Luận văn Giải pháp quản lý nhà nước nhằm phát triển giao thông đường bộ ở tỉnh Xa Văn Na Khệt, Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào

GTĐB là lĩnh vực kết cấu hạ tầng chủ yếu của Lào, cần vốn đầu tư lớn, đòi hỏi kỹ thuật hiện đại, do đó Nhà nước tham gia vào thị trường như một nhân tố chủ động, tác động điều tiết từ bên trong bằng chính nguồn lực trong nước, quốc tế để phát triển hệ thống GTĐB. Nhà nước "cầm lái" cho sự vận động của GTĐB trong nền kinh tế thị trường để chủ động xây dựng, phát triển và khai thác hệ thống GTĐB hiện đại, bền vững, hỗ trợ kinh tế - xã hội - văn hoá phát triển.

pdf123 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2340 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giải pháp quản lý nhà nước nhằm phát triển giao thông đường bộ ở tỉnh Xa Văn Na Khệt, Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
kinh tế đang được củng cố. Cạnh tranh về kinh tế và khoa học kỹ thuật trở thành mặt trận có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển của mỗi đất nước. Tuy nhiên, sự hợp tác với các tỉnh trong nước, hợp tác với các nước trong khu vực và thế giới phải dựa trên các nguyên tắc tôn trọng lợi ích của cả hai bên, bình đẳng, cùng có lợi. Xa Văn Na Khệt là tỉnh có nhiều tiềm năng chưa được khai thác như du lịch và chế biến lâm thổ sản. Vì vậy, để khai thác tiềm năng đó thì hệ thống GTĐB phải phát triển đáp ứng được nhu cầu đi lại của hành khách và nhu cầu vận chuyển hàng hoá xuất nhập khẩu. Tỉnh Xa Văn Na Khệt là tỉnh nằm ở vị trí nối Bắc Lào với Nam Lào và có đường quốc lộ nối với cảng nước sâu Đà Nẵng, Chân Mây của Việt Nam, vì vậy phát triển hệ thống GTĐB của tỉnh không những đem lại lợi ích kinh tế - xã hội cho tỉnh mà còn đem lại lợi ích kinh tế - xã hội cho cả nước. Để khai thác tiềm năng về GTĐB của tỉnh, đòi hỏi QLNN về lĩnh vực này phải có chủ trương, đường lối, cơ chế huy động các nguồn lực cho xây dựng GTĐB một cách đúng đắn, thiết thực như huy động nguồn nhân lực, tài chính theo phương thức hợp tác, đầu tư trực tiếp, BOT, BTO... Mở rộng hợp tác quốc tế để xây dựng GTĐB đối với Xa Văn Na Khệt cần hướng vào huy động vốn, công nghệ xây dựng GTĐB hiện đại, các phương tiện, thiết bị máy móc cho việc xây dựng và sử dụng đội ngũ cán bộ kỹ thuật có trình độ trong xây dựng, quản lý, giám sát, đo lường, đánh giá chất lượng đường bộ, hợp tác trong nghiên cứu, đào tạo nguồn nhân lực chuyên ngành xây dựng GTĐB. Theo hướng quan điểm này, hàng loạt biện pháp cụ thể cần được thực hiện từ cấp Nhà nước Trung ương đến cấp tỉnh, huyện. 3.2.3. Xây dựng và hoàn thiện cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý giao thông đường bộ của tỉnh Xa Văn Na Khệt thiết thực, hiệu quả Để xây dựng và khai thác các tuyến đường bộ có hiệu quả thì vấn đề bộ máy, cơ chế và con người là yếu tố quan trọng, quyết định đến tính hiệu quả của mỗi con đường. Vì vậy, khi bàn về cơ cấu tổ chức bộ máy QLNN, Đảng NDCM Lào có chủ trương: "Cần phải tích cực củng cố hệ thống tổ chức bộ máy cho vững chắc, làm cho việc quản lý hành chính hiện đại và từng bước có hiệu quả cao, thực hiện chế độ phối hợp một cách hài hoà giữa các ngành Trung ương cũng như các ngành dọc và vùng lãnh thổ" [37, tr.53]. Quan điểm nêu trên có ý nghĩa to lớn, nhưng không thể thực hiện ngay một sớm một chiều, có nghĩa là việc đổi mới bộ máy, cơ chế, nhân lực phải thực hiện từng bước, từng nấc thang theo tiến trình đổi mới kinh tế, tức là phải thực hiện trong thời gian tương đối dài và phải chú ý thực hiện kèm theo những điều kiện và tiền đề nhất định. Để thực hiện từng bước những định hướng về QLNN đối với GTĐB, phải tiếp tục đổi mới toàn diện và sâu sắc, từ bỏ cách thức quản lý của cơ chế tập trung, quan liêu bao cấp không còn phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế thị trường. Trong việc xây dựng và hoàn thiện cơ cấu tổ chức bộ máy, cơ chế và nhân lực đối với quản lý GTĐB của tỉnh Xa Văn Na Khệt cần tập trung vào các vấn đề sau: Thứ nhất, tiếp tục đổi mới cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý GTĐB cho phù hợp yêu cầu của cơ chế mới và đặc thù của tỉnh trên nguyên tắc: "gọn nhẹ, nhưng vững mạnh và có hiệu quả" [37, tr.220], giảm đầu mối, bớt khâu trung gian, tinh giảm biên chế hành chính, như người Việt Nam có châm ngôn: "quý hồ tinh bất quý hồ đa". Thứ hai, phát huy nhân tố con người. Con người là trung tâm của mọi vấn đề, ở nhiều quốc gia con người được đặt vào vị trí trung tâm trong toàn bộ chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Ở các nước phát triển, đội ngũ tri thức trong lực lượng lao động chiếm tỷ trọng lớn. Làm việc với công nghệ hiện đại đòi hỏi con người phải có trình độ chuyên môn, ý thức tổ chức kỷ luật cao. Đối với Lào, trong đó có tỉnh Xa Văn Na Khệt, vừa phải chú ý sử dụng và động viên đội ngũ nhân lực QLNN có trình độ cao vừa phải làm sao để cơ chế, biện pháp quản lý phải phù hợp với truyền thống, tập tục, văn hoá của cộng đồng dân cư, phục vụ lợi ích nhân dân. Bên cạnh yếu tố con người, yếu tố về nguồn tài nguyên thiên nhiên cũng có vai trò quan trọng, đóng góp lớn cho sự phát triển của nền kinh tế. Nguồn tài nguyên của mỗi quốc gia có sự khác nhau về số lượng tài nguyên, chất lượng tài nguyên và loại tài nguyên. Các tài nguyên có thể bị cạn kiệt dần trong quá trình khai thác nếu con người thiếu ý thức bảo vệ chúng và có những tài nguyên không được khai thác và đem vào sử dụng cho sự phát triển của nền kinh tế - xã hội do con người không có đủ trình độ để khai thác và sử dụng. Do vậy yếu tố con người vẫn là yếu tố quyết định trong sử dụng tài nguyên, bảo đảm phát triển bền vững. Để đáp ứng cho sự phát triển chung của tỉnh cũng như lĩnh vực GTĐB, tỉnh cần chuẩn bị tốt hơn nữa cho chiến lược và các biện pháp về con người, cụ thể là: - Ưu tiên cho giáo dục - đào tạo: coi giáo dục là cơ sở để phát triển nguồn nhân lực có trình độ. GTĐB phải góp phần thúc đẩy giáo dục phát triển; đồng thời, tích cực đào tạo, đào tạo lại và đưa ra nước ngoài đào tạo nhân lực phát triển GTĐB. - Bên cạnh việc nâng cao trình độ học vấn, trình độ tay nghề cho nhân dân, cần phải trân trọng, phát huy những giá trị văn hoá tốt đẹp của dân tộc. Đây là yếu tố cực kỳ quan trọng để người lao động có ý thức tự tôn dân tộc, cho phép quy tụ mọi năng lực, sự sáng tạo, sự khéo léo của người lao động nhằm đưa đất nước tiến lên hoà nhập vào nền văn hoá của thế giới. Thứ ba, sự nghiệp