Luận văn Giải pháp thúc đẩy quan hệ thương mại giữa Việt Nam – Lào trong những năm tới

Từ khi Liên bang Xô Viết sụp đổ, hầu hết các nước đều chuyển sang nền kinh tế hàng hóa, kinh tế thị trường.Việt Nam và Lào cũng nằm trong xu thế đó. Quan hệ Việt – Lào đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chủ tịch Cayxỏn Pômvihản dày công vun đắp. Trải qua bao thăng trầm, thử thách của lịch sử sửi hai nước mối quan hệ này ngày càng phát triển tốt đẹp trên tinh thần “ láng giềng tốt đẹp, hữu nghị truyền thống, hợp tác toàn diện, bền vững lâu dài”. Trong đó có quan hệ thương mại mà chủ yếu là hoạt động xuất nhập khẩu hai chiều giữa hai nước góp phần không nhỏ vào thành công này.

doc64 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3437 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giải pháp thúc đẩy quan hệ thương mại giữa Việt Nam – Lào trong những năm tới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ăng 20,9 lần, Quả là một tốc độ tăng nhanh về thâm hụt cán cân thương mại. Sở dĩ như vậy là do cơ cấu mạt hàng XNK giữa hai nước chưa hợp lý.Tuy nhiên, đến năm 2009 Việt Nam đã giảm nhập siêu từ Lào nhờ tăng cường xuất khẩu hàng hoá của các công ty Việt Nam sang thị trường này tăng 13% trong khi đó nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam từ Lào lại giảm -79,1%; đến quý I năm 2010 nhập khẩu của Việt Nam cũng đã giảm -8,2%.Việt Nam xuất khẩu sang Lào những mặt hàng như hàng tiêu dùng, sản phẩm dày dép, dệt may… cho giá trị không cao. Trong khi đó thì Việt Nam nhập từ Lào về ô tô nguyên chiếc, gỗ và sản phẩm gỗ, nguyên phụ liệu, máy móc phụ vụ ngành xây dựng… 2.3.1.3 Mặt hàng xuất khẩu chính ngạch Bảng 6: Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu chính ngạch của Việt Nam từ năm 2001 đến 2009 Số thứ tự Mặt hàng xuất khẩu chính ngạch Tỷ lệ phần trăm 1. Hàng dệt may 41,1% 2 Đồ gia dụng và thực phẩm 30,6% 3 Linh kiện điện tử 18,7% 4 Các sản phẩm khác 9% (Nguồn: Viện nghiên cứu Kinh tế Chính trị Thế giới – GSO) Các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam chính ngạch sang Lào chủ yếu gồm có : hàng dệt may, đồ nhựa, thực phẩm, link kiện điện tử và các mặt hàng khác như than đá, dây điện, dây cáp điện. Nhìn vào bảng trên ta sẽ thấy hàng tiêu dùng vẫn chiễm tỷ lệ chủ yếu ( trên 80%) trong cơ cấu hang xuất khẩu của Việt Nam. Các mặt hàng được xuất khẩu đều là thế mạnh của Viêt Nam. Trong đó Dệt May chiếm tỷ lệ cao nhất 41,1% , tiếp theo là hàng gia dụng và thực phẩm 30,6% , linh kiện điện tử 18,7% và các sản phẩm khác là 9%. Sở sĩ hàng dệt may thống lĩnh các mặt hàng Việt Nam xuất khẩu sang Lào là vì Việt Nam được coi là một trong những quốc gia có gia công hàng dệt may lớn với các thương hiệu như Việt Tiến, Thăng Long, Nhà Bè…Tầm vóc người Lào cũng tương đương tầm vóc người Việt. Các doanh nghiệp trong nước không ngừng cải tiến mẫu mã, chất lượng, giá cả. Một chiếc áo sơ mi Việt Nam trên thị trường Lào có giá khoảng 50-100 kip (khoảng 100-200 vnđ ). Hàng gia dụng và thực phẩm của Việt Nam tại thị trường Lào cũng được biết đến như với mẫu mã phong phú, đa dạng như sản phẩm nhựa có Song Long, Đồng Tâm… Thực phẩm với các thương hiệu Vifon, Acecook, Vissan… Các mặt hàng linh kiện điện tử chiếm tỷ trọng nhỏ trong xuất khẩu các mặt hàng của Việt Nam sang Lào vì trên thực tế sản xuất linh kiện điện tử vẫn chưa là thế mạnh của Việt Nam. Hỗu hết đều là lắp ráp linh kiện điện tử cho các hãng nước ngoài. Hơn nữa bên cạnh Lào có Thái Lan là quốc gia mạnh về lắp ráp linh kiện điện tử. Hình thức xuất khẩu chính ngạch Việt Nam và Lào có chung đường biên giới, doanh nhân hai nước quá hiểu tập quán làm ăn của nhau, và trình độ tương đương nhau. Nên hình thức xuất khẩu hàng hoá Việt Nam sang Lào là xuất khẩu trực tiếp mà không qua bất kì một trung gian nào. Ưu điểm của hình thức này là doanh nghiệp xuất khẩu có đựơc lợi nhuận lớn nhất do không mất chi phí cho trung gian, có thể bám sat thị trường, quan sát được những thay đổi của thị trường nhu cầu, thị hiếu… Tuy nhiên hình thức này đòi hỏi doanh nghiệp Việt Nam phải am hiểu thị trường Lào, có kiến thức về thanh toán quốc tế và có khả năng tạo nguồn hàng lớn. 2.3.2 Thực trạng nhập khẩu chính ngạch Việt Nam – Lào 2.3.2.1 Kim ngạch nhập khẩu chính ngạch Lào là thị trương nhập khẩu quan trọng của Việt Nam vì Lào là nơi cung cấp các nguồn nguyên liệu phục vụ cho sản xuất trong nước. Riêng đối với Lào thì hàng hoá xuất khẩu chính ngạch sang Việt Nam chiếm đến 30% đến 40% tổng kim ngạch xuất khẩu của Lào. Nhìn trong bảng 5 chung ta có thể thấy kim ngạch nhập khẩu chinh ngạch của Việt Nam sang Lào không nằm ngoài xu hướng biến động chung của tổng kim ngạch xuất khẩu giữa Việt Nam và Lào. Tổng kim ngạch nhập khẩu chính ngạch giai đoạn 2001-2008 là 1010,6 USD, trung bình là 126,325 triệu USD/năm. Tốc độ tăng trưởng bình quân đạt 23,32% cao hơn tốc độ tăng trưởng xuất khẩu và xuất khẩ chính ngạch. Qua con số trên ta thấy nhập khẩu chính ngạch của Việt Nam từ Lào vượt trội so với xuất khẩu chính. Nhìn chung, tốc độ tăng trưởng kim ngạch nhập khẩu chính ngạch tăng đều qua các năm và tăng mạnh từ năm 2001 đến nay. Không nằm ngoài quy luật chung năm 2003 vẫn là năm có kim ngạch nhập khẩu thấp nhất 60,7 triệu USD và giai đoạn 2001-2003 vẫ là những năm nhập khẩu bị chững lại và có quy mô nhỏ. Do Lào có chính sách bảo vệ rừng và môi trường sinh thái nên lượng gỗ chảy vào lãnh thổ Việt Nam giảm hẳn. Từ năm 2004 trở đi nhập khẩu chính ngạch từ Lào có khởi sắc hơn. Kim ngạch nhập khẩu chính ngạch năm 2006 tăng gấp 1,7 lần so với năm 2005, năm 2008 tăng gấp 3 lần so với năm 2005. Do thời gian nhu cầu nhập khẩu ô tô tăng, đặc biệt từ năm 2006 chính phủ cho phép nhập khẩu ô tô cũ nguyên chiếc nên ô tô Lào đã tràn vào Việt Nam khiến cho tốc độ tăng trưởng năm 2006 tăng đột biến tới 70%. Tuy cho phép nhập khẩn nhưng vẫn bảo hộ ngàng ô tô trong nước nên chính phủ liên tục tăng thuế nhập khẩu ô tô nguyên chiếc lên đến 70% ( năm 2008 ) và thuế trước bạ là 12%... Riêng tháng 1/2009 kim ngạch nhập khẩu chính ngạch của Việt Nam từ Lào chỉ đạt 8.590.290 USD, giảm gần 40% so với cùng kì năm trước ( theo thông kê của hội doanh nghiệp Việt Nam ). Do năm 2009 là năm nền kinh tế thế giới bị suy thoái tồi tệ nhất từ sau cuộc khủng hoảng thừa năm 1929 đên nay và nên kinh tế Việt Nam bị ảnh hưởng nặng nề nên nhập khẩu giảm sut. Để kích cùng tiêu dùng, Việt Nam có chính sách giảm thuế còn 0% đối với các mặt hàng nhập khẩu từ Lào như cọng thuốc