nghệ tiên tiến. Theo đánh giá mới của Ngân hàng Thế giới (WB), chất
lượng NNL của VN hiện nay mới chỉ đạt 3,79 điểm (thang điểm 10), xếp thứ
11 trong số 12 nước châu Á tham gia xếp hạng. Một nghiên cứu khác cho
thấy lao động VN chỉ đạt 32/100 điểm. ( Ngoài ra cần bổ sung
thêm một số tiêu chí như tỷ lệ biết ngoại ngữ và sử dụng thành thạo máy vi
tính trong NNL, mức độ phù hợp của NNL về cơ cấu trình độ chuyên môn đối
với từng ngành, vùng kinh tế, năng suất lao động
3.2.2 Giải pháp về đánh giá lại công tác giáo dục đào tạo.
Chất lượng giáo dục là vấn đề được bàn cãi nhiều. Những nghiên cứu
mới đây của các nhà khoa học quốc tế dựa trên số liệu thống kê hàng chục
năm của nhiều nước trên thế giới đã cho thấy những bằng chứng mạnh mẽ về
mối quan hệ nhân quả giữa chất lượng giáo dục và tăng trưởng kinh tế nói
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh
Phạm Thị Thanh Hiến 93 Khoa Kinh tế & Quản lý
riêng và phát triển nói chung. Những người có hiểu biết, có kỹ năng, có tay
nghề cao là những người làm việc có hiệu quả và vì thế thường có thu nhập
cao. Khi người dân của một nước có hiểu biết, có những kỹ năng được cập
nhật phù hợp, có năng lực sáng tạo, có tinh thần kinh doanh, năng nổ và thích
ứng nhanh với sự thay đổi, ... thì ở nước đó có sự phát triển bền vững về kinh
tế và xã hội. Một hệ thống giáo dục có chất lượng là hệ thống giúp tạo ra
những con người có những phẩm chất như vậy. Hệ thống đánh giá chất lượng
giáo dục là hệ thống đo lường kết quả đầu ra của hệ thống giáo dục. Không có
đo lường thì không có khoa học, không có cơ sở để đánh giá.
Về chất lượng giáo dục ở ta thường có sự đánh giá khác nhau. Ngành
giáo dục khẳng định thành tích là chủ yếu, do đó chỉ cần tiếp tục hoàn thiện,
đổi mới nền giáo dục hiện có. Còn dư luận xã hội, đặc biệt là trong giới
nghiên cứu, thì khẳng định rằng nền giáo dục nước nhà đang bất cập và lạc
hậu và phải tiến hành một cuộc cải cách giáo dục triệt để và toàn diện.
Chất lượng giáo dục thể hiện nhân cách của người học ở các khía cạnh:
ý thức chính trị, năng lực tự học và năng lực hoạt động thực tiễn. Thông
thường, chất lượng giáo dục được đánh giá thông qua mức độ thực hiện các
mục tiêu giáo dục, chất lượng đào tạo được đánh giá thông qua mức độ đạt
được mục tiêu đào tạo đã đề ra đối với một chương trình đào tạo.
Đánh giá chất lượng giáo dục tức là đánh giá sản phẩm cụ thể của
nó. Đó là học sinh ở từng cấp học, sinh viên tốt nghiệp. Đánh giá chất lượng
giáo dục là đo lường chất lượng đầu ra của hệ thống giáo dục, do đó người
đánh giá có thẩm quyền nhất chính là những người sử dụng lao động và sự
đánh giá được thực hiện trên thị trường lao động. "Chất lượng" sinh viên cao
hay thấp được định nghĩa ở thị trường. Nghĩa là, sinh viên đó được thị trường
chấp nhận ở mức nào, công việc nào.
Tuy nhiên, việc đánh giá chất lượng giáo dục và đào tạo ở nước ta hiện
nay chủ yếu vẫn được thực hiện bởi bản thân hệ thống giáo dục và các cơ
quan quản lý, do đó còn chịu ảnh hưởng lớn của nhân tố chủ quan và nhất là
bệnh thành tích trong giáo dục. Đánh giá chất lượng giáo dục ở cấp vĩ mô chỉ
thật sự có kết quả khi nó được thực hiện thấu đáo và đặc biệt dựa trên những
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh
Phạm Thị Thanh Hiến 94 Khoa Kinh tế & Quản lý
đánh giá chất lượng thường xuyên đáng tin cậy của các cơ sở giáo dục ở cấp
vi mô. Để có bức tranh toàn cảnh về chất lượng giáo dục đào tạo, cần phải có
cơ chế và lộ trình quản lý việc đánh giá chất lượng đào tạo ở các cơ sở. Đánh
giá chất lượng giáo dục và cải cách giáo dục phải được thực hiện trên một hệ
thống các chỉ số giáo dục bao gồm không chỉ những chỉ số về đầu ra (thành
tích học tập) mà quan trọng hơn nhiều là loại chỉ số về quá trình, trong cả bốn
lĩnh vực: dạy và học, quản lý giáo dục, nghiên cứu phát triển chương trình và
nghiên cứu phát triển hệ thống tư vấn nhà trường.
Thực tế cho thấy, đến nay việc đánh giá chất lượng giáo dục ở nước ta
vẫn chủ yếu tập trung vào đánh giá kết quả học tập, mà việc đánh giá này còn
thiên về thành tích, thậm chí thiếu chính xác do năng lực đánh giá của đội ngũ
giảng dạy cũng như quản lý giáo dục còn yếu, quan niệm về chức năng của
đánh giá trong giáo dục chưa được xác lập một cách khoa học và cơ bản: chức
năng tư vấn và dự báo phát triển, chưa xây dựng được những cơ chế thích hợp
để đánh giá chất lượng giáo dục, phương pháp, qui trình và công cụ đo lường
còn đơn điệu, nặng kinh nghiệm chủ nghĩa. Trong lĩnh vực học tập, việc cho
điểm học sinh được xem là đánh giá kết quả học tập. Trong lĩnh vực quản lý,
việc tổng kết công tác, báo cáo thành tích được đánh đồng với đánh giá chất
lượng của chương trình giáo dục. Do đó, những đánh giá về chất lượng giáo
dục chưa đạt mức đầy đủ và tin cậy cao.
Tại tỉnh Hòa Bình cho đến nay vẫn có nhiều học sinh tốt nghiệp các
trường nghề, trung học chuyên nghiệp, cao đẳng đại học khó tìm được việc
làm, không đáp ứng được các yêu cầu của cơ sở tuyển dụng, không theo kịp
với các tiến bộ của khoa học kỹ thuật và quản lý. Có doanh nghiệp tuyển lao
động có trình độ vào vị trí quản lý nhưng trên thực tế không tuyển được, phần
lớn người nộp đơn phỏng vấn là các sinh viên mới ra trường còn lao động có
kinh nghiệm chỉ khoảng 1 - 2 hồ sơ, vì vậy doanh nghiệp đang lên phương án
tuyển lao động mới ra trường để vào đào tạo lại. Nguyên nhân cơ bản của
thực trạng trên là chất lượng giáo dục đào tạo chưa đạt yêu cầu, nội dung và
phương pháp giảng dạy ở các cơ sở giáo dục và đào tạo còn lạc hậu, chưa kịp
đổi mới, còn xa rời thực tế, chưa theo kịp thời đại...