cách mạng là sự nghiệp của toàn dân và nhằm phục vụ lợi ích của con người và vì con người. Một xã hội phát triển bền vững là một xã hội có bộ máy cầm quyền tiến bộ, vì dân đảm bảo được thu nhập tăng cao cho người dân, nhân dân có cuộc sống ấm no, có sức khoẻ tốt và có hệ thống y tế đảm bảo chăm sóc sức khoẻ... Vì vậy, phải đào tạo những cán bộ quản lý trong bộ máy nhà nước cũng như bộ máy quản lý GTĐB của tỉnh Xa Văn Na Khệt vừa có trình độ chuyên môn, vừa có đạo đức nghề nghiệp. Qua những phân tích ở trên, ta có thể thấy, để xây dựng và hoàn thiện cơ cấu tổ chức, bộ máy quản lý GTĐB cho tỉnh Xa Văn Na Khệt có hiệu quả cần: - Đào tạo những cán bộ đầu ngành có trình độ chuyên môn cao, có năng lực lãnh đạo, có đạo đức tốt, tinh thần trách nhiệm cao. - Các cán bộ phòng ban, ngoài các tiêu chí về đạo đức, phải có trình độ chuyên môn đúng với vị trí của mình và phải có trình độ vi tính và ngoại ngữ ở mức tiêu chuẩn. - Đối với đội ngũ công nhân lao động, tham gia xây dựng, bảo trì và khai thác GTĐB cần được đào tạo những lớp dài hạn và ngắn hạn để họ có thể làm chủ được những thiết bị trong quá trình làm việc. - Thường xuyên đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ cho ngành GTĐB. - Nâng cao tinh thần trách nhiệm cho cán bộ và công nhân của ngành GTĐB. - Khuyến khích đi học, đào tạo ở nước ngoài bằng nhiều con đường cho tất cả các ngành để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong đó có sự phát triển nhân lực cho ngành GTĐB của tỉnh Xa Văn Na Khệt. 3.3. CÁC GIẢI PHÁP CHỦ YẾU ĐỔI MỚI QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC NHẰM PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ Ở TỈNH XA VĂN NA KHỆT 3.3.1. Nâng cao chất lượng quy hoạch mạng lưới giao thông đường bộ Việc quy hoạch mạng lưới GTĐB ở tỉnh có liên quan đến việc quy hoạch mạng lưới đường bộ của cả nước. Bên cạnh đó, để việc quy hoạch mạng lưới GTĐB ở tỉnh được tốt, cần phải dựa vào các yếu tố quan trọng sau: - Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh giai đoạn ngắn như kế hoạch năm, trung hạn như (3 năm, 5 năm) và kế hoạch dài hạn (10 năm, 15 năm hoặc dài hơn). - Phải thu thập các số liệu về vận chuyển hàng hoá và hành khách của tỉnh qua các năm và số liệu dự báo cho các năm tiếp theo có thể đến 10 năm hoặc dài hơn. - Khi quy hoạch mạng lưới GTĐB của tỉnh, cần phải xem xét đến mạng lưới giao thông của các phương thức vận tải khác như đường sông và đường hàng không cũng như chiến lược phát triển của các phương thức vận tải này. - Khi quy hoạch GTĐB, một vấn đề cũng rất quan trọng đó nữa, là phải xem xét đến sự ảnh hưởng của các công trình GTĐB đến môi trường, cảnh quan thiên nhiên, khi xây dựng các tuyến đường bộ phải xem xét các ảnh hưởng cả về mặt tích cực và tiêu cực. - Khi quy hoạch mạng lưới đường bộ của tỉnh, phải xem xét đến GTĐB của vùng và hiện nay ở CHDCND Lào đang chọn vùng Trung Lào làm vùng trọng điểm đầu tư phát triển GTĐB. Vùng Trung Lào gồm Viêng Chăn, tỉnh Bo Li Khăm Xay, tỉnh Khăm Muộn và tỉnh Xa Văn Na Khệt. Khi quy hoạch mạng lưới GTĐB, cần chú ý là chi phí xây dựng mới các tuyến đường sẽ rất lớn, vì vậy trong quy hoạch cũng như kế hoạch, xây dựng, không đầu tư dàn trải mà chọn lộ trình ưu tiên đầu tư cho các công trình nâng cấp đường cũ, các công trình trọng điểm sẽ có hiệu quả hơn. Trong quá trình quy hoạch mạng lưới GTĐB, cần phải cân đối với nguồn ngân sách dự kiến chi cho phát triển ngành, bao gồm cả vốn vay và các nguồn vốn huy động khác, Như vậy, phải đề xuất các giải pháp tạo vốn kèm theo quy hoạch. 3.3.2. Hoàn thiện khung khổ luật pháp về giao thông đường bộ Khi nền kinh tế chuyển sang hoạt động theo cơ chế thị trường, các hoạt động kinh tế đòi hỏi phải có hệ thống luật pháp hết sức chặt chẽ. Đối với điều kiện cụ thể của CHDCND Lào lại càng đòi hỏi bức xúc về sự hoàn thiện môi trường pháp lý. Hiện nay, Lào\ đang gặp phải một số khó khăn trở ngại, đó là: - Hầu hết các chế tài cũ không còn thích hợp với quan hệ kinh tế và điều kiện đã được đổi mới. - Lào còn thiếu kinh nghiệm, thiếu các điều kiện để xây dựng chế tài mới cho phù hợp với tình hình thay đổi của nền kinh tế. Do vậy, việc hoàn thiện môi trường pháp luật ở CHDCND Lào hiện nay là quá trình vừa làm, vừa rút kinh nghiệm, vừa xây dựng mới, vừa hoàn thiện, bổ sung, vừa chú ý tổng kết kinh nghiệm trong nước vừa tham khảo kinh nghiệm nước ngoài. Xuất phát từ thực trạng ngành GTĐB ở Lào, Nhà nước cần tập trung giải quyết một số vấn đề: - Hoàn thiện Luật Đường bộ của Lào đã ban hành năm 1999. - Xây dựng Luật GTĐB phù hợp với yêu cầu mới. - Ban hành những quy định, những văn bản pháp quy về trật tự an toàn GTĐB. - Ban hành tiêu chuẩn, định mức kinh tế kỹ thuật trong xây dựng, tu bổ, bảo dưỡng đường bộ và các bộ luật các văn bản pháp quy hướng dẫn để thi hành các luật có hiệu lực. Đối với cấp tỉnh, cần kịp thời tuyên truyền, phổ biến và tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra thi hành các luật pháp về GTĐB. Ngoài ra, theo sự phân cấp, uỷ quyền của Nhà nước, nghiên cứu tư vấn cho tỉnh ban hành các chế độ quản lý GTĐB, đặc biệt là lĩnh vực giao thông nội thị, sử dụng các phương tiện vận tải thô sơ như trâu bò kéo, xe công nông... Ngoài ra, tỉnh phải ban hành các chế độ quản lý giao thông tỉnh, bảo vệ hành lang giao thông, bảo đảm an toàn giao thông đối với các tuyến tỉnh lộ, huyện lộ và giao thông nông thôn. 3.3.3. Đổi mới chính sách thu hút vốn đầu tư phục vụ cho phát triển giao thông đường bộ "Tài chính là một bộ phận cơ bản của nền kinh tế quốc dân, vừa là công cụ chủ yếu trong quản lý vĩ mô của nhà nước" [37, tr.33]. Trong lĩnh vực GTVT, Nhà nước phải tiếp tục hoàn chỉnh và thực hiện chính sách tài chính ngành tập trung bao gồm chính sách tạo vốn, chính sách thuế và chính sách tài chính tín dụng cho lĩnh vực phát triển GTĐB. Trước năm 1990, hệ thống tài chính của Lào là hệ thống tài chính phân tán, mỗi tỉnh đều có hệ thống tài chính độc lập, đại đa số các tỉnh trong nước đều gặp phải tình trạng không thể tự cân đối tài chính, mà hàng năm nhà nước vẫn phải bù đắp. Chính sách tài chính phân tán dẫn đến lạm phát trầm trọng, còn ảnh hưởng xấu đến đời sống kinh tế - xã hội hiện nay. Tiếp tục kiện toàn hệ thống chính sách tài chính quốc gia trước hết là củng cố chính sách đầu tư của nhà nước theo hướng đảm bảo hiệu quả trong đầu tư cho ngành GTVT nói chung và GTĐB nói riêng. Ngân sách gắn chặt với kế hoạch phát