Nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp 
XDCTGT nói riêng là vấn đề được các doanh nghiệp đặt lên hàng đầu vì trong điều kiện
nền kinh tế ngày càng bị ảnh hưởng sâu sắc bởi con đường hội nhập, nâng cao năng lực 
cạnh tranh là con đường dẫn tới thành công của cả doanh nghiệp và quốc gia trong dài 
hạn. Chính vì vậy, luận văn "Các giải pháp tài chính nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh 
của các doanh nghiệp XDCTGT" được hoàn thành nhằm hoàn thiện lý luận về cạnh tranh 
và vai trò của tài chính doanh nghiệp đối với năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, trên 
cơ sở đó tìm ra các giải pháp tài chính nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh 
nghiệp XDCTGT.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 111 trang
111 trang | 
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2583 | Lượt tải: 4 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giải pháp tài chính nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp xây dựng công trình giao thông, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c chứng từ đã mua, và chịu mọi rủi ro khi 
gặp những khoản nợ khó đòi. 
Các doanh nghiệp xây dựng công trình giao thông khi huy động vốn bằng hình 
thức này sẽ có được nguồn tài chính như mong muốn và ít chịu rủi ro không đòi được nợ. 
+ Vay có thế chấp bằng tài sản: Doanh nghiệp sử dụng các loại hàng hóa, tài sản 
của mình làm vật để thế chấp cho những khoản vay ngắn hạn. Giá trị của khoản vay này tùy 
thuộc vào mức độ rủi ro, khả năng chuyển đổi nhanh và tính ổn định về giá cả của các loại hàng 
hóa, tài sản thế chấp. Nếu những hàng hóa, tài sản này không có rủi ro, có thể bán nhanh trên 
thị trường và có giá cả ổn định thì khoản tiền vay mượn sẽ chiếm một tỷ lệ khá cao so với giá 
trị ghi trên chứng từ. 
Hình thức này rất thích hợp cho những doanh nghiệp XDCTGT có tài sản hàng 
hóa không muốn bán nhưng cần một số vốn ngắn hạn bằng tiền. 
+ Vay có bảo lãnh: Doanh nghiệp có thể vay được những khoản tiền ngắn hạn 
nếu như những cổ đông chính thức, hay một bên thứ ba khác có tư cách tín dụng tốt bảo 
đảm với ngân hàng, đồng ý làm người bảo đảm cho khoản nợ. Những người bảo lãnh sẽ 
viết một bản cam kết gửi ngân hàng, khẳng định trách nhiệm trả khoản nợ cho người vay 
trong trường hợp người vay không có khả năng chi trả. 
a.4. Nhận tiền đặt trước của khách hàng 
Đây là hình thức mà các doanh nghiệp XDCTGT thường làm. Khi nhận được 
đơn đặt hàng hay hợp đồng của khách hàng (bên A), doanh nghiệp sẽ thỏa thuận với bên 
A cho ứng trước một số tiền nhất định để doanh nghiệp mua nguyên vật liệu và thanh 
toán các chi phí khác để thực hiện hợp đồng. Đây là một hình thức tài trợ vốn ngắn hạn 
rất có lợi vì doanh nghiệp không phải trả lãi cho việc sử dụng vốn. Các doanh nghiệp xây 
dựng công trình giao thông nên khai thác tối đa nguồn vốn này. Đối với hợp đồng xây lắp 
công trình thông thường bên A thanh toán cho bên B (doanh nghiệp nhận thầu) theo hạng 
mục công trình hoàn thành. Vì thế doanh nghiệp cần làm tốt công tác thanh toán cũng 
như thi công xây lắp đúng tiến độ, bảo đảm hoàn thành dứt điểm từng hạng mục công 
trình để được bên A thanh toán. Khi ký kết hợp đồng, doanh nghiệp cũng cần tính toán kỹ 
những thỏa thuận về thời gian thanh toán cũng như tỷ lệ giá trị hợp đồng được ứng trước. 
a.5. Vay vốn và nhận vốn góp của cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp 
Đây là giải pháp tình thế mà một số doanh nghiệp XDCTGT đã và đang áp dụng, 
là hình thức huy động vốn tạo điều kiện cho doanh nghiệp thu hút được vốn nhàn rỗi 
trong cán bộ công nhân viên của doanh nghiệp để thực hiện nhiệm vụ sản xuất kinh 
doanh. Một mặt tạo cho cán bộ công nhân viên có trách nhiệm cao trong khi thực hiện 
nhiệm vụ được giao, mặt khác cán bộ công nhân viên góp vốn vào doanh nghiệp sẽ nhận 
được phần lợi tức nhất định nên họ quan tâm đến kết quả sản xuất kinh doanh của doanh 
nghiệp. Một số doanh nghiệp còn mạnh dạn vay tiền lương của cán bộ công nhân viên 
trong vòng 1 đến 3 tháng với số tiền 50% trở xuống để sao cho số còn lại cán bộ công 
nhân viên vẫn đủ sống. 
b) Huy động vốn dài hạn 
Vốn dài hạn là các khoản vốn có thời gian đảo hạn ngoài một năm, kể từ ngày 
doanh nghiệp nhận được vốn. 
Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp xây dựng công trình giao thông 
có thể sử dụng các hình thức huy động vốn dài hạn sau: 
b.1. Vay có kỳ hạn 
Là hình thức doanh nghiệp vay vốn của ngân hàng, các tổ chức tín dụng một 
khoản vay có thời hạn đảo hạn trên một năm. Đó là khoản vay trung và dài hạn, và 
thường được hoàn trả dần cả gốc và lãi theo định kỳ trong suốt thời hạn cho vay. Để được 
vay doanh nghiệp phải thế chấp một số tài sản của mình như: Quyền sử dụng đất, các loại 
máy móc, các loại bất động sản, những khoản ký quỹ có thời hạn, ngoại tệ các loại … 
Ưu điểm của hình thức huy động vốn này là đảm bảo trong một thời hạn khá lâu 
sẽ có vốn cho người vay sử dụng. Nhưng lãi suất vay phải trả của hình thức này thường 
cao và có thể thay đổi theo giá trị tiền vay, vị thế tài chính của người vay. Doanh nghiệp 
phải lập một lịch trình trả nợ cho ngân hàng. 
Trong hình thức này, ngân hàng thường chỉ cho vay từ 70% đến 90% nhu cầu, 
phần còn lại doanh nghiệp phải tự lo bằng vốn tự có. 
b.2. Thuê mua trả góp 
Thuê mua trả góp là hình thức doanh nghiệp mua máy móc thiết bị của chủ tài 
sản và trả dần tiền mua. Theo hình thức này, doanh nghiệp tiến hành thỏa thuận và ký kết 
hợp đồng với chủ tài sản. Thỏa thuận này cho phép doanh nghiệp trả ngay một phần giá 
trị tài sản và phần còn lại được thanh toán trong nhiều kỳ vào những thời điểm ấn định tr-
ước, và mỗi lần trả một phần giá trị tài sản cùng tiền lãi nếu doanh nghiệp đồng ý tuân 
theo những điều khoản và điều kiện của hợp đồng thuê mua trả góp. Trong thời gian thực 
hiện hợp đồng, quyền sở hữu tài sản do người bán - người cho thuê giữ. Nó sẽ được 
chuyển cho người mua - người thuê vào thời điểm hết hạn hợp đồng, nếu người thuê 
hoàn thành tốt nghĩa vụ theo hợp đồng. 
Bằng hình thức này, doanh nghiệp có thể nhận tài sản ngay mà không cần phải 
thương lượng với một ngân hàng hay một công ty tài chính nào để vay tiền và cũng 
không phải cầm cố bất cứ loại tài sản nào. 
Chi phí mua tài sản theo hình thức này khá cao bởi doanh nghiệp không được 
hưởng phần chiết khấu mà các nhà cung cấp thường áp dụng đối với những tài sản mua 
được trả tiền ngay. 
Một bất lợi nữa đối với doanh nghiệp đi thuê là nếu không thực hiện đúng tiến độ 
thanh toán, doanh nghiệp có nguy cơ bị mất quyền sở hữu tài sản vào thời điểm kết thúc 
hợp đồng 
b.3. Tín dụng thuê mua 
Đây là hình thức tín dụng trung và dài hạn, đặc biệt hiện nay đã thông dụng ở 
nhiều nước trong việc tạo vốn cho doanh nghiệp. Theo hình thức này doanh nghiệp được 
tài trợ 100% nhu cầu vốn. 