lá, phụ kiện mô tô… Tuy nhiên không kéo được sức cầu trong nước lên do đó không cải thiện được tình hình nhập khẩu từ Lào. Cũng giống như xuất khẩu chính ngạch, nhập khẩu hàng hoá Việt Nam vẫn chủ yếu là qua các cửa khẩu biên giới dao động từ 80% đến 90%. Số còn lại qua các cang như cảng Hải Phòng, cảng Đà Nẵng, cảng Nhà Bè, Tân Cảng, cảng Thủ Đức (HCM) Bảng 7 : Tỷ trọng và kim ngạch nhập khẩu chính ngạch từ Lào vào Việt Nam qua các cửa khẩu biên giới Việt – Lào đơn vị : Triệu USD Năm Kim ngạch nhập khẩu chính ngạch Kim ngạch nhập khẩu chính ngạch qua các cửa khẩu biên giới Tỷ trọng(%) 2001 68,0 59,1 86,91 2002 62,6 51,3 81,94 2003 60,7 53,3 87,80 2004 74,3 60,9 81,96 2005 97,5 81,5 83,58 2006 166,6 140,9 84,57 2007 207,9 169,1 81,30 2008 300,7 250,0 83,12 2009 412,6 333,3 80,78 (Nguồn: Viện nghiên cứu kinh tế chính trị thế giới - Bộ công thương) Để thấy rõ diễn biến tỷ trọng nhập khẩu chính ngạch từ Lào trong tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam ta quan sát biểu đồ sau. Bang 8: Tỷ trọng kim ngạch nhập khẩu chính ngạch từ Lào trong tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam Đơn vị : Triệu USD Năm Tổng kim ngạch NK chính ngạch Tổng kim ngạch NK của Việt Nam Tỷ trọng(%) 2001 68 16218 0,419 2002 62,6 19746 0,317 2003 60,7 25256 0,24 2004 74,3 32075 0,23 2005 97,5 36881 0,264 2006 166,6 44116 0,377 2007 207,9 59000 0,352 2008 273 80200 0,34 (Nguồn : Viện nghiên cứu kinh tế chính trị thế giới- Bộ công thương) Nhìn vào bảng 8 cho thấy tỷ trọng kim ngạch nhập khẩu chính ngạch trong tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam chỉ dao động từ 0,2 đến 0,4, một tỷ lệ quá nhỏ. Lý do là: hàng năm Việt Nam có nhu cầu nhập khẩu khá lớn các mặt hàng như xăng dầu, nguyên phụ liệu, vật liệu xây dựng….trong khi đó Lào chỉ cung cấp cho Việt Nam một số mặt hàng như : gỗ, nguyên phụ liệu dệt may và thuốc lá. Đây đều là các mặt hàng sơ chế (trừ ô tô) nên có giá trị thấp. Đồng thời đây cũng là các mặt hàng Việt Nam không khuyến khích nhập khẩu. 2.3.2.2 Mặt hàng nhập khẩu Các mặt hàng nhập khẩu từ Lào gồm có gỗ , sản phẩm từ gỗ, nguyên phụ liệu phục vụ ngành may mặc và thuốc là , ô tô nguyên chiếc. Nhập khẩu gỗ và các sản phẩm gỗ từ Lào chiếm đến 60% trong tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam. Sở dĩ như vậy là vì Lào có diện tích 2/3 là rừng. Nhu cầu nhập khẩu gỗ hàng năm của Việt Nam khoảng trên 900 triệu USD, trong khi đó nhập từ các thị trường như Campuchia , Lào, Malaixia…trong đó 30% nhập từ Lào. Gỗ của Lào có đặc điểm là chắc. chủ yếu là gỗ quý khai thác trong rừng nguyên sinh… Việt Nam hầu hết nhập gỗ sơ chế của Lào về chế biến thành các sản phẩm xuất khẩu sang EU, Hoa Kì, Nhật Bản…để thu về ngoại tệ lớn hơn. Gỗ Việt Nam Việt Nam nhập khẩu về bao gồm gỗ tròn đỏ qua cảng Cửa Lò, mây song luộc dầu qua cảng Nha Trang, gỗ hương qua Tân Cảng, còn lại gỗ chò, gỗ lim, gỗ mun qua cửa khẩu Cầu Treo. Bên cạnh gỗ là mặt hàng nhập khẩu chủ yếu thì máy móc và nguyên phụ liệu , ô tô đều được quá cảnh qua Lào vào Việt Nam nên không chiếm tỷ lệ cao. 2.3.3 Thực trạng xuất nhập khẩu tiểu ngạch Việt Nam – Lào Bên cạnh xuất nhâp khẩu chính ngạch lam nên mối quan hệ tốt đẹp còn phại kể đến xuất nhập khẩu tiểu ngạch. Hoạt động buôn bán hàng hoá giữa các địa phương đã hình thành từ lâu đời. Giữa Việt Nam và Lào có chung đường biên giới 2067km, chạy dọc 10 tỉnh từ Điện Biên đến Kon Tum. Từ năm 1976, xúât nhập khẩu hàng hoá chính ngạch hình thành và phát triển thì trao đổi địa phương còn phát triển mạnh hơn. Từ năm 1985, trao đổi giữa các địa phương phát triển trên dọc các tuyến biên giới khá đồng đều. Kim ngạch hai chiều thời kì 1985-1990 gấp 25 lần thời kì 1976-1980. Đứng trước đòi hỏi phát triển quan hệ trao đổi hàng hoá giữa hai nước, ngày 1/3/1990 Chính phủ hai nước đã ký Hiệp định về quy chế quản lý biên giới. Theo Hiệp định này hai bên đã thoả thuận xây dựng hai cặp cửa khẩu quốc tế là cửa khẩu Cầu Treo (Hà Tĩnh) – Nậm Pao và 13 cặp cửa khẩu do các địa phương kí kết gồm 6 cửa khẩu chính, 7 cửa khẩu phụ, thêm vào đó là 27 đường mòn qua lại giao lưu buôn bán qua các tỉnh, huyện, xã, bản. Hoạt động buôn bán giữa hai nước đã được hình thành từ lâu đời, hoạt động chợ đường biên vẫn chủ yếu trong hoạt động xuất nhập khẩu, đặc biệt XNK tiểu ngạch. Kim ngạch xuất nhập khẩu giữa hai nước liên tục gia tăng, thể hiện cụ thể ở bảng sau. 2.3.3.1 Kim ngạch xuất nhập khẩu Bảng 9: Kim ngạch xuất nhập khẩu tiểu ngạch của Việt Nam từ Lào. Đơn vị: Tỷ đồng Năm Kim ngạch xuất nhập khẩu tiểu ngạch Kim ngạch xuất khẩu tiểu ngạch Kim ngạch nhập khẩu tiểu ngạch 2001 100,0 70,0 30,0 2002 110,1 82,3 27,8 2003 130,1 95,3 34,8 2004 140,3 101,9 38,4 2005 151,5 121,2 30,3 2006 189,4 132,5 56,9 2007 191,1 143,4 47,7 2008 200,3 146,5 53,8 2009 250,3 160,1 90,2 (Nguồn: Viện nghiên cứu kinh tế chính trị thế giới- Bộ công thương) Trong giai đoạn 2001-2008, tổng kim ngạch xuất khẩu tiểu ngạch là 409 tỷ đồng, bình quân là 51,1 tỷ đồng/năm, tốc độ tăng trưởng bình quân đạt 13,26% thấp hơn so với tốc độ tăng trưởng xuất nhập khẩu chính ngạch. Nếu như xuất khẩu chính ngạch chủ yếu nhập siêu thì trong tiểu ngạch Việt Nam xuất siêu. Tuy kim ngạch XNK không lớn bằng chính ngạch, nhưng với hình thức trao đổi bằng đường tiểu ngạch rất linh hoạt, mặt hàng buôn bán có thể thay đổi theo thời tiết và mùa vụ, thủ tục hải quan nhanh gọn, mức thuế xuất thấp nên được doanh nghiệp xuất nhập khẩu hai nước ưa chuộng đặc biệt là các doanh nghiệp và các bà con tiểu thương ở vùng biên. Mặt khác, nó đã giúp cho đời sống nhân dân các vùng biên được nâng lên một cách rõ rệt , thông qua hệ thống chợ đường biên hai nước trao đổi một số sản phẩm thiết yếu phục vụ đời sống nhân dân vùng biên và công ăn việc làm được tạo ra từ hoạt động này. 2.3.3.2 Mặt hàng xuất nhập khẩu: Mặt hàng trao đổi tiểu ngạch giữa Việt Nam xuất sang Lào như những hàng tiêu dùng thực phẩm, công cụ lao động như vải vóc,muối ăn, đường, đồ dùng gia đình, chiếu cói, tôn lợp nhà, giấy học sinh, tỏi, hồ tiêu… Đây là những hàng hoá có khả năng xuất sang thị trường Thái Lan và Trung Quốc. Nếu các doanh nghiệp biết khai thác và tận dụng lợi thế những mặt hàng này tìh đây được coi là một cơ hội xuất khẩu. Hàng xuất khẩu chủ yếu của Lào sang Việt Nam chủ yếu là hàng nông, lâm sản như cà phê, đồ thủ công mỹ nghệ…Bên cạnh đó các mặt hàng có xuất xứ Trung Quốc như Mỹ phẩm, quần áo…cũng được Lào xuất sang Việt Nam. 2.4 Đánh giá chung về quan hệ thương mại Việt Nam – Lào 2.4.1 Ưu điểm đạt được: Kim ngạch XNK của hai nước có xu hướng tăng lên tuy có biến động qua các năm. Hàng hoá tập trung tại các tỉnh vùng biên và thâm nhập sâu và các tỉnh khác nằm sâu trong nội địa hai nước. Cơ cấu mặt hàng trao đổi ngày càng đa dạng, ngoài hàng hoá được sản xuất trong nước còn có hàng hoá của nước thứ ba tham gia vào hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá giữa hai nước như hàng Thái Lan, hàng Trung Quốc. Cơ cấu hàng hoá không những đa dạng mà có tính chất bổ sung, phù hợp với trình độ phát triển và lợi thế mỗi nước. Việt Nam xuất sang Lào chủ yếu hàng dệt may, hàng tiêu dùng, thực phẩm…Lào xuất sang Việt Nam gồm gỗ, sản phẩm từ gỗ, nguyên phụ liệu may mặc, và thuốc lá. Hàng hoá của Thái Lan táI xuất qua Lào như hàng điện tử gia dụng cũng chiếm tỷ lệ đáng kể trong tổng giá trị buôn bán hàng hoá giữa hai nước. Cơ cấu này không chỉ phản ánh tính chất bổ sung cho nhau mà còn phù hợp với trình độ phát triển kinh tế và thế mạnh mỗi nước. Kinh tế Việt Nam có trình độ phát triển cao hơn so với Lào mà Việt Nam có thể cung cấp cho Lào một số sản phẩm công nghiệp và điện tử trong khi Lào chỉ cong cấp cho Việt Nam một số mặt hàng thô, sơ chế và một số mặt hàng tạm nhập tái xuất từ Thái Lan với các mặt hàng Thái Lan có lợi thế hơn Việt Nam. Phương thức thanh toán đa dạng phù hợp và linh hoạt đáp ứng được nhu cầu thanh toán của hai nước. Trước đây khi phương thức thanh toán hàng đổi hàng còn tồn tại thì phương thức thanh toán khá đơn giản như ghi sổ hay thanh toán bằng tiền mặt. Nhưng hiện nay do như cầu mới phát sinh các phương thức thanh toán khá đa dạng như nhờ thu, tín dụng chứng từ…Để đáp ứng các nhu cầu này đã có một ngân hàng liên doanh Lào – Việt ra đời và có chi nhánh đặt tại mỗi nước, khi ngân hàng ra đời đã giúp cho các doanh nghiệp nhanh chóng thanh toán, quay vòng vốn nhanh, giảm thiểu rủi ro trong thanh toán quốc tế. Các Hiệp định thương mại giữa hai Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Lào đều có nội dung nhằm mục đích và nguyên tắc chung là củng cố và mở rộng thêm nữa quan hệ kinh tế thương mại hai nước. Quan hệ này dựa trên nguyên tắc của thương mại quốc tế: bình đẳng , hợp tác cùng có lợi, tôn trọng truyền thống hợp tác giúp đỡ lẫn nhau trong lĩnh vực thương mại hai nước và tập quán thương mại quốc tế, đồng thời khuyến khích những hàng hoá hai nước sản xuất. Những tồn tại và nguyên nhân: 2.4.2.1 Những tồn tại: Kim ngạch XNK hàng hoá giữa Việt Nam và Lào dẫu có tăng liên tục với tốc độ tăng trưởng từ năm 2004 đến nay nhưng tốc độ tăng trưởng không ổn định. Ngay từ năm 2001-2003 thì kim ngạch XNK hai chiều còn có hiện tượng chững lại và đi xuống. Hàng hoá trao đổi còn nghèo nàn, đơn điệu không phong phú, đa dạng. Hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam có mẫu mã chưa được đẹp, hàng hoá thiếu tính cạnh tranh với hàng hoá Thái Lan và Trung Quốc đặc biệt là hàng tiêu dùng. Trong khi đó thì hàng hoá của Việt Nam chất lượng chưa đồng đều, các doanh nghiệp chưa chú ý đến khẩu kiểm soát chất lượng hàng hoá xuất nhập khẩu, làm mất uy tín sản phẩm trên thị trường. Đăng ký thương hiệu và bản quyền của hàng hoá Việt Nam tại Lào cũng đang là một vấn đề đặt ra với cơ quan quản lý xuất nhập khẩu của Việt nam và các doanh nghiệp Việt Nam trực tiếp xuất khẩu hàng hoá vào Lào. Điển hình vào năm 2005, thương hiệu Vinataba của tổng công ty thuốc là Việt Nam đã bị công ty Sumatra (có trự sở tại Indonexia) đánh cắp tại Lào. Như vậy thuốc lá Vinataba của Việt Nam nhập khẩu vào Lào phải thông qua công ty Sumatra hoặc doanh nghiệp Việt Nam phải mua lại thương hiệu của mình trên đất bạn. Ngoài ra, thông qua những người Việt buôn bán lâu năm tại Lào thì “ cái dở của các sản phẩm Việt Nam là nhãn mác bao bì. Trong khi cùng một sản phẩm nhưng nhãn hàng Thái Lan và Trung Quốc bao giờ cũng chú trọng đến nhãn phụ bằng tiếng bản địa”. Điều này rất ít doanh nghiệp nhỏ chịu khó đầu tư để người dân Lào nhận diện được mặt hàng của Việt Nam cũng như thông tin trên sản phẩm. Với sản phẩm không có thương hiệu, sức tiêu thụ tại những địa bàn lớn như Viêng Chăn không nhiều, nhưng tại các tỉnh lẻ thì chỉ dựa vào thói quen. Đối với hàng hoá xuất nhập khẩu tiểu ngạch, chưa có cơ chế quản lý riêng, vẫn đánh đồng với cơ chế XNK chính ngạch như thuế xuất đối với hàng hoá xuất nhập khẩu tiểu ngạch cũng được áp dụng chung theo biểu thuế XNK thống nhất, tạo ra sự lúng túng trong công tác quản lý hàng hoá xuất nhập khẩu tại biên giới. Chưa phát huy được thế mạnh của thị trường Lào như một thị trường trung chuyển để mở rộng xuất khẩu Việt Nam sang các thị trường khác như Đông Bắc Thái Lan, Myanmar… trong khi hàng hoá Thái Lan chiếm một tỷ trọng nhất định trong kim ngạch nhập khẩu Việt Nam từ Lào. Với lại Lào là một thị trường 6.8 triệu dân, sức thanh toán thấp cũng là một tồn tại để Việt Nam đầu tư sản xuất kinh doanh một số mặt hàng có thế mạnh trong xuất khẩu. Việc nhập khẩu từ Lào cũng là một vấn đề đặt ra. Trong khi cơ cấu nhập khẩu của Việt Nam từ Lào trước đây là gỗ và nguyên liệu thuốc lá. Nay Lào đóng cửa rừng, các mặt hàng còn lại Việt Nam không khuyến khích nhập khẩu.Vậy việc tìm ra những mặt hàng nhập khẩu trong thời gian tới là hết sức cần thiết. Công tác thanh toán quốc tế còn nhiều bất cập. Mặc dù đã có một ngân hàng liên doanh Lào – Việt làm công tác thanh toán nhưng hiệu quả và phạm vi hoạt động còn hạn chế nên chưa có sức hút đối với doanh nghiệp. Chưa có cơ chế chuyển đổi từ đồng Kíp sang Bath hay USD – hai ngoại tệ chính tại thị trường Lào làm giảm hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp do đồng Kíp thường không ổn định. Về cơ sở vật chất phục vụ hoạt động xuất khẩu: tại các cửa khẩu quốc gia và các cửa khẩu quốc tế giữa hai nước đã bắt đầu hình thành một số cơ sở vật chất kĩ thuật cho nên tàng thương mại như cửa hàng, kho hàng, văn phòng đại diện nhưng nhìn chung cơ sở hạ tầng còn nghèo nàn lạc hậu, thiếu thốn dẫn đến hạn chế thương mại hai nước. Về mặt cơ cấu chính sách, thủ tục về xuất nhập khẩu còn rườm rà. Thời gian chờ đợi lâu, cán bộ làm công tác hải quan còn những nhiễu doanh nghiệp hai nước. Mối quan hệ hai nước luôn được duy trì, mở rộng, phát triển. Điều đó thể hiện rõ nhất trong quan hệ thương mại, Việt Nam đã dành cho bạn một ưu tiên về cả vốn, công nghệ, cơ sở sản xuất và thời gian để phát triển… Nguyên nhân: A. Nguyên nhân khách quan: Việt Nam và Lào dù những năm qua có những thành tựu nổi bật trong phát triển