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh
Phạm Thị Thanh Hiến 95 Khoa Kinh tế & Quản lý
Từ thực trạng đánh giá chất lượng giáo dục kể trên, để có bức tranh
chân thực về chất lượng giáo dục cần phải thực hiện đánh giá lại chất lượng
công tác giáo dục và đào tạo. Việc đánh giá lại chất lượng nền giáo dục đào
tạo với tư cách là nhân tố chủ yếu quyết định chất lượng NNL cho phát triển
kinh tế của cả nước cũng như từng địa phương như tỉnh Hòa Bình, cần căn cứ
vào các yếu tố như mục tiêu giáo dục; quan điểm của Đảng về giáo dục; nhu
cầu phát triển NNL; mức kinh phí đầu tư cho giáo dục; so sánh quá trình
trước và sau; so sánh với quốc tế. Trong đánh giá lại chất lượng giáo dục có
thể sử dụng các tiêu chí của UNESCO như mục tiêu, giá trị, tầm nhìn, kỹ
năng. Đồng thời phải tính tới sự phát triển và sử dụng NNL theo cơ chế thị
trường, do đó cần đánh giá lại chất lượng giáo dục và đào tạo trên cơ sở
nghiên cứu, tham khảo các yêu cầu về kiến thức, kỹ năng, phẩm chất đối với
NNL từ phía những người sử dụng lao động.
Để thực hiện tốt việc đánh giá lại chất lượng nền giáo dục đào tạo cần
có một đội ngũ các nhà khoa học đánh giá chất lượng giáo dục chuyên
nghiệp, phương thức và kỹ thuật đánh giá hiện đại, nội dung đánh giá toàn
diện, quan điểm đánh giá thống nhất. Kết quả đánh giá lại chất lượng giáo dục
đào tạo là căn cứ khoa học để xem xét lại mức độ hợp lý của cơ cấu giáo dục,
chương trình đào tạo và bồi dưỡng giáo viên, phương pháp dạy học, chương
trình đào tạo và tài liệu học tập
3.2.3 Nhóm giải pháp nâng cao thể lực nguồn nhân lực.
Để có nguồn nhân lực chất lượng cao, cũng như để nâng cao mức sống
của người dân, việc chăm sóc sức khỏe ban đầu, nâng cao thể lực và tầm vóc
của người lao động cần được coi là ưu tiên hàng đầu.
Tại Dự thảo các văn kiện trình đại hội X của Đảng đã nêu rõ “Bảo đảm
mọi người dân được chăm sóc sức khoẻ với chất lượng ngày càng cao” [1, tr
34]. Trong năm qua tỉnh Hoà Bình đã cố gắng củng cố và hoàn thiện mạng
lưới y tế cơ sở, hệ thống các chính sách bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức
khoẻ nhân dân. Đổi mới cơ chế quản lý khám, chữa bệnh. Quan tâm nhiều
hơn nữa các đối tượng chính sách, đồng bào dân tộc thiểu số và vùng sâu,
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh
Phạm Thị Thanh Hiến 96 Khoa Kinh tế & Quản lý
vùng xa, người nghèo. Đồng thời, chú trọng phát triển các dịch vụ y tế công
nghệ cao, khuyến khích phát triển đa dạng các dịch vụ y tế ngoài công lập.
Nhưng nhìn một cách tổng quan thì tình trạng sức khỏe của người dân
Hoà Bình vẫn chỉ ở mức trung bình, đặc biệt tỷ lệ yếu còn khá cao, tỷ lệ trẻ
em suy dinh dưỡng cũng khá cao. NNL Hoà Bình còn kém cả về tầm vóc và
thể lực thuộc loại trung bình thấp của thế giới. Nguyên nhân của thực trạng
trên là do một mặt thể trạng chung của người châu Á, mặt khác do tình hình
chăm sóc sức khỏe trẻ em những năm trước đây chưa thực hiện tốt. Đồng thời
do kinh tế phát triển chưa mạnh, thu nhập thấp, đời sống khó khăn, môi
trường sống và làm việc bị ô nhiễm, trình độ hiểu biết về dinh dưỡng và
sức khỏe của người dân chưa cao, trình độ phát triển y tế và các dịch vụ
chăm sóc sức khỏe còn thấp.
Do đó, Hoà Bình phải không ngừng nâng cao tình hình sức khỏe, nâng
cao chất lượng dân số và cải thiện môi trường sống bằng các biện pháp sau:
Thứ nhất, Nghiên cứu xây dựng và tuyên truyền hướng dẫn chế độ dinh
dưỡng trong cơ cấu bữa ăn phù hợp với từng lứa tuổi. Quan tâm chăm sóc
sức khoẻ sinh sản. đẩy mạnh phong trào toàn xã hội chăm sóc, giáo dục, bảo
vệ trẻ em được sống trong môi trường an toàn, lành mạnh, phát triển hài hoà
về thể chất, trí tuệ, tinh thần và đạo đức; giảm nhanh tỷ lệ trẻ em suy dinh
dưỡng; đẩy mạnh công tác bảo vệ giống nòi, bảo vệ sức khoẻ của nhân dân;
thực hiện các giải pháp mạnh mẽ, kiên trì và có hiệu quả để phòng, chống
HIV/AIDS, các tai tệ nạn xã hội.
Thứ hai, Nâng cao chất lượng các dịch vụ y tế, khám chữa bệnh cho
nhân dân ở các tuyến, nhất là y tế cơ sở, y tế thôn bản; tăng cường công tác y
tế dự phòng và thực hiện có hiệu quả các chương trình, dự án y tế; xây dựng
và thực hiện tốt quy hoạch phát triển hệ thống y tế đến năm 2015 và những
năm tiếp theo; tăng cường đào tạo, nhất là đào tạo cán bộ có chuyên môn cao,
tiếp tục đào tạo bác sỹ theo địa chỉ, cử tuyển nhằm đáp ứng nhu cầu phục vụ
chăm sóc sức khoẻ nhân dân. Phấn đấu đến năm 2015, toàn tỉnh có 40% số
trạm y tế xã đạt chuẩn y tế Quốc gia, 90% trạm y tế xã có bác sĩ và đạt tỷ lệ
5,7 bác sĩ/1 vạn dân. Đẩy mạnh xã hội hoá hoạt động y tế, đa dạng hoá các
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh
Phạm Thị Thanh Hiến 97 Khoa Kinh tế & Quản lý
loại hình khám chữa bệnh; nghiên cứu, kế thừa, bảo tồn và phát triển vốn y
học cổ truyền; tiếp tục thực hiện mua thẻ bảo hiểm, miễn phí chữa bệnh cho
người nghèo. Phấn đấu đến năm 2015 thực hiện bảo hiểm y tế toàn dân.
Thứ ba, Củng cố và kiện toàn hệ thống y tế cơ sở, đảm bảo cung ứng đủ
cơ số thuốc phòng và chữa bệnh. Giảm tỷ lệ bướu cổ ở trẻ em 8 - 12 tuổi
xuống dưới 5%, đảm bảo tiêm chủng mở rộng vắc xin cho trẻ em đạt 96%.