Trong thực tế, có những doanh nghiệp khó khăn gay gắt về tài chính mà doanh 
nghiệp lại muốn sử dụng tài sản, thiết bị hơn là muốn mang danh chủ sở hữu, có nghĩa là 
doanh nghiệp có thể sử dụng tài sản bằng cách thuê mua. 
Trong nghiệp vụ tín dụng thuê mua, người thuê (doanh nghiệp xây dựng công 
trình giao thông) lựa chọn tài sản cần thiết cho mình, thương lượng giá cả, thời hạn giao 
hàng với người cung cấp và đề nghị người cho thuê mua tài sản đó. Như vậy, người cung 
cấp sẽ nhận được đơn đặt hàng và tiền thanh toán tài sản từ công ty tín dụng thuê mua. 
Sau khi mua tài sản đó, người cho thuê để người thuê sử dụng tài sản nói trên theo một 
hợp đồng - hợp đồng tín dụng thuê mua. Thời hạn hợp đồng được tính căn cứ vào thời 
gian khấu hao hoặc tuổi thọ kinh tế của tài sản trên nguyên tắc thời hạn này đủ để hoàn 
lại toàn bộ thiết bị mà công ty tín dụng thuê mua phải xuất chi, đồng thời đem lại cho họ 
một tỷ lệ lợi nhuận mỗi năm. Khi hết thời hạn thuê, người thuê có quyền mua lại tài sản 
đó hoặc tiếp tục mua với giá thấp hơn. 
Tín dụng thuê mua là một phương thức tài trợ hữu hiệu đối với các doanh nghiệp 
xây dựng công trình giao thông. Nó đảm bảo tài trợ linh hoạt nhu cầu vốn, cho phép 
doanh nghiệp thực hiện đầu tư kịp thời. Tín dụng thuê mua còn có tác dụng hạn chế rủi 
ro, lạc hậu kỹ thuật cho doanh nghiệp. 
Các giải pháp huy động vốn như đã trình bày ở trên có chung một đặc điểm là 
doanh nghiệp có thể huy động vốn mà không thay đổi mô hình tổ chức doanh nghiệp, 
không thay đổi cơ cấu sở hữu, vẫn giữ nguyên tư cách pháp nhân và vai trò độc lập của 
doanh nghiệp trong sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên để huy động được vốn theo các hình 
thức huy động vốn như đã nêu thì đòi hỏi doanh nghiệp phải làm ăn có lãi, có uy tín và 
nhiều điều kiện khác nữa. Hạn chế lớn nhất của các hình thức huy động vốn trên là không 
thể huy động được một lượng vốn lớn bởi lẽ để huy động được vốn thì doanh nghiệp phải 
đảm bảo một tỷ suất tài trợ ở mức nhất định. 
Trong nền kinh tế thị trường, có một hình thức cho phép doanh nghiệp huy động 
một lượng vốn lớn đó là cổ phần hóa doanh nghiệp. Các doanh nghiệp được cổ phần hóa 
sẽ trở thành các công ty cổ phần. Các công ty cổ phần huy động vốn thông qua phát hành 
cổ phiếu. 
b.4. Cổ phần hóa - một giải pháp huy động vốn đối với các doanh nghiệp xây 
dựng công trình giao thông 
Do đặc thù của sản phẩm XDCTGT nên tham gia vào hoạt động XDCTGT đều là 
các DNNN. Mà các DNNN nói chung, các doanh nghiệp XDCTGT nói riêng đang thiếu 
vốn nghiêm trọng để đầu tư phát triển. Nhưng Nhà nước không thể và cũng không nên 
tiếp tục cấp vốn cho doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả. Dân chúng cũng sẽ không cho 
doanh nghiệp vay nếu doanh nghiệp không cải tổ và có phương án làm ăn tốt và có sức 
thuyết phục. Còn nước ngoài sẽ không bao giờ cho DNNN vay nếu giữ nguyên trạng, họ chỉ 
có thể làm ăn với DNNN thông qua các hình thức: mua, thuê, liên doanh, mua cổ phiếu,… 
Vậy là, muốn có vốn để đầu tư phát triển, doanh nghiệp có thể huy động vốn thông 
qua hình thức bán cổ phần bằng cách xúc tiến cổ phần hóa để tận dụng nguồn vốn nhàn rỗi 
trong các thành phần kinh tế, nguồn vốn trong dân tạo thêm động lực thúc đẩy doanh nghiệp 
làm ăn có hiệu quả, gắn chặt quyền lợi với trách nhiệm trong việc bảo toàn và phát triển 
vốn… làm cho tài sản của doanh nghiệp ngày càng tăng từ đó sẽ nâng cao năng lực cạnh 
tranh của các doanh nghiệp. 
Các doanh nghiệp được cổ phần hóa sẽ chuyển thành các công ty cổ phần. Các 
công ty cổ phần huy động vốn thông qua phát hành cổ phiếu. Việc cổ phần hóa sẽ đem lại 
những mục tiêu sau: 
- Huy động vốn cho nền kinh tế và bố trí lại vốn của Nhà nước. 
- Tạo động lực mới trong doanh nghiệp và để người công nhân trở thành người 
chủ. 
- Doanh nghiệp được chia sẻ rủi ro với các nhà đầu tư. 
Thực tế trong những năm qua đã cho thấy, tình hình tài chính của các doanh nghiệp 
XDCTGT là rất khó khăn. Vốn sử dụng trong các doanh nghiệp chủ yếu là vốn vay do đó 
phải trả lãi vay chiếm một tỷ lệ không nhỏ trong doanh thu vì thế đã làm hạn chế kết quả 
kinh doanh của các doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp tiếp tục vay vốn thì lại tiếp tục phát 
sinh chi phí lãi vay, do đó chỉ có cổ phần hóa thì khi doanh nghiệp muốn tăng vốn doanh 
nghiệp có thể huy động trên thị trường chứng khoán. Hiện nay thị trường chứng khoán của 
Việt Nam đã phát triển khá mạnh mẽ cả về số lượng và chất lượng. Vì thế các công ty cổ 
phần có thể huy động vốn một cách dễ dàng thông qua thị trường này. Tuy nhiên làm thế nào 
để các doanh nghiệp có thể kêu gọi các nhà đầu tư mua cổ phần của doanh nghiệp mình lại là 
một vấn đề khó. Muốn vậy các doanh nghiệp XDCTGT phải không ngừng nâng cao vị thế 
của doanh nghiệp mình trên thị trường. Ngoài việc huy động vốn bằng việc phát hành thêm 
cổ phiếu, các công ty cổ phần vẫn có thể huy động vốn vay theo các hình thức được pháp 
luật cho phép. 
Ngoài các hình thức huy động vốn đã nêu ở trên, các doanh nghiệp xây dựng 
công trình giao thông có thể huy động vốn bằng các hình thức liên doanh liên kết với 
các đơn vị kinh tế khác, hoặc vay vốn của nước ngoài. Liên doanh là hình thức doanh 
nghiệp và các đơn vị kinh tế khác tự nguyện hợp tác để cùng nhau thực hiện một hoạt 
động kinh tế nào đó trên cơ sở cùng đầu tư vốn, chịu trách nhiệm chung về quản lý, phân 
chia lợi nhuận và chịu lỗ theo tỷ lệ tương ứng với phần đóng góp. 
Các doanh nghiệp xây dựng công trình giao thông có thể vay vốn nước ngoài 
dưới hình thức các khoản đầu tư trực tiếp, liên kết kinh tế để nhận thiết bị công nghệ tiên 
tiến của nước ngoài. 
Cùng với việc tiến hành cổ phần hóa các DNNN, một giải pháp nữa mà các doanh 
nghiệp cũng nên xem xét để lựa chọn đó là chuyển các DNNN thành các công ty trách 
nhiệm hữu hạn. 
Khi chuyển thành các công ty trách nhiệm hữu hạn, vốn chủ sở hữu sẽ gắn trực 
tiếp với những chủ sở hữu cụ thể. Và khi vốn, doanh nghiệp đã thuộc sở hữu của những 
con người cụ thể thì việc trăn trở cho sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp của họ sẽ 
trở nên "nóng" hơn bao giờ hết so với DNNN, vốn thuộc sở hữu nhà nước. 
Nhờ vậy, trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp XDCTGT có thể huy 
động vốn bằng nhiều hình thức khác nhau. Các hình thức huy động vốn của các doanh 
nghiệp XDCTGT được thể hiện qua hình 3.3. 