kinh tế: Việt Nam có tốc độ tăng trưởng bình quân từ năm 2005 – 2008 là trên 8%, Lào là trên 7% nhưng do xuất phát điểm thấp nên Việt Nam và Lào vẫn xếp vào các nứoc nghèo của thế giới. Nên dù hai nước có cố gắng nỗ lực thì quan hệ thương mại vẫn bị ảnh hưởng, không thể bức phá được để trở thành quan hệ thương mại lớn, khó chiếm lĩnh thị trường của nhau. Với hàng hoá Thái Lan, thị trường Lào đã quen với các sản phẩm Thái Lan, đồng thời giá hàng hoá Thái Lan luôn giá thấp hơn giá hàng hoá Việt Nam do không mất chi phí vận tải hàng hoá, trong khi đó hàng hoá Việt Nam phải cộng thêm chi phí vận tải quá cao. Thủ tục xuất nhập khẩu của hàng hoá Thái Lan rất đơn giản, phương tiện trao đổi thông tin dễ dàng và chi phí thấp do Thái Lan áp dụng cước phí điện thoại với Lào như cứơc nội địa. Hàng hoá Thái Lan thông qua Lào vào Việt Nam cũng chỉ phải nộp thuế quá cảnh 2%-5% và cũng không phải nộp thuế nhập khẩu ở Lào. Hàng Trung Quốc, đặc biệt là hàng công nghiệp tiêu dùng với giá thấp, sản phẩm phòng phú, mẫu mã đa dạng, phù hợp với túi tiền, thị hiếu người tiêu dùng đã chiếm lĩnh thị trường Lào đặc biệt là khu vực có mức sống trung bình và nông thôn. Trung Quốc cũng khuyến khích các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu tại Lào. Nếu doanh nghiệp Trung Quốc làm ăn tại Lào với một nhân dân tệ sẽ được nhận 2 nhân dân tệ từ chính phủ Trung Quốc. Do đó các doanh nghiệp Trung Quốc có một chiến dịch xâm lấn thị trường Lào mạnh mẽ. Thị trường Lào nhỏ bé, sức mua và sức thanh toán thấp nên việc đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường Lào cũng chỉ đến một giới hạn nhất định, khó có thế phát huy các mặt hàng xuất khẩu mũi nhọn của Việt Nam. Chính sách xuất nhập khẩu của Lào chưa thực sự thông thoáng và liên tục thay đổi chính sách trong khâu cấp giấy phép, triển khai dự án đầu tư, thanh toán xuất nhập khâu, thủ tục tạm nhập tái xuất, thủ tục xuất nhập cảnh…tạo nhiều cản trở cho hoạt động xuất nhập khẩu. Lào được nhiều quốc gia và khu vực như EU, Mỹ, Nhật Bản dành cho ưu đãi thương mại nhằm biến Lào thành cửa ngõ đưa hàng hoá Đông Nam á nên thị trường Lào không chỉ nhập hàng hoá Thái Lan, Trung Quốc mà còn có hàng hoá từ Nhật Bản , EU,…Vì vậy, hàng hoá Việt Nam khó có thể tranh nổi. B. Nguyên nhân chủ quan: Đầu tiên là thông tin doanh nghiệp hai nước trong lĩnh vực xuất nhập khẩu còn thiếu. Các doanh nghiệp chủ yếu có được thông tin thông qua đại sứ quán của hai nước. Hiện chỉ có một chuyên trang “ Tam giác phát triển Việt Nam – Lào – Campuchia” là nơi cung cấp thông tin cho hai nước nói chung và ba nước Đông Dương nói riêng. Do đó nên các doanh nghiệp kinh doanh XNK còn nhiều lúng túng trong việc xác định mặt hàng xuất nhập khẩu, những ưu đãi hai nước dành cho nhau. Chất lượng hàng hoá xuất khẩu chưa được quản lý chặt chẽ theo tiêu chuẩn quốc tế. Dộu biết người dân Lào có mức sống trung bình nhưng không có nghĩa là người Lào tiêu dùng hàng hoá có chất lượng kém. Bởi vì Lào quen được tiêu dùng hàng hoá từ Thái Lan với chất lượng tương đối. Trong khi đó các doanh nghiệp chưa chú ý đến khâu kiểm soát chất lượng hàng hoá xuất khẩu, gây mất uy tín hàng hoá. Hơn nữa doanh nghiệp không chú ý cải tiến mẫu mã, mở rộng thị trường, không khai thác được thế mạnh của bà con Việt Kiều đang làm ăn sinh sông tại Lào nên khâu phân phối hàng hoá bị cản trở nhiều. Ngoài ra, một số doanh nghiệp Việt Nam đang tự đánh mất mình tại thì trường Lào. Đó là các doanh nghiệp khi đi chào hàng lần đầu tiên thì mang hàng tốt, khi đã chiếm được vị trí cũng như tình cảm của người tiêu dùng rồi thì những lần sau lại mang những hàng kém chất lượng hơn. Cho dù Lào không phải là thị trường khó tính nhưng làm ăn mất uy tín đã làm thiệt hại đến chính doanh nghiệp Việt Nam. Hoạt động buôn lậu, trốn thuế, lách luật còn phổ biến nên ảnh hưởng đến thực chất trao đổi thương mại giữa hai nước. Kim ngạch trao đổi giữa hai nước còn chưa được phản ánh đúng. Các cơ quan chức năng chưa xử lí mạnh tay cho các hiện tượng nay. Cơ sở hạ tầng vật chất xuống cấp, đặc biệt là các tuyến đường nối liền với Lào xuống cấp mà không được tu sửa làm cho chi phí vận tải lớn nên đây chi phí hàng hoá lên cao làm giảm sức cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam tại thị trương Lào. Trình độ cán bộ hải quan của các cửa khẩu còn nhiều hanh chế nên nhiều khi thủ tục còn phiền hà. CHƯƠNG III : GIẢI PHÁP NHẰM THÚC ĐÂY QUAN HỆ THƯƠNG MẠI VIỆT NAM – LÀO TRONG NHỮNG NĂM TÓI. 3.1 TRIỂN VỌNG VÀ NHỮNG CƠ HỘI – THÁCH THỨC TRONG QUAN HỆ THƯƠNG MẠI VIỆT NAM – LÀO 3.1.1 Triển vọng quan hệ thương mại Việt Nam – Lào Quan hệ hữu nghị truyền thống, đoàn kết đặc biệt và hợp tác toàn diện giữa hai nước Việt Nam – Lào đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chủ tịch Cayxon Pômvihản dày công vun đắp vẫn đang được Đảng, chính quyền, nhân dân hai nước củng cố bền vững, phát triển ngày càng tốt đẹp. Mỗi quan hệ này đã trải qua nhiều thử thách, trở thành nhân tố quan trọng thúc đẩy sự nghiệp cách mạng của mỗi nước. Trong thời gian vừa qua một loạt các Hiệp định giữa hai nước đã được ký kết như : Hiệp định về hợp tác kinh tế, văn hóa, khoa học, kỹ thuật; Hiệp định về vận tải; Quy chế về hàng hóa của Lào quá cảnh lãnh thổ Việt Nam; Thỏa thuận để tạo điều kiện thuận lợi cho người, phương tiện và hàng hóa qua biên giới; Hiệp định thương mại song phương;Nghị đinh thư về trao đổi hàng hoá qua biên giới… tạo điều kiện hợp tác và trao đổi kinh tế, thương mại giữa hai nước. Mặc dù mới chỉ chiếm một tỉ trọng nhỏ trong tổng kim ngạch ngoại thương nhưng Lào đã giữ một vị trí quan trọng trong chiến lược xuất nhập khẩu của Việt Nam. Lào có đường biên giới dài 1670 km trên địa phận 7 tỉnh của Việt Nam và 10 tỉnh của Lào, với 2 cửa khẩu quốc tế và 8 cửa khẩu quốc gia. Với các chính sách khuyến khích phát triển quan hệ hợp tác kinh tế,thương mại, kim ngạch mậu dịch song phương đã tăng nhanh trong những năm qua. Nếu như trong những năm cuối thập kỷ 80, tổng kim ngạch buôn bán giữa hai nước đạt 40 triệu USD/năm thì giai đoạn 1998-2001 tổng kim ngạch song phương đã lên khoảng 1688 triệu USD, bình quân 211 triệu USD mỗi năm. Theo dự báo đến năm 2010 con số này sẽ là 2 tỷ USD. Tổng giá trị xuất nhập khẩu sang Lào đã tăng từ 9% trong năm 1995 lên trên 30% năm 2000 và tỷ trọng kim ngạch nhập khẩu từ Lào so với tổng kim ngạch xuất khẩu của Lào đã tăng từ 27% năm 1995 lên 63% năm 2000. Có thể thấy, hàng hoá của Việt Nam đã tạo được một chỗ đứng tại thị trường Lào. Nếu như trước đây thị phần hàng hoá Thái Lan chiếm 80% thì hiện nay hàng hoá của Việt Nam chiếm đến 25-40%. Lào còn là cửa ngõ để hàng hoá Việt Nam tiếp cận với thị trường Thái Lan. Đặc biệt Chính phủ Lào chủ trương giảm 50% thuế nhập khẩu và tạo mọi điều kiện đểu hàng hoá Việt Nam có thể xuất khẩu sang thì trường Lào một cách thuận lợi nhất để phục vụ sản xuất và đời sống của nhân dân Lào. Đồng thời hàng hoá Việt Nam xuất nhập khẩu với Lào cũng được giảm 50% từ phía Chính phủ Việt Nam. Đây là cơ hội tốt để các doanh nghiệp đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường Lào, đưa kim ngạch mậu dịch Việt Nam – Lào lên mức tương xứng với tiềm năng và mối quan hệ đặc biệt giữa hai nước. Vớí vị trí là cầu nối nới vùng Đông Bắc Thái Lan và các nước trong khu vực, khi đường Xuyên Á đã thông, Lào sẽ là thị trường trung chuyển và quá cảnh hàng hoá đầy tiềm năng đối với Việt Nam nói chung và các tỉnh miền trung Việt Nam nói riêng. 