triển giao thông của đất nước, bảo đảm cân đối toàn quốc. Chính sách tài chính và chính sách đầu tư cho GTĐB phải nhằm huy động và sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư trong nước và quốc tế cho xây dựng, phát triển GTĐB ở Lào. Vấn đề đặt ra hiện nay là làm thế nào để thu hút vốn đầu tư nước ngoài mà vẫn đảm bảo được những định hướng lâu dài, tạo ra nguồn lực của đất nước, để chuyển dần từ vốn nước ngoài là chủ yếu sang sử dụng vốn trong nước là chủ yếu trong suốt quá trình xây dựng, phát triển hệ thống GTĐB ở Lào. Như vậy, phải sớm có một chính sách khuyến khích chung đối với tất cả nguồn vốn, tạo ra môi trường pháp lý thống nhất và sự bình đẳng trong cạnh tranh trên thị trường. Trong lĩnh vực GTĐB, các nguồn vốn đầu tư trực tiếp (FDI), đầu tư gián tiếp (FPI) và các hình thức đầu tư như BOT,BT, BTO phải được mở rộng về thể chế và có chính sách thông thoáng. Nhiều tuyến đường chính và cầu lớn như đường 9, đường 13, cầu Xa Văn Na Khệt có thể bố trí thu phí hồi vốn trả nợ và tái đầu tư nâng cấp chính các công trình này. Đối với giao thông liên huyện, liên vùng, có thể áp dụng phương thức BOT trong xây dựng cấu hoặc gọi vốn viện trợ ODA của các tổ chức phi chính phủ NGO... Những năm tới, các biện pháp tài chính, đầu tư cần tập trung vào các vấn đề sau: - Tiếp tục kiềm chế, tiến tới kiểm soát lạm phátở mức dưới hai con số, khuyến khích đầu tư để đạt tăng trưởng đều đặn đạt 7-8% năm. - Nhà nước có sự cam kết không quốc hữu hoá các doanh nghiệp tư nhân trong nước hoạt động trong khuôn khổ luật pháp, trong đó có các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực GTĐB. - Từng bước phát triển các loại thị trường như thị trường tài chính (chứng khoán), thị trường bất động sản, làm sao để hình thức đầu tư gián tiếp (bán trái phiếu, tín phiếu công trình GTĐB) thực hiện được. - Tiếp tục hoàn thiện hệ thống thuế, ưu tiên khuyến khích đầu tư trong nước ngang và hơn đầu tư nước ngoài đối với lĩnh vực GTĐB. - Cần cải cách căn bản cơ chế quản lý đầu tư GTVT, GTĐB kết hợp với cải cách kinh tế gắn với cải cách hành chính. Theo hướng này, cần phải bãi bỏ sự phiền hà đối với các chủ đầu tư trong nước cũng như các chủ đầu tư nước ngoài. Thực hiện chính sách "một cửa", công khai hoá các quy định của nhà nước, từ đó tăng hiệu lực, hiệu quả QLNN nói chung và QLNN trong xây dựng và phát triển hệ thống GTĐB ở Lào nói riêng. Trong điều kiện của CHDCND Lào, GTĐB chưa phát triển và đang thiếu vốn, vì vậy để khuyến khích mọi tầng lớp dân cư đầu tư làm giàu trong khuôn khổ luật pháp thì thuế là một công cụ tài chính quan trọng của nhà nước và thuế cần có sự thay đổi theo hướng: + Ai đầu tư vốn lớn, giải quyết nhiều công ăn việc làm cho người lao động thì sẽ được ưu đãi hưởng mức thuế suất thấp hơn. + Từng bước thay thuế doanh thu bằng thuế giá trị gia tăng. + Hạ thấp thuế suất trong khuôn khổ cho phép để có thể thu được tổng số thuế lớn hơn. + Nghiên cứu áp dụng các thuế trực thu như thuế tài sản, thuế thu nhập để đẩy nhanh tích luỹ NSNN, tạo vốn đầu tư các công trình công cộng từ nội lực. Trong điều kiện kinh tế thị trường của Lào hiện nay đang từng bước hoà nhập vào thị trường khu vực và thế giới, cạnh tranh trên thị trường đang diễn ra mạnh mẽ và phức tạp, các cơ sở GTVT của Lào còn yếu kém, điều đó đòi hỏi nhà nước cần có chính sách bảo hộ sản phẩm trong nước thông qua giá cước vận tải, thuế thu nhập, thuế ưu đãi, giảm thuế xuất khẩu sản phẩm, thuế nhập khẩu vật tư, thiết bị, máy móc. Theo hướng này, một số hàng hoá đặc biệt phải áp dụng trợ cước vận tải như nhu yếu phẩm cho miền núi, hàng hoá phục vụ các dự án xoá đói giảm nghèo... 3.3.4. Đổi mới và nâng cao hiệu quả quản lý xây dựng và phát triển giao thông đường bộ Như ở chương 2 đã chỉ rõ, trong quá trình xây dựng và phát triển hệ thống GTĐB ở tỉnh Xa Văn Na Khệt trong những năm qua ta thấy nổi lên vấn đề cần được quan tâm, đó là trình độ, năng lực thấp về quản lý, phương pháp quản lý và bộ máy quản lý trong xây dựng, quản lý GTĐB đường bộ ở tỉnh. - Về trình độ quản lý trong xây dựng GTĐB. Ở CHDCND Lào cũng như ở tỉnh Xa Văn Na Khệt đã có các kỹ sư, thạc sĩ và tiến sĩ chuyên ngành GTĐB, nhưng con số đó còn quá khiêm tốn để đảm đương một công việc lớn đòi hỏi phải có nhiều kỹ sư chuyên ngành có trình độ thực sự. Số kỹ sư có trình độ chuyên ngành GTĐB là 12 người, trong khi đó diện tích của tỉnh là 21.774 km2 và số km đường phải xây dựng, nâng cấp, sửa chữa hàng năm rất lớn (352 km). Đó là vấn đề còn yếu hiện nay. Để phát triển hệ thống GTĐB trong những năm tới, cần có sự tăng cường về số lượng cũng như trình độ chuyên môn cho đội ngũ quản lý bằng các biện pháp như, nâng cao trình độ từ trung cấp lên đại học, từ đại học lên cao học và cao hơn cũng như đào tạo, tuyển dụng mới kỹ sư chuyên ngành GTĐB cho tỉnh. - Về phương pháp quản lý. Đây cũng là một vấn đề có liên quan đến hiệu quả quản lý trong xây dựng và phát triển hệ thống GTĐB ở tỉnh. Do kinh tế hàng hoá kém phát triển trong một thời gian dài, do tập tục, truyền thống lâu đời của người Lào, tính năng động trong mỗi con người không được phát huy và thay vào đó là tính trì trệ, ỷ lại ăn sâu bám rễ vào cách thức quản lý trong bộ máy quản lý của các ngành, trong đó có GTĐB. Vì vậy, đổi mới phương pháp quản lý là đổi mới tư duy trong mỗi con người và công việc này phải làm dần dần trong thời gian có thể ngắn hoặc dài tuỳ theo quyết tâm và phương pháp đổi mới. Trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần hiện nay thì phương pháp quản lý phải đổi mới theo hướng sử dụng phương pháp kinh tế là chính để phù hợp với nền kinh tế và quản lý tài chính. Đây là giải pháp quản lý hết sức quan trọng vì nó liên quan đến việc huy động vốn của cá nhân và vốn ngân sách, vốn vay của các tổ chức quốc tế và phải lựa chọn kế hoạch tài chính đúng đắn, phải cân nhắc các nguồn lực hiện có và tương lai, khi có phương pháp quản lý đúng đắn mới có đường lối phát triển cũng như chiến lược trong tương lai. - Về bộ máy quản lý. Tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức bộ máy quản lý GTĐB ở tỉnh theo hướng gọn nhẹ, nhưng vững mạnh và có hiệu quả. Muốn thực hiện được biện pháp này một cách tốt nhất đòi hỏi mỗi người phải có sự đổi mới về trình độ, cách quản lý... Bộ máy quản lý phải đáp ứng được yêu cầu mở cửa của nền kinh tế, vì vậy cần: - Mở rộng các hình thức học tập thường xuyên, quan tâm đào tạo và đào tạo lại công nhân kỹ thuật, công nhân lành nghề. - Mở rộng hợp tác quốc tế trong đào tạo và đào tạo lại cán bộ, công nhân kỹ thuật dưới nhiều hình thức. - Cần tập trung đào tạo lại cho số cán bộ quản lý, công nhân kỹ thuật bằng nhiều hình thức linh hoạt để họ nhanh chóng nắm bắt những kiến thức mới đáp ứng được với yêu cầu mới của nền kinh tế thị trường. 