Thứ tư, Thực hiện nghiêm túc chế độ bảo hộ lao động, đặc biệt đối với
lao động trong điều kiện độc hại, chú trọng đối với lao động nữ.
3.2.4 Nhóm giải pháp về đào tạo và đào tạo lại nguồn nhân lực.
Trong điều kiện chất lượng NNL còn thấp, đặc biệt về trình độ chuyên
môn cùng với cơ cấu chưa phù hợp theo ngành và vùng thì đẩy mạnh đào tạo
và đào tạo lại là giải pháp cơ bản để nâng cao chất lượng NNL và phát triển
NNL chất lượng cao nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế. Đẩy mạnh đào tạo phải
thực hiện theo hướng:
Thứ nhất, Không ngừng nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo:
Để nâng cao toàn diện chất lượng NNL đáp ứng yêu cầu phát triển kinh
tế của tỉnh Hoà Bình đến 2015 và tầm nhìn 2020 cần phải:
Một là, không ngừng nâng cao hơn nữa chất lượng giáo dục và đào tạo
ở tất cả các bậc học: phổ thông, trung học chuyên nghiệp, dạy nghề, đại học
và cao đẳng.
Hai là, đổi mới cơ cấu tổ chức, cơ chế quản lý, phương pháp giáo dục
theo hướng “chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá”; coi trọng hàng đầu việc
đảm bảo và nâng cao chất lượng dạy và học, học và hành. Chuyển dần mô
hình giáo dục hiện nay sang mô hình giáo dục mở - mô hình xã hội học tập
với hệ thống học tập suốt đời, đào tạo liên tục, thực hiện sự liên thông giữa
các bậc học, một số ngành học; xây dựng và phát triển hệ thống học tập cho
người từ trung niên trở lên và những hình thức học tập, thực hành linh hoạt
mềm dẻo hơn, đáp ứng nhu cầu học tập thường xuyên; tạo ra nhiều khả năng,
cơ hội khác nhau cho người học, bảo đảm sự công bằng xã hội trong giáo dục,
gắn với phát triển nghề nghiệp của người dân.
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh
Phạm Thị Thanh Hiến 98 Khoa Kinh tế & Quản lý
Kiên quyết khắc phục phương pháp giảng dạy cũ kỹ lạc hậu, thầy giảng
trò ghi, thụ động, một chiều. Nội dung chương trình phải tinh giản nhưng hiện
đại, trang bị cho người học những kiến thức cơ bản nhất, dĩ nhất biến ứng vạn
biến, và giúp người học biết nhân lên vốn tri thức cho mình, hướng dẫn người
học phương pháp tiếp thu tri thức mới, bồi dưỡng cho họ những kỹ năng cần
thiết, phương pháp tư duy sáng tạo, phương pháp tự đào tạo... thông qua các
trường hợp điển hình để bồi dưỡng phương pháp và năng lực giải quyết vấn
đề. tăng cường sự tương tác giữa thầy giáo và học sinh, sử dụng công nghệ
mới nhất là công nghệ thông tin. Tăng cường dạy công nghệ thông tin trong
tất cả các bậc học, tiến tới hội nhập với chương trình giáo dục kỹ thuật nghề
nghiệp và giáo dục đại học của các nước trong khu vực.
Ba là, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo
dục. Tiếp tục thực hiện Quyết định số 161/2002/QĐ-TTg của Thủ tướng
Chính phủ về một số chính sách phát triển giáo dục mầm non; Chương trình
hành động số 374-CTr/TU của Tỉnh uỷ thực hiện Chỉ thị số 40-CT/TW của
Ban bí thư Trung ương Đảng (khoá X) về “Xây dựng, nâng cao chất lượng
đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục”, tạo bước chuyển cơ bản về
chất lượng giáo dục, hướng tới xây dựng một xã hội học tập.
Bốn là, chất lượng dạy và học phải được chú trọng nhiều hơn nữa, hàng
năm đội ngũ giáo viên đều được đào tạo, đào tạo lại để nâng cao trình độ.
Phấn đấu đến năm 2015 có 100% số giáo viên tiểu học, trung học cơ sở, giáo
viên trung học phổ thông vượt chuẩn, 91,4% giáo viên mầm non đã qua đào
tạo; chất lượng học sinh các cấp học được nâng lên, thể hiện là số học sinh
khá, chăm ngoan, số học sinh đoạt giải trong các kỳ thi học sinh giỏi cấp tỉnh,
quốc gia và thi đỗ vào các trường đại học, cao đẳng ngày càng tăng lên; Phấn
đấu giữ mãi danh hiệu Hoà Bình là tỉnh miền núi liên tục đứng đầu các tỉnh
miền núi phía Bắc, Tây Nguyên và đồng bằng sông Cửu Long về số lượng và
chất lượng giải Quốc gia.
Năm là, đẩy mạnh đầu tư xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật trường
học, trang bị thiết bị dạy - học, phòng thí nghiệm, thư viện ở tất cả các bậc
học, cấp học. Thực hiện chính sách hỗ trợ cho các trung tâm dạy nghề công
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh
Phạm Thị Thanh Hiến 99 Khoa Kinh tế & Quản lý
lập, trường dạy nghề đủ tiêu chuẩn về mặt bằng (35 học sinh/lớp học lý thuyết, 18
học sinh/lớp thực hành và 4 m2/học sinh đối với phòng thực hành); đảm bảo phòng
học thoáng mát, đủ ánh sáng và phương tiện giảng dạy.
Ngoài nguồn kinh phí hàng năm của trung uơng và địa phương dành
cho công tác đào tạo nghề, cần có cơ chế chính sách để thu hút từ các nguồn
đóng góp của người học, từ các đơn vị sử dụng lao động.
Sáu là, tập trung đầu tư đào tạo NNL chất lượng cao bằng cách tăng
cường liên thông, liên kết từ giáo dục phổ thông, giáo dục nghề nghiệp đến
cao đẳng, đại học; gắn kết chặt chẽ giữa đào tạo nghề với sử dụng NNL qua
đào tạo nghề, trên cơ sở đó kiểm định, đánh giá chất lượng và hiệu quả công
tác đào tạo.
Tập trung xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật trường chất lượng cao ở
từng ngành, từng cấp học (mẫu giáo, tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ
thông, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề). Quan tâm đúng mức đến việc
lựa chọn những học sinh đặc biệt xuất sắc cho đi học trước khi tốt nghiệp
trung học phổ thông, định hướng rõ ngành nghề đào tạo và nơi đào tạo. Hội
đồng đào tạo tỉnh xây dựng kế hoạch đào tạo NNL có chất lượng cao có trình
độ sau đại học, cử đi đào tạo trong nước và nước ngoài. Chủ động tăng cường
phối hợp với các trường Đại học trong công tác đào tạo NNL có chất lượng
cao để phục vụ cho nhu cầu phát triển chung của toàn tỉnh.
Tổ chức, sắp xếp lại thành các trường dạy nghề, cơ sở dạy nghề, các
trung tâm dạy nghề có chất lượng cao; khuyến khích tư nhân mở cơ sở dạy
nghề trên cơ sở đảm bảo điều kiện về cơ sở vật chất - kỹ thuật trang thiết bị và
đội ngũ giáo viên cơ hữu. Chú trọng đào tạo giáo viên dạy nghề có trình độ kỹ
thuật cao chuyên gia đầu đàn trong từng lĩnh vực, ngành nghề đào tạo.