Trong nền kinh tế thị trường, các hình thức huy động vốn rất đa dạng. Vấn đề đặt 
ra là các doanh nghiệp XDCTGT phải lựa chọn cho mình những hình thức huy động 
Vay không có 
bảo đảm 
Các hình thức 
khác (liên doanh, 
liên kết) 
Vay có kỳ hạn 
Thuê mua trả góp 
Tín dụng thuê mua 
Cổ phần hoá 
Các hình thức 
huy động vốn 
Huy động vốn 
ngắn hạn 
Huy động vốn dài hạn 
Hạn mức tín dụng 
Vay có bảo đảm 
Tín dụng tuần hoàn 
Vay thế chấp 
bằng tài sản 
Mua bán nợ 
Vay có thế chấp 
bằng khoản phải thu 
Cho vay theo 
hợp đồng 
Vay có bảo lãnh 
Hình 3.3: Các hình thức huy động vốn của doanh ng iệp xây dựng 
công trình giao thông trong nền kinh tế thị trường 
Vay ngân hàng 
và các tổ chức 
tài chính 
Tín dụng 
thương mại 
Vay các doanh 
nghiệp khác 
Nhận tiền đặt trước 
của khách hàng 
Các hình thức 
khác 
thích hợp đối với doanh nghiệp mình. Đây là một vấn đề hoàn toàn không phải là dễ 
dàng. Luận văn xin đưa ra một số căn cứ để các doanh nghiệp XDCTGT có thể lựa chọn 
được cách huy động vốn đem lại hiệu quả cao nhất. 
3.2.2.2. Lựa chọn hình thức huy động vốn của các doanh nghiệp xây dựng 
công trình giao thông 
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, để có thể tồn tại và phát triển hoạt động 
sản xuất của mình, các doanh nghiệp cần phải có một lượng vốn nhất định, do đó việc 
chủ động xây dựng kế hoạch huy động vốn, lựa chọn nguồn vốn và hình thức huy động 
vốn trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh là một trong những giải pháp tài chính 
hữu hiệu hiện nay nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. 
Vấn đề đặt ra cho các doanh nghiệp là nên chọn nguồn vốn nào và hình thức huy động 
nào để sao cho chi phí sử dụng vốn là nhỏ nhất, vốn huy động sử dụng có hiệu quả nhất. 
Để lựa chọn được hình thức huy động vốn phù hợp, các doanh nghiệp XDCTGT có thể 
dựa vào các căn cứ sau đây: 
Mục đích sử dụng vốn 
Xuất phát từ mục đích sử dụng vốn, doanh nghiệp sẽ lựa chọn hình thức huy 
động vốn ngắn hạn hoặc dài hạn. Nếu sử dụng vốn để đầu tư tài sản cố định thì doanh 
nghiệp nên chọn nguồn vốn dài hạn, còn nếu để đầu tư tài sản lưu động hoặc trả nợ... thì 
nên chọn nguồn vốn ngắn hạn. 
Tình hình tài chính hiện có và khả năng cải thiện tình hình tài chính của doanh 
nghiệp 
Tình hình tài chính của doanh nghiệp thể hiện ở các chỉ tiêu tài chính. Các chủ 
nợ, các nhà đầu tư thường căn cứ vào đó để xem xét có nên ứng vốn cho doanh nghiệp 
hay không. Nếu doanh nghiệp có các tỷ số về khả năng thanh toán thấp thì khó có khả 
năng huy động được nguồn vốn ngắn hạn, hoặc tỷ số nợ của doanh nghiệp quá cao sẽ 
không hy vọng vay thêm được tiền vốn của ngân hàng... Vì vậy trước khi lựa chọn nguồn 
và hình thức huy động, doanh nghiệp cần phải: 
- Xem xét thực trạng tài chính của doanh nghiệp tại thời điểm cần huy động bằng 
việc phân tích lại toàn bộ các chỉ tiêu tài chính có liên quan, so sánh chúng với các thời 
điểm phù hợp trong quá khứ. 
- Phân tích, nghiên cứu kỹ luận chứng kinh tế kỹ thuật đối với khoản vốn cần huy 
động và tính đến các rủi ro liên quan. 
- Phân tích khả năng cải thiện tình hình tài chính của doanh nghiệp, ví dụ như có 
thể cải thiện các tỷ số về khả năng thanh toán bằng cách tăng cường thu hồi các khoản 
phải thu. 
Mức độ sẵn sàng cung ứng vốn và khả năng vốn của nhà tài trợ 
Tình hình tài chính lành mạnh nhiều khi vẫn không huy động được vốn bởi vì đó 
mới chỉ là một điều kiện. Các nhà tài trợ không những chỉ xem xét các chỉ tiêu tài chính 
mà còn quan tâm đến các quan hệ khác nữa, trong đó có quan hệ giữa doanh nghiệp và 
nhà tài trợ. Chẳng hạn, trong quá khứ doanh nghiệp luôn luôn trả nợ và lãi đúng hạn thì 
mức độ sẵn sàng cho vay tiền của các chủ nợ sẽ cao. Vì vậy trước khi định chọn nhà tài 
trợ vốn nào thì cần phải nghiên cứu họ một cách tỷ mỷ về mức độ sẵn sàng cung ứng vốn 
và khả năng vốn của họ. Đây là vấn đề quan trọng, có tác động đến hoạt động sản xuất 
kinh doanh của doanh nghiệp. Ví dụ, nếu chọn các ngân hàng, các tổ chức tài chính thì 
khả năng kéo dài các khoản nợ của doanh nghiệp sẽ dễ dàng hơn vì các tổ chức này có 
tiềm lực rất lớn. 
Khả năng giải quyết các hậu quả xảy ra khi huy động vốn 
Khi doanh nghiệp huy động vốn, bên cạnh việc có vốn để sử dụng còn có các hậu 
quả có thể xảy ra. Các doanh nghiệp cần lường trước các hậu quả có thể xảy ra đối với 
từng hình thức huy động vốn và khả năng giải quyết các hậu quả đó của doanh nghiệp. 
Trên cơ sở đó lựa chọn hình thức huy động vốn phù hợp, bởi lẽ trong những hoàn cảnh 
sản xuất kinh doanh và điều kiện tài chính khác nhau, thế mạnh của doanh nghiệp trong 
việc giải quyết các hậu quả cũng khác nhau (xem bảng 3.1). 
Bảng 3.1: Thiết lập mối quan hệ giữa mục tiêu, nguồn vốn, hình thức 
và hậu quả của việc huy động vốn 
Mục tiêu Nguồn vốn Hình thức huy động Hậu quả xảy ra 
Đổi mới, bổ 
sung tài sản cố 
định 
- Dài hạn 
- Từ lợi nhuận 
- Từ thuê mua 
- Từ tài trợ 
- Tự có 
- Tự có hoặc vay 
- Vay dài hạn 
- Tự tài trợ 
- Thuê mua 
- Cổ phần hóa 
- Liêndoanh, liên kết 
- Phát hành trái phiếu 
- Làm tăng tỷ số nợ 
- Gây sức ép thu nhập 
- Chi phí cao, mất tự 
chủ 
- Phân chia quyền kiểm 
soát 
- Nhiều điều kiện ràng 
buộc 
- Chi phí phát hành 
- Thời hạn trả nghiêm 
ngặt 
Bổ sung tài sản 
lưu động 
- Dài hạn hoặc 
ngắn hạn 
- Từ lợi nhuận 
- Ngắn hạn 
- Vay ngắn hạn, dài 
hạn 
- Tự tài trợ 
- Tín dụng thương 
mại 
- Sức ép phải trả nợ 
- Sức ép thu nhập 
- Không được giảm giá 
Tăng khả năng 
chi trả 
- Ngắn hạn - Nhận tiền ứng trước 
của khách hàng 
-Trách nhiệm thực hiện 
hợp đồng 
Đầu tư nghiên 
cứu phát triển 
- Tự có hoặc vay - Trích từ lợi nhuận 
- Tín dụng ưu đãi từ 
ngân sách 
- Sức ép chi phí 
- Sức ép kết quả nghiên 
cứu 
Cơ cấu tài chính của doanh nghiệp 
Cơ cấu tài chính của doanh nghiệp biểu thị cách thức kết cấu vốn của doanh 
nghiệp được thể hiện bằng tương quan giữa hai nhóm vốn chủ sở hữu và nợ phải trả. Vốn 
chủ sở hữu là vốn thuộc quyền sở hữu của chủ doanh nghiệp còn nợ phải trả là vốn doanh 
nghiệp được sử dụng nhưng không thuộc quyền sở hữu của chủ doanh nghiệp. 