3.3.5. Nâng cao trình độ hoạch định chính sách, tạo điều kiện phát triển giao thông đường bộ Như ở phần trên đã phân tích, để công tác quản lý đạt được hiệu quả cao, cần nâng cao trình độ cán bộ QLNN, trình độ hoạch định chính sách là một yếu tố quan trọng. Bởi vì mọi hoạt động của nền kinh tế - xã hội trong đó có GTVT nói chung và GTĐB nói riêng đều phải theo đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Vì vậy, vấn đề nâng cao trình độ cho cán bộ QLNN, trình độ hoạch định chính sách là một việc làm cần thiết. Trước mắt cần tập trung vào hai khâu chủ yếu sau: Thứ nhất, nâng cao trình độ chuyên môn các nhà quản lý, hoạch định chính sách ở tỉnh để đủ năng lực xây dựng, hoạch định chính sách quản lý, chính sách phát triển ngành. Xuất phát từ thực trạng đội ngũ cán bộ, công chức của ngành GTĐB cần tiến hành rà soát lại về trình độ được đào tạo, chuyên ngành đào tạo, độ tuổi, số lượng. Trên cơ sở đó và nhu cầu về trình độ cán bộ chuyên ngành GTĐB của tỉnh và nhu cầu về số lượng cán bộ mà xác định quy mô, nội dung, chương trình và hình thức đào tạo cho phù hợp với yêu cầu của sự phát triển ngành GTĐB của tỉnh. Thứ hai, do sự phát triển của nền kinh tế cả nước cũng như ở tỉnh nên có sự hợp tác với các nước. Vì vậy sự phát triển của khoa học - công nghệ trong xây dựng GTĐB là một yếu tố khách quan và các cán bộ quản lý ngành GTĐB của tỉnh phải nắm bắt được những vấn đề mới của khoa học - công nghệ trong xây dựng, duy tu bảo dưỡng hệ thống GTĐB. Nhà hoạch định chính sách phát triển GTĐB của CHDCND Lào cũng như tỉnh Xa Văn Na Khệt phải đảm bảo được các yêu cầu: Phù hợp với thực tế và thiết thực; đảm bảo sự phát triển của hệ thống GTĐB nhất quán; đảm bảo tính kịp thời, ổn định, không bảo thủ, không trì trệ; vận hành chính sách thông suốt hiệu quả. 3.3.6. Đổi mới quản lý nhà nước theo hướng mở rộng hợp tác quốc tế nhằm phát triển hệ thống giao thông đường bộ Để việc đổi mới QLNN theo hướng mở rộng hợp tác quốc tế đạt hiệu quả nhằm phát triển hệ thống GTĐB ở tỉnh Xa Văn Na Khệt cần áp dụng các hệ pháp sau: - Xác định nhu cầu tTranh thủ tối đa nguồn vốn bên ngoài bằng nhiều hình thức: Thực tế cho thấy khó khăn lớn nhất trong giai đoạn đầu của các nước đang phát triển là nhu cầu đầu tư xây dựng lớn trong khi đó nguồn vốn trong nước quá nhỏ để đáp ứng được yêu cầu đó. Theo các chuyên gia kinh tế, một nước như Lào muốn giữ được tốc độ tăng trưởng ổn định ở mức trung bình thì phải giữ được mức đầu tư trong GDP là (15-25%) mà chỉ có nhà nước mới có thể quyết định trong việc huy động các nguồn vốn đầu tư đó. Nguồn vốn từ bên ngoài được coi là yếu tố quan trọng để phát triển kinh tế của nước đó, nguồn này gồm các khoản viện trợ của các tổ chức quốc tế và vốn vay nước ngoài. Muốn vậy, phải tính toán xác định nhu cầu huy động vốn nước ngoài cho phát triển kinh tế nói chung và cho lĩnh vực GTĐB nói riêng. Sau đó là xác định rõ các hình thức đầu tư, huy động vốn cụ thể phù hợp với nền kinh tế. Đối với Xa Văn Na Khệt, để phát triển GTĐB, toàn bộ vốn đầu tư cho các công trình trọng điểm phải lấy từ nguồn vốn nước ngoài. Về hình thức đầu tư, ngoài các hình thức đã có, cần mở rộng hình thức trái phiếu, tín phiếu công trình, đồng thời cho phép các hình thức đầu tư trực tiếp theo phương thức BOT, BT đối với các công trình nhỏ và vừa. Riêng đối với vùng nghèo, ưu tiên viện trợ ODA. - Khuyến khích hơn nữa đầu tư trực tiếp của nước ngoài vào lĩnh vực giao thông đường bộ: Trong điều kiện kinh tế của tỉnh không có vốn để đáp ứng nhu cầu xây dựng GTĐB thì việc khuyến khích đầu tư trực tiếp của nước ngoài trong lĩnh vực này là rất cần thiết bởi vì nguồn vốn này có lợi thế là không phải lo hoàn vốn và trả lãi và vẫn đảm bảo kinh tế tăng trưởng, và có thêm kiến thức trong khoa học kỹ thuật và khoa học quản lý và tránh được tình trạng phụ thuộc quá nhiều vào viện trợ của nước ngoài. Theo kinh nghiệm của nhiều nước, đặc biệt là của Việt Nam về khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài, muốn phát triển GTĐB thì không thể thiếu vốn đầu tư trực tiếp từ bên ngoài. Tỉnh Xa Văn Na Khệt có đường quốc lộ 9 thông với cảng nước Sâu Việt Nam. Vì vậy Chính phủ Lào rất ủng hộ việc đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực GTĐB ở tỉnh, chẳng hạn cho phép đàu tư khai thác thu phí vận tải và duy tu, bảo dưỡng, nâng cấp đường. Hoặc khuyến khích đầu tư các trạm trung chuyển vận tải, kho ngoại quan... Tuy nhiên, muốn nguồn vốn đầu tư mang lại hiệu quả cao thì phải nâng cao trình độ quản lý, trình độ khoa học kỹ thuật cho cán bộ quản lý dự án. - Nâng cao hiệu quả quản lý vốn viện trợ nước ngoài: Với các nước đang phát triển rất khó khăn về vốn để xây dựng các công trình nói chung và xây dựng hệ thống GTĐB nói riêng, các nước phát triển như Nhật, Mỹ... và các tổ chức quốc tế như ADB, WB, IMF luôn có sự hỗ trợ về vốn gọi là vốn viện trợ nước ngoài ODA. Nguồn vốn này được viện trợ cho nhà nước và sau đó nhà nước phân bổ cho các ngành. Thực tế cho thấy, các nước đang phát triển có trình độ quản lý còn yếu kém và nhất là khi quản lý một số vốn lớn, nếu người quản lý không có trình độ chuyên môn và không có đạo đức thì vốn bị thất thoát rất lớn. Bài học kinh nghiệm trong quản lý vốn ODA phát triển GTĐB của PMU18 ở Việt Nam cho thấy, quản lý yếu kém lĩnh vực này có tác hại nhiều chiều. Vì vậy, việc quản lý tốt nguồn vốn viện trợ nước ngoài ODA đối với Xa Văn Na Khệt là rất bức thiết để mang lại hiệu quả cho sự phát triển chung của xã hội. Mặt khác, nếu quản lý vốn không tốt sẽ mất lòng tin với nước chủ vốn và việc viện trợ tiếp theo cũng rất khó khăn, vì vậy vốn viện trợ của nước ngoài phải được quản lý chặt chẽ. Muốn vậy, Nhà nước Lào phải gấp rút hoàn thiện thể chế và mô hình quản lý ODA trong lĩnh vực GTĐB. Về phía tỉnh, cần tích cực tham gia quản lý, giám sát đầu tư; đối với các công trình do tỉnh quản lý, phải có bộ máy và nhân lực đủ đức, đủ tài tham gia thực hiện dự án. 3.3.7. Hoàn thiện bộ máy quản lý nhà nước đối với ngành Như ở chương 2 đã phân tích, bộ máy quản lý ở các cấp, các ngành có cơ cấu