Tổ chức phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan quản lý đào tạo, cơ sở đào
tạo với các đơn vị sử dụng lao động để có thông tin kịp thời về yêu cầu, chất
lượng tay nghề; tăng cường liên kết đào tạo giữa các cơ sở đào tạo trong và
ngoài nước; giữa các doanh nghiệp. Chú trọng thực hành trên các công nghệ
tiên tiến và hiện đại nhằm góp phần nâng cao chất lượng đào tạo. Duy trì và
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh
Phạm Thị Thanh Hiến 100 Khoa Kinh tế & Quản lý
tổ chức các hội thi tay nghề, thi nâng bậc thợ, đào tạo lại, nâng cao trình độ
cho người lao động.
Thứ hai, Đẩy mạnh công tác xã hội hóa giáo dục đào tạo:
Trong điều kiện kinh tế chưa phát triển, nguồn ngân sách nhà nước đầu
tư cho giáo dục còn eo hẹp, việc đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục đào tạo là vấn
đề quan trọng và cấp thiết nhằm thu hút mọi nguồn lực để đầu tư phát triển giáo
dục đào tạo nhằm tạo sức mạnh tổng hợp phát triển nguồn nhân lực nói chung và
đặc biệt là NNL chất lượng cao. “Tiếp tục đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục; nâng
cao hiệu quả hoạt động hệ thống giáo dục thường xuyên và các trung tâm học
tập cộng đồng, phấn đấu xây dựng xã hội học tập”.
Huy động nguồn vật chất và trí tuệ của xã hội, tham gia chăm lo sự nghiệp
giáo dục. Phối hợp chặt chẽ giữa ngành giáo dục với các ban ngành, các tổ chức
chính trị - xã hội, xã hội - nghề nghiệp... để mở mang giáo dục, tạo điều kiện cho
mọi thành viên trong xã hội học tập suốt đời. Tăng cường các hoạt động thanh
tra, kiểm tra, giám sát việc xã hội hoá giáo dục.
Điều này cho thấy theo yêu cầu của công cuộc đẩy mạnh CNH, HĐH
của tỉnh Hoà Bình ngày càng cần nhiều lao động đã qua đào tạo, lao động có
trình độ chuyên môn kỹ thuật. Cho nên nếu không đẩy mạnh xã hội hóa giáo
dục đào tạo thì Hoà Bình khó có thể có NNL chất lượng cao đáp ứng yêu cầu
phát triển kinh tế xã hội của tỉnh.
* Xã hội hóa đào tạo nhân lực ở bậc Cao đẳng.
Bên cạnh việc phát triển hệ thống các trường CĐ dân lập, các hình
thức xã hội hóa đào tạo trong các trường CĐ công lập cũng được đẩy mạnh
dưới nhiều hình thức khác nhau như: đào tạo không tập trung nhằm đáp
ứng nhu cầu học tập để chuẩn hóa đội ngũ, nhu cầu chuyển đổi nghề
nghiệp; hình thức đào tạo theo hợp đồng giữa các trường CĐ với các Trung
tâm giáo dục thường xuyên của tỉnh để cung cấp các khóa học cao hơn;
hình thức vừa học vừa làm nhằm huy động thêm nguồn kinh phí của người
học đóng góp cho đào tạo, cho phép ngành giáo dục mở rộng quy mô, đáp
ứng nhu cầu người học muốn có trình độ cao.
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh
Phạm Thị Thanh Hiến 101 Khoa Kinh tế & Quản lý
* Xã hội hóa đào tạo nhân lực ở bậc trung học chuyên nghiệp và
dạy nghề:
Một thực trạng của NNL không chỉ ở tỉnh Hoà Bình mà còn xảy ra
hầu như trong cả nước là trong năm qua tỷ lệ lao động có trình độ đại học,
cao đẳng so với lao động có trình độ trung học chuyên nghiệp và công
nhân kỹ thuật vẫn còn mất cân đối. Nhận thức được vấn đề này, tỉnh đã ban
hành chương trình “phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ,
nâng cao chất lượng NNL có trình độ cao, đáp ứng nhu cầu của thời kỳ
CNH, HĐH” đảm bảo tỷ lệ lao động qua đào tạo ở các trình độ tương ứng
hợp lý.
Để thực hiện mục tiêu này, việc xã hội hóa đào tạo bậc trung học
chuyên nghiệp và dạy nghề có tầm quan trọng đặc biệt để tạo ra nguồn nhân
lực chất lượng cao cho Hoà Bình. Việc xã hội hóa này có thể được thực hiện
dưới các hình thức như: Hình thức đào tạo nghề trong các doanh nghiệp;
khuyến khích các cơ sở dạy nghề tư nhân đào tạo tạo nghề ngắn hạn và phổ
cập nghề; hình thức trung tâm dạy nghề và các trung tâm xúc tiến việc làm để
trang bị những kỹ năng, kiến thức nghề nghiệp phổ thông để người học tự giải
quyết các vấn đề của cuộc sống bản thân hoặc tự tổ chức việc làm để tạo thu
nhập cho mình...
* Xã hội hóa giáo dục ở bậc phổ thông:
Để thực hiện mục tiêu đảm bảo duy trì phổ cập tiểu học và trung học cơ
sở tiến tới toàn tỉnh phổ cập bậc trung học vào năm 2007 để cung cấp đủ
nguồn cả về số lượng và chất lượng cho công tác đào tạo nghề nhằm cung cấp
đủ lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật đáp ứng yêu cầu phát triển kinh
tế - xã hội của tỉnh đến năm 2015 như đã phân tích ở trên, Hoà Bình phải đẩy
mạnh việc xã hội hóa giáo dục ở bậc phổ thông.
Thực trạng cho thấy Hoà Bình là một tỉnh vẫn còn nghèo, ngân sách đầu
tư cho giáo dục đào tạo trong đó có giáo dục phổ thông còn hạn chế, cơ sở vật
chất phục vụ cho công tác giáo dục còn thiếu và yếu nhất là các xã vùng sâu
vùng xa, nhiều trường còn học 2 ca. Để thực hiện mục tiêu trên, giáo dục công
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh
Phạm Thị Thanh Hiến 102 Khoa Kinh tế & Quản lý
lập không thể đảm đương nổi, mà tỉnh phải đẩy mạnh việc xã hội hóa giáo dục ở
bậc phổ thông bằng việc khuyến khích phát triển hệ thống các trường dân lập.
Thứ ba, Thực hiện tốt công tác hướng nghiệp cho học sinh phổ thông
nhằm từng bước khắc phục tình trạng mất cân đối của nguồn nhân lực theo
trình độ và theo ngành nghề. Phát triển nhanh các cơ sở dạy nghề trên địa bàn
để đào tạo nguồn nhân lực có tay nghề cho phát triển các khu công nghiệp.