Hai nhóm vốn chủ sở hữu và nợ phải trả có những đặc tính khác biệt chủ yếu là: 
Thứ nhất, khác biệt về quyền sở hữu vốn. Vốn chủ sở hữu thuộc quyền sở hữu 
của doanh nghiệp, còn nợ phải trả thì không thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp, doanh 
nghiệp có nghĩa vụ phải thanh toán khi đến hạn. 
Thứ hai, Khác biệt về phương thức xác định thu nhập của người chủ sở hữu vốn. 
Đối với vốn vay, chủ sở hữu được quyền hưởng một tỷ lệ thu nhập nhất định tính theo 
lượng vốn doanh nghiệp sử dụng trong khoảng thời gian thỏa thuận mà không phụ thuộc 
vào kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Còn chủ sở hữu vốn chủ sở hữu (không 
kể các chủ sở hữu các cổ phiếu ưu đãi) có tỷ lệ thu nhập dao động theo kết quả thu nhập 
của doanh nghiệp. 
Thứ ba, khác biệt về thứ tự ưu tiên chi trả thu nhập về lãi và vốn gốc. Trong bất 
kỳ tình huống nào đặc biệt khi có khó khăn về tài chính, ưu tiên hàng đầu về chi trả được 
dành cho các khoản nợ, tiếp theo đến vốn cổ phần ưu đãi và cuối cùng mới đến vốn cổ 
phần thường. 
Cơ cấu tài chính có thể xác định thông qua tỷ số giữa nợ phải trả trên vốn chủ sở 
hữu; hoặc xác định bằng tỷ số nợ, là tỷ số giữa nợ phải trả trên tổng nguồn vốn. 
Khi huy động vốn, doanh nghiệp cần xác định cho mình một cơ cấu tài chính để 
từ đó quyết định huy động vốn vay hay vốn chủ sở hữu. Thông thường, các chủ doanh 
nghiệp muốn tối đa hóa lợi ích của chủ sở hữu bằng cách dùng các khoản nợ vay để 
khuếch đại lợi nhuận vốn chủ sở hữu. Bằng cách tăng tỷ lệ vốn vay trong tổng số vốn, 
doanh nghiệp có thể dự tính một mức thu nhập cao hơn cho vốn chủ sở hữu. Tuy nhiên 
trong trường hợp này,doanh nghiệp phải đương đầu với một mức độ rủi ro lớn hơn, ở đây 
rủi ro bao gồm hai loại là rủi ro kinh doanh và rủi ro tài chính. 
- Rủi ro kinh doanh xuất phát từ sự lựa chọn lĩnh vực kinh doanh của doanh 
nghiệp và một loạt các nhân tố trong từng ngành kinh doanh như: nhân tố tỷ lệ tăng 
trưởng của ngành, khả năng cạnh tranh và năng lực quản lý. 
- Rủi ro tài chính xuất phát từ sự lựa chọn chính sách tài chính của doanh nghiệp. 
Việc xác định được một cơ cấu tài chính hợp lý với mức độ rủi ro có thể chấp nhận được 
có ý nghĩa rất lớn. Để xác định có thể dựa vào các chỉ tiêu sau: 
+ Tỷ số nợ phổ biến trong ngành hoặc trong các doanh nghiệp có quy mô và 
hoàn cảnh tương tự. 
+ Cơ cấu tài chính truyền thống của doanh nghiệp đã được đánh giá là tốt trong 
quá khứ. 
+ Giới hạn về nợ do các chủ nợ đặt ra. 
+ Tình hình kinh doanh của doanh nghiệp: Nếu doanh nghiệp có mức độ tăng 
trưởng ổn định thì có thể theo đuổi chính sách tỷ số nợ cao hơn vì xác xuất gặp khó khăn 
về tài chính nhỏ hơn (khả năng thanh toán ổn định). 
Ngoài tỷ số nợ, có thể dùng thêm một công cụ khác để điều hành cơ cấu tài chính 
đó là "đẳng thức liên hệ giữa tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu với tỷ suất lợi nhuận toàn 
bộ vốn". Đẳng thức này được xây dựng như sau: 
Gọi: L - Lợi nhuận thuần; NPT - Nợ phải trả; VCSH - Vốn chủ sở hữu. 
 V = NPT + VCSH - Tổng vốn 
VCSH
NPT
K  là tỷ lệ giữa nợ phải trả và vốn chủ sở hữu 
R - Lãi vay (số tuyệt đối) 
i - Lãi suất vay vốn 
TSvcsh - Tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu 
TSv - Tỷ suất lợi nhuận tổng vốn 
Ta có: 
VCSH
L
TSvcsh  (1) 
VCSHNPT
RL
TSv
 (2) 
Từ (2) ta có: L = TSv(NPT+VCSH)-R = TSV (NPT+VCSH)-i*NPT (3) 
Thay (3) vào (1) ta có: 
KiTSvKTSv
VCSH
NPTiVCSHNPTTSv
TSvcsh **
*)(
 
TSvcsh=TSv+K(TSv-i) 
Mục tiêu kinh doanh xét đến cùng là lợi nhuận đem lại cho chủ sở hữu. Từ đẳng 
thức trên cho thấy TSvcsh phụ thuộc vào hai đại lượng: TSv bị tác động bởi rủi ro kinh 
doanh và nó không phụ thuộc vào vốn vay; còn K(TSv-i) bị tác động bởi rủi ro tài chính. 
Rủi ro tài chính lại phụ thuộc vào K và i, trong đó lãi suất vay i là rủi ro khách quan từ thị 
trường tài chính còn hệ số K là kết quả các quyết định huy động vốn của doanh nghiệp. 
ý nghĩa của đẳng thức trên trong việc quyết định tỷ lệ giữa vốn vay và vốn chủ sở 
hữu thể hiện ở chỗ: nếu tỷ suất lợi nhuận tổng vốn lớn hơn lãi suất vay vốn i thì hệ số K 
càng lớn càng tốt, ngược lại nếu tỷ suất lợi nhuận tổng vốn nhỏ hơn lãi suất vay vốn thì 
hệ số K càng nhỏ lại càng tốt. Như vậy, trong trường hợp DLv > i thì việc huy động các 
nguồn vốn vay có hiệu quả hơn tức là trong trường hợp này cần tìm kiếm các nguồn vốn 
tín dụng, trái phiếu thay cho phát hành thêm cổ phần để bổ sung tối đa nhu cầu vốn tăng 
thêm. Ngược lại, trong trường hợp DLv < i thì cần tăng cường huy động các nguồn vốn 
chủ sở hữu như phát hành cổ phiếu, sử dụng chính sách phân phối lợi nhuận phù hợp để 
tăng thêm vốn. Vì vậy, doanh nghiệp phải nhạy bén dự kiến khả năng sinh lời trên tổng 
vốn để xác định hệ số K hợp lý, tức là cần tạo thêm vốn bằng đi vay hay tăng thêm vốn 
chủ sở hữu. 
Chi phí sử dụng vốn trong doanh nghiệp 
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, vốn thật sự là hàng hóa và có thể thực 
hiện việc "mua...bán", do đó với tư cách là người sử dụng vốn, dù được tài trợ từ nguồn 
vốn nào doanh nghiệp cũng phải chịu một chi phí sử dụng vốn nhất định, tương tự như 
chi phí sử dụng các loại hàng hóa khác. Xác định và quản lý chi phí sử dụng vốn có vai 
trò quan trọng đối với công tác quản lý tài chính của doanh nghiệp, điều đó thể hiện trong 
việc lựa chọn đầu tư hoặc quyết định nguồn tài trợ. Chi phí sử dụng vốn phụ thuộc vào 
nhiều yếu tố khác nhau như lãi suất của các khoản nợ phải trả, chính sách tiền lời phải 
chia, mức độ rủi ro trong bảo hiểm... 
 Đối với các nguồn vốn huy động như vay nợ ngân hàng, vay của các tổ 
chức tài chính, phát hành trái phiếu... chi phí sử dụng vốn biểu hiện ở mức lãi suất doanh 
nghiệp phải gánh chịu và như vậy, doanh nghiệp cần lựa chọn hình thức huy động vốn 
với chi phí sử dụng vốn là thấp nhất. 
Ta có thể minh họa các căn cứ lựa chọn khi huy động vốn qua sơ đồ: 
Hình 3.4: Căn cứ lựa chọn hình thức huy động vốn của doanh nghiệp XDCTGT 
Đó là những căn cứ làm cơ sở cho các doanh nghiệp XDCTGT cân nhắc lựa 
chọn trước khi có một quyết định huy động vốn. Nhìn chung sẽ không có một mô hình cụ 
thể, vĩnh cửu cho một doanh nghiệp trong việc lựa chọn nguồn và hình thức huy động. 