3.1.2 Cơ hội và thách thức đối với quan hệ thương mại Việt Nam – Lào 3.1.2.1 Cơ hội đối với quan hệ thương mại Việt Nam – Lào Việt Nam và Lào đều là thành viên tích cực của Asean và đang trong lộ trình cắt giảm thuế CEPT/AFTA. Theo như lộ trình đã cam kết với khối nước Asean thì lộ trình cắt giảm thuế sẽ được thực hiện dần dần. Theo đó Viêt Nam sẽ cắt giảm thuế 80% vào năm 2010, Lào là năm 2012. Và cắt giảm thuế xuống 0% vào năm 2015 đối với cả Việt Nam và Lào. Khi đó hàng hoá hai nước sẽ được hưởng mức thuế xuất thấp nhất nên hàng hoá hai nước sẽ có cơ hội thâm nhập và chiếm lĩnh thị trường của nhau. Việt Nam luôn có mức tăng trưởng kinh tế cao và ổn định, năm 2006 tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam là 8,2%. Dù năm 2009 nền kinh tế thế giớ có bị suy thoái trần trọng nhất Việt Nam vẫn được ngân hàng thế giới WB đánh giá có tốc độ tăng trưởng kinh tế 5,5%. Đây là dấu hiệu dáng mừng để quan hệ thương mại hai nước Việt Nam – Lào chịu ít tác động. Hơn nữa, hàng hoá Việt Nam xuất khẩu sang Lào chủ yếu là hàng hoá thiết yếu nên ít chịu ảnh hưởng tiêu cực của cuộc suy thoái. Trong thời buổi suy thoái, hàng hoá giá rẻ Việt Nam càng được tiêu thụ tại thị trường Lào. Tiềm năng của Lào chưa được khai thác hết đặc biệt là khoáng sản. Theo kết quả nghiên cứu gần đây, Lào có hơn 150 điểm quặng, bao gồm 20 loại khoáng sản. Trong đó nhiều loại cơ bản dùng cho công nghiệp luyện kim và hoá chất như thiếc, sắt.than. Nguồn tài nguyên này còn ẩn mình trong núi rừng từ Bắc xuống Nam, là sức sống tiềm ẩn của đất nước Lào trong tương lai. Nếu Việt Nam biết nắm bắt cơ hội, bắt tay với các doanh nghiệp của Lào trong đầu tư khai thác thì trong tương lai đây sẽ là nguồn nguyên liệu nhạp khẩu dồi dào cho sản xuất của Việt Nam. 3.1.2.2 Thách thức đối với quan hệ thương mại Việt Nam – Lào Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới trầm trọng. Đây là cuộc khủng hoảng kinh tế tồi tệ nhất kể từ năm 1929. Cuộc khủng hoảng này ảnh hưởng đến hầu hết các nước với các mức độ khác nhau. Riêng đối với Lào và Việt Nam thì nói ảnh hưởng nghiêm trọng đến xuất khẩu hai nước, đồng thời có thể phá vỡ một số mục tiêu phát triển hai nước nói chung và kế hoạch hợp tác về thương mại trong tương lai giữa hai nước. Lộ trình cắt giảm thuế CEPT/AFTA là một cơ hội đối với xuất nhập khẩu hai nước nhưng đồng thời nó cũng là thách thức không nhỏ với hai nước. Trên thực tế trong lộ trình cắt giảm thuế có 5 nước trong Asean là cắt giảm thuế xuống 0% hạn chót vào năm 2010. Do đó có rất nhiều hàng hoá được hưởng ưu đãi thuế đã tràn vào thị trường Lào và Việt Nam khiến cơ hội thương mại hai nước dành cho nhau bị ảnh hưởng. Nước láng giềng sản xuất hàng tiêu dùng khổng lồ Trung Quốc tiếp tục bành trướng thị trường Lào và Việt Nam làm cho vị trí hàng Việt Nam tại Lào bị ảnh hưởng. Bên cạnh đó, Trung Quốc đang trong giai đoạn tăng trưởng nóng trên 9% nên tìm mọi cách để nguồn tài nguyên Lào chảy về nước họ để phục vụ sản xuất. Cơ sở hạ tầng xuống cấp, trình độ dân trí thấp kém,nan quan liêu, yếu kém trong công tác quản lí xuất nhập khẩu tiếp tục là thách thức cản trở hoạt động xuất nhập khẩu hai nước trong thời gian tới. Những giải pháp nhằm thúc đẩy quan hệ thương mại Việt Nam – Lào 3.2.1 Giải pháp chung cho cả hai nước Xuất phát từ mục tiêu của hai nước là xây dựng đất nước, trong đó nội dung về hợp tác kinh tế thương mại là quan trọng nhất trong giai đoạn mới. Giữa Lào và Việt Nam còn một số tiềm năng để mở rộng sự hợp tác. Trong điều kiện cả hai nước còn hạn chế về vốn, trình độ kỹ thuật, nhưng nếu có chính sách thương mại quốc tế , đầu tư quốc tế thích hợp có thể vận dụng được khả năng, trí tuệ, sức lao động của cả hai nước hoặc phối hợp với nước thứ ba để khai thác lợi thế so sánh mỗi nước, giúp nhau một số vấn đề còn vướng mắc trong hoạt động kinh tế đối ngoại nói chung và hoạt động xuất nhập khẩu nói riêng. 3.2.1.1 Về cơ chế quản lí, chính sách, tăng cường quản lí và nguồn nhân lực Hai bên cần rà soát lại các văn bản (thủ tục) xuất nhập khẩu cho phù hợp với trình độ hội nhập của các tổ chức quốc tế mà hai bên đã là thành viên. Hai nước muốn giành cơ hội thương mại quốc tế cho nhau thì trước hết cần tuân theo các điều lệ thương mại của các tổ chức mà hai nước đã là thành viên như ASEAN, WTO… Công khai hóa các văn bản về chính sách quản lí hàng hóa xuất nhập khẩu, chính sách thuế,chính sách mặt hàng,các bước quy trình thủ tục hải quan,quy định về bộ hồ sơ xuất-nhập khẩu cho các đối tượng có liên quan hai bên. Áp dụng theo hướng hài hòa các tiêu chí trên tờ khai,giảm bớt các tiêu chí không phục vụ mục đích thống kê và quản lý của hải quan.Đơn giản hóa các thủ tục hải quan theo chuẩn mực, khuyến nghị của công ước Kyoto và áp dụng quản lí rủi ro trong việc kiểm tra hàng hóa. Cần tiếp tục cải cách thủ tục hành chính,thục hiện hải quan điện tử, nâng cao nghiệp vụ chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp cho cán bộ hải quan.Các cơ quan chức năng hai bên có thể tạo điều kiện cho hải quan hai nước thường xuyên gặp gỡ, trao đổi kiến thức và kinh nghiệm để tháo gỡ những vướng mắc và tồn đọng giữa hải quan hai nước,từ đó hải quan hai nước có thể phối hợp có hiệu quả hơn. Hai bên cần chú trọng đào tạo cán bộ quản lí, hoàn thiện chương trình hợp tác giữa hai bên về thỏa thuận Việt Nam giúp Lào đào tạo đặc biệt là cán bộ quản lí vĩ mô liên quan đến hoạt động ngoại thương. Hai bên cần củng cố, nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan hợp tác về thương mại, có chính sách ưu đãi với cán bộ hoạt động trong lĩnh vực ngoại thương. 