Để hướng nghiệp, định nghiệp cho học sinh phổ thông cần cung cấp
cho học sinh phổ thông những thông tin về những ngành nghề đào tạo, đặc
biệt là những ngành nghề mà thị trường lao động trong tỉnh đang cần để học
sinh định hướng sự lựa chọn: Sau khi tốt nghiệp trung học cơ sở, học sinh có
thể tiếp tục học lên trung học phổ thông hoặc có thể theo học nghề ở các
trường dạy nghề, trung học chuyên nghiệp hoặc cao đẳng nghề; sau khi tốt
nghiệp phổ thông trung học, học sinh có thể thi vào các trường đại học, cao
đẳng nếu xét thấy đủ điều kiện hoặc thi vào các trường dạy nghề.
Thứ tư, Đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong giáo dục đào tạo cao đẳng,
đại học và sau đại học:
Sự phát triển nền giáo dục của mỗi nước không chỉ phải phối hợp nhịp
nhàng với sự phát triển của nền kinh tế, mà còn phải kết hợp hài hòa nhịp
nhàng với sự phát triển tổng thể của nền giáo dục thế giới và nền kinh tế thế
giới. Do đó, để nền giáo dục và đào tạo của tỉnh theo kịp xu thế trên phải đẩy
mạnh hợp tác với các nước và các tổ chức quốc tế về phát triển nguồn nhân lực
dưới nhiều hình thức khác nhau. Thông qua mối quan hệ với Bộ giáo dục và
đào tạo, Bộ ngoại giao, các đại sứ quán, lãnh sứ quán Việt Nam ở nước ngoài
tại Việt Nam điều tra, xác định các cơ sở đào tạo có chất lượng cao nhất cho
từng ngành nghề phù hợp với danh mục mà tỉnh có nhu cầu. Liên kết với các
trường Đại học để gửi ra nước ngoài học tập ở các trường đại học, cơ sở đào
tạo có chất lượng cao. Hoặc các cơ sở đào tạo của nước ngoài đặt tại Việt Nam.
Tăng cường hợp tác với các tỉnh, thành phố của các nước có cam kết
hợp tác với Hoà Bình để gửi học sinh đến học tập với kinh phí ưu đãi thông
thường. Ngoài ra, để có nhanh NNL thạo nghề cần hợp tác đào tạo giữa các
doanh nghiệp ở các nước khác nhau đang đầu tư vào Hoà Bình, tăng cường
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh
Phạm Thị Thanh Hiến 103 Khoa Kinh tế & Quản lý
gửi đi đào tạo, hợp tác nghiên cứu, làm việc ở nước ngoài theo con đường các
doanh nghiệp, các tổ chức, cá nhân, đặc biệt ở những lĩnh vực chúng ta còn
đang yếu, các lĩnh vực công nghệ cao và mới. Việc chủ động tìm kiếm thị
trường xuất khẩu lao động để đào tạo cho phù hợp cũng là một biện pháp góp
phần làm tăng nhanh chất lượng nguồn nhân lực, vì chất lượng đào tạo phải đạt
đến một trình độ nhất định thì mới được thị trường lao động thế giới chấp nhận.
Thứ năm, Đổi mới và nâng cao năng lực quản lý Nhà nước về giáo dục
và đào tạo:
Thực hiện mạnh mẽ phân cấp quản lý Nhà nước về giáo dục đào tạo;
thực hiện đổi mới cơ chế quản lý giáo dục theo hướng giao quyền tự chủ, tự
chịu trách nhiệm trong hệ thống giáo dục; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ
thông tin trong quản lý giáo dục, xây dựng ngành giáo dục và đào tạo tỉnh nhà
theo hướng giáo dục điện tử.
Phát huy những năng lực nội sinh đi đôi với tiếp thu, làm chủ, ứng dụng
thành tựu khoa học và công nghệ thế giới. Phát triển các công nghệ cao, công
nghệ thông tin, viễn thông, sinh học, vật liệu mới, tự động hoá. Phát triển hệ
thống thông tin quốc gia về khoa học và công nghệ.
Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong giáo dục đào tạo ở các
cấp học, bậc học, ngành học theo hướng sử dụng công nghệ thông tin như là
một công cụ hỗ trợ đắc lực nhất cho đổi mới phương pháp dạy học; phủ kín
việc kết nối internet cho tất cả các cơ sở giáo dục; xây dựng mạng giáo dục
(EDUNET) phục vụ cho công tác quản lý, chỉ đạo dạy - học.
3.2.5 Nhóm giải pháp về thị trường sức lao động và thu hút nguồn nhân
lực ngoại tỉnh.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, việc phát
triển và cung cấp nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế được thực hiện theo
cơ chế thị trường, do đó xây dựng và phát triển thị trường sức lao động là
nhân tố quan trọng tác động tới phát triển nguồn nhân lực cho phát triển kinh
tế của tỉnh Hòa Bình. Để thúc đẩy thị trường sức lao động của tỉnh hoạt động,
tỉnh Hoà Bình cần tập trung chỉ đạo thực hiện bằng được Quy hoạch tổng thể
phát triển kinh tế - xã hội đảm bảo mục tiêu tăng trưởng kinh tế và giải quyết
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh
Phạm Thị Thanh Hiến 104 Khoa Kinh tế & Quản lý
việc làm. Riêng lĩnh vực lao động - việc làm cần tập trung vào các giải pháp
chính sau đây:
+ Tập trung làm chuyển đổi nhận thức của xã hội về vấn đề việc làm và
phương thức giải quyết việc làm trong nền kinh tế thị trường. Trong cơ chế kế
hoạch hoá tập trung trước đây, nhà nước đứng ra trực tiếp giải quyết việc làm
cho người lao động, song trong cơ chế mới, nhà nước đóng vai trò tạo dựng
môi trường luật pháp, chính sách nhằm khuyến khích đầu tư tạo mở việc làm,
khuyến khích người lao động tự tìm việc làm, tự tạo việc làm cho mình và
cho người khác.
+ Tổ chức tốt thông tin thị trường lao động: nắm được diễn biến cung
cầu lao động nhằm điều chỉnh. Điều chỉnh, điều chuyển lao động từ nơi thừa
sang nơi thiếu; thu hút lao động các ngành nghề đòi hỏi chuyên môn, kỹ thuật
cao mà tỉnh không đáp ứng được từ nơi khác đến, đồng thời hỗ trợ người lao
động trong tỉnh đi làm việc ở các địa bàn khác phù hợp với nguyện vọng, kỹ
năng họ có.
+ Tổ chức tốt hoạt động dịch vụ việc làm: trong những năm tới thí điểm
tổ chức Hội chợ việc làm nhằm tạo dựng mối liên kết giữa người sử dụng lao
động và người lao động, giữa cơ sở đào tạo nghề và cơ sở dịch vụ việc làm.
+ Đẩy mạnh công tác xuất khẩu lao động, vươn ra thị trường sức lao
động ở nước ngoài. Hiện nay, mỗi năm tỉnh xuất khẩu được gần 1.600 lao
động sang các nước có nhu cầu về lao động như Hàn Quốc, Đài Loan,
Malaysia.... Việc xuất khẩu lao động là biện pháp tốt nhằm nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực, bởi vì khi tiếp xúc và trực tiếp điều khiển những
phương tiện kỹ thuật hiện đại sẽ góp phần nâng cao trình độ chuyên môn kỹ
thuật cho người lao động.