Nó phụ thuộc rất nhiều vào sự phát triển của thị trường vốn, sự ổn định của nền kinh tế, 
Căn cứ lựa chọn 
Tình hình 
tài chính 
hiện có và 
khả năng 
cải thiện 
tình hình 
tài chính 
của doanh 
nghiệp 
Mức độ 
cung ứng 
vốn và khả 
năng vốn 
của nhà tài 
trợ 
Khả năng 
giải quyết 
các hậu 
quả xảy ra 
khi huy 
động vốn 
Cơ cấu 
tài chính 
của doanh 
nghiệp 
Mục đích 
sử dụng 
vốn 
Chi phí sử 
dụng vốn 
trong 
doanh 
nghiệp 
uy tín của doanh nghiệp và khả năng thích ứng trong các tình huống cụ thể của người 
quản lý. 
Trong những năm vừa qua, các doanh nghiệp XDCTGT huy động vốn chủ yếu từ 
vay ngân hàng, vay từ quỹ tín dụng theo kế hoạch của Nhà nước... và các nguồn vốn này 
cũng đã sử dụng đem lại những hiệu quả nhất định. Tuy nhiên các doanh nghiệp cũng cần 
xác định trọng tâm nguồn vốn đi vay của mình đồng thời nên khai thác nhiều nguồn vốn 
khác như vay của khách hàng, của cán bộ công nhân viên, kêu gọi các nhà đầu tư góp 
vốn liên doanh liên kết... Đối với từng lĩnh vực kinh doanh cũng nên xác định nguồn tài 
trợ hợp lý. Các doanh nghiệp nên áp dụng hình thức thư tín dụng hay trong lĩnh vực hợp 
đồng thiết kế, các doanh nghiệp có thể lựa chọn hình thức cho vay theo hợp đồng. Theo 
đó, ngân hàng có thể cho vay dựa vào các hợp đồng đã ký kết... Ngoài ra đối với các 
nguồn tài trợ dài hạn, các doanh nghiệp có thể lựa chọn hình thức tín dụng thuê mua khi 
chưa có ngay lượng vốn lớn cần thiết để mua tài tài sản đó. 
Song song với việc lựa chọn các giải pháp về huy động vốn, sau khi có vốn, câu 
hỏi đặt ra là làm thế nào để các doanh nghiệp có thể sử dụng có hiệu quả đồng vốn này. 
Vì thế luận văn xin đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong 
các doanh nghiệp XDCTGT. 
3.2.2.3. Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn 
a) Tăng cường đổi mới máy móc thiết bị, phát huy tối đa công suất máy móc thiết 
bị 
Trong tình hình cạnh tranh gay gắt như hiện nay, việc đầu tư mua sắm tài sản cố 
định đúng hướng, đúng mục đích, sử dụng có hiệu quả vô cùng quan trọng trong việc nâng 
cao hiệu quả sử dụng vốn nói chung và vốn cố định nói riêng, đồng thời việc đầu tư đúng 
mục đích sẽ góp phần nâng cao năng suất lao động và chất lượng sản phẩm, hạ thấp chi phí 
nguyên vật liệu và chống được hao mòn vô hình do tiến bộ khoa học kỹ thuật gây ra, từ đó 
góp phần tăng được uy tín cho sản phẩm và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên 
thị trường. 
Cùng với việc đổi mới máy móc thiết bị, các doanh nghiệp cần lựa chọn phương 
pháp khấu hao thích hợp nhằm nhanh thu hồi vốn và hạn chế hao mòn vô hình đồng thời 
vẫn phải đảm bảo giá thành không được cao quá. 
Ngoài ra, việc tổ chức lao động khoa học, sử dụng thích hợp các đội chuyên môn 
hóa hoặc các đội tổng hợp, cũng như sử dụng đúng đắn các đòn bẩy kích thích kinh tế 
cũng có tác dụng nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định rất nhiều. 
b) Tổ chức tốt công tác hoàn thiện các công trình dở dang đưa vào bàn giao sử 
dụng cho các chủ đầu tư và thu hồi dứt điểm công nợ. 
Một thực tế là trong những năm qua, số vốn của các doanh nghiệp XDCTGT bị 
các chủ đầu tư chiếm dụng là khá lớn, khả năng thanh toán gặp nhiều khó khăn. 
Để phát huy vai trò tự chủ về tài chính, đảm bảo tăng nhanh vòng quay của vốn, 
các doanh nghiệp XDCTGT cần có những biện pháp hữu hiệu nhằm hạn chế tình trạng 
vốn của mình bị chiếm dụng làm giảm hiệu quả kinh doanh và hiệu quả sử dụng vốn. 
- Trong công tác sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp cần phải nắm bắt và xử 
lý tốt các thông tin và tìm kiếm các công trình có thời gian thanh toán nhanh, có nguồn 
vốn rõ ràng. Kiên quyết không nhận công trình khi chưa rõ nguồn vốn; không bỏ thầu giá 
thấp bất hợp lý và không đầu tư mua sắm thiết bị tràn lan, kém hiệu quả. Từ đó sẽ chấm 
dứt việc phát sinh nợ mới. 
- Đối với các khoản phải thu khách hàng, doanh nghiệp cần tìm nhiều biện pháp 
để thu hồi nợ hoặc xử lý bằng cách bán nợ để thu hồi vốn trong khuôn khổ cơ chế tài 
chính của Nhà nước cho phép. 
- Tăng cường các biện pháp khuyến khích khách hàng thanh toán như sử dụng tỷ 
lệ chiết khấu thanh toán cho khách hàng. 
c) Giảm giá thành công trình 
Hiện nay, các công trình mà các doanh nghiệp XDCTGT có được chủ yếu là từ 
đấu thầu. Mà trong đấu thầu thì giá bỏ thầu có tính chất quyết định. Doanh nghiệp nào 
giá bỏ thầu thấp thì doanh nghiệp đó sẽ thắng. Nếu các doanh nghiệp XDCTGT không 
quản lý tốt các chi phí, tiết kiệm chi phí dẫn đến giá thành cao, giá vốn cao thì sẽ không 
thể tồn tại và phát triển để thắng thầu. Các doanh nghiệp XDCTGT cần phải bố trí cơ cấu 
tổ chức quản lý, tổ chức sản xuất thật hợp lý, tính toán mức trích khấu hao phù hợp, đặc 
biệt tính toán chi phí nguyên vật liệu đầu vào một cách chính xác. Trên cơ sở đó để có 
một giá vốn hợp lý, một giá thành phù hợp đủ sức cạnh tranh lành mạnh trên thị trường. 
Các doanh nghiệp cần có kế hoạch khai thác thị trường và tham gia đấu thầu các công 
trình có vốn đầu tư. Việc đấu thầu cho đến việc thi công cần phải đầu tư nghiên cứu sao cho 
có đơn giá thầu phù hợp và có tính khả thi. Quá trình thi công cần đảm bảo chất lượng, như 
vậy công trình mới tạo được uy tín với chủ đầu tư và có vị thế trên thương trường. Và như 
vậy cũng có nghĩa việc giảm giá thành công trình phải đồng thời với việc nâng cao chất 
lượng sản phẩm. 
d) Xác định lượng hàng tồn kho cho phù hợp 
Các doanh nghiệp XDCTGT hiện nay có một lượng hàng tồn kho tương đối lớn, 
thường chiếm trên 20% tổng tài sản - đây là một dấu hiệu không tốt. Nếu bảo quản nguyên 
vật liệu tồn kho không tốt sẽ ảnh hưởng đến chất lượng công trình; hơn nữa sản phẩm dở 
dang và nguyên vật liệu tồn nhiều sẽ chịu nhiều chi phí liên quan. Do đó các doanh 
nghiệp cần phải xác định cụ thể tình hình thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh trong 
từng tháng, quý, năm để cung ứng vật tư theo tiến độ của công trình. Mặt khác các doanh 
nghiệp cần đẩy nhanh tốc độ thi công và nghiệm thu xác nhận khối lượng công việc hoàn 
thành kịp thời nhằm giảm khối lượng dở dang. Có như vậy mới thu hồi được vốn nhanh, 
tạo điều kiện đưa vốn vào vòng chu chuyển sau. 
e) Nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ quản lý 
Cán bộ quản lý là một nguồn lực đặc biệt có tri thức, có khả năng sáng tạo, có 
năng lực tổ chức quản lý và tập hợp được mọi nguồn lực khác nhằm thực hiện có hiệu 
quả của một hay nhiều dự định hoặc mục tiêu nào đó của một tổ chức. 
Thực tế khi nói tới vấn đề cán bộ người ta dễ dàng thống nhất với nhau để khẳng 
định đó là nhân tố quyết định sự phát triển của xã hội, của mỗi ngành. Tính hiệu quả của 
hệ thống các chính sách và công cụ quản lý nhà nước phụ thuộc vào hai điều kiện cơ bản: 
- Cơ chế vận hành của nền kinh tế. 
- Năng lực của đội ngũ cán bộ quản lý. 
Hai yếu tố này có mối quan hệ tương tác và có liên quan tới hàng loạt các nhân tố 
kinh tế - xã hội, trong đó năng lực của đội ngũ cán bộ quản lý đóng vai trò quyết định 
nhất. 
Đội ngũ cán bộ quản lý ngành GTVT có khả năng đem lại những lợi ích to lớn 
và lâu dài cho sự phát triển của ngành, của nền kinh tế quốc dân và cho toàn xã hội. 
Đầu tư cho đội ngũ cán bộ quản lý sẽ đem lại tỷ suất lợi nhuận và hiệu quả xã hội cao 
hơn so với đầu tư vào các ngành kinh tế khác, nên đội ngũ này đòi hỏi phải được đào 
tạo tốt hơn để có kiến thức vững vàng và có khả năng lao động sáng tạo, phải có sự 
kết hợp giữa trí tuệ và đạo đức, giữa khoa học và kinh nghiệm, giữa kỹ năng và phong 
cách... Lao động của cán bộ quản lý là một trong những loại lao động bậc cao do vậy 
cần phải tuyển dụng chọn lọc, đào tạo chu đáo và có chế độ đãi ngộ tương xứng, thỏa 
đáng. 
Kinh tế thị trường hiện đại ngày nay là kinh tế tri thức. Sức cạnh tranh sẽ xoay 
quanh tâm điểm là hàm lượng khoa học và công nghệ tiên tiến; chất xám quyết định giá 
trị sản phẩm. Cơ sở quan trọng nhất để có hàm lượng khoa học và giá trị sản phẩm cao là 
chất lượng cán bộ quản lý. Cán bộ quyết định diện mạo của nguồn nhân lực bậc cao, 
nhưng việc sử dụng cán bộ như thế nào lại là do công tác cán bộ của ngành. Để nâng cao 
năng lực của đội ngũ cán bộ quản lý doanh nghiệp cần tăng cường công tác đào tạo và 
đào tạo lại. 
Trong thời gian qua, công tác đào tạo lại của ngành GTVT còn gặp nhiều khó 
khăn do một số nguyên nhân như kinh phí cho công tác này còn thấp, việc áp dụng tiêu 
chuẩn hóa cán bộ chưa được thực hiện nghiêm, các cơ quan đào tạo chưa nhận thức đúng 
tầm quan trọng của công tác đào tạo lại... Trong khi đó, đào tạo lại là việc rất quan trọng 
để chuyển hóa, nâng cấp kiến thức và kỹ năng cho người đang công tác. Do đó cần phải 
tăng cường công tác đào tạo lại cho cán bộ quản lý. 
Xu hướng hiện nay là tập trung phát triển nền giáo dục toàn diện, trước hết là ưu 
tiên phát triển nguồn nhân lực có trình độ cao và đội ngũ cán bộ quản lý nhằm đáp ứng 
được những thách thức to lớn trong quá trình chuyển dịch cơ cấu, phát triển kinh tế - xã 
hội, đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng kinh tế để nhanh chóng hội nhập với kinh tế khu vực và 
kinh tế thế giới. 
g) Quảng cáo, giới thiệu doanh nghiệp 
Đây là giải pháp rất hữu hiệu đối với các doanh nghiệp XDCTGT trong điều kiện 
hiện nay. Khi mà thời đại thông tin bùng nổ, các doanh nghiệp cần quảng cáo, giới thiệu 
về doanh nghiệp, về năng lực, về kinh nghiệm thi công của doanh nghiệp. Có như vậy, có 
thể các chủ đầu tư sẽ tự tìm đến doanh nghiệp. 
3.2.2.4. Các giải pháp về đầu tư vốn 
Trong nền kinh tế thị trường, đối với các doanh nghiệp nói chung, các doanh 
nghiệp xây dựng công trình giao thông nói riêng thường có hai hướng đầu tư: 
- Đầu tư bên trong nhằm tăng khả năng sản xuất kinh doanh như đầu tư xây dựng 
chiến lược kinh doanh; đầu tư đổi mới qui trình công nghệ, đổi mới thiết bị sản xuất kinh 
doanh; đầu tư vào con người như đào tạo, đào tạo lại đội ngũ cán bộ quản lý, người lao 
động… 
- Đầu tư vốn ra bên ngoài: trong quá trình hoạt động, có những lúc doanh nghiệp 
có vốn nhàn rỗi hoặc sản xuất kinh doanh không có hiệu quả thì có thể đem số vốn đó 
đầu tư ra bên ngoài và thường được tiến hành dưới các hình thức: góp vốn liên doanh, 
đầu tư mua cổ phiếu, trái phiếu. Với mục tiêu thu được lợi nhuận và mục đích đảm bảo 
an toàn vốn. 
Nhưng trong thực tế khả năng thu được lợi nhuận cao thường mâu thuẫn với khả 
năng an toàn về vốn. Lợi nhuận càng cao thì độ rủi ro càng lớn. Vì vậy, khi đi tới những 
quyết định đầu tư vốn, doanh nghiệp cần hết sức cân nhắc độ an toàn và tin cậy của dự 
án, đòi hỏi doanh nghiệp phải am hiểu tường tận những thông tin cần thiết, phân tích 
những mặt lợi hại của dự án để chọn đúng đối tượng và loại hình đầu tư phù hợp. 
3.2.3. Điều kiện cần thiết để thực hiện có hiệu quả các giải pháp 
3.2.3.1. Nâng cao nhận thức về cạnh tranh và thúc đẩy tinh thần cạnh tranh 
lành mạnh 
Quy luật cạnh tranh là quy luật khách quan của nền kinh tế thị trường, với quyết 
tâm chuyển đổi nền kinh tế đất nước sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ 
nghĩa, chủ động hội nhập ngày càng sâu rộng vòa nền kinh tế thế giới thì dù muốn hay 
không Việt Nam cũng phải chấp nhận cạnh tranh. Do đó, cần nâng cao nhận thức về 
cạnh tranh cho mọi chủ thể, đặc biệt là các doanh nghiệp, người tham gia trực tiếp vào 
quá trình cạnh tranh. Xét trên bình diện trong nước, quốc tế hay xét trên giác độ doanh 
nghiệp, cạnh tranh trong kinh doanh luôn là quá trình ganh đua giữa hai hay nhiều 
doanh nghiệp nhằm giành cho mình thị phần nhiều hơn. Cạnh tranh duy trì và phát triển 
những doanh nghiệp tốt nhất, đào thải những doanh nghiệp yếu kém, cạnh tranh hỗ trợ 
đắc lực cho quá trình phát triển đi lên của toàn xã hội. Với vai trò đó, cạnh tranh phải 
được coi là động lực phát triển của nền kinh tế. 
Các bộ, ngành, địa phương phải rà soát lại các quy định trong phạm vi quản lý để 
xóa bỏ những quy định mang tính phân biệt đối xử. Tiếp đó, Chính phủ, các hiệp hội và 
ngành nghề cần tích cực tuyên truyền nhận thức đúng đắn về cạnh tranh trên các phương 
tiện thông tin đại chúng nhằm thúc đẩy tinh thần cạnh tranh lành mạnh trên thị trường. 
3.2.3.2. Nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế 
Như đã phân tích trong chương 1 của luận văn, năng lực cạnh tranh quốc gia có 
mối liên hệ chặt chẽ với năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Năng lực cạnh tranh quốc 
gia cao sẽ thúc đẩy năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Trong khi đó, năng lực cạnh 
tranh của nền kinh tế Việt Nam còn thấp. Chính vì vậy, cần tìm mọi biện pháp nâng cao 
năng lực cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam. Năng lực cạnh tranh của nền kinh tế là 
một vấn đề lớn, nó có được là do tác động tổng hợp từ nhiều nhân tố, từ mức độ mở cửa 
và chính sách thương mại, tài chính, công nghệ, hạ tầng cơ sở, lao động đến thể chế và 
chính phủ. Do vậy, để nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam cần sự 
phối hợp của Chính phủ, các Bộ, ngành và địa phương nhằm khắc phục các yếu kém, tạo 
bước chuyển biến mạnh mẽ trong việc nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh 
tế, đưa Việt Nam vào bản đồ khu vực và thế giới. 