3.2.1.2 Về chính sách vốn Trong điều kiện hai bên còn thiếu vốn. Để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp hoạt động, hai bên cần có chính sách hỗ trợ tạo điều kiện về vốn theo hướng cùng nhau miễn thuế nhập khẩu trang thiết bị, phụ tùng sản xuất trong đầu tư sản xuất hàng xuất khẩu mỗi nước. Mỗi thanh toán của các doanh nghiệp được thực hiện qua Việt Nam đồng hoặc Kíp Lào, trong đó trường hợp đặc biệt mới dùng ngoại tệ.Chính sách nhằm hạn rủi ro trong thanh toán do biến động tỷ giá giữa Việt Nam đồng hoặc Kíp Lào với ngoại tệ mạnh như USD,EURO…để giảm thiệt hại cho doanh nghiệp hai nước. Chính sách thuế Có chính sách miễn giảm thuế đối với hàng hóa địa phương phục vụ vùng biên hai nước. Đặc biệt là hàng hóa xuất phát từ các tỉnh nghèo, khó khăn về giao thông không thu bất cứ một khoản thuế nào và tạo điều kiện nhanh chóng cho thông thương hàng hóa giữa hai đường biên. Hai bên tiếp tục nghiêm chỉnh thực hiện lộ trình cắt giảm thuế quan CEPT/AFTA đối với những mặt hàng đã quy định. Đồng thời hai bên cũng nghiêm chỉnh thực hiên 50% thuế cho hàng hóa xuất xứ từ mỗi nước. Hai bên sớm thông báo cho nhau danh mục và số lượng mặt hàng hóa giảm thuế năm 2009 nhập vào mỗi nước.Có phương án cụ thể dành ưu đãi cho nhau tại các cuộc triển lãm, hội chợ… Về việc giảm thiểu tối đa việc buôn lậu hàng hóa, tránh gian lận thương mại.Hai bên thông nhất việc quản lí khu vực giữa hai trạm kiểm soát liên hợp giữa nước. Đầu tư cơ sở hạ tầng cho những cửa khẩu địa hình cho phép để trở thành một nơi kiểm tra giữa hai nước. Cùng nhau cam kết ngăn chặn và thực hiện nghiêm chỉnh các thỏa thuận vể chống buôn lậu qua biên giới. 3.2.1.4 Về việc nghiên cứu chính sách đối với các sản phẩm hàng hóa do các doanh nghiệp sản xuất tại Lào hoặc Lào sản xuất tại Việt Nam. Đề nghị hai bên coi sản phẩm của các nhà đầu tư như là hàng hóa có xuất xứ từ hai nước đó và được hưởng quy chế giảm 50% thuế nhập khẩu vào nước kia và tiến tới thỏa thuận giảm nốt 50% thuế (mức thuế 0%) nhập đối với các sản phẩm do các nhà đầu tư Việt Nam sản xuất tại Lào hoặc của Lào sản xuất tại Việt Nam khi vận chuyển qua biên giới. Đơn giản hóa thủ tục kiểm tra, kiểm soát về số lượng, chủng loại hàng hóa bằng cách hàng hóa kiểm tra tại điểm đóng hàng vận chuyển hàng hóa qua biên giới như hàng quá cảnh. 3.2.1.5 Về cơ chế hợp tác địa phương hai nước Hai bên cần đẩy mạnh phát triển kinh tế cửa khẩu, khuyến khích doanh nghiệp hai nước, đẩy mạnh đầu tư vào vùng kinh tế cửa khẩu đặc biệt là cơ sở hạ tầng như kho ngoại quan, kho hàng,… để vực dậy kinh tế các tỉnh vùng biên hai nước. Các địa phương ở hai nước, đăch biệt là các tình vùng biên tăng cường hợp tác với nhau trên lĩnh vực thương mại nói chung và các lĩnh vực khác như an ninh, quốc phòng,y tế… để đẩy mạnh xuất nhập khẩu tiểu ngạch giữa hai nước. 3.2.2 Giải pháp riêng cho Lào Một là: Lào cần đẩy mạnh đầu tư cơ sở hạ tầng như đường sá, trung tâm thương mại để lưu thông hàng hóa tốt hơn thông qua nguồn vốn trong nước và tài trợ nước ngoài hoặc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài. Để yếu của Lào hiện nay là cơ sở hạ tầng còn kém và lạc hậu nên khó khăn trong việc mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hóa. Kinh nghiệm với các nước nghèo thấy con đường ngắn nhất để cải thiện cơ sở hạ tầng là thu hút vốn đầu tư nước ngoài và tăng cường nhận viện trợ của nước ngoài. Hiện nay, Nhật Bản là một trong một trong những nhà đầu tư và viện trợ ODA lớn nhất tại Lào. Đây là cơ hội rất tốt với Lào vì Nhật là một trong các nước có công nghệ xây dựng cơ sở hạ tầng thuộc loại tốt thế giới. Tuy nhiên, Lào cũng phải xem xét lại các điều kiện ràng buộc của đối tác để tránh bị thua thiệt. Hai là: Lào phải coi Việt Nam là cửa ngõ quan trọng nối liền Lào với đại dương và thế giới cũng như đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa thông qua các cảng biển của Việt Nam. Vì Lào không có biển nên nếu chỉ hoạt động ngoại thương thông qua đường bộ và đường hàng không thì sẽ không đa dạng kênh phân phối và chi phí sẽ cao nên làm cho hàng hóa mất sức trên thị trường thế giới. Mặt khác, hiện nay Việt Nam đang đầu tư rất nhiều vào các cảng biển ở vùng Miền Trung như cảng Chân Mây, cảng Tiên Sa, cảng Dung Quất nhằm hiện đại hóa các cảng này ngang tầm quốc tế nên năng lực bốc xếp và vận chuyển hoàn toàn đáp ứng được xuất nhập khẩu của Lào. Ba là: Lào nên đẩy mạnh hợp tác trên lĩnh vực ngoại giao thông qua tổ chức nhiều hơn nữa các chuyến thăm cấp cao cũng như cấp doanh nghiệp để tăng cường kí kết các hiệp định thương mại và tìm hiểu thị trường Việt Nam từ đó đưa ra chiến lược xuất nhập khẩu cho thích hợp. Trong những năm qua, lãnh đạo hai nước đã có những chuyến thăm hữu nghị, cũng đã đối thoại với doanh nghiệp hai nước. Tuy nhiên điều đó vẫn chưa đủ với nhu cầu tiềm năng hai nước. Bốn là: Bên cạnh sự phát triển không đồng đều về cơ sở hạ tầng thì công nghệ sản xuất là một tồn tại. Lào phải đầu tư đổi mới công nghệ để tăng cường năng lực hàng hóa xuất khẩu sang Việt Nam cũng như thế giới những mặt hàng mang nét đặc sắc của Lào. Song song với đầu tư vào đổi mới công nghệ thì Lào cũng phải đầu tư cho đào tạo nguồn nhân lực. Vì khi chất lượng nguồn nhân lực được nâng lên, họ mới có thể tiếp cận và vận hành công nghệ mới để sản xuất hàng hóa xuất khẩu với chất lượng tốt hơn. Riêng trong thương mại quốc tế, chất lượng nguồn nhân lực được nâng cao là nhân tố quyết định đến thành công. Năm là: Các cơ quan chức năng của Lào sẽ phải thường xuyên cấp những thay đổi trong chính sách xuất nhập khẩu, ưu đãi thuế quan và phi thuế quan; cung cấp kịp thời những thay đổi trong chính sach cho doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu với Lào… Sáu là: Tiềm năng du lịch của Lào rất lớn với các địa danh nổi tiếng như Cánh đồng Chùm, những cánh rừng nguyên sinh…Việt Nam có các danh thắng nổi tiếng như Vịnh Hạ Long, Phong Nha Kẻ Bàng, Cố Đô Huế…Lào có thể kết hợp với Việt Nam để tổ chức các tour du lịch giữa hai nước. Nhờ đó Lào sẽ đẩy mạnh xuất khẩu tại chỗ thông qua bán hàng hóa cho khách du lịch. Tóm lại: Nếu Việt Nam và Lào có được một những giải pháp như trên thì hoạt động xuất nhập khẩu hai chiều giữa Việt Nam và Lào sẽ được cải thiện đáng kể, đặc biệt là các doanh nghiệp Việt Nam sẽ có những hướng đầu tư khác để đầu tư sản xuất kinh doanh tại Lào, nhằm khai thác lợi thế so sánh về thổ nhưỡng khi Lào có thể trồng được một