+ Triển khai tốt Quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm, đảm bảo Quỹ đến đúng
đối tượng, đơn giản hóa thủ tục, đảm bảo thuận tiện cho người vay vốn và cơ
quan quản lý Quỹ. Ngoài phần Ngân sách do Trung ương hỗ trợ, tỉnh cần
trích Ngân sách tỉnh lập Quỹ hỗ trợ việc làm địa phương.
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh
Phạm Thị Thanh Hiến 105 Khoa Kinh tế & Quản lý
+ Chỉ đạo các thị xã, huyện thuộc tỉnh xây dựng Chương trình việc làm
của địa phương. Có các giải pháp đào tạo, hướng dẫn cách làm ăn để người
dân mạnh dạn đầu tư tạo việc làm.
+ Bố trí đủ và nâng cao năng lực của cán bộ phụ trách triển khai các
hoạt động quản lý và giải quyết việc làm.
Sự hình thành và phát triển của thị trường sức lao động sẽ tạo ra môi
trường cạnh tranh trong cung cấp và sử dụng NNL, vừa mở ra cơ hội thu hút
NNL chất lượng cao cho phát triển kinh tế của tỉnh, vừa tạo áp lực cho NNL
của tỉnh phải không ngừng nâng cao chất lượng. Để huy động được NNL chất
lượng cao từ ngoại tỉnh cần tập trung thực hiện các biện pháp:
- Một là: Trên cơ sở điều tra khảo sát, có kế hoạch tranh thủ với từng
nhóm đối tượng phù hợp theo từng lĩnh vực ưu tiên hợp tác của tỉnh;
- Hai là: Xây dựng các chương trình trọng điểm với quy mô và thời
hạn khác nhau thu hút sự đóng góp của người Việt Nam ở nước ngoài trên
từng lĩnh vực, cần tập trung:
+ Các cơ sở giáo dục và dạy nghề trong tỉnh cần đề xuất những yêu cầu
có sự hỗ trợ của người Việt Nam ở nước ngoài về cơ sở vật chất, phương tiện
kỹ thuật và kiến thức chuyên môn để mời gọi người Việt Nam ở nước ngoài
tham gia và có chính sách đãi ngộ hợp lý;
+ Giới thiệu chương trình đào tạo NNL cho tỉnh. Qua đó vận động
người Việt Nam ở nước ngoài hỗ trợ tìm kiếm học bổng du học nước ngoài. Đặc
biệt, cần vận động tìm kiếm những học bổng bậc cao, đào tạo chuyên gia giỏi
cho tỉnh.
+ Khuyến khích trí thức người Việt Nam ở nước ngoài thực hiện các
chương trình chuyển giao công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin;
Tỉnh cần có những chế độ ưu tiên tiếp nhận người tài thông qua chế độ
tuyển dụng, phân bổ sử dụng và đãi ngộ hợp lý, đặc biệt tập trung ưu tiên cho
những ngành nghề như công nghệ thông tin, điện tử viễn thông, y tế, các
ngành quản lý đô thị, hành chính công, luật tài chính kế toán, du lịch, ngữ văn
báo chí, ngoại ngữ (tiếng Nhật, Hàn Quốc). Đối với những người có bằng tiến
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh
Phạm Thị Thanh Hiến 106 Khoa Kinh tế & Quản lý
sỹ, tỉnh không nên phân biệt ngành đào tạo và hộ khẩu thường trú; đối với
những người có bằng thạc sỹ không nên ràng buộc điều kiện hộ khẩu thường
trú tại tỉnh Hoà Bình.
3.2.6 Nâng cao vai trò của các cấp bộ Đảng, chính quyền, các tổ chức
đoàn thể trong phát triển nguồn nhân lực.
Trong những năm qua, thực hiện Nghị quyết TW2 (Khoá VIII) và kế
hoạch 101 (Khoá VII) cả Tỉnh uỷ về phát triển giáo dục - đào tạo, sự nghiệp
Giáo dục - đào tạo tỉnh ta đã có bước chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức
của các cấp uỷ Đảng, chính quyền, các cơ quan, ban, ngành, đoàn thể và nhân
dân các dân tộc trong tỉnh và đạt được kết quả khá toàn diện.
Trong thời gian tới cần tiếp tục nâng cao nhận thức của các cấp uỷ
Đảng, chính quyền, cán bộ, đảng viên và nhân dân các dân tộc trong tỉnh về
sự cần thiết và tầm quan trọng của công tác khuyến học, khuyến tài, xây dựng
xã hội học tập trong việc đào tạo nguồn nhân lực nhằm đáp ứng yêu cầu thời
kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; quán triệt sâu sắc nội
dung kết luận của Hội nghị TW6 (Khoá IX) về giáo dục, đào tạo. Đẩy mạnh
hơn nữa chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ
IX, nghị quyết đại hội Đảng bộ lần thứ XIII về phát triển giáo dục - đào tạo,
đảm bảo cho giáo dục - đào tạo thật sự là “Quốc sách hàng đầu” và thực sự
trở thành sự nghiệp của toàn xã hội; Đồng thời tăng cường hơn nữa sự lãnh
đạo của các cấp uỷ Đảng, chính quyền địa phương trong việc chăm lo, phát
triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo.
Công tác khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập là nhiệm vụ
của toàn Đảng, toàn dân, là mục tiêu cơ bản trong chiến lược phát triển giáo
dục của nước ta. Huy động sự tham gia của các tổ chức chính trị - xã hội, tạo
điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện mục tiêu xã hội hoá giáo dục, nâng cao
dân trí, phát triển nhân lực, đào tạo nhân tài.
Quán triệt sâu sắc nội dung Chỉ thi số 11-CT/TW của Bộ chính trị tới
các cấp uỷ Đảng, chính quyền, các ban, ngành đoàn thể và quần chúng nhân
dân làm chuyển biến nhận thức cán bộ, đảng viên và nhân dân về vai trò và
tầm quan trọng của công tác khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập.
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh
Phạm Thị Thanh Hiến 107 Khoa Kinh tế & Quản lý
Các cấp uỷ Đảng, chính quyền tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo,
tổ chức triển khai thực hiện công tác khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội
học tập nhằm huy động các nguồn lực trong xã hội tham gia vào và mang lại
những hiệu quả thiết thực.
Để thực hiện được những nội dung chủ yếu trên các cấp uỷ Đảng, chính
quyền, các tổ chức đoàn thể đã có những phương thức triển khai thực hiện
nhằm đáp ứng nhu cầu học tập và đào tạo NNL của địa phương trong những
năm tới:
+ Các địa phương cụ thể hoá các mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp xây
dựng xã hội học tập cho phù hợp với tình hình thực tế của đơn vị mình.
Thường xuyên theo dõi, kiểm tra, đôn đốc, chỉ đạo giải quyết kịp thời các khó
khăn vướng mắc trong quá trình thực hiện.
+ Phối hợp với các tổ chức, các lực lượng xã hội tham gia hoạt động
khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập. Kịp thời phát hiện, có chính
sách cụ thể để bồi dưỡng nhân tài, nhất là tài năng trẻ trên mọi lĩnh vực. Ban
hành cơ chế giao cho hội khuyến học các cấp thực hiện nhiệm vụ triển khai
phong trào khuyến học, xây dựng mô hình xã hội học tập ở cơ sở. Có biện
pháp tích cực, nội dung cụ thể giúp vùng sâu vùng xa, vùng khó khăn trong
việc triển khai xây dựng xã hội học tập.
+Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và nâng cao năng lực quản lý nhà
nước đầu tư nâng cấp cơ sở vật chất Bệnh viện đa khoa thành phố, nâng cao
trình độ y, bác sỹ nhằm giảm tải cho tuyến y tế tỉnh; xây dựng các công trình
văn hoá, thể thao như: Nhà văn hoá, sân vận động, nhà tập thể thao, thư viện,
các khu vui chơi giải trí...
+ Tăng cường việc giáo dục tư tưởng đạo đức, lối sống xây dựng môi
trường văn hoá lành mạnh trong từng gia đình, làng xóm, khu phố, trường
học. Đẩy mạnh cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn
hoá” trong đó trọng tâm là xây dựng gia đình văn hoá, làng, khu phố văn hoá,
văn nghệ, thể dục thể thao để thu hút đông đảo các tầng lớp nhân dân tham
gia, đưa phong trào vào từng làng, xóm, cụm dân cư của từng gia đình.
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh
Phạm Thị Thanh Hiến 108 Khoa Kinh tế & Quản lý
+ Thực hiện tốt chính sách hỗ trợ ưu đãi về y tế, giáo dục cho các hộ
nghèo, chính sách xã hội đối với thương binh, gia đình liệt sĩ, người có công
với cách mạng. Đẩy mạnh phong trào đền ơn đáp nghĩa, tiếp tục thực hiện có
hiệu quả chương trình xoá đói giảm nghèo, giải quyết việc làm theo hướng
tạo việc làm tại chỗ, chú trọng công tác đào tạo nghề, nâng cao chất lượng lao
động việc làm.
+ Thực hiện chính sách bình đẳng giữa các cơ sở trong và ngoài công
lập về thi đua khen thưởng, về công nhận các danh hiệu nhà nước, về đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ, về tiếp nhận, thuyên chuyển cán bộ từ khu vực công lập
sang ngoài công lập và ngược lại. Từng bước xoá bỏ biên chế trong các cơ sở
công lập, chuyển dần sang chế độ hợp đồng lao động dài hạn.
Quy định trách nhiệm của cơ sở ngoài công lập bảo đảm chất lượng và
số lượng cán bộ phù hợp với quy mô và ngành nghề, bảo đảm chế đôh bảo
hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, chế độ đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ
chuyên môn cho cán bộ, viên chức.
Các cấp uỷ Đảng, chính quyền, ban, ngành, mặt trận và đoàn thể quán
triệt, tuyên truyền sâu rộng tới cán bộ đảng viên và nhân dân tập trung thực
hiện. Ban cán sự đảng, UBND tỉnh chỉ đạo các cơ quan chức năng xây dựng
quy hoạch, kế hoạch và chương trình hành động về phát triển xã hội hoá các
lĩnh vực thuộc ngành quản lý; nghiên cứu, đề xuất chương trình hành động
của tỉnh về phát triển xã hội hoá đến năm 2015, định hướng đến năm 2020.
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh
Phạm Thị Thanh Hiến 109 Khoa Kinh tế & Quản lý
KẾT LUẬN
Trong thời đại hiện nay, phát triển NNL là một việc làm hết sức quan
trọng trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia. Vì trong ba
nhân tố đóng vai trò quyết định sự phát triển kinh tế xã hội, đó là vốn, khoa
học công nghệ và con người, thì con người (nguồn nhân lực) là yếu tố hàng
đầu của sự phát triển, nhất là trong điều kiện như hiện nay thế giới đang bước
vào nền kinh tế tri thức và sự phát triển nhanh chóng của cuộc cách mạng
khoa học công nghệ. Biết phát huy các điều kiện ưu đãi về tài nguyên thiên
nhiên, các điều kiện về kinh tế xã hội, cộng với một nguồn nhân lực tốt, chất
lượng cao là tiền đề vững chắc và là nhân tố quyết định đến tốc độ phát triển
kinh tế - xã hội của các địa phương.
Là một tỉnh miền núi Hoà Bình còn gặp nhiều khó khăn về phát triển
kinh tế. Nhưng với lợi thế là tỉnh nằm ngay cửa ngõ Tây Bắc nên Hoà Bình đã
và đang cố gắng cùng với cả nước chuyển mình để phát triển. Hiện nay nguồn
nhân lực của tỉnh bên cạnh những ưu thế như : Lực lượng lao động dồi dào,
tính cần cù, sáng tạo còn có những hạn chế nhất định, đó là chất lượng nguồn
nhân lực chưa cao thể hiện ở lực lượng lao động qua đào tạo còn thấp, kỹ
năng lao động, thể lực còn nhiều hạn chế, chưa quen tác phong văn minh
công nghiệp...vv. Những yếu tố trên đang là một thách thức không nhỏ đến sự
phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Hoà Bình.
Để phát triển NNL nhằm phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội của
tỉnh trong điều kiện hội nhập với cả nước và khu vực, cần nhanh chóng thực
hiện hàng loạt các giải pháp về giáo dục và đào tạo, giải pháp về phân bổ và
nâng cao hiệu quả sử dụng NNL, giải pháp về thu hút nguồn nhân lực bên
ngoài tỉnh, giải pháp về nâng cao tình trạng sức khoẻ, nâng cao chất lượng
dân số, tạo việc làm cho người lao động....vv. Từ những lý luận và thực tiễn
kinh nghiệm của các nước đi trước, bài học của các tỉnh bạn, Tác giả đã đề
xuất những giải pháp, những kiến nghị, đề xuất để tạo lập được một NNL tốt
nhất, nhằm phục vụ cho sự phát triển kinh tế xã hội tỉnh Hoà Bình giai đoạn
2010 - 2020 và những năm tiếp theo.
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh
Phạm Thị Thanh Hiến 110 Khoa Kinh tế & Quản lý
Tuy nhiên, các giải pháp trên chỉ có thể trở thành hiện thực khi chúng
được thực hiện trên cơ sở nhận thức đúng vị trí của nguồn nhân lực trong thời
đại ngày nay, trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực. Có thể nói,
NNL là nhân tố quyết định cho sự nghiệp CNH, HĐH của tỉnh Hoà Bình.
Luận văn với góc độ nghiên cứu về đào tạo NNL gắn với việc làm cho
phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Hoà Bình, đã kế thừa các quan điểm và lý
luận của những người đi trước. Tuy nhiên đây là vấn đề cần phải tiếp tục
nghiên cứu, bổ sung và phát triển trong quá trình thực hiện công cuộc CNH,
HĐH đất nước. Mặc dù đã có nhiều cố gắng để hoàn thành cuốn luận văn,
song chắc chắn vẫn còn những thiếu sót. Vì vậy, học viên trân trọng mong
muốn nhận được sự góp ý bổ sung của các thầy cô trong hội đồng chấm luận
văn để luận văn tiếp tục hoàn thiện về sau.