3.2.3.3. Cải thiện môi trường kinh doanh 
Phát triển và tăng trưởng của doanh nghiệp luôn đòi hỏi môi trường kinh doanh 
ổn định. Môi trường kinh doanh là kết quả của tổng thể các yếu tố khác, là điều kiện 
không thể thiếu đối với việc nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và là điều 
kiện để phát triển nền kinh tế quốc gia. Do đó để doanh nghiệp phát triển thì nhất thiết 
cần phải đảm bảo môi trường kinh doanh thuận lợi. Môi trường kinh doanh thuận lợi khi 
thỏa mãn các điều kiện sau: 
- Nhà nước có năng lực và quyền lực để đưa ra các chính sách kinh tế đúng đắn 
và thực hiện được các chính sách đó. Bộ máy Nhà nước vừa phải nắm bắt và kiểm soát 
được các diễn biến trên thị trường trong nước và quốc tế, để đề ra biện pháp điều chỉnh 
linh hoạt, đảm bảo sự ổn định của nền kinh tế, vừa là công cụ bảo vệ và thực thi quyền tự 
do kinh doanh của doanh nghiệp. Do đó việc xây dựng Nhà nước pháp quyền, xây dựng 
nền hành chính hoạt động có hiệu quả, trong sạch có ý nghĩa hết sức quan trọng trong 
việc nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp. 
- Phát triển thị trường các yếu tố đầu vào phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh 
doanh của doanh nghiệp. Sức mạnh của doanh nghiệp phụ thuộc vào ba nhân tố là vốn, 
công nghệ và con người. Do đó, việc phát triển thị trường các yếu tố đầu vào mà trọng tâm là 
thị trường vốn, thị trường công nghệ, thị trường lao động là điều kiện cần thiết để doanh 
nghiệp củng cố năng lực cạnh tranh. 
Thị trường vốn phát triển để mở rộng kênh huy động vốn trung và dài hạn cho 
doanh nghiệp. Để tạo thêm một kênh dẫn vốn đáp ứng nhu cầu đầu tư tăng khả năng cạnh 
tranh của doanh nghiệp, cần phát triển thị trường trái phiếu nói chung cũng như thị 
trường trái phiếu Chính phủ, trái phiếu doanh nghiệp nói riêng. Do đó, Chính phủ cần lập 
và công bố kế hoạch phát hành các loại trái phiếu trung và dài hạn để vừa đảm bảo lượng 
vốn huy động thường xuyên và ổn định cho đầu tư phát triển, vừa tăng tính hấp dẫn của 
trái phiếu Chính phủ. Lãi suất trái phiếu Chính phủ sẽ là cơ sở tham chiếu cho các loại 
trái phiếu khác, do đó sẽ thúc đẩy thị trường trái phiếu doanh nghiệp phát triển. Mặt khác 
miễn giảm các loại thuế, phí và lệ phí phát hành trái phiếu lần đầu ra công chúng, giảm 
chi phí lưu ký, niêm yết trái phiếu để khuyến khích doanh nghiệp niêm yết và phát hành 
trái phiếu ra công chúng. 
áp dụng nhiều biện pháp khuyến khích hơn nữa nhằm đưa các doanh nghiệp có 
đủ tiêu chuẩn lên niêm yết tại trung tâm giao dịch chứng khoán. Doanh nghiệp được niêm 
yết sẽ tăng uy tín, tăng khả năng huy động vốn, tăng khả năng cạnh tranh, đồng thời làm 
thị trường tăng tính minh bạch và công khai thông tin. 
Kết luận 
Nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp 
XDCTGT nói riêng là vấn đề được các doanh nghiệp đặt lên hàng đầu vì trong điều kiện 
nền kinh tế ngày càng bị ảnh hưởng sâu sắc bởi con đường hội nhập, nâng cao năng lực 
cạnh tranh là con đường dẫn tới thành công của cả doanh nghiệp và quốc gia trong dài 
hạn. Chính vì vậy, luận văn "Các giải pháp tài chính nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh 
của các doanh nghiệp XDCTGT" được hoàn thành nhằm hoàn thiện lý luận về cạnh tranh 
và vai trò của tài chính doanh nghiệp đối với năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, trên 
cơ sở đó tìm ra các giải pháp tài chính nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh 
nghiệp XDCTGT. 
Luận văn đã đưa ra và giải quyết các vấn đề sau đây: 
- Làm rõ thế nào là doanh nghiệp XDCTGT và hoạt động của doanh nghiệp 
XDCTGT trong nền kinh tế thị trường. 
- Làm rõ đặc điểm của quá trình sản xuất XDCTGT, đặc điểm sản phẩm 
XDCTGT. 
- Hệ thống hóa lý luận về cạnh tranh và các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh 
tranh của doanh nghiệp. 
- Làm rõ vai trò của tài chính doanh nghiệp đối với việc nâng cao năng lực cạnh 
tranh của doanh nghiệp. 
- Đánh giá về thực trạng tài chính của các doanh nghiệp XDCTGT trong những 
năm gần đây. Tìm ra những nguyên nhân của những khó khăn về tài chính của các doanh 
nghiệp XDCTGT. 
- Đánh giá chung về năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp XDCTGT. 
- Đưa ra các giải pháp tài chính nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các 
doanh nghiệp XDCTGT. 
Những giải pháp mà luận văn đã nêu ra là những gì mà tác giả luận văn đã đúc 
kết được trong quá trình nghiên cứu lý luận và thực tiễn. Tác giả luận văn hy vọng luận 
văn này sẽ giúp cho các doanh nghiệp XDCTGT giảm bớt khó khăn về tài chính, lúng 
túng trong việc huy động vốn và sử dụng vốn. Đây là vấn đề rộng và phức tạp, với trình 
độ và khả năng nhất định nên luận văn khó tránh khỏi những hạn chế. Do đó ngoài những 
đóng góp của luận văn, còn nhiều vấn đề cần được tiếp tục nghiên cứu lâu dài thì mới 
giải quyết được. 
Danh mục tài liệu tham khảo 
1. Bộ Giao thông vận tải (2006), Báo cáo tổng kết công tác năm 2005 và triển khai 
nhiệm vụ kế hoạch năm 2006, Hà Nội. 
2. Bộ Giao thông vận tải (2007), Báo cáo tổng kết công tác năm 2006 và triển khai 
nhiệm vụ kế hoạch năm 2007, Hà Nội. 
3. Chính phủ (2004), Quyết định số 206/2004/QĐ-TTg ngày 10/12 của Thủ tướng 
Chính phủ về việc phê duyệt Chiến lược phát triển giao thông vận tải Việt Nam 
đến năm 2020, Hà Nội. 
4. Bạch Thụ Cường (2002), Bàn về cạnh tranh toàn cầu, Nxb Thông tấn, Hà Nội. 
5. Trần Quốc Dân (2005), Sức hấp dẫn một giá trị văn hoá doanh nghiệp, Nxb Chính trị 
quốc gia, Hà Nội. 
6. Nghiêm Văn Dĩnh (1997), Kinh tế xây dựng công trình giao thông, Nxb Giao thông 
vận tải, Hà Nội. 
7. Lê Đăng Doanh - Nguyến Thị Kim Dung - Trần Hữu Hân (1998), Nâng cao năng lực 
cạnh tranh và bảo hộ sản xuất trong nước, Nxb Lao động, Hà Nội. 
8. Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh (1999), Tài chính doanh nghiệp, Nxb Tài 
chính, Hà Nội. 
9. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, 
Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
10. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, 
Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
11. Lưu Thị Hương - Vũ Duy Hào (2006), Quản trị tài chính doanh nghiệp, Nxb Tài 
chính, Hà Nội. 
12. Nguyễn Đình Kiệm - Nguyễn Đăng Nam (1999), Quản trị tài chính doanh nghiệp, 
Nxb Tài chính, Hà Nội. 
13. Nguyễn Thị Hoài Lê (2005), Sử dụng công cụ tài chính vĩ mô nâng cao khả năng 
cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam trong điều kiện hiện nay, Luận án 
Tiến sĩ kinh tế, Học viện Tài chính. 
14. Luật đấu thầu - Luật xây dựng và nghị định hướng dẫn chung (2006), Nxb Thống kê, 
Hà Nội. 
15. Đỗ Đức Minh (2006), Tài chính Việt Nam 2001 - 2010, Nxb Tài chính, Hà Nội. 
16. Paul A. Samuelson - William D. Nordhaus (1997), Kinh tế học, (xuất bản lần thứ 15), 
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
17. Nguyễn Vĩnh Thanh (2005), Nâng cao sức cạnh tranh của các doanh nghiệp thương 
mại Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế, Nxb Lao động - Xã hội, Hà Nội. 