chưa hợp lý, vì vậy việc hoàn thiện bộ máy quản lý ngành là một việc làm cấp thiết để các hoạt động của ngành được thuận lợi và đạt hiệu quả cao. Vì vậy, Đảng NDCM Lào đã có chủ trương cải cách, hoàn thiện tổ chức bộ máy quản lý vững chắc theo hướng: gọn nhẹ nhưng vẫn thuận lợi, hoạt động có hiệu quả. Về giải pháp, cần thực hiện các giải pháp sau: - Gấp rút hoàn thiện mô hình bộ máy QLNN đối với ngành GTVT nói chung và GTĐB nói riêng: Trong nền kinh tế thị trường có nhiều thành phần kinh tế cùng hoạt động trong một lĩnh vực, vì vậy vấn đề quản lý có những điểm mới. Ở CHDCND Lào, cơ chế quản lý kinh tế đang từng bước được đổi mới theo xu hướng sâu rộng, triệt để phù hợp với đặc điểm nền kinh tế - xã hội của Lào. Đối với GTVT nói chung và GTĐB nói riêng đã được Đảng NDCM Lào xem là ngành mũi nhọn, phải đi trước một bước và do đặc thù của CHDCND Lào về điều kiện tự nhiên, chủ yếu là núi và cao nguyên, nên việc phát triển GTĐB là chủ yếu. Ở Sở GT,VT, BĐ và XD của tỉnh cần có bộ phận chuyên trách độc lập chuyên về GTĐB. Ở cấp huyện, cần thống nhất mô hình và có phân công cán bộ phụ trách chuyên ngành. Ngoài ra, để phát triển GTĐB thì yêu cầu về vốn là rất lớn, vì vậy phải mở rộng quan hệ quốc tế và hợp tác với các nước trên nguyên tắc bình đẳng và các bên cùng có lợi. Để việc mở rộng quan hệ, hợp tác với nước ngoài có hiệu quả thì cần lập thêm cục, vụ, sở chuyên trách về công tác đó như cục hoặc vụ quan hệ hợp tác quốc tế và đối với ngành GTVT ở cục cầu đường nên thêm sở quan hệ hợp tác quốc tế cùng với việc hoàn thiện cơ cấu tổ chức bộ máy, tập trung xây dựng, tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật, phương tiện phục vụ cho công tác QLNN trong ngành GTVT nói chung và GTĐB nói riêng theo hướng hiện đại hoá. - Lựa chọn cán bộ quản lý đủ năng lực: Cán bộ quản lý ở các ngành, các cấp cũng như cán bộ quản lý của ngành GTVT nói chung và GTĐB nói riêng phải có đủ năng lực lãnh đạo, năng lực chuyên môn và phải có đạo đức. Do điều kiện lịch sử, trước đây khi chọn cán bộ nhà nước nói chung và cán bộ ngành GTĐB thì ta vẫn nặng về lý lịch, còn về mặt chuyên môn chưa được chú trọng đúng mức, vì vậy đã phải trả giá, đó là đội ngũ cán bộ vừa thừa vừa thiếu. Thừa những cán bộ không đủ năng lực và thiếu những cán bộ có năng lực, trong khi đó người có năng lực không được sắp xếp đúng vị trí. Ở CHDCND Lào số cán bộ có năng lực rất thiếu, vì vậy phải có những giải pháp trong công tác đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ để đáp ứng được yêu cầu của sự phát triển nền kinh tế thị trường. Hiện nay ở Lào còn thiếu cán bộ khoa học - kỹ thuật, cán bộ quản lý giỏi, cán bộ vừa có trình độ chuyên môn và ngoại ngữ để hợp tác với nước ngoài, thiếu cán bộ xây dựng chiến lược, kế hoạch, quy hoạch, thiếu cán bộ tổng hợp có trình độ giỏi để giúp lãnh đạo trong việc xây dựng đường lối, chính sách. Vì vậy phải có quan điểm đổi mới và phương pháp khoa học trong đánh giá và lựa chọn cán bộ. Đây là một việc làm khó khăn, phức tạp nhưng không phải không làm được. Như quan điểm của Đảng NDCM Lào: "Phải đổi mới quan điểm đánh giá cán bộ mà trong đó phải lấy hiệu quả thực hiện nhiệm vụ chính trị làm thước đo đạo đức và khả năng của cán bộ" [47, tr.50]. Để thực hiện tốt quan điểm trên, theo chúng tôi, việc lựa chọn cán bộ nên tiếp tục được đổi mới theo quan điểm: đánh giá lựa chọn cán bộ đúng, chính xác phải xem xét toàn diện, khách quan, lịch sử và phát triển; coi hiệu quả trong việc thực hiện nhiệm vụ chính trị, trung thực với Đảng với dân tộc làm thước đo đạo đức và năng lực của cán bộ, từ đó có giải pháp lựa chọn cán bộ cho ngành. Đối với ngành GTĐB thì tiêu chuẩn để lựa chọn cán bộ quản lý ngành, có những điểm chung cho cán bộ quản lý nói chung và có những điểm riêng cho ngành. Đối với các ngành nói chung một cán bộ muốn hoàn thành tốt công việc mà Đảng và nhân dân giao phó thì phải có tâm huyết, trung thực, hiểu biết về công việc được giao và phải có sức khoẻ. Với ngành GTVT nói chung và GTĐB nói riêng cán bộ quản lý phải đạt được những tiêu chuẩn như sau: Thứ nhất, về phẩm chất đạo đức. Đạo đức của con người được hiểu là "những tiêu chuẩn nguyên tắc được dư luận xã hội thừa nhận, quy định hành vi quan hệ của con người đối với nhau và đối với xã hội" [32, tr.280]. Từ đó ta có thể đưa ra tiêu chuẩn phẩm chất đạo đức cán bộ quản lý ngành GTVT là: - Quán triệt và chấp hành tốt đường lối, chủ trương, chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước Lào. - Trung thực: đây là một tiêu chuẩn trong phẩm chất đạo đức của con người - đối với cán bộ quản lý GTVT cần có tiêu chuẩn này mới mang lại lợi ích cho ngành, cho đất nước và dân tộc như trung thực trong việc lập kế hoạch, quyết toán công trình. - Có tinh thần trách nhiệm trong các phần việc được giao, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, đề cao cảnh giác cách mạng, giữ gìn bí mật quốc gia. Thứ hai, về năng lực chuyên môn. - Phải hiểu biết sâu sắc công việc quản lý giao thông vận tải, nắm được trình độ chuyên môn của các cán bộ dưới quyền, biết sử dụng và tập hợp các chuyên gia giỏi, có kiến thức về kinh tế thị trường và các ngành có liên quan. - Có năng lực tổ chức triển khai: hiểu biết công việc được giao đầy đủ, phải biết phân chia chức năng một cách khoa trong tập thể, xây dựng mối quan hệ đúng đắn trong tập thể đơn vị, phải gương mẫu tôn trọng và giữ nghiêm kỷ luật. Như Bác Hồ đã nói: "Có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó, có tài mà không có đức là người vô dụng" [30, tr.65]. Vì vậy, khi đánh giá cán bộ quản lý ta cần chú trọng cả hai mặt là phẩm chất đạo đức và năng lực chuyên môn. KẾT LUẬN Chuyển sang nền kinh tế thị trường là quá trình mang tính tất yếu khách quan, là sự tiến bộ của đời sống kinh tế - xã hội ở CHDCND Lào. Để đáp ứng được sự phát triển của nền kinh tế, đòi hỏi có sự chuyển biến sâu sắc trong nhận thức của mỗi con người, trong đó một yếu tố rất quan trọng cần có sự đổi mới, đó là đổi mới QLNN. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng NDCM Lào năm 1986 đánh dấu bước chuyển cơ bản về quan điểm, có ý nghĩa như một cuộc cách mạng toàn diện, sâu sắc về lý luận và thực tiễn. Đó là sự vận dụng và phát triển những di sản tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin, cùng với sự tổng kết thực tiễn ở CHDCND Lào, khai thác và kế thừa những kiến thức khoa học hiện đại để xây dựng mô hình đổi mới hiện đại, phù hợp. Đại hội Đảng IV đã đề ra hệ thống quan điểm về cơ cấu ngành GTVT và cơ chế quản lý mới, đã mở ra bước ngoặt trong đời sống kinh tế nói chung ở CHDCND Lào. Những quan điểm đó được bổ sung, hoàn thiện tiếp theo ở nhiều văn kiện của Đảng, Nhà nước và trong các Đại hội V và VI của Đảng NDCM Lào. CHDCND Lào mới chuyển sang nền kinh tế thị trường từ một nền kinh tế tự cấp tự túc, trình độ thấp nên trong cách thức quản lý còn có những hạn chế do lịch sử để lại, vì vậy việc nghiên cứu, học tập cách quản lý của các nước phát triển và các nước láng giềng đối với việc phát triển hệ thống GTĐB ở CHDCND Lào ở tỉnh Xa Văn Na Khệt là hết sức cần thiết. Bước sang nền kinh tế thị trường, Lào còn gặp nhiều khó khăn như phương thức quản lý, khoa học, công nghệ... Vì vậy để có những bước đi vững chắc thì Nhà nước Lào vừa thúc đẩy sự hình thành, phát triển hệ thống thị trường với trật tự tiến bộ và ngày càng văn minh, vừa tạo thực lực công cụ điều tiết để từng bước tạo nên nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước. GTĐB là lĩnh vực kết cấu hạ tầng chủ yếu của Lào, cần vốn đầu tư lớn, đòi hỏi kỹ thuật hiện đại, do đó Nhà nước tham gia vào thị trường như một nhân tố chủ động, tác động điều tiết từ bên trong bằng chính nguồn lực trong nước, quốc tế để phát triển hệ thống GTĐB. Nhà nước "cầm lái" cho sự vận động của GTĐB trong nền kinh tế thị trường để chủ động xây dựng, phát triển và khai thác hệ thống GTĐB hiện đại, bền vững, hỗ trợ kinh tế - xã hội - văn hoá phát triển. Đối với Xa Văn Na Khệt, GTĐB giữ vai trò là động lực thúc đẩy cho nền kinh tế - xã hội của tỉnh phát triển. Với nền kinh tế thị trường, GTĐB là ngành không thể thiếu được trong sự thúc đẩy sản xuất hàng hoá và lưu thông hàng hoá. Đặc biệt tỉnh Xa Văn Na Khệt có các tuyến đường quốc lộ 9 và 13 rất quan trọng để xuất nhập khẩu hàng hoá thông qua cảng biển Việt Nam và giao lưu với các nước láng giềng khác như Thái Lan, Campuchia. Để nâng cao hiệu lực QLNN trong phát triển GTĐB của cả nước nói chung và của tỉnh Xa Văn Na Khệt nói riêng, có nhiều nhân tố tác động như: hệ thống pháp luật, cơ chế chính sách quản lý của nhà nước, kỹ thuật, công nghệ, cơ sở vật chất kỹ thuật, trình độ cán bộ, hợp tác quốc tế... Trong đó, đội ngũ cán bộ QLNN chuyên ngành có vai trò quan trọng trong sự phát triển hệ thống GTĐB. Nền kinh tế thị trường còn mới mẻ đối với Lào, kiến thức, kỹ năng về QLNN đối với GTĐB lại càng mới mẻ đối với cán bộ ở tỉnh Xa Văn Na Khệt, vì vậy việc đào tạo mới, đào tạo lại đội ngũ cán bộ quản lý là một việc làm thiết thực và cấp bách. Bên cạnh đó để việc quản lý có hiệu quả thì một yếu tố quan trọng nữa là phải đổi mới chính sách sử dụng đội ngũ cán bộ đúng người, đúng việc, huy động được nguồn vốn và sự tham gia của cả trong nước và quốc tế, của các thành phần vào sự nghiệp phát triển GTĐB. Thấy được tầm quan trọng của sự phát triển hệ thống GTĐB ở tỉnh Xa Văn Na Khệt, tôi đã nghiên cứu vấn đề đó thông qua luận văn "Giải pháp quản lý nhà nước nhằm phát triển giao thông đường bộ ở tỉnh Xa Văn Na Khệt, Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào". Đây là đề tài mà ở tỉnh chưa có ai nghiên cứu, nhưng là một vấn đề có ý nghĩa thực tiễn to lớn. Đề tài đã nghiên cứu cơ sở lý luận, thực trạng QLNN đối với GTĐB ở tỉnh, xác định nguyên nhân dẫn đến việc QLNN yếu kém đối với GTĐB ở tỉnh, từ đó đưa ra phương hướng, quan điểm và các giải pháp QLNN nhằm phát triển hệ thống GTĐB tỉnh Xa Văn Na Khệt. Các giải pháp đã được đề xuất trong luận văn mang tính liên ngành và hệ thống, do vậy, việc thực hiện chúng đòi hỏi nỗ lực và phối hợp của Nhà nước Trung ương và lãnh đạo Tỉnh ủy như phối hợp của nhiều ngành QLNN khác của tỉnh. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO A. PHẦN TIẾNG VIỆT 1. Bộ Giao thông Vận tải - Viện Chiến lược và Phát triển giao thông vận tải (1995), Cơ chế chính sách phát triển giao thông vận tải, Đề tài KC-04, Hà Nội. 2. Bộ Giao thông vận tải (1995), Giao thông vận tải Việt Nam năm 2000, Nxb Giao thông vận tải, Hà Nội. 3. Bộ Giao thông Vận tải - Viện Chiến lược và Phát triển giao thông vận tải (1999), Phát triển giao thông vận tải hướng tới thế kỷ XXI, Hà Nội. 4. Bộ Giao thông vận tải (1999), Định mức và sửa chữa thường xuyên đường bộ, Hà Nội. 5. Bun Nương Khu Kham (1991), Giao thông vận tải trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội Cộng hoà Dân chủ nhân dân Lào, Luận án PTSKH-KT, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 6. Bua-sỷ Lo-văn-xay (1993), Dự báo khối lơnựg vận chuyển hàng hoá của Lào từ nay đến năm 2000, Luận án PTSKH-KT, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 7. Bun Thoỏng Đi-vi-xay (1999), "Cổ phần hoá, hiện đại hoá ở Cộng hoà Dân chủ nhân dân Lào", Tạp chí nghiên cứu lý luận, (11), Hà Nội. 8. Cơ chế thị trường và vai trò nhà nước trong nền kinh tế thị trường Việt Nam (1994), Nxb Thống kê, Hà Nội. 9. Cơ quan Hợp tác quốc tế Nhật Bản - CHXHCN Việt Nam, Bộ Giao thông vận tải, Viện Chiến lược phát triển giao thông vận tải (2000), Báo cáo chính, Tập 1, Hà Nội. 10. Cơ quan Hợp tác quốc tế Nhật Bản - Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Bộ Giao thông vận tải, Viện Chiến lược phát triển GTVT (2000), Báo cáo chính, Tập 2, Hà Nội. 11. Cục Đường bộ Việt Nam (1999), Báo cáo về quy hoạch, xây dựng và quản lý hệ thống đường bộ các tỉnh phía Bắc. 12. Nghiêm Văn Dĩnh (1997), Kinh tế xây dựng công trình giao thông, Nxb GTVT, Hà Nội. 13. Nghiêm Văn Dĩnh (1997), Quản lý nhà nước đối với giao thông vận tải, Nxb GTVT, Hà Nội. 14. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 15. Đảng Nhân dân cách mạng Lào (1986), Văn kiện Đại hội Đảng Nhân dân cách mạng Lào lần thứ IV, Viêng Chăn. 16. Đảng Nhân dân cách mạng Lào (2001), Văn kiện Đại hội Đảng nhân dân cách mạng Lào lần thứ VII, Nxb Nhà in nhà nước, Viêng Chăn. 17. Tô Tử Hạ (1993), "Cải cách tổ chức và quản lý bộ máy hành chính nhà nước Việt Nam", Tạp chí quản lý nhà nước, (1). 18. Khăm Phăn Chia A (2001), Giao thông vận tải trong phát triển kinh tế hàng hóa ở tỉnh Luang Nặm Tha (Cộng hoà Dân chủ nhân dân Lào), luận văn thạc sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 19. Khăm Phong But Đa Vông (1998), Tiếp tục đổi mới quản lý ngân sách nhà nước ở Cộng hoà Dân chủ nhân dân Lào, Hà Nội. 20. Kong Kẹo Xay Sông Kham (1999), Một số giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ hoạch định chính sách quản lý nhà nước về kinh tế ở Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào, Kỷ yếu đề tài khoa học cấp Bộ (1998- 1999), Khoa học quản lý kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. 