số cây công nghiệp lân năm có giá trị cao trong xuất khẩu và đẩu tư vào phát triển nông nghiệp chế biến tại Việt Nam. Đồng thời thực hiện tốt về chuyển giao kĩ thuật nông nghiệp, nâng cao đội ngũ cán bộ kĩ thuật của Lào và khắc phục được tình trạng Lào không phải là thị trường có nguồn lực dồi dào. Các giải pháp trên sẽ chỉ là một phần nhỏ trong nội dung hợp tác quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Lào trong thời gian tới. Nhưng tất cả đều nhằm phát huy tốt mối quan hệ sẵn có để hỗ trợ cho nhau, tăng thêm sức mạnh về kinh tế cho mỗi nước, thúc đẩy sự phát triển của mỗi quốc gia nhanh hơn, bền vững hơn… 3.2.3 Giải pháp riêng cho Việt Nam 3.2.3.1 Đối với Nhà nươc Song song với các giải pháp chung dùng cho hai nước, để thúc đây xuất khẩu sang Lào, Việt Nam cần có các giải pháp: Một là: Tăng cường hợp tác khu vực Để thúc đẩy hoạt động giao lưu buôn bán giữa các nước trong khu vực, Việt Nam và các nước trong khu vực cần xúc tiến nhanh việc thực hiện các thoả thuận đã ký kết về “ tạo thuận lợi cho người Việt Nam – Lào – Thái Lan từ tháng 11/1999 và ký với Campuchia vào tháng 11/2001 và tiếp tục bổ sung vào tháng 8/2005. Nhưng trên thực tế việc thực hiên các điều khoản của thoả thuận này vẫn còn nhiều điều phải bàn Hợp tác với Lào và các nước trong Asean xây dựng hẹ thống tiêu chuẩn về chất lượng hàng hoá, môi trường, quy định về kiểm dịch động thực vật…Phấn đấu các tiêu chuẩn và quy định này dần tiến tới và đạt tiêu chuẩn quốc tế. Đồng thời, Việt Nam kí kết các hiệp định song phương về thừa nhận tiêu chuẩn hàng hoá, tạo điều kiện thuận lợi cho công tác kiểm tra và thông quan hàng hoá Chính phủ Việt Nam tiếp tục hỗ trợ Lào chương trình phát triển nông nghiệp,lâm nghiệp tại các tỉnh có chung biên giới với Việt Nam và xây dựng các dự án phát triển nông lâm nghiệp theo kế hoạch hợp tác kinh tế - văn hoá – khoa học kĩ thuật thời kỳ 2006 -2010 đã thoả thuận giữa hai bên như phát triển nông nghiệp nông thôn, sản xuất hàng hoá nông sản,kiên cố hoá kênh mương… Hợp tác với Lào đeer phát triển các mặt hàng xuất khẩu có lợi thế so sánh ở mỗi nước. Hai là: Hoàn thiện chính sách quản lí xuất nhập khẩu Đơn giản hoá các chính sách quản lí hàng hoá xuất nhập khẩu,hài hoà các thủ hải quan theo công ước Kyoto,hình thành các chương trình các chương trình thống nhất về thủ tục quản lí hải quan hàng hoá xuất nhập khẩu qua biên giới với các Chính phủ và chính quyền các địa phương biên giới của Lào, giảm thiểu các thu tục không cần thiết và gây ách tắc hàng hoá tại cửa khẩu Nhanh chóng thực hiện các thoả thuận mới cam kết về ưu tiên thủ tục vận chuyển với các sản phẩm của nước này đầu tư sản xuất tại nước bạn và được miễn thuế xuất nhập khẩu và vận chuyển qua biên giới như đối với hàng quá cảnh. Nâng cao chất lượng quy trình tạm nhập tái xuất, thống nhất với Lào các phương tiện vận tải hàng tạm nhập tái xuất, thời gian và quy chế kiểm tra, lưu hàng tại cửa khẩu. Xây dựng hệ thống phối hợp trao đổi thông tin về hàng tạm nhập tái xuất như cổng thông tin điện tử về hàng hoá xuất nhập khẩu với Lào, tạo điều kiện cho quản lí hàng hoá quá cảnh của hai phía. Ba là: Xây dựng chính sách thuế quan,tài chính, tín dụng, bảo hiểm hợp lí và hiệu quả Tổng cục thuế Việt Nam sớm công bố danh mục các hàng hoá được miễn giảm thuế và đề nghị hai bên nghiêm chỉnh thực hiện tốt thoả thuận về miễn thuế đối với hàng hoá có xuất xứ mỗi nước. Đơn giản hoá thủ thục hoàn thuế, đưa vào áp dụng quy định tránh đánh thuế hai lần với hàng hoá xuất nhập khẩu. Xem xét ưu đãi thuế quan để khuyến khích xuất khẩu những mặt hàng Việt Nam có khả nămg sản xuất lớn nhưng gặp khó khăn trong xuất khẩu sang các thị trường khác như giấy, xi măng, vật liệu xây dựng khác…và nhập khẩu các mặt hàng cho công nghiệp chế biến như gỗ, nguyên phụ liệu, máy móc công nghiệp… Điều chỉnh giảm mức thuế, lệ phí kho bãi cho hợp lí và cắt giảm các chi phí không cần thiết tại các cửa khẩu để giảm giá hàng xnk, tăng khả năng cạnh tranh cho các doanh nghiệp xnk… Nhà nước cần có chính sách ưu đãi cho vay vốn với các doanh nghiệp kinh doanh xnk với Lào, cho vay không tính lãi trong 5-7 năm đối với các doanh nghiệp có kế hoạch sản xuất hàng tiêu dùng..tuỳ vào quy mô có thể tiếp tục cho vay với lãi suất thấp trong 5 năm tiếp theo nếu doanh nghiệp làm ăn hiệu quả, thực hiện miễn giảm thuế thu nhập, bảo lãnh tín dụng để họ tạo được vị thế trên thị trường Lào. Bốn là: Nhà nước tăng cường đầu tư cho kết cấu hạ tầng và cải thiện hệ thống thanh toán Hoàn thiện và triển khai các chính sách khuyến khích đẩu tư phát triển kết cấu hạ tầng tại các khu kinh tế cửa khẩu, tuỳ thuộc vào mỗi khu kinh tế cửa khẩu, vào lưu lượng hàng hoá xnk, khả năng thu ngân sách và đần tư trở lại cho kết cấu hạ tầng mỗi khu kinh tế cửa khẩu. Tăng cường đầu tư xây dựng các cảng biển hiện đại tiến kịp các nước xnk cho Lào. Bên cạnh phát triển tuyến đường hành lang tiêủ vùng, đường liên quốc gia phối hợp với Lào phát triển các tuyến đường nối liền hai nước. Nâng cấp, mở rộng các tuyến đường quốc lọ dẫn đến các cửa khẩu chính, tạo điều kiện cho hàng hoá từ biên giới đến thị trường nội địa. Nâng cấp kho bãi bảo quản và tập kết hàng hoá miễn phí ngay tại cửa khẩu nhằm nâng cao chất lượng hàng hoá xnk. Cải thiện hệ thông thanh toán, cần phát triển và mở rộng về hợp tác ngân hàng gữa hai nước để cải thiện phương thức thanh toán hàng hoá xnk, thành lập thêm các chi nhánh ngân hàng liên doanh Viêt – Lào tại các tỉnh lớn, và thành lập thêm các ngân hàng liên doanh khác… Năm là: Nhà nước nên chủ động tạo nguồn hàng xnk, đa dạng hoá nguồn hàng. Các cơ quan chuyên trách của bộ công thương cần nhanh chóng xây dựng và hoàn thiện chiến lược mặt hàng xnk vền vững trên cơ sở phát huy tối đa lợi thế quốc gia, nhu cầu của thị trường Lào và các nước lân cận. Phát triển dịch vụ hàng quá cảnh, tạm nhập tái xuất nhờ vào vị thế địa lí thuận lợi, xây dựng các chính sách khuyến khích và hoàn thiện chính sách quản lí nhằm tạo điều kiện tối đa cho hàng hoá quá cảnh và tạm nhập tái xuất của hai nước. Phát huy thế mạnh của Lào như là một thị trưởng trung chuyển để đẩy mạnh xuất khẩu sang nước thứ ba, trước hết là thị trường Đông Bắc Thái Lan. Lào hiện nay còn nhiều mặt hàng có tiềm lực nhưng do hạn chế về công nghệ, vốn, lao động nên chưa khai thác được. Việt Nam nên hợp tác với Lào để khai thác. Liên doanh với các doanh nghiệp Lào để đầu tư xây dựng các cơ sở chế biến hàng tiêu dùng, hàng nông sản dùng để phục vụ nhu cầu tại chỗ của người dân Lào, một phần phục vụ xúât khẩu, nhằm nâng cao giá trị gia tăng của các mặt hàng xuất khẩu, từ đó nâng cao hiệu quả của hoạt động xuât nhập khẩu. Sáu là: Nhà nước nần tăng cường hơn nữa công tác chống buôn lậu. Nhà nước nên có nhưữg biện pháp để chống buôn lậu thông qua việc nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá trong nước là biện pháp hàng đầu giải quyết tình trạng này. Phát triển nhanh sản xuất , nâng cao tính cạnh tranh hàng nội địa, mở rộng mạng lưới phân phối giúp ngăn chặn hàng nhập lậu tràn vào trong nước. Đẩy mạnh phối hợp giữa các ngành chức năng và đảm bảo sự an toàn đối với những người thi hành công vụ. Quy định rõ quyền hạn và trách nhiệm cụ thể của từng ngành, đơn vị, cá nhân chức năng trong đấu tranh chống buôn lậu. Lực lượng hải quan cần nâng cao trình độ nghiệp vụ cũng như đạo đức và trang bị các phương tiện kĩ thuật chống buôn lậu. Các cơ quan chức năng, các tổ chức đoàn thể tổ chức tuyên truyền, phổ biến cho người dân biết về kiến thức pháp luật đồng thời có những biện pháp răn đe, xử lí nghiêm minh đối với những hành vi buôn lậu và tiếp tay cho buôn lậu. 3.2.3.2 Đối với doanh nghiệp. Giải pháp đa dạng hóa mặt hàng xuất nhập khẩu - Mở rộng mặt hàng kinh doanh xnk, chủ động liên kết với doanh nghiệp Lào để kí hợp đồng dài hạn, xây dựng kế hoạch xnk ổn định. Khai thác các cơ hội tham gia các triển lãm để giới thiệu hàng hoá của mình và khai thác nguồn hàng của Lào. - Tăng cường hợp tác với phương thức “ tài nguyên Lào, lao động kĩ thuật của Việt Nam và vốn hợp tác hoặc vay vốn nước thứ ba” để tăng cường nguồn hàng cho xnk. Phối hợp với Lào để tìm cách khắc phục các bất cập trong đầu tư sản xuất tại Lào.như khả năng thanh toán… - Ngoài ra Việt Nam cần giúp Lào đầu tư như giao thông, cầu đường, thuỷ lợi,… để dễ ràng hơn trong việc đầu tư vào các lĩnh vực khác.Các doanh nghiệp sẽ đẩy mạnh khai thác các lĩnh vực như chế biến nông lâm, thuỷ sản, chăn nuôi gia súc gia cầm để nguồn hàng xnk, thủ công mỹ nghệ… Các giải pháp nâng cao hiẹu quả kinh doanh xuất nhập khẩu - Để đẩy mạnh xuất khẩu sang Lào, các doanh nghiệp Việt Nam cẩn tổ chức các văn phòng đại diện tại trung tâm thương mại, các khu dân cư lớn của Lào để thuận tiện trong việc tìm kiếm giao dịch với khách hàng và quan hệ với các cơ quan chức năng của Lào.Do sức mua và quy mô tại Lào nhỏ nên các doanh nghiệp phải lựa chọn địa bàn và mặt hàng kinh doanh thích hợp để đảm bảo hiệu quả kinh doanh. - Các doanh nghiệp Việt Nam nên nhanh chóng đăng kí thương hiệu sản phẩm tại Lào nếu có ý định xuất khẩu sang Lào, và cần hiểu kĩ luật pháp, quy trình, thủ tục đăng kí kinh doanh tại Lào.Lưu ý rằng Lào là thành viên Công ước Paris về Bo hộ sở hữu công nghiệp.Lào áp dụng nguyên tắc “ai nộp đơn trước được đăng kí trước.” trong việc đăng kí nhẵn hiệu tại Lào… - Quan trọng nhất là các doanh nghiệp cần cải tiến mẫu mã, hạ giá thành sản phẩm mà vẫn đảm bảo tiêu chuẩn chất lượng, tiến dần đến các tiêu chuẩn quốc tế và khu vực như SA8000, ISO 14000… Tăng cường quảng bá thương hiệu, mở rộng kênh phân phối tại các tỉnh khác nhau của Lào… - Thành lập bộ phận nghiên cứu thị trường để nắm bắt kịp thời những thay đổi về chính sách quản lí xnk, các ưu đãi thuế quan và phi thuế quan của cả hai phía cũng như biến động thị trường để xây dựng kế hoạch kinh doanh hiệu quả và phù hợp… KẾT LUẬN Từ khi Liên bang Xô Viết sụp đổ, hầu hết các nước đều chuyển sang nền kinh tế hàng hóa, kinh tế thị trường.Việt Nam và Lào cũng nằm trong xu thế đó. Quan hệ Việt – Lào đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chủ tịch Cayxỏn Pômvihản dày công vun đắp. Trải qua bao thăng trầm, thử thách của lịch sử sửi hai nước mối quan hệ này ngày càng phát triển tốt đẹp trên tinh thần “ láng giềng tốt đẹp, hữu nghị truyền thống, hợp tác toàn diện, bền vững lâu dài”. Trong đó có quan hệ thương mại mà chủ yếu là hoạt động xuất nhập khẩu hai chiều giữa hai nước góp phần không nhỏ vào thành công này. Đề tài “Giải pháp thúc đẩy quan hệ thương mại Việt Nam – Lào trong những năm tới” đã đề cập, giải quyết những vấn đề về thương mại quốc tế và những nhân tố ảnh hưởng đến quan hệ thương mại hai nước. Đề tài đã đi vào phân tích thực trạng xuất nhập khẩu hai chiều giữa hai nước từ năm 2001 đên nay. Trong hoạt động xuất nhập khẩu, hai bên vừa là bạn hàng, vừa là đối tác tin cậy của nhau. Việt Nam là thị trường xuất khẩu đứng thứ 4 của Lào sau Thái Lan, Trung Quốc, Nhật Bản. Lào cũng là thị trường xuất khẩu chiến lược của Việt Nam. Kim ngạch xuất khẩu hai chiều giữa hai nước năm 2008 là 417,4 triệu USD, năm 2009 là 417,8 triệu USD và trong quý I/2010 là 96,4 triệu USD. Ngoài ra đề tài đã chỉ ra những ưu điểm đạt được và những tồn tại và nguyên nhân trong quan hệ thương mại hai nước.Đó là tốc độ tăng trưởng không ổn định, mặt hàng trao đổi còn đơn điệu…Trên cơ sở đó đề tài đưa ra kiến nghị và giải pháp nhằm thúc đẩy mối quan hệ này. Có 5 nhóm giải pháp chung với cả hai nước như: Về cơ chế quản lí chính sách, tăng cường quản lí nguồn nhân lực; về chính sách vốn; chính sách thuế; về nghiên cứu chính sách cho hàng hóa sản xuất tại Việt Nam và Lào; về cơ chế hợp tác địa phương hai nước. Giải pháp đối với Nhà nước Việt Nam là : Tăng cường hợp tác kinh tế khu vực về chính sách quản lí xuất khẩu; tài chính; thuế quan; tín dụng; cải thiện hệ thống cán cân thanh toán; tăng cường kết cấu hạ tầng thương mại, tạo nguồn hàng xuất nhập khẩu; tăng cường chống buôn lậu và gian lận thương mại. Về phía Doanh nghiệp cần đa dạng hóa mặt hàng và nâng cao hiệu quả kinh doanh. Đối với Nhà nước Lào :cần đẩy mạnh hệ thống cơ sở hạ tầng, nâng cao công nghệ sản xuất và chất lượng nguồn nhân lực, đẩy mạnh hợp tác lĩnh vực ngoại giao, du lịch, thường xuyên cung cấp thông tin trong thay đổi chính sách xuất nhập khẩu; cần có chính sách ưu đãi hoạc lói lòng với hàng hóa của Việt Nam. Để thực hiện được giải pháp trên cần có sự phối hợp đồng bộ giữa Nhà nước , doanh nghiệp và nhân dân của 2 nước. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, sự phát triển của nền kinh tế tri thức cũng như điều kiện kinh tế mỗi nước thì nghiên cứu quan hệ thương mại Việt Nam – Lào là công việc cần thiết giúp hai nước tận dụng được cơ hội vượt qua thách thức, đạt được mục tiêu, thúc đẩy xuất khẩu, hạn chế nhập siêu, góp phần vào công cuộc xây dựng và phát triển của đất nước.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docchuyen_de_thuc_tap_cuoi_khoa_da_sua_0348.doc
Luận văn liên quan