18. Tổng công ty Xây dựng công trình Giao thông 1 (2005), Báo cáo tài chính năm 2004, 
Hà Nội. 
19. Tổng công ty Xây dựng công trình Giao thông 1 (2006), Báo cáo tài chính năm 2005, 
Hà Nội. 
20. Tổng công ty Xây dựng công trình Giao thông 1 (2007), Báo cáo tài chính năm 2006, 
Hà Nội. 
21. Tổng công ty Xây dựng công trình Giao thông 4 (2005), Báo cáo tài chính năm 2004, 
Hà Nội. 
22. Tổng công ty Xây dựng công trình Giao thông 4 (2006), Báo cáo tài chính năm 2005, 
Hà Nội. 
23. Tổng công ty Xây dựng công trình Giao thông 4 (2007), Báo cáo tài chính năm 2006, 
Hà Nội. 
24. Tổng công ty Xây dựng công trình Giao thông 5 (2005), Báo cáo tài chính năm 2004, 
Hà Nội. 
25. Tổng công ty Xây dựng công trình Giao thông 5 (2006), Báo cáo tài chính năm 2005, 
Hà Nội. 
26. Tổng công ty Xây dựng công trình Giao thông 5 (2007), Báo cáo tài chính năm 2006, 
Hà Nội. 
27. Tổng công ty Xây dựng công trình Giao thông 6 (2005), Báo cáo tài chính năm 2004, 
Hà Nội. 
28. Tổng công ty Xây dựng công trình Giao thông 6 (2006), Báo cáo tài chính năm 2005, 
Hà Nội. 
29. Tổng công ty Xây dựng công trình Giao thông 6 (2007), Báo cáo tài chính năm 2006, 
Hà Nội. 
30. Tổng công ty Xây dựng Thăng Long (2005), Báo cáo tài chính năm 2004, Hà Nội. 
31. Tổng công ty Xây dựng Thăng Long (2006), Báo cáo tài chính năm 2005, Hà Nội. 
32. Tổng công ty Xây dựng Thăng Long (2007), Báo cáo tài chính năm 2006, Hà Nội. 
33. Báo cáo tài chính năm của các Tổng công ty XDCTGT qua các năm 2004, 2005, 
2006 bao gồm Tổng công ty XDCTGT 1, Tổng công ty XDCTGT 4, Tổng công 
ty XDCTGT 5, Tổng công ty XDCTGT 6, Tổng công ty xây dựng Thăng Long. 
34. Lê Xuân Trường (2006), Chính sách thuế với việc nâng cao năng lực cạnh tranh của 
các doanh nghiệp ngành công nghiệp Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc 
tế, Luận án Tiến sĩ kinh tế, Học viện Tài chính. 
35. Hoàng Anh Tuyên (2006), Luật doanh nghiệp và 134 câu hỏi đáp, Nxb Lao động - 
Xã hội, Hà Nội. 
36. Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương, Dự án VIE 01/025, Nâng cao năng 
lực cạnh tranh quốc gia, Nxb Giao thông vận tải, Hà Nội. 
37. Vụ Công tác lập pháp (2005), Những nội dung cơ bản của Luật cạnh tranh, Nxb Tư 
pháp, Hà Nội. 
Mục lục 
 Trang 
 Trang phụ bìa 
Lời cam đoan 
Môc lôc 
Danh mục các từ viết tắt 
Danh môc c¸c b¶ng 
Danh môc c¸c h×nh 
 Mở đầu 1 
 Ch-¬ng 1: doanh nghiệp xây dựng công trình giao thông và vai trò 
của tài chính đối với năng lực cạnh tranh của các 
doanh nghiệp xây dựng công trình giao thông 
4 
1.1. Doanh nghiÖp x©y dùng c«ng tr×nh giao th«ng vµ ho¹t ®éng cña 
các doanh nghiệp xây dựng công trình giao thông trong nền kinh 
tế thị trường ở nước ta 
4 
 1.1.1. Doanh nghiệp xây dựng công trình giao thông và các mối quan 
hệ trong kinh doanh của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị 
trường 
4 
 1.1.2. NhiÖm vô cña c¸c doanh nghiÖp x©y dùng c«ng trình giao thông 
trong nền kinh tế thị trường 
6 
 1.1.3. Ho¹t ®éng cña c¸c doanh nghiÖp x©y dùng c«ng tr×nh giao 
th«ng trong nền kinh tế thị trường 
7 
1.2. §Æc ®iÓm s¶n phÈm x©y dùng c«ng tr×nh giao th«ng vµ ®Æc 
®iÓm quy tr×nh s¶n xuÊt x©y dùng c«ng tr×nh giao th«ng 
12 
 1.2.1. §Æc ®iÓm s¶n phÈm x©y dùng c«ng tr×nh giao th«ng 12 
 1.2.2. §Æc ®iÓm qu¸ tr×nh s¶n xuÊt x©y dùng c«ng tr×nh giao th«ng 13 
1.3. Sự cần thiết phải nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp x©y 
dùng c«ng tr×nh giao th«ng hiÖn nay 
15 
 1.3.1. Hội nhập quốc tế và sự ảnh hưởng của nó tới năng lực cạnh 
tranh của các doanh nghiệp xây dựng công trình giao thông 
15 
 1.3.2. C¬ héi vµ th¸ch thøc ®èi víi c¸c doanh nghiÖp x©y dùng c«ng 
tr×nh giao th«ng khi tham gia héi nhËp 
16 
1.4. Năng lực cạnh tranh và vai trò của tài chính đối với việc nâng cao 
năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp xây dựng công trình giao 
thông 
19 
 1.4.1. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và các nhân tố ảnh hưởng 
đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp 
19 
 1.4.2. Vai trò của tài chính doanh nghiệp trong việc nâng cao năng lực 
cạnh tranh của các doanh nghiệp xây dựng công trình giao 
thông 
30 
 Ch-¬ng 2: thực trạng tài chính và năng lực cạnh tranh của các 
doanh nghiệp xây dựng công trình giao thông 
34 
2.1. T×nh h×nh ph¸t triÓn cña c¸c doanh nghiÖp x©y dùng c«ng tr×nh 
giao th«ng 
34 
2.2. Đánh giá thực trạng tài chính và năng lực cạnh tranh của c¸c 
doanh nghiÖp x©y dùng c«ng tr×nh giao th«ng hiÖn nay 
41 
 2.2.1. Thực trạng tài chính của các doanh nghiệp xây dùng c«ng tr×nh 
giao th«ng hiÖn nay 
41 
 2.2.2. Nguyên nhân cơ bản dẫn đến tình trạng khó khăn về tài chính 
của các doanh nghiệp xây dựng c«ng tr×nh giao th«ng 
47 
 2.2.3. Thùc tr¹ng n¨ng lùc c¹nh tranh cña c¸c doanh nghiÖp x©y dùng 
c«ng tr×nh giao th«ng 
55 
 2.2.4. Những kết luận rút ra từ nghiên cứu cạnh tranh trên thị trường 
xây dựng của các doanh nghiệp xây dựng công trình giao thông 
59 
 Ch-¬ng 3: giải pháp tài chính nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh 
của các doanh nghiệp xây dựng công trình giao thông 
trong điều kiện hiện nay 
63 
3.1. Định hướng phát triển các doanh nghiệp xây dựng công trình giao 
thông đến năm 2020 
63 
 3.1.1. Quan ®iÓm ph¸t triÓn 63 
 3.1.2. Môc tiªu ph¸t triÓn ngµnh Giao th«ng vËn t¶i 64 
 3.1.3. Chiến lược phát triển kết cấu hạ tầng giao thông Việt Nam đến 
năm 2020 
66 
3.2. Giải pháp tài chính nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các 
doanh nghiệp xây dựng công trình giao thông trong điều kiện hiện 
nay 
68 
 3.2.1. C¨n cø cña viÖc ®-a ra c¸c gi¶i ph¸p 68 
 3.2.2. Các giải pháp tài chính nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của 
các doanh nghiệp xây dựng công trình giao thông 
69 
 3.2.3. Điều kiện cần thiết để thực hiện có hiÖu qu¶ c¸c gi¶i ph¸p 98 
 Kết luận 101 
 danh mục Tài liệu tham khảo 103 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 LUẬN VĂN- Giải pháp tài chính nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp xây dựng công trình giao thông.pdf LUẬN VĂN- Giải pháp tài chính nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp xây dựng công trình giao thông.pdf