21. V.I.Lênin (1976), Toàn tập, Tập 3, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. 22. V.I.Lênin (1981), Toàn tập, Tập 28, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. 23. V.I.Lênin (1998), Bàn về kiểm kê, kiểm soát, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 24. Đặng Ngọc Lợi (1995), Chức năng quản lý nhà nước về kinh tế trong quá trình chuyển sang kinh tế thị trường ở nước ta, Luận án PTS, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 25. C.Mác - Ph.Ăngghen - V.I.Lênin (1983), Bàn về Giao thông vận tải, Nxb Sự thật, Hà Nội. 26. C.Mác (1985), Tư bản, Quyển 2, Tập 2, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. 27. C.Mác - Ph.Ăngghen (1980), Tuyển tập, Tập 1, Nxb Sự thật, Hà Nội. 28. Hồ Chí Minh (1980), Tuyển tập, Tập 1, Nxb Sự thật, Hà Nội. 29. Hồ Chí Minh (1980), Tuyển tập, Tập 2, Nxb Sự thật, Hà Nội. 30. Hồ Chí Minh (1990), Về vấn đề giáo dục, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 31. Hồ Chí Minh (1990), Về giao thông vận tải, Nxb Giao thông vận tải, Hà Nội. 32. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, Tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 33. Vai trò nhà nước trong phát triển kinh tế các nước ASEAN (1994), Nxb Thống kê, Hà Nội. 34. Viện Chiến lược phát triển (2001), Cơ sở khoa học của một số vấn đề trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam đến năm 2010 và tầm nhìn 2020, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. TÀI LIỆU THAM KHẢO TIẾNG LÀO (Dịch sang tiếng Việt Nam) 35. Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng trước Đại hội V của Đảng NDCM Lào, Tạp chí Alunmày, Viêng Chăn, 2/4/1991. 36. Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng trước Đại hội VI của Đảng NDCM Lào, Tổng Bí thư Cay Sỏn Phôm Vi Hản, Tạp chí Alunmày (số đặc biệt số 2, 4/1991), cơ quan lý luận và chính trị của Đảng NDCM Lào. 37. Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng trước Đại hội VI của Đảng NDCM Lào, Viêng Chăn, 3/1996. 38. Tài liệu Đại hội VI của Đảng NDCM Lào, Nhà in quốc gia 1/7/1996. 39. Tài liệu Đại hội VII của Đảng NDCM Lào, Nhà in quốc gia, 25/4/2004, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội tới năm 2020-2010 và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm lần thứ V (2001-2005) (do đồng chí Bua Thong Vông Lo Khăm, Chủ tịch Uỷ ban Kế hoạch quốc gia). 40. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của CHDCND Lào tới 2020, Uỷ ban Kế hoạch quốc gia, Viện nghiên cứu kinh tế quốc gia, Viêng Chăn, 1999. 41. Cay Sỏn Phôm Vi Hẳn, Bài phát biểu tại Đại hội cả nước, Viêng Chăn, 6/1990. 42. Kị Khăm Vông Xay, Thứ trưởng Bộ Tài chính, "Tình hình quản lý và sử dụng nguồn vốn nước ngoài trong những năm qua", Tạp chí Tài chính, số 1, tháng 12/1995, Bộ Tài chính, Nhà in Đao Vi Lay, Viêng Chăn, 1995. 43. Tổng kết số cán bộ cả nước của ngành GTVT, Bưu điện, Xây dựng (bao gồm Bộ, Sở GTVT, Bưu điện và Xây dựng tỉnh và huyện, (số 495/Cục KHTC, Bộ GTVT, Bưu điện và xây dựng), Cục Kế hoạch - ngân sách, Viêng Chăn, 31/8/2000. 44. Tổng kết con số cuối cùng (địa điểm) từ năm 1996-2000 của ngành GTVT, Bộ GTVT, Bưu điện và Xây dựng, Cục Kế hoạch và Ngân sách (số 490/Cục Kế hoạch - Ngân sách), Viêng Chăn 1/8/2001. 45. Về tài chính: Chi phí xây dựng cơ bản nhà nước đầu tư, Bộ GTVT, Bưu điện và Xây dựng (số 2938/GTVT, Bưu điện, Xây dựng), 4/9/2000. 46. Về tài chính: Thu nhập kinh doanh, Bộ GTVT, Bưu điện và Xây dựng, số 2938/GTVT, Bưu điện, Xây dựng, 4/9/2000. 47. Về Tổ chức: Cán bộ công chức cả nước của ngành GTVT, BĐ và xây dựng (Bộ, Sở GTVT, BĐ & XD tỉnh và huyện), Bộ GTVT, BĐ &Xây dựng Viêng Chăn, 4/9/2000. 48. Tổng kết đánh giá phương hướng nhiệm vụ về công tác tổ chức cán bộ công chức của Bộ Nông nghiệp - Nghề thủ công, Viêng Chăn, 13/3/1995. 49. Báo cáo về tình hình tổ chức thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 1998-1999 và đặt kế hoạch 1999-2000 trước Hội nghị lần thứ 4 thường kỳ của Quốc hội, nhiệm kỳ, ngày 30/9 - 14/10/1999, Viêng Chăn, 9/1999. 50. Kết quả diễn ra dân số 1995 của Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước, Trung tâm Thống kê quốc gia, Viêng Chăn, 4/1997. 51. Kế hoạch phát triển GTVT, Bưu điện và Xây dựng năm 1996-2020. 52. Tổng kết 5 năm của Sở GTVT, Bưu điện và Xây dựng (2001-2005) tỉnh Xa Văn Na Khệt. 53. Tổng kết 5 năm của Sở Kế hoạch - Đầu tư tỉnh Xa Văn Na Khệt (2001- 2005). 54. Nghị quyết của Đại hội lần thứ VI của Đảng bộ tỉnh Xa Văn Na Khệt, 2005. 55. Nghị quyết của Đại hội lần thứ V của Đảng bộ tỉnh Xa Văn Na Khệt, 1999. 56. Ban Tổng kết Thống kê Sở GTVT Bưu điện và Xây dựng tỉnh Xa Văn Na Khệt, 2001-2005. 57. Bản tổng kết 5 năm của Sở nông - lâm nghiệp tỉnh Xa Văn Na Khệt (2001-2005). DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO A. PHẦN TIẾNG VIỆT 35. Bộ Giao thông Vận tải - Viện Chiến lược và Phát triển giao thông vận tải (1995), Cơ chế chính sách phát triển giao thông vận tải, Đề tài KC-04, Hà Nội. 36. Bộ Giao thông vận tải (1995), Giao thông vận tải Việt Nam năm 2000, Nxb Giao thông vận tải, Hà Nội. 37. Bộ Giao thông Vận tải - Viện Chiến lược và Phát triển giao thông vận tải (1999), Phát triển giao thông vận tải hướng tới thế kỷ XXI, Hà Nội. 38. Bộ Giao thông vận tải (1999), Định mức và sửa chữa thường xuyên đường bộ, Hà Nội. 39. Bun Nương Khu Kham (1991), Giao thông vận tải trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội Cộng hoà Dân chủ nhân dân Lào, Luận án PTSKH-KT, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 40. Bua-sỷ Lo-văn-xay (1993), Dự báo khối lơnựg vận chuyển hàng hoá của Lào từ nay đến năm 2000, Luận án PTSKH-KT, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 41. Bun Thoỏng Đi-vi-xay (1999), "Cổ phần hoá, hiện đại hoá ở Cộng hoà Dân chủ nhân dân Lào", Tạp chí nghiên cứu lý luận, (11), Hà Nội. 42. Cơ chế thị trường và vai trò nhà nước trong nền kinh tế thị trường Việt Nam (1994), Nxb Thống kê, Hà Nội. 43. Cơ quan Hợp tác quốc tế Nhật Bản - CHXHCN Việt Nam, Bộ Giao thông vận tải, Viện Chiến lược phát triển giao thông vận tải (2000), Báo cáo chính, Tập 1, Hà Nội. 44. Cơ quan Hợp tác quốc tế Nhật Bản - Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Bộ Giao thông vận tải, Viện Chiến lược phát triển GTVT (2000), Báo cáo chính, Tập 2, Hà Nội. 45. Cục Đường bộ Việt Nam (1999), Báo cáo về quy hoạch, xây dựng và quản lý hệ thống đường bộ các tỉnh phía Bắc. 46. Nghiêm Văn Dĩnh (1997), Kinh tế xây dựng công trình giao thông, Nxb GTVT, Hà Nội. 47. Nghiêm Văn Dĩnh (1997), Quản lý nhà nước đối với giao thông vận tải, Nxb GTVT, Hà Nội. 48. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 49. Đảng Nhân dân cách mạng Lào (1986), Văn kiện Đại hội Đảng Nhân dân cách mạng Lào lần thứ IV, Viêng Chăn. 50. Đảng Nhân dân cách mạng Lào (2001), Văn kiện Đại hội Đảng nhân dân cách mạng Lào lần thứ VII, Nxb Nhà in nhà nước, Viêng Chăn. 51. Tô Tử Hạ (1993), "Cải cách tổ chức và quản lý bộ máy hành chính nhà nước Việt Nam", Tạp chí quản lý nhà nước, (1). 52. Khăm Phăn Chia A (2001), Giao thông vận tải trong phát triển kinh tế hàng hóa ở tỉnh Luang Nặm Tha (Cộng hoà Dân chủ nhân dân Lào), luận văn thạc sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 53. Khăm Phong But Đa Vông (1998), Tiếp tục đổi mới quản lý ngân sách nhà nước ở Cộng hoà Dân chủ nhân dân Lào, Hà Nội. 54. Kong Kẹo Xay Sông Kham (1999), Một số giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ hoạch định chính sách quản lý nhà nước về kinh tế ở Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào, Kỷ yếu đề tài khoa học cấp Bộ (1998- 1999), Khoa học quản lý kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. 55. V.I.Lênin (1976), Toàn tập, Tập 3, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. 56. V.I.Lênin (1981), Toàn tập, Tập 28, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. 57. V.I.Lênin (1998), Bàn về kiểm kê, kiểm soát, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 58. Đặng Ngọc Lợi (1995), Chức năng quản lý nhà nước về kinh tế trong quá trình chuyển sang kinh tế thị trường ở nước ta, Luận án PTS, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 59. C.Mác - Ph.Ăngghen - V.I.Lênin (1983), Bàn về Giao thông vận tải, Nxb Sự thật, Hà Nội. 60. C.Mác (1985), Tư bản, Quyển 2, Tập 2, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. 61. C.Mác - Ph.Ăngghen (1980), Tuyển tập, Tập 1, Nxb Sự thật, Hà Nội. 62. Hồ Chí Minh (1980), Tuyển tập, Tập 1, Nxb Sự thật, Hà Nội. 63. Hồ Chí Minh (1980), Tuyển tập, Tập 2, Nxb Sự thật, Hà Nội. 64. Hồ Chí Minh (1990), Về vấn đề giáo dục, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 65. Hồ Chí Minh (1990), Về giao thông vận tải, Nxb Giao thông vận tải, Hà Nội. 66. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, Tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 67. Vai trò nhà nước trong phát triển kinh tế các nước ASEAN (1994), Nxb Thống kê, Hà Nội. 68. Viện Chiến lược phát triển (2001), Cơ sở khoa học của một số vấn đề trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam đến năm 2010 và tầm nhìn 2020, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. TÀI LIỆU THAM KHẢO TIẾNG LÀO (Dịch sang tiếng Việt Nam) 58. Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng trước Đại hội V của Đảng NDCM Lào, Tạp chí Alunmày, Viêng Chăn, 2/4/1991. 59. Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng trước Đại hội VI của Đảng NDCM Lào, Tổng Bí thư Cay Sỏn Phôm Vi Hản, Tạp chí Alunmày (số đặc biệt số 2, 4/1991), cơ quan lý luận và chính trị của Đảng NDCM Lào. 60. Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng trước Đại hội VI của Đảng NDCM Lào, Viêng Chăn, 3/1996. 61. Tài liệu Đại hội VI của Đảng NDCM Lào, Nhà in quốc gia 1/7/1996. 62. Tài liệu Đại hội VII của Đảng NDCM Lào, Nhà in quốc gia, 25/4/2004, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội tới năm 2020-2010 và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm lần thứ V (2001-2005) (do đồng chí Bua Thong Vông Lo Khăm, Chủ tịch Uỷ ban Kế hoạch quốc gia). 63. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của CHDCND Lào tới 2020, Uỷ ban Kế hoạch quốc gia, Viện nghiên cứu kinh tế quốc gia, Viêng Chăn, 1999. 64. Cay Sỏn Phôm Vi Hẳn, Bài phát biểu tại Đại hội cả nước, Viêng Chăn, 6/1990. 65. Kị Khăm Vông Xay, Thứ trưởng Bộ Tài chính, "Tình hình quản lý và sử dụng nguồn vốn nước ngoài trong những năm qua", Tạp chí Tài chính, số 1, tháng 12/1995, Bộ Tài chính, Nhà in Đao Vi Lay, Viêng Chăn, 1995. 66. Tổng kết số cán bộ cả nước của ngành GTVT, Bưu điện, Xây dựng (bao gồm Bộ, Sở GTVT, Bưu điện và Xây dựng tỉnh và huyện, (số 495/Cục KHTC, Bộ GTVT, Bưu điện và xây dựng), Cục Kế hoạch - ngân sách, Viêng Chăn, 31/8/2000. 67. Tổng kết con số cuối cùng (địa điểm) từ năm 1996-2000 của ngành GTVT, Bộ GTVT, Bưu điện và Xây dựng, Cục Kế hoạch và Ngân sách (số 490/Cục Kế hoạch - Ngân sách), Viêng Chăn 1/8/2001. 68. Về tài chính: Chi phí xây dựng cơ bản nhà nước đầu tư, Bộ GTVT, Bưu điện và Xây dựng (số 2938/GTVT, Bưu điện, Xây dựng), 4/9/2000. 69. Về tài chính: Thu nhập kinh doanh, Bộ GTVT, Bưu điện và Xây dựng, số 2938/GTVT, Bưu điện, Xây dựng, 4/9/2000. 70. Về Tổ chức: Cán bộ công chức cả nước của ngành GTVT, BĐ và xây dựng (Bộ, Sở GTVT, BĐ & XD tỉnh và huyện), Bộ GTVT, BĐ &Xây dựng Viêng Chăn, 4/9/2000. 71. Tổng kết đánh giá phương hướng nhiệm vụ về công tác tổ chức cán bộ công chức của Bộ Nông nghiệp - Nghề thủ công, Viêng Chăn, 13/3/1995. 72. Báo cáo về tình hình tổ chức thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 1998-1999 và đặt kế hoạch 1999-2000 trước Hội nghị lần thứ 4 thường kỳ của Quốc hội, nhiệm kỳ, ngày 30/9 - 14/10/1999, Viêng Chăn, 9/1999. 73. Kết quả diễn ra dân số 1995 của Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước, Trung tâm Thống kê quốc gia, Viêng Chăn, 4/1997. 74. Kế hoạch phát triển GTVT, Bưu điện và Xây dựng năm 1996-2020. 75. Tổng kết 5 năm của Sở GTVT, Bưu điện và Xây dựng (2001-2005) tỉnh Xa Văn Na Khệt. 76. Tổng kết 5 năm của Sở Kế hoạch - Đầu tư tỉnh Xa Văn Na Khệt (2001- 2005). 77. Nghị quyết của Đại hội lần thứ VI của Đảng bộ tỉnh Xa Văn Na Khệt, 2005. 78. Nghị quyết của Đại hội lần thứ V của Đảng bộ tỉnh Xa Văn Na Khệt, 1999. 79. Ban Tổng kết Thống kê Sở GTVT Bưu điện và Xây dựng tỉnh Xa Văn Na Khệt, 2001-2005. 80. Bản tổng kết 5 năm của Sở nông - lâm nghiệp tỉnh Xa Văn Na Khệt (2001-2005).

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLuận văn- Giải pháp quản lý nhà nước nhằm phát triển giao thông đường bộ ở tỉnh Xa Văn Na Khệt, Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào.pdf
Luận văn liên quan