Tác giả xin chân thành cảm ơn Thầy giáo TS Phạm Cảnh Huy đã tận
tình hướng dẫn, tham gia góp ý trong quá trình nghiên cứu để hoàn thiện bản
luận văn. Xin được cảm ơn các Thầy cô giáo Trường Đại học Bách khoa Hà
Nội, cảm ơn các bạn đồng nghiệp, đã giúp đỡ em hoàn thành luận văn này.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng, nhưng luận văn không thể tránh khỏi
những khiếm khuyết. Tác giả rất mong nhận được sự góp ý của các thầy, cô
giáo, các nhà khoa học, các bạn đồng nghiệp và những người quan tâm đến
nội dung nghiên cứu của luận văn.
Xin trân trọng cảm ơn !.
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh
Phạm Thị Thanh Hiến 111 Khoa Kinh tế & Quản lý
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. PGS.TS. Đặng Quốc Bảo, TS. Đặng Thị Thanh Huyền (2005), Chỉ số phát
triển giáo dục trong HDI, cách tiếp cận và một số kết quả nghiên cứu, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
2. Hoàng Chí Bảo (1993), "ảnh hưởng của văn hóa đối với việc phát huy
nguồn lực con người", Tạp chí Triết học, (13), tr.14.
3. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (5/2005), Tuần tin Kinh tế- Xã hội-Trung tâm
thông tin và dự báo Kinh tế-Xã hội quốc gia, (5).
4. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2006), Số liệu thống kê Lao động-
Việc làm ở Việt Nam, Nxb Lao động-Xã hội.
5. Mai Quốc Chính (1999), Nâng cao chất lượng NNL đáp ứng yêu cầu
CNH, HĐH đất nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
6. Đỗ Minh Cương và Nguyễn Thị Doan (2001), Phát triển nguồn nhân lực
giáo dục đại học ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Công ty cổ
phần thông tin kinh tế đối ngoại (2005), Hoà Bình thế và lực mới trong thế
kỷ XXI. Nxb chính trị Quốc gia, Hà Nội.
7. Cục thống kê Hoà Bình (2005, 2007), Niên giám thống kê tỉnh Hoà Bình.
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh
Phạm Thị Thanh Hiến 112 Khoa Kinh tế & Quản lý
8. Đảng bộ tỉnh Hoà Bình (2006), Văn kiện đại hội đại biểu lần thứ
XIV(nhiệm kỳ 2006-2010),
9. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
10. Nguyễn Minh Đường (1996), Bồi dưỡng và đào tạo lại đội ngũ nhân lực
trong điều kiện mới, Đề tài KX.07-14, Hà Nội.
11. GS.VS Phạm Minh Hạc (2001), Về phát triển toàn diện con người thời kỳ
CNH, HĐH, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
12. TS. Đặng Thị Thanh Huyền (2001), Giáo dục phổ thông với phát triển
chất lượng nguồn nhân lực, những bài học thực tiễn từ Nhật Bản, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.
13. TS. Đoàn Khải (2005), Nguồn lực con người trong qúa trình CNH, HĐH ở
Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
14. ThS Lê Văn Hùng (2006) Nguồn nhân chất lượng cao cho phát triển kinh
tế xã hội ở thành phố Đà Nẵng Luận án thạc sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh.
15. Kết quả điều tra lao động, việc làm “Tỷ lệ thất nghiệp giảm, lao động qua
đào tạo tăng” (21/11/2005), Thời báo kinh tế Việt Nam, (231)..
16. Lê Thị ái Lâm (2003), Phát triển nguồn nhân lực thông qua Giáo dục và
Đào tạo, kinh nghiệm Đông á, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
17. V.I.Lênin (1997), Toàn tập, Tập 41, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
18. Huy Lê (09/7/2006), “Để không lãng phí nguồn lực chất lượng cao", Báo
Nhân dân, (28).
19. Hoàng Văn Liên - Hiệu trưởng trường Đại học Công nghiệp Hà Nội
(14/4/2006), “Đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao - bài toán hóc búa
của doanh nghiệp trẻ”, Báo điện tử- thời báo Kinh tế Việt Nam.
20. Nguyễn Đình Luận (2005), “Nguồn nhân lực chất lượng cao cho sự nghiệp
CNH, HĐH đất nước”, Tạp chí Nông nghiệp và phát triển Nông thôn,
(14).
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh
Phạm Thị Thanh Hiến 113 Khoa Kinh tế & Quản lý
21. Ngân hàng thế giới (2006), Báo cáo phát triển Việt Nam 2007 "Hướng tới
tầm cao mới" , Trung tâm thông tin phát triển Việt Nam, Hà Nội.
22. Ngân hàng thế giới (2007), Báo cáo phát triển Việt Nam 2008 "Bảo trợ xã
hội", Trung tâm thông tin phát triển Việt Nam, Hà Nội.
23. Phạm Thành Nghị, Vũ Hoàng Ngân (2004), Quản lý nguồn nhân lực ở
Việt Nam, một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Khoa học xã hội, Hà
Nội.
24. Quốc hội nước Cộng hoà XHCN Việt Nam (2005), Luật giáo dục, Điều 13.
25. Quản lý nguồn nhân lực ở Việt Nam (2004), Một số vấn đề lý luận và thực
tiễn, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
26. TS. Vũ Bá Thể (2005), Phát huy nguồn lực con người để CNH, HĐH, Nxb
Lao động-Xã hội, Hà Nội.
27. Thủ tướng Chính phủ ( ), Quyết định số 331/QĐ-TTg về chương trình
phát triển nguồn nhân lực về công nghệ thông tin đến năm 2010.
28. Thủ tướng Chính phủ (2005), Quyết định số 221/2005/QĐ-TTg về việc xây
dựng chương trình quốc gia phát triển nhân lực đến năm 2020.
29. PGS.TS Nguyễn Tiệp - Trường Đại học Lao động Xã hội (7/2005), “Phát
triển thị trường lao động nước ta các năm 2005-2010”, Tạp chí Nghiên cứu
Kinh tế, (326).
30. Trần Văn Tùng (2005), Đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng nguồn nhân lực tài
năng, Nxb Thế giới, Hà Nội.
31. Uỷ ban nhân dân tỉnh Hoà Bình, (2007), Kế hoạch phát triển kinh tế - xã
hội 5 năm tỉnh Hoà Bình 2006 -2010.
32. Tỉnh Uỷ Hoà Bình (2007), Các văn bản chủ yếu của tỉnh uỷ Hoà Bình
khoá XIV nhiệm kỳ 2006 -2010.
33. Trung tâm Thông tin Kinh tế - Xã hội quốc gia (9/2005), Phân tích khả
năng đạt tăng trưởng cao của nên kinh tế Việt Nam, (12).
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh
Phạm Thị Thanh Hiến 114 Khoa Kinh tế & Quản lý
34. Viện Chiến lược phát triển (2001), Cơ sở khoa học của một vấn đề trong
chiến lược phát triển kinh tế- xã hội Việt Nam đến năm 2010 và tầm nhìn
2020, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội..
35. Viện Nghiên cứu con người (2004), Quản lý nguồn nhân lực ở Việt Nam,
một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
36. Viện Nghiên cứu quản lý Kinh tế Trung ương (1999), Hướng tới một chiến
lược phát triển con người, Hà Nội.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_van_thac_si_khoa_hoc_giai_phap_phat_trien_nguon_nhan_luc_cho_phat_trien_kinh_te_xa_hoi_o